Tải bản đầy đủ (.doc) (12 trang)

Anhchị hãy vận dụng kiến thức bài học để làm sáng tỏ giá trị của tác phẩm “tuyên ngôn của đảng cộng sản” trong giai đoạn hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (139.66 KB, 12 trang )

TIỂU ĐỀ ÁN
Anh/chị hãy vận dụng kiến thức bài học để làm sáng tỏ giá trị của tác phẩm “Tuyên
ngôn của Đảng cộng sản” trong giai đoạn hiện nay.

I.Sự cần thiết lập tiểu đề án
1.1. Sự cần thiết lập tiểu đề án:
Đối với sinh viên ngành chính trị học: Báo cáo kết quả sau khi học xong bài “Tuyên
ngôn của Đảng cộng sản”
Bởi vậy, sau khi học xong bài học, em lựa chọn tiểu đề án: “Anh/chị hãy vận dụng kiến
thức bài học để làm sáng tỏ giá trị của tác phẩm “Tuyên ngôn của Đảng cộng sản” trong
giai đoạn hiện nay”.

1.2. Phạm vi đối tượng tiểu đề án:
- Phạm vi: là phạm vi của học phần “Những tác phẩm macxit về chính trị”
=) Phạm vi của tiểu đề án: Mục giá trị của tác phẩm “Tuyên ngôn của Đảng cộng sản’’
trong giai đoạn hiện nay.
- Đối tượng: Gía trị của tác phẩm “Tuyên ngôn của Đảng cộng sản” trong giai đoạn
hiện nay.

1.3. Phương pháp thực hiện:
- Phương pháp kế thừa: kế thừa các kiến thức đã học và biết trước;
- Phương pháp thu thập số liệu: Thu thập, tổng hợp và thống kê các số liệu có liên
quan đến bài học và học phần trong lý luận và thực tiễn làm cơ sở phân tích đánh giá;
- Phương pháp điều tra: Sử dụng phiếu điều tra nhằm thu thập các thông tin (nếu cần
thiết);
- Phương pháp thống kê: xử lý số liệu điều tra, phân tích kết quả điều tra thông qua các
chỉ tiêu thống kê;
- Phương pháp tổng hợp: Tổng hợp các thông tin, số liệu liên quan đến từng mục tiêu
của Đề án/ tiểu đề án và đưa ra các giải pháp phù hợp với thực tiễn.

1.4. Sản phẩm



1


- Từ báo cáo tiểu đề án làm thành bài tiểu luận nộp cho giảng viên bộ môn nhận xét
và chấm điểm.

1.5. Quan điểm
- Xác định nhiệm vụ:
+ Phải nghiêm túc chấp hành;
+ Bám sát và cụ thể hóa bài học/ học phần “Những tác phẩm macxit về chính trị”

2. Nội dung của tiểu đề án
2.1. Căn cứ xây dựng đề án/ tiểu đề án.
2.1.1 Căn cứ pháp lý:
Căn cứ chương trình đào tạo và kế hoạch thực hiện của Nhà trường nhằm đào tạo lý
luận gắn liền với thực tiễn, phù hợp với nhu cầu xã hội ở trong nước và hội nhập quốc tế.

2.1.2 Căn cứ yêu cầu thực tiễn:
Xuất phát từ thực tiễn về năng lực giảng dạy, học tập tại Trường Đại học Hải Dương.

2.3. Nội dung.
2.3.1. Giới thiệu vài nét về tác phẩm Tuyên ngôn của Đảng cộng sản
- Hoàn cảnh ra đời của tác phẩm:
+ Vào những năm 40 của thế kỷ XIX, ở các nước Tâu Âu, nhờ sự tác động mạnh mẽ
của cuộc cách mạng công nghiệp với sự phát triển mạnh mẽ của lực lượng sản xuất làm
cho trình độ cao hơn;
+ Ngày 24 tháng 02 năm 1848, Tuyên ngôn Đảng Cộng sản do C.Mác, F.Ăngghen
soạn thảo đã được xuất bản lần đầu tiên tại Ln Đơn. Đó là một tư tưởng lớn, một tư duy
vạch dịng thời đại. Tun ngơn Đảng Cộng sản đã thực sự trở thành cương lĩnh chính trị

của Chủ nghĩa cộng sản khoa học; là ngọn cờ tư tưởng và kim chỉ nam hành động cho
phong trào cộng sản và công nhân quốc tế. Bảy mươi năm, sau ngày Tuyên ngôn Đảng
Cộng sản ra đời, Chủ nghĩa cộng sản khoa học từ lý luận trở thành hiện thực bằng thắng
lợi của Cách mạng Tháng Mười Nga, đã mở ra một thời đại mới, thời đại quá độ từ chủ
nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới;

2


+ Sự phát triển mạnh mẽ của lực lượng sản xuất đã làm cho quan hệ sản xuất tư bản
chủ nghĩa được củng cố;
+ Thực tế vào những năm 1830-1840, các cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân đã
nổ ra ở các nước tư bản chủ nghĩa phát triển. Các cuộc đấu tranh này chứng tỏ mâu thuẫn
xã hội, mâu thuẫn giai cấp đã đến mức gay gắt và đòi hỏi phải được giải quyết;
+ Ở nước Anh, hoạt động của giai cấp vơ sản mang tính quy mơi và rộng khắp nơi;
+ Giai cấp tư sản đã mất địa vị lịch sử, mất vai trò là giai cấp cách mạng và thậm chí
đã kéo lùi sự phát triển của xã hội;
+ Cũng ở thời điểm này, các trào lưu tư tưởng lỗi thời và phản động đang thâm nhập
mạnh mẽ vào phong trào công nhân;
+ Sự ra đời của “Tuyên ngôn của Đảng cộng sản” đánh dấu bước chuyển một cách
dứt khoát từ thế giới quan duy tâm sang duy vật, từ lập trường dân chủ sang lập trường
cộng sản của C.Mác và Ph.Ăngghen.
-Cấu trúc tác phẩm:
Tác phẩm gồm 4 phần:
+ Tư sản và vô sản;
+ Những người vô sản và những người cộng sản;
+ Văn học xã hội chủ nghĩa và cộng sản chua nghĩa;
+ Thái độ của những người cộng sản đối với các đảng đối lập.

2.3.2: Khái niệm giai đoạn hiện nay, quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin và

Đảng ta về giai đoạn hiện nay.
2.3.2.1: Khái niệm giai đoạn hiện nay.
- Giai đoạn: Là một khái niệm khoa học dung để phân kỳ lịch sử xã hội, phân biệt
những nấc thang phát triển của xã hội loài người;
- Hiện nay: Là thời điểm mà ta đang sinh sống;
------>>> Vậy giai đoạn hiện nay: Là giai đoạn quá độ từ Chủ nghĩa Tư bản lên Chủ
nghĩa Xã hội trên phạm vi thế giới, mở đầu bằng cách mạng Xã hội Chủ nghĩa tháng 10
Nga vĩ đại năm 1917, là thời đại đấu tranh cho hịa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và Chủ
nghĩa Xã hội.
3


2.3.2.2: Quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin về giai đoạn hiện nay.
- Chủ nghĩa Mác-Lênin cho rằng lịch sử phát triển xã hội loài người cho đến thế kỷ
XIX đã trải qua các hình thái: Cộng sản nguyên thủy, chiếm hữu nô lệ, phong kiến, tư bản
chủ nghĩa và xã hội chủ nghĩa;
- Sự thắng lợi của cách mạng tháng 10 Nga là một cột mốc đánh dấu sự mở đầu một
thời đại lịch sử mới;
- Giai đoạn quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội:
+ Chủ nghĩa xã hội từ lý luận đến thực tiễn;
+ Chiều hướng phát triển chủ yếu là đấu tranh xóa bỏ trật tự tư bản chủ nghĩa;
+ Từ sau cách mạng tháng 10 các nước xã hội chủ nghĩa, các phong trào cộng sản và
công nhân quốc tế trở thành lực lượng lòng cốt và đi đầu trong cuộc đấu tranh vì hịa
bình, dân chủ, tiến bộ, trên phạm vi tồn thế giới;
+ Cách mạng giải phóng dân tộc nằm trong phạm trù cách mạng xã hội chủ nghĩa.

2.3.2.3: Quan điểm của Đảng ta về giai đoạn hiện nay.
Giai đoạn hiện nay là giai đoạn quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội
trên phạm vi toàn thế giới, mở đầu bằng cuộc cách mạng tháng 10 Nga vĩ đại năm 1917,
là thời đại đấu tranh cho thắng lợi của hịa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã

hội, gắn liền với cách mạng khoa học kỹ thuật và công nghệ hiện nay tạo ra những tiền đề
vật chất, kinh tế, xã hội ngày càng đầy đủ cho việc chuyển lên chủ nghĩa xã hội.

2.3.3: Trong giai đoạn hiện nay nhiều nguyên lý trong tác phẩm vẫn nguyên giá
trị.
Hiện nay, tình hình thế giới đã có những thay đổi hết sức to lớn lao, Chủ nghĩa
xã hội đã tạm lâm vào thoái trào. Chủ nghĩa tư bản đã lợi dụng những thành quả của cách
mạng khoa học – công nghệ để điều chỉnh những quan hệ xã hội nhất định. Ý thức được
sự khủng hoảng trong long nó, chủ nghĩa tư bản đã sử dụng những biện pháp điều chỉnh
để “xả van an toàn”;
Tuy nhiên, đó cũng chỉ là những biện pháp trước mắt nhằm xoa dịu đấu tranh,
che giấu bản chất bóc lột mà thơi, cịn mâu thuẫn cơ bản trong long phương thức sản xuất

4


tư bản chủ nghĩa vẫn khơng mất đi. Chính vì lẽ đó mà trong xã hội tư bản chủ nghĩa
những cuộc khủng hoảng kinh tế theo chu kỳ đã diễn ra liên tục và có xu hướng rút ngắn
trong thời gian gần đây, cụ thể ở các năm: 1957-1958; 1965-1967; 1973-1974; 19791982; 1990-1991… Ngoài ra, là sự khủng hoảng nằm ngoài chu kỳ do mất cân đối của
nền kinh tế như khủng hoảng năng lượng, nguyên liệu, tài chính, tiền tệ thế giới, tín dụng,
nợ nần, lạm phát… điển hình như mấy thập niên gần đây Tuấn: Quan điểm chính trị trong một số tác phẩm kinh điển Mác-Lênin, Nxb. Chính trị
quốc gia, Hà Nội, 2008, tr.126)
Nguyên lý về sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân trong Tuyên ngôn của
Đảng Cộng sản đến nay vẫn còn nguyên ý nghĩa. Thực tế trong thời gian qua, giai cấp
công nhân trên thế giới không ngừng tăng lên về số lượng. Theo con số của Tổ chức
Cơng đồn thế giới thì năm 1885 tổng số cơng nhân trên thế giới là 10 triệu người, năm
1900 là 80 triệu người, năm 1950 là 290 triệu người, năm 1990 là 615 triệu người, năm
2000 là 800 triệu người số tác phẩm kinh điển Mác-Lênin, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2008, tr.126);

Cùng với việc tăng về số lượng thì chất lượng và cơ cấu giai cấp cơng nhân cũng
có sự thay đổi: công nhân lao động giản đơn đang giảm dần, cơng nhân có tay nghề cao
gắn với những ngành nghề mới đã xuất hiện và ngày càng tăng, đặc biệt trong lĩnh vực
dịch vụ. Từ đây, một thuật ngữ mới xuất hiện chỉ giai cấp cơng nhân đó là cơng nhân cổ
trắng (hay cơng nhân trí thức) để bổ sung vào cơng nhân cổ xanh truyền thống góp phần
làm cho lực lượng công nhân ngày nay them hùng hậu phong phú;
Vấn đề đấu tranh giai cấp, đấu tranh chính trị, bạo lực cách mạng được Tun
ngơn của Đảng Cộng sản nêu ra còn nguyên giá trị. Thực chất lịch sử loài người gắn với
đấu tranh giai cấp. Đấu tranh giai cấp là nguồn gốc, động lực cho xã hội có giai cấp phát
triển. Do đó, cuộc đấu tranh giai cấp của giai cấp công nhân là tất yếu trong lịch sử, cuộc
đấu tranh của giai cấp công nhân trải qua hai giai đoạn: thứ nhất, là tổ chức lực lượng để
giành chính quyền, thứ hai, là sau khi chính quyền được thành lập thì việc tiếp theo là xây
dựng xã hội trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, chống lại những tàn dư của xã hội

5


cũ, xóa bỏ tận gốc chế độ người bóc lột người, triệt để giải phóng xã hội, giải phóng con
người;
Gần 70 năm sau khi Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản ra đời, cuộc đấu tranh của
giai cấp công nhân đạt được những thắng lợi bước đầu bằng sự thắng lợi của Cách mạng
Tháng Mười Nga. Sau đó mấy chục năm là sự thắng lợi của hang loạt cuộc cách mạng ở
các nước xã hội chủ nghĩa khác. Chủ nghĩa xã hội đã trở thành hệ thống và đối trọng với
chủ nghĩa tư bản. Tuy nhiên, trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội, do mắc phải một
số những sai lầm, đã làm cho chế độ xã hội chủ nghĩa ở một số nước sụp đổ. Sự sụp đổ
đó khơng phải là sự sụp đổ lý luận của chủ nghĩa Các Mác – Lênin mà đó là sự sụp đổ do
việc vận dụng không đúng các nguyên lý, quy luật. Những kẻ thù của chủ nghĩa xã hội đã
lợi dụng những sai lầm trong quá trình xây dựng đất nước để phủ nhận, cơng kích vào
học thuyết đấu tranh giai cấp của chủ nghĩa Mác – Lênin.
Trong giai đoạn hiện nay, việc vận dụng sang tạo học thuyết về đấu tranh giai

cấp, đấu tranh chính trị, bạo lực cách mạng của C.Mác và Ph.Ăngghen đóng vai trị quan
trọng đối với các nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Cuộc đấu tranh chính
trị hiện nay khác về nội dung và hình thức so với những cuộc đấu tranh trước kia, nó khó
khăn hơn, lâu dài hơn và phức tạp hơn.
Do đó, Tun ngơn của Đảng Cộng sản vẫn mãi là một di sản tinh thần vô giá
của nhân loại tiến bộ trên con đường xây dựng xã hội mới tiến bộ, hiện đại, văn minh,
đúng như V.I. Lênin đã khẳng định: “Cuốn sách nhỏ ấy có giá trị bằng cả một pho sách
lớn; tinh thần của nó tới nay vẫn cịn cổ vũ và thúc đẩy tồn bộ giai cấp vơ sản có tổ chức
và chiến đấu của thế giới văn minh”.

2.3.3. Về sự vận dụng sáng tạo Tuyên ngôn Đảng Cộng sản vào cách mạng Việt
Nam của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Chủ tịch Hồ Chí Minh sinh ra, lớn lên trong cảnh nước mất, nhà tan, nhân dân
lầm than khổ cực, Người đã ra đi tìm đường cứu nước, giải phóng dân tộc. Sau gần một
thập kỷ bơn ba, tìm tịi, khảo nghiệm ở các nước tư bản, các thuộc địa trên các châu lục,
Người đã đến với chủ nghĩa Mác - Lênin, tìm được con đường cứu nước, giải phóng dân
tộc là con đường cách mạng vô sản. Đến với chủ nghĩa Mác - Lênin, Người đã nghiên cứu
6


kỹ, thấm nhuần những nguyên lý của chủ nghĩa Mác - Lênin, trong đó có Tun ngơn
Đảng Cộng sản. Khi nghiên cứu Tun ngơn, Hồ Chí Minh đã thấm nhuần lời nhắc nhở
của C.Mác, F.Angghen đối với những người cộng sản: “Bất cứ ở đâu, bất cứ lúc nào, việc
vận dụng những nguyên lý đó cũng phải tuỳ thuộc vào hồn cảnh đương thời”(1). Vì vậy,
khi truyền bá và vận dụng những nguyên lý của chủ nghĩa Mác - Lênin, Hồ Chí Minh ln
căn cứ vào hồn cảnh cụ thể Việt Nam vận dụng sáng tạo, đề ra cương lĩnh, đường lối
chiến lược, sách lược đúng đắn. Sự vận dụng và phát triển sáng tạo Tuyên ngôn Đảng
cộng sản của Hồ Chí Minh được thể hiện trên nhiều lĩnh vực, trong bài viết này chúng tôi
chỉ xin đề cập một số vấn đề như sau:


2.3.3.1. Về sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam:
Tuyên ngôn Đảng Cộng sản đã khẳng định, giai cấp cơng nhân cần phải có một
chính đảng lãnh đạo cuộc đấu tranh của giai cấp mình. Đó là Đảng Cộng sản - đội tiên
phong của giai cấp cơng nhân - để đồn kết giai cấp và nhân dân lao động tiến hành cuộc
đấu tranh cách mạng lật đổ giai cấp tư sản thiết lập chuyên chính của giai cấp vô sản.
V.I.Lênin coi sự ra đời của Đảng Cộng sản là kết quả của sự kết hợp chủ nghĩa Mác với
phong trào công nhân. Vận dụng vào thực tiễn Việt Nam, một nước thuộc địa nửa phong
kiến, kinh tế nơng nghiệp lạc hậu, Hồ Chí Minh thấy rằng, việc ra đời của Đảng Cộng sản
nếu chỉ kết hợp chủ nghĩa Mác - Lênin với phong trào công nhân thì chưa đủ, vì giai cấp
cơng nhân cịn nhỏ bé, phong trào cách mạng còn non yếu. Khái quát về sự ra đời của
Đảng Cộng sản Việt Nam, Hồ Chí Minh đã viết: “Chủ nghĩa Mác - Lênin kết hợp với
phong trào công nhân và phong trào yêu nước đã dẫn tới việc thành lập Đảng Cộng sản
Đông Dương vào đầu năm 1930”(2).
Theo Hồ Chí Minh, giai cấp cơng nhân Việt Nam tuy mới ra đời còn non trẻ, số lượng
ít ỏi nhưng đã có đầy đủ những đặc điểm chung của giai cấp công nhân thế giới như: sống
tập trung, có tinh thần cách mạng cao và là giai cấp duy nhất có khả năng đảm nhiệm sứ
mệnh lãnh đạo cách mạng Việt Nam. Ngoài những đặc điểm chung đó, giai cấp cơng nhân
Việt Nam có những đặc điểm riêng của mình: giai cấp cơng nhân Việt Nam ra đời muộn
hơn giai cấp công nhân thế giới nhưng lại ra đời trước giai cấp tư sản dân tộc nên nó đã kế
thừa được truyền thống tốt đẹp của dân tộc là yêu nước, tinh thần đấu tranh kiên cường bất
7


khuất, cần cù, thông minh, sáng tạo, yêu thương con người, có tình nghĩa... Giai cấp cơng
nhân Việt Nam sinh ra hồ mình vào phong trào đấu tranh của dân tộc, được sự nuôi dưỡng
của phong trào dân tộc. Trong giai cấp cơng nhân Việt Nam khơng có bộ phận "cơng nhân
q tộc" nên khơng có miếng đất cho chủ nghĩa cải lương, cơng đồn phát triển. Giai cấp
cơng nhân xuất thân từ giai cấp nông dân, khi chủ nghĩa đế quốc áp đặt ách thống trị lên
đất nước ta, người nơng dân bị bần cùng hố, “cha đi vào đồn điền, hầm mỏ, anh đi vào đất
đỏ cao su, bán thân đổi mấy đồng xu”, trở thành người của giai cấp cơng nhân. Do đó có sự

gắn bó mật thiết và mối đồng minh tự nhiên để thiết lập liên minh công nông, tạo nên sức
mạnh, nền tảng cho cách mạng.
Phong trào u nước có trước phong trào cơng nhân, nó được hình thành trong q
trình dựng nước và giữ nước, là dịng chủ lưu. Chính vì vậy, u nước là nấc thang cao
nhất trong bảng thang giá trị văn hoá tinh thần của con người Việt Nam. Phong trào yêu
nước có bề dày trong truyền thống lịch sử của dân tộc, là động lực, sức mạnh to lớn làm
nên những thắng lợi vẻ vang trong quá trình chống ngoại xâm, giành và giữ độc lập dân
tộc. Nói đến phong trào yêu nước trong tiến trình lịch sử dân tộc, chủ yếu là phong trào
nông dân; đến những năm đầu thế kỷ XX mới có thêm phong trào của tiểu tư sản trí thức..
Phong trào yêu nước đã từng đấu tranh giành độc lập dân tộc, đồng thời đấu tranh giành
quyền dân chủ, đó là dân chủ phi vơ sản. Đến những thập niên đầu thế kỷ XX, khi phong
trào yêu nước bế tắc khủng hoảng về con đường cứu nước, giải phóng dân tộc, nó dễ dàng
tiếp nhận con đường dân chủ vô sản.
Mặt khác, giữa phong trào cơng nhân và phong trào u nước có điểm tương đồng,
mẫu số chung là những người dân mất nước, nô lệ và mục tiêu chung là đấu tranh để giành
độc lập, tự do cho Tổ quốc. Phong trào yêu nước với mục tiêu cao nhất là đấu tranh, giải
phóng cho dân tộc thốt khỏi xiềng xích nơ lệ. Giai cấp cơng nhân đấu tranh nhằm giải
phóng cho giai cấp mình, giải phóng cho dân tộc. Song muốn giải phóng cho giai cấp thì
trước hết phải giải phóng cho dân tộc.
Chủ nghĩa Mác - Lênin, là tiền đề lý luận, đáp ứng cho cả phong trào công nhân và
phong trào yêu nước. Đối với phong trào cơng nhân khi chưa có lý luận chủ nghĩa Mác Lênin dẫn đường, họ đấu tranh tự phát, hồ mình vào phong trào u nước. Khi tiếp nhận
8


được chủ nghĩa Mác - Lênin, phong trào công nhân đã chuyển từ đấu tranh tự phát sang tự
giác; từ chỗ hồ mình vào phong trào u nước, đã vươn lên nắm quyền lãnh đạo phong
trào và đưa phong trào yêu nước đấu tranh theo con đường cách mạng vô sản. Theo Hồ
Chí Minh, phong trào yêu nước là miếng đất màu mỡ cho chủ nghĩa Mác - Lênin gieo mầm
và phát triển. Sự áp bức, bóc lột của chủ nghĩa đế quốc đã tạo ra điều kiện, phương tiện cho
các dân tộc vùng lên đấu tranh tự giải phóng, “chủ nghĩa đế quốc đã dọn đất rồi, chủ nghĩa

cộng sản chỉ cần gieo hạt giống nữa thôi”. Khi phong trào yêu nước đấu tranh theo con
đường Cần Vương, con đường dân chủ tư sản đều lần lượt thất bại, sự bế tắc khủng hoảng
về con đường cứu nước, bắt gặp chủ nghĩa Mác - Lênin như “đang khát có nước uống,
đang đói có cơm ăn”, họ đã tiếp nhận và góp phần tích cực thúc đẩy q trình hình thành
Đảng Cộng sản Việt Nam.
Việc Hồ Chí Minh đưa thêm yếu tố phong trào yêu nước vào trong các yếu tố cho sự
ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam là một luận điểm sáng tạo, bổ sung và phát triển chủ
nghĩa Mác - Lênin về sự ra đời của Đảng Cộng sản, phù hợp với một nước thuộc địa, nửa
phong kiến. Luận điểm đó khơng những có ý nghĩa lý luận và thực tiễn cho cách mạng
nước ta mà cịn có ý nghĩa đối với các nước có điều kiện, hoàn cảnh tương tự Việt Nam.

2.3.3.2. Về vấn đề dân tộc và giai cấp:
Vấn đề quan trọng, cốt lõi của cách mạng vô sản trong Tuyên ngôn là đấu tranh giai
cấp. Theo nguyên lý của chủ nghĩa Mác, vấn đề dân tộc luôn gắn với một giai cấp nhất
định, khơng có dân tộc phi giai cấp, siêu giai cấp. Vấn đề dân tộc ở các nước Tây Âu đã
được giai cấp tư sản giải quyết. Các nước Tây Âu là các quốc gia, dân tộc độc lập, khơng
có sự xâm lược của chủ nghĩa đế quốc, và chính họ lại đi xâm lược, áp bức thuộc địa.
Mặt khác, ở Tây Âu xã hội công dân ra đời sớm, sự phân hoá giai cấp triệt để, mâu thuẫn
giữa giai cấp giữa tư sản và vô sản đối chọi nhau, một mất, một còn. Vấn đề C.MácF.Ăngghen quan tâm là vấn đề xã hội Tây Âu quan tâm: đó là đấu tranh giai cấp. Điều đó
hồn tồn đúng ở Tây Âu, vì khi giai cấp vơ sản lật đổ tư sản, giải phóng cho giai cấp
mình, đồng thời giải phóng cho dân tộc. Vì thế, trong Tun ngơn Đảng Cộng sản, Mác
kêu gọi “giai cấp vô sản ở mỗi nước trước hết phải giành lấy chính quyền, phải tự xây
dựng thành một giai cấp dân tộc, phải tự mình trở thành dân tộc, tuy hồn tồn khơng
9


phải theo cái nghĩa như giai cấp tư sản hiểu”(3). Đưa vấn đề đó vào Việt Nam thì đúng
nhưng chưa đủ, vì ở Việt Nam xã hội thuộc địa nửa phong kiến, mâu thuẫn xã hội
chưa phát triển cao như ở Tây Âu. Người chỉ rõ: “Cuộc đấu tranh giai cấp khơng diễn ra
như ở phương Tây”, bởi vì “về mặt cấu trúc kinh tế, không giống các xã hội phương Tây

thời trung cổ, cũng như thời cận đại, và đấu tranh giai cấp ở đó khơng quyết liệt như ở
đây”(4). Nguyễn Ái Quốc phân tích làm sáng rõ: “Những địa chủ hạng trung và hạng nhỏ
và những kẻ mà ở đó được coi là đại địa chủ thì chỉ là những tên lùn tịt, bên cạnh những
người trùng tên với họ ở châu Âu và châu Mỹ”... “nếu nông dân gần như chẳng có gì thì
địa chủ cũng khơng có vốn liếng gì lớn; nếu nơng dân chỉ sống bằng cái tối thiểu cần thiết
thì đời sống của địa chủ cũng chẳng có gì là xa hoa; nếu thợ thuyền khơng biết mình bị
bóc lột bao nhiêu thì chủ lại khơng hề biết cơng cụ để bóc lột của họ là máy móc. Sự
xung đột về quyền lợi của họ được giảm thiểu. Điều đó, khơng thể chối cãi được”(5).
Mặt khác, Việt Nam còn bị sự xâm lược của chủ nghĩa đế quốc, dân tộc cịn nơ lệ.
Cho nên, địa chủ, nông dân, tư sản dân tộc, tiểu tư sản đều có điểm tương đồng là người
dân nơ lệ, mất nước và có nguyện vọng giải phóng dân tộc. Mâu thuẫn chủ yếu của xã hội
Việt Nam cần giải quyết là mâu thuẫn giữa toàn thể dân tộc Việt Nam với chủ nghĩa đế
quốc xâm lược. Vì vậy, muốn giải phóng giai cấp vơ sản theo học thuyết của Các Mac thì
trước hết phải giải phóng cho dân tộc, giành độc lập, tự do cho Tổ quốc. Có giải phóng
được dân tộc mới giải phóng được giai cấp, nếu chỉ đấu tranh giải phóng giai cấp thì
khơng thể giải phóng được giai cấp và cũng khơng thể giải phóng được dân tộc, vì chủ
nghĩa đế quốc sẽ đàn áp cách mạng.
Nắm vững bản chất cách mạng khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin, Hồ Chí Minh
đã độc lập, tự chủ đề ra đường lối chiến lược, sách lược đúng đắn cho cách mạng Việt
Nam, không giáo điều, dập khn. Trong Cương lĩnh Chính trị đầu tiên của Đảng, Hồ
Chí Minh đã xác định: “đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp và bọn phong kiến, làm cho
nước Việt Nam hồn tồn độc lập”.(6). Từ sự phân tích, thấy rõ vai trị, vị trí của các giai
cấp, tầng lớp trong xã hội Việt Nam đối với sự nghiệp giải phóng dân tộc, Người chủ
trương liên minh các giai cấp, các tầng lớp yêu nước: “Đảng phải thu phục cho được đại
bộ phận dân cày và phải dựa vào hạng dân cày nghèo, làm thổ địa cách mạng đánh trúc
10


bọn địa chủ và phong kiến” …Đảng phải hết sức liên lạc với tiểu tư sản, trí thức, trung
nơng, Thanh niên, Tân Việt,.v.v... để lôi kéo họ đi vào phe vơ sản giai cấp. Cịn đối với

bọn phú nơng, trung, tiểu địa chủ và tư bản An Nam mà chưa rõ mặt phản cách mạng thì
phải lợi dụng, ít lâu mới làm cho họ trung lập. Bộ phận nào đã ra mặt phản cách mạng
(Đảng Lập hiến.v.v..) thì phải đánh đổ”(7). Nguyễn ái Quốc đặt giải phóng dân tộc lên
hàng đầu nhằm đoàn kết tập hợp hết thảy các lực lượng yêu nước, thương nòi, tạo ra sức
mạnh dân tộc chống chủ nghĩa đế quốc, giành độc lập tự do cho Tổ quốc là hoàn toàn
đúng đắn, phù hợp với thực tiễn Việt Nam. Đồng thời, Người luôn đứng vững trên lập
trường, quan điểm của giai cấp vô sản để giải quyết vấn đề dân tộc: “Trong khi liên lạc
với các giai cấp, phải cẩn thận, không khi nào nhượng một chút lợi ích gì của cơng nơng
mà đi vào đường thoả hiệp”(8). Như vậy, Nguyễn ái Quốc đã đứng vững trên lập trường
của giai cấp vô sản để giải quyết vấn đề dân tộc. Tư tưởng đó đã soi sáng cho Đảng và
nhân dân ta tiến lên giành thắng lợi trong tổng khởi nghĩa cách mạng Tháng Tám (1945).
Đây là luận điểm sáng tạo của Hồ Chí Minh đã bổ sung, phát triển cho chủ nghĩa Mác Lênin về cách mạng giải phóng dân tộc ở một nước thuộc địa, nửa phong kiến.
Những nguyên lý do C.Mác, F.Ăngghen nêu lên trong Tun ngơn đã được Hồ Chí
Minh ln ln quán triệt, vận dụng và phát triển sáng tạo đã đưa cách mạng Việt Nam đi
tới giành những thắng lợi to lớn. Ngày nay, bối cảnh lịch sử mới đang đặt ra cho chúng ta
tiếp tục nghiên cứu vận dụng sáng tạo những ngun lý đó vào cơng cuộc xây dựng và
phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa đến thắng lợi hồn tồn.

2.4. Phân cơng thực hiện tiểu đề án
- Phân công giảng viên hướng dẫn: Tiến sĩ Tô Văn Sông;
- Sinh viên thực hiện: Phạm Thanh Tú lớp K3ĐH.CTH trường Đại học HảiDương.

2.5. Tiến độ thực hiện tiểu đề án: 01 tuần
2.6. Nguồn lực thực hiện đề án/ tiểu đề án.
- Nguồn tài chính;
- Nguồn lực con người.

2.7. Hiệu quả của Đề án/ tiểu đề án.

11



a) Hiệu quả về trang bị kiến thức lý luận, thực hành, thực tập và tạo ra sản phẩm
cho bản thân.
b) Hiệu quả về kinh tế - xã hội:
- Sau khi hoàn thành đề án/ tiểu đề án;
- Nếu đưa đề án/ tiểu đề án vào thực hiện rộng.
c) Hiệu quả khác

2.7.1. Kết luận và kiến nghị.
2.7.1.1. Kết luận:
Đối chiếu với nhiệm vụ của đề án/ tiểu đề án, bản báo cáo đã bám sát các nội dung
của bài/ học phần làm cơ sở vững chắc cho sinh viên thực hành, thực tập và tạo ra sản
phẩm cụ thể cuối cùng.

2.7.1.2. Đề xuất và kiến nghị:
a) Đề xuất:
- Sinh viên tự chấm điểm;
- Giảng viên nhận xét, đánh giá và cho điểm.

b) Kiến nghị:
Hội đồng bộ môn, khoa chuyên môn và Nhà trường kết luận.

12



×