Tải bản đầy đủ (.doc) (97 trang)

Nghiên cứu một số biện pháp kỹ thuật canh tác cây dong riềng đỏ tại thái nguyên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (5.55 MB, 97 trang )

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM
----------------------------------

NGUYỄN THỊ NGỌC HUÊ

NGHIÊN CỨU MỘT SỐ BIỆN PHÁP KỸ THUẬT CANH TÁC CÂY DONG RIỀNG
ĐỎ
TẠI THÁI NGUYÊN
Ngành: Khoa học cây trồng
Mã số: 60 62 01 10
LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC CÂY TRỒNG

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. ĐÀO THANH VÂN

THÁI NGUYÊN - NĂM 2015

Số hoá bởi Trung tâm Học liệu –
ĐHTN

n


i

LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan kết quả nghiên cứu của riêng tôi. Những số liệu trình bày
trong luận văn này là hoàn toàn trung thực và chưa sử dụng để bảo vệ một học vị nào.
Các thông tn, tài liệu trích dẫn trình bày trong luận văn này đều được ghi rõ
nguồn gốc.


Thái Nguyên, tháng 10 năm 2015
Tác giả

Nguyễn Thị Ngọc Huê

Số hoá bởi Trung tâm Học liệu –
ĐHTN

n


ii

LỜI CẢM ƠN
Được sự nhất trí của Ban giám hiệu Trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên và sự
quan tâm của Phòng Đào tạo, các thầy cô giáo Trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên,
tôi đã tiến hành thực hiện đề tài: “Nghiên cứu một số biện pháp kỹ thuật canh tác cây
Dong riềng đỏ tại tỉnh Thái Nguyên”.
Đến nay tôi đã hoàn thành đề tài của mình. Để có được kết quả như vậy, trước hết
tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến các thầy cô giáo hướng dẫn, Ban giám hiệu Nhà
trường, Khoa Nông học và Phòng Đào tạo, các tổ chức cá nhân liên quan đã tận tình giúp
đỡ tôi trong suốt thời gian thực hiện đề tài của mình.
Tôi xin chân thành cảm ơn:
1. Ban giám hiệu Trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên.
2. PGS.TS. Đào Thanh Vân - Giảng viên khoa Nông học.
3. Phòng Đào tạo, Khoa Nông học, Trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên.
4. Bạn bè, đồng nghiệp và gia đình.
Do còn hạn chế về trình độ lý luận và kinh nghiệm thực tế nên không tránh khỏi
thiếu sót, tôi rất mong được sự giúp đỡ, góp ý kiến bổ sung của các thầy cô giáo và các
bạn đồng nghiệp để đề tài của tôi được hoàn thiện hơn.

Tôi xin chân thành cảm ơn!
Thái Nguyên, tháng 10 năm 2015
Tác giả

Nguyễn Thị Ngọc Huê

Số hoá bởi Trung tâm Học liệu –
ĐHTN

n


iii

MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN .......................................................................................................3
LỜI CẢM ƠN ............................................................................................................ ii MỤC
LỤC................................................................................................................. iii DANH MỤC
BẢNG BIỂU ...................................................................................... vi DANH MỤC HÌNH VẼ
........................................................................................... vii
MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1
1. Tính cấp thiết của đề tài ................................................................................... 1
2. Mục têu nghiên cứu của đề tài ......................................................................... 2
2.1. Mục tiêu tổng quát ........................................................................................ 2
2.2. Mục tiêu cụ thể ............................................................................................. 2
3. Ý nghĩa của đề tài ............................................................................................ 3
3.1. Ý nghĩa khoa học .......................................................................................... 3
3.2. Ý nghĩa thực tễn .......................................................................................... 3
Chương 1. TỔNG QUAN TÀI LIỆU ......................................................................4
1.1. Nguồn gốc, đặc điểm thực vật học và yêu cầu sinh thái của cây dong riềng ..... 4

1.1.1. Nguồn gốc .........................................................................................................4
1.1.2. Phân loại ............................................................................................................4
1.1.3. Phân bố và các giống dong riềng ......................................................................4
1.1.4. Đặc điểm thực vật học cây dong riềng ..............................................................5
1.1.5. Yêu cầu sinh thái của cây dong riềng ...............................................................6
1.2. Các kết quả nghiên cứu về cây dong riềng trên Thế giới và ở Việt Nam............. 7
1.2.1. Các kết quả nghiên cứu về cây dong riềng trên Thế giới .................................7
1.2.2. Các kết quả nghiên cứu về cây dong riềng ở Việt Nam...................................9
1.3. Tình hình nghiên cứu cây dược liệu ............................................................. 13
1.3.1. Tình hình nghiên cứu về dược liệu trên Thế giới............................................13
1.3.2. Tình hình nghiên cứu về cây thuốc trong nước ..............................................15

Số hoá bởi Trung tâm Học liệu –
ĐHTN

n


iv

Chương 2. NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU...........................21
2.1. Phạm vi nghiên cứu.................................................................................... 21
2.1.1. Địa điểm nghiên cứu .......................................................................................21
2.1.2. Thời gian nghiên cứu ......................................................................................21
2.2. Nội dung nghiên cứu ................................................................................... 21
2.3. Phương pháp nghiên cứu ............................................................................. 21
2.3.1. Phương pháp bố trí thí nghiệm........................................................................21
2.3.2. Kỹ thuật chăm sóc ...........................................................................................25
2.3.3. Chi têu và phương pháp theo dõi ...................................................................25
2.4. Phương pháp xử lý số liệu ........................................................................... 27

Chương 3. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN ..................................28
3.1. Kết quả nghiên cứu một số biện pháp kỹ thuật trong nhân giống cây dong riềng đỏ tại
Thái Nguyên ............................................................................................ 28
3.1.1. Ảnh hưởng của nhiệt độ và thời gian xử lý hạt trong nhân giống dong riềng đỏ
bằng hạt ................................................................................................................28
3.1.2. Ảnh hưởng của hóa chất và thời gian xử lý hạt trong nhân giống cây dong riềng
đỏ bằng hạt .......................................................................................................29
3.1.3. Ảnh hưởng của kích thước thân ngầm và xử lý thuốc bảo vệ thực vật trong nhân
giống cây dong riềng đỏ bằng thân ngầm ........................................................30
3.2. Ảnh hưởng của mật độ trồng đến khả năng sinh trưởng và phát triển của cây dong
riềng đỏ để làm dược liệu tại Thái Nguyên ................................................. 31
3.2.1. Ảnh hưởng của mật độ trồng cây dong riềng đỏ bằng hạt đến thời gian sinh
trưởng và năng suất dong riềng .................................................................................31
3.2.2. Ảnh hưởng của mật độ trồng cây dong riềng đỏ bằng chồi (mầm) đến thời gian
sinh trưởng và năng suất dong riềng .................................................................39
KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ .....................................................................................46
1. Kết luận......................................................................................................... 46
2. Đề nghị ......................................................................................................... 47
TÀI LIỆU THAM KHẢO ......................................................................................48

Số hoá bởi Trung tâm Học liệu –
ĐHTN

n


v

DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT


CT
KLTB

: Công thức
: Khối lượng trung bình NSLT

: Năng suất lý thuyết NSTT

: Năng

suất thực thu

Số hoá bởi Trung tâm Học liệu –
ĐHTN

n


vi

DANH MỤC BẢNG BIỂU
Bảng 3.1. Ảnh hưởng của nhiệt độ và thời gian xử lý hạt đến tỷ lệ nảy mầm ........ 28
Bảng 3.2. Ảnh hưởng của hóa chất và thời gian xử lý hạt đến tỷ lệ nảy mầm ........ 30
Bảng 3.3. Ảnh hưởng của kích thước thân ngầm và xử lý thuốc bảo vệ thực vật đến tỷ lệ
nảy mầm.................................................................................................... 31
Bảng 3.4. Ảnh hưởng của mật độ đến thời gian sinh trưởng cây dong riềng đỏ trồng bằng
hạt ............................................................................................................ 32
Bảng 3.5. Ảnh hưởng của mật độ đến chiều cao cây, số cây/khóm, đường kính thân của
dong riềng trồng bằng hạt ............................................................................ 33
Bảng 3.6. Ảnh hưởng của mật độ đến số lá trên thân, chiều dài, chiều rộng lá của dong

riềng trồng bằng hạt .................................................................................. 35
Bảng 3.7. Ảnh hưởng của mật độ đến năng suất và các yếu tố cấu thành năng suất của
dong riềng đỏ trồng bằng hạt........................................................................ 38
Bảng 3.8. Ảnh hưởng của mật độ trồng bằng hạt đến khả năng chống đổ và sâu bệnh
của cây dong riềng .................................................................................... 37
Bảng 3.9. Ảnh hưởng của mật độ đến thời gian sinh trưởng cây dong riềng đỏ trồng bằng
chồi (mầm) ............................................................................................... 40
Bảng 3.10. Ảnh hưởng của mật độ đến chiều cao cây, số cây/khóm,đường kính thân của
dong riềng trồng bằng chồi (mầm)................................................................ 40
Bảng 3.11. Ảnh hưởng của mật độ đến số lá/cây, chiều dài, chiều rộng lá của dong riềng
trồng bằng chồi (mầm) .............................................................................. 42
Bảng 3.12. Ảnh hưởng của mật độ đến năng suất thân lá và các yếu tố cấu thành năng
suất thân lá dong riềng đỏ .......................................................................... 44
Bảng 3.13. Ảnh hưởng của mật độ trồng bằng chồi đến khả năng chống đổ và sâu bệnh
của cây dong riềng đỏ ................................................................................ 43

Số hoá bởi Trung tâm Học liệu –
ĐHTN

n


vii

DANH MỤC HÌNH VẼ
Hình 3.1. Ảnh hưởng của mật độ đến năng suất thực thu dong riềng đỏ trồng bằng hạt.... 39
Hình 3.2. Ảnh hưởng của mật độ đến năng suất thực thu dong riềng đỏ trồng bằng chồi . 45

Số hoá bởi Trung tâm Học liệu –
ĐHTN


n


1

Số hoá bởi Trung tâm Học liệu –
ĐHTN

n


2
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Theo WHO, bệnh tim mạch đang là nguyên nhân tử vong hàng đầu ở người trên
toàn thế giới và chiếm nhiều nhất ở các nước đang phát triển. Mỗi năm, người chết do
bệnh tim và đột quỵ nhiều hơn cả ung thư, lao, sốt rét và HIV cộng lại. Tại Việt Nam,
thống kê của Hội tim mạch học cho thấy, cứ 3 người Việt Nam trưởng thành có 1 người
có nguy cơ mắc bệnh tim mạch, chủ yếu là bệnh mạch vành. Chi tính riêng bệnh mạch,
mỗi năm đã cướp đi sinh mạng của hơn 100.000 người, nếu tính cả tai biến mạch máu
não và các bệnh tm khác, con số này lên tới 200.000 người, chiếm hơn 1/4 tổng số người
tử vong tại Việt Nam.
Tim quyết định sự sống còn của cơ thể, mạch vành quyết định sự sống còn của
tim. Bởi vậy, những hẹp, tắc, co thắt mạch vành là hết sức nguy hiểm, hơn nữa đây lại là
loại bệnh phổ biến. Từ lâu nay trong dân gian, nhất là trong cộng đồng người thiểu số, đã
biết sử dụng các cây thuốc nam để chữa bệnh tim mạch, mà đặc biệt là cây Dong riềng
đỏ. Đồng bào thiểu số thường dùng củ cây dong riềng đỏ để chữa các cơn đau thắt ngực,
suy tim, suy mạch vành.
Sự phát triển mạnh mẽ của khoa học công nghệ đã cho ra đời nhiều thuốc,

phương tện, kỹ thuật chữa bệnh tim mạch mới như thuốc hạ huyết áp, thuốc hạ mỡ
máu, máy tim phổi, kỹ thuật tim mạch can thiệp… Song không phải bất cứ người dân nào
cũng đủ điều kiện để tếp cận với y học hiện đại, do bị hạn chế chi trả, nhận thức, địa lý…
Chính vì vậy các bác sĩ, các nhà khoa học vẫn tếp tục tìm kiếm các thảo dược tự nhiên có
tác dụng chữa bệnh tim mạch tương tự như các glycozid trợ tm, coumarin, strophantn,
thevetine .. đã tìm thấy trước đây.
Từ những lý do trên, năm 2005 Bác sỹ Hoàng Sầm cùng nhóm nghiên cứu là GS.
Nguyễn Nghĩa Thìn, GS. Trịnh Bình, PGS.TS. Nguyễn Trọng Thông, PGS.TS. Phùng Quốc
Việt, TS. Bác sĩ Nguyễn Khang Sơn, ThS. Ngô Thành Trung, ThS. Mai Phương Giang... đã
tến hành thực hiện đề tài khoa học cấp bộ trọng điểm B2005-04-46TĐ. Đề tài đã khảo
sát tính đồng nhất về thực vật, xác định tên khoa học, hình thái giải phẫu đại thể vi thể,
định tính, định lượng, cấu trúc phân tử các hoạt chất trong cây dong riềng đỏ. Theo đó
độc tính cấp trên chuột, độc tính bán

Số hoá bởi Trung tâm Học liệu –
ĐHTN

n


trường diễn của vị thuốc mới này cũng được tến hành song song bởi Bộ môn mô phôi
và Bộ môn dược lý của Đại học Y Hà nội [14].
Kết quả cho thấy các tiêu chí được khảo sát hoàn toàn phù hợp với nhận định và kỳ
vọng ban đầu: Đây là cây thuốc chữa bệnh mạch vành hiệu quả cao, an toàn tuyệt đối.
Qua sử dụng điều trị trên hàng nghìn người bệnh mạch vành chưa đặt stent và đã đặt
stent nhận thấy đây là cây thuốc mới chưa có trong dược điển nhưng hiệu quả điều trị
rất cao. Các nghiên cứu này đã được cấp quyền tác giả số
3764/2009/QTG và 948/2015/QTG.
Từ những thông tn trên cho thấy việc nghiên cứu xác định và phát triển giống
Dong riềng đỏ để làm thuốc chữa bệnh tm là một yêu cầu cấp bách hiện nay và việc triển

khai nghiên cứu cũng như các kết quả nghiên cứu thành mô hình nhân rộng ở địa bàn các
tinh miền núi là phù hợp không chi về mặt cơ sở khoa học mà còn là định hướng phát
triển của các địa phương trong chương trình xoá đói giảm nghèo. Theo đó nhu cầu sử
dụng nguyên liệu Dong riềng đỏ phục vụ cho sản xuất thuốc và thực phẩm chức năng cho
cả nước lên tới hàng trăm tấn/năm.
Trong chiến lược phát triển nông thôn miền núi, nhất là khu vực miền núi phía
Bắc, việc khai thác nguồn gen bản địa quý hiếm là một định hướng quan trọng mà lâu nay
chúng ta đã không chú ý đến. Vì vậy việc tìm tòi, chọn lọc, bồi dục các giống dong riềng
đỏ làm dược liệu cũng như khai thác sử dụng nó trong y học là việc làm có ý nghĩa
không chi đối với ngành y mà còn góp phần xoá đói giảm nghèo và phát triển nông
thôn miền núi. Xuất phát từ thực tễn trên, chúng tôi tến hành thực hiện đề tài: “Nghiên
cứu một số biện pháp kỹ thuật canh tác cây Dong riềng đỏ tại tỉnh Thái Nguyên”.
2. Mục têu nghiên cứu của đề tài
2.1. Mục tiêu tổng quát
Xây dựng được một số biện pháp nhân giống và kỹ thuật canh tác thích hợp để
nâng cao năng suất cây Dong riềng đỏ.
2.2. Mục tiêu cụ thể
- Xác định được một số biện pháp kỹ thuật trong nhân giống cây dong riềng đỏ tại
Thái Nguyên.


- Xác định được một số biện pháp kỹ thuật trong canh tác cây dong riềng đỏ đạt
năng suất tại Thái Nguyên.
3. Ý nghĩa của đề tài
3.1. Ý nghĩa khoa học
Kết quả nghiên cứu là cơ sở dữ liệu cho các nghiên cứu trong lĩnh vực phát triển
cây dược liệu bản địa và là tài liệu tham khảo trong đào tạo của các trường đại học nông
lâm nghiệp.
3.2. Ý nghĩa thực tiên
Kết quả nghiên cưu xác định được một số biện pháp kỹ thuật trong nhân

giống và kỹ thuật canh tác cây dong riềng đỏ đạt năng suất tại Thái Nguyên có ý nghĩa
quan trọng cho khai thác nguồn gen y học bản địa quý hiếm. Kết quả nghiên cứu góp
phần đảm bảo sản xuất vùng nguyên liệu và đóng góp cho phát triển bền vững kinh tế xã
hội vùng núi Việt Nam.


Chương 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. Nguồn gốc, đặc điểm thực vật học và yêu cầu sinh thái của cây dong riềng
1.1.1. Nguồn gốc
Dong riềng có nguồn gốc ở Peru, Nam Mỹ. Được chế biến lấy bột để làm lương
thực, thực phẩn là chính (Mai Thạch Hoành, Nguyễn Công Vinh, 2011) [6]. Hiện nay,
người ta đã xác định được 7 loài dong riềng nguồn gốc phát sinh ở Nam Mỹ và Trung
Quốc, đó là:
- Canna discolor ở Tây Ấn nhiệt đới,
- C. Flauca ở Tây Ấn và Mêhico,
- C. flaccida ở Nam Mỹ,
- C. edulis ở châu Mỹ nhiệt đới,
- C. Indica ở châu Mỹ nhiệt đới,
- C.libata ở Braxin,
- C.humilis ở Trung Quốc.
Ngày nay dong riềng được trồng rộng rãi ở nhiều nước trên thế giới có khí hậu
nhiệt đới và á nhiệt đới. Trong đó Nam Mỹ là trung tâm đa dạng di truyền nguồn gen
dong riềng, ngoài ra dong riềng được trồng nhiều ở các nước châu Á, châu Phi, Châu Úc.
1.1.2. Phân loại
- Tên khoa học: Canna Edulis Ker
- Dong riềng thuộc họ chuối hoa Cannacea
- Bộ: Scitaminales
Số lượng nhiễm sắc thể là 9, có 2 dạng nhị bội 2n = 2X = 18 và tam bội 2n =
2X = 27.

1.1.3. Phân bố và các giống dong riềng
Trên thế giới dong riềng được trồng ở quy mô thương mại tại các nước vùng nam
Mỹ, châu Phi, và một số nước nam Thái Bình Dương. Tại châu Á, dong riềng được trồng
tại Thái Lan, Indonesia, Nam Trung Quốc, Úc và Đài Loan (Hermann, M. et al. 2007) [24].


1.1.4. Đặc điểm thực vật học cây dong riềng
Thân: Thân của cây dong riềng gồm 2 loại là thân khí sinh và thân củ. Thân khí sinh
trung bình cao từ 1,2m đến 1,5m có những giống có thể cao trên 2,5m. Thân cây màu
đỏ. Thân gồm những lóng kéo dài, giữa các lóng là các đốt; Thân khí sinh được tính từ đốt
tiếp phần củ. Giải phẫu thân khí sinh cho thấy bên ngoài thân được cấu tạo bởi lớp biểu bì
gồm những tế bào dẹt, dưới biểu bì có những bó cương mô xếp thành những bó tròn có
tác dụng chống đỡ cho cây, tiếp đến là những bó libe và mạch gỗ và trong cùng là nhu
mô [1].
Củ: Củ cây dong riềng hình thành từ thân rễ phình to, những củ to có thể đạt chiều
dài 60 cm. Thân rễ phân thành nhiều nhánh và chứa nhiều tnh bột, thân rễ nằm trong
đất; Thân rễ gồm nhiều đốt, mỗi đốt có một lá vảy, lúc mới ra lá vảy có hình chóp nhọn
dần dần to ra sẽ bị rách và tiêu dần; Trên mỗi đốt của thân củ có nhiều mầm có thể phát
triển thành nhánh, nhánh có thể phân chia thành các nhánh cấp 1 hay đến cấp 3. Vỏ của
thân có thể có màu trắng, vàng kem đến màu tía hồng. Kích thước củ biến động khá lớn
phụ thuộc vào giống và điều kiện chăm bón. Giải phẫu thân rễ cho thấy phía ngoài cùng
của củ là biểu bì gồm những tế bào dẹt, tếp là nhu mô bên trong có những bó cương mô
và những bó mạch dẫn libe và gỗ, tếp là lớp tế bào nhu mô chứa ít một số hạt tnh bột,
vào trong nữa là lớp trụ bì rất rõ và trong cùng là nhu mô chứa nhiều hạt tnh bột. So với
thân khí sinh thân rễ có ít bó cương mô hơn.
Năng suất cây dong riềng rất cao. Nếu trồng ở nơi đất tốt, một khóm dong riềng
có thể thu được 15 – 20kg củ. Trồng thâm canh trên diện tích lớn dong riềng cho năng
suất 50 – 60 tấn/ha
Lá: Lá dong riềng gồm phiến lá và cuống lá với bẹ lá ở phía gốc, lá của cây dong
riềng thuôn dài, mặt trên của lá có màu xanh hoặc xanh lục xen tím, mặt dưới màu xanh

hoặc màu tím. Lá dài khoảng 35 – 60 cm và có chiều rộng 22 – 25cm; Mép lá nguyên,
xung quanh mép lá có viền một đường mỏng mầu tím đỏ hoặc màu trắng trong; Phiến lá
có gân giữa to, gân phụ song song, có màu xanh hoặc tím đỏ; Cuống lá dạng bẹ ôm lấy
thân có chiều dài khoảng 8 – 15 cm.


Rễ: Bộ rễ cây dong riềng thuộc loại rễ chùm, rất phát triển; Rễ mọc từ các đốt của
thân củ, từ lớp tế bào trụ bì ở đốt thân củ phát triển ra thành rễ. Rễ của cây dong riềng
phát triển liên tục phân thành rễ cấp 1, cấp 2 và cấp 3 (tùy thuộc vào giống). Do củ phát
triển theo chiều ngang nên rễ chi ăn sâu vào đất khoảng 20 - 30cm.
Hoa: Hoa dong riềng xếp thành cụm, cụm hoa dạng chùm, Hoa mọc ở ngọn cây.
Cây thường mang ít hoa lưỡng tính, không đều. Cụm hoa được bao bởi một mo chung
như hoa chuối. Chùm hoa thiết diện hình tam giác, có từ 6 – 8 đốt, mỗi đốt có 2 hoa,
đốt dưới cùng và trên cùng có 1 hoa.
Cấu tạo hoa gồm có 3 lá đài hình cánh rời nhau, 3 cánh hoa dài thon cuộn theo
chiều dài. Hoa có 5 nhị đực, ngoài có 3 nhị thì 2 nhị biến thành bản hình cánh hoa, 1 nhị
biến thành cánh môi cuộn lại phía trước. Vòng trong có 2 nhị, trong đó 1 nhị thì chi còn
vết, nhị kia thì một nửa cánh mang 1 bao phấn, nửa còn lại cũng biến thành hình cánh. Tất
cả các nhị đều có màu sắc sặc sỡ, màu cánh biến động từ màu đỏ tươi đến màu vàng
điểm đỏ. Bầu hoa có 3 ô, mỗi ô có từ 6 – 8 noãn, phía trên bầu có tuyến tết mùi. Thời
gian từ nụ đến nở hoa từ 3 – 5 ngày, hoa nở theo thứ tự từ thấp đến cao, từ trong ra
ngoài; Hoa nở vào buổi sáng, mỗi hoa nở từ 1 - 2 ngày.
Quả: Quả của cây dong riềng thuộc dạng qủa nang, hình trứng ngược, kích
thước khoảng 3cm, trên quả nang có nhiều gai mềm.
Hạt: Hạt của cây dong riềng có màu đen, hình tròn đường kính 3,5 - 5 mm.
Khối lượng 1000 hạt khoảng 12 - 13g.
1.1.5. Yêu cầu sinh thái của cây dong riềng
o
Yêu cầu về nhiệt độ: Cây dong riềng thích hợp từ 25 - 30 C, điều kiện ấm áp dong
riềng sinh trưởng phát triển khỏe hơn, tốc độ đồng hóa cao và đẩy nhanh quá trình hình

thành thân củ, thời tết hanh và hơi lạnh đẩy nhanh quá trình vận chuyển tnh bột từ thân
lá xuống củ và dong riềng chịu lạnh khá nên có khả năng trồng ở độ cao trên 2.500m so
với mặt nước biển.
Yêu cầu ánh sáng: Dong riềng không cần nhiều ánh sáng, nên có thể trồng dưới tán
cây ăn quả, cây sinh trưởng bình thường nơi cớm nắng. Ngày dài có ảnh hưởng lớn đến
việc hình thành củ. Điều kiện ngày ngắn, cường độ ánh sáng mạnh thúc đẩy sự hình thành
phát triển củ, trong khi ngày dài lại thúc đẩy sự phát triển thân lá.


Yêu cầu đất trồng: Dong riềng là cây có yêu cầu về đất không khắt khe so với
cây trồng khác, nên có thể trồng trên nhiều loại đất khác nhau. Tuy nhiên trồng trên đất
cát pha, nhiều mùn, đủ ẩm là tốt nhất để cho năng suất cao. Dong riềng là loại cây chịu
úng kém do vậy đất trồng dong riềng phải là nơi dễ thoát nước. Đất đọng nước làm cho
bộ rễ hô hấp kém có thể dẫn đến thối củ [3].
Yêu cầu nước: Dong riềng có đặc điểm chịu hạn tốt, có thể bố trí trên đất có độ
o
dốc trên 15 , ít ẩm, nhưng dong riềng không chịu được ngập úng, nếu bị ngập úng cây
thường bị vàng lá, thối củ. Vùng trồng dong riềng ở vùng có lượng mưa thích hợp 9001200 mm.
Chất dinh dưỡng: Cũng như các cây có củ khác, dong riềng yêu cầu có đầy đủ các
nguyên tố dinh dưỡng NPK, trong đó K có ý nghĩa trong việc tăng khối lượng củ. Cây
dong riềng yêu cầu đất tốt giàu mùn để cho năng suất cao. Những nơi đất quá cằn cỗi cần
bón thêm phân hữu cơ. Phân bón rất có ý nghĩa trong việc tăng năng suất củ của cây dong
riềng.
1.2. Các kết quả nghiên cứu về cây dong riềng trên Thế giới và ở Việt Nam
1.2.1. Các kết quả nghiên cứu về cây dong riềng trên Thế giới
Cây dong riềng có tên khoa học là Canna edulis (Indica), thuộc nhóm cây nông
nghiệp có nguồn gốc phát sinh ở Nam Mỹ. Ngày nay dong riềng được trồng rộng rãi ở các
nước nhiệt đới và á nhiệt đới trên thế giới. Nam Mỹ là trung tâm đa dạng của dong riềng
nhưng châu Á, châu Úc và châu Phi là những nơi trồng và sử dụng dong riềng nhiều nhất
(Hermann, 2007) [24]. Dong riềng được gọi bằng một số tên khác nhau như Queenland

Arrowroot, Canna Indica (L.), Canna Edulis (Kerr- Gawl) (Cecil,1992)[22].
Trên thế giới dong riềng được trồng ở quy mô thương mại tại các nước vùng Nam
Mỹ, Châu Phi, và một số nước Nam Thái Bình Dương. Tại Châu Á, dong riềng được
trồng tại Thái Lan, Indonesia, Nam Trung Quốc, Úc, và Đài Loan (Hermann, M. et al. 2007)
[24]. Mặc dù vậy đến nay chưa có số liệu thống kê chính xác về diện tích loại cây trồng
này.
Nghiên cứu về dong riềng ở các nước còn nhiều hạn chế. Theo Hermann và
CS (năm 2007) cây dong riềng là loài cây triển vọng cho hệ thống nông lâm kết hợp


vì nó có những đặc điểm quí như chịu bóng râm, trồng được những nơi khó khăn như
thiếu nước, thời tết lạnh. Củ dong riềng có nhiều công dụng: Luộc để ăn, làm bột, nấu
rượu. Bột dong riềng dễ têu hoá nên có thể làm nguồn thức ăn rất tốt cho trẻ nhỏ và
người ốm. Bột dong riềng có thể dùng làm hạt trân châu, miến, bánh đa, bánh mì, bánh
bao, mì sợi, kẹo và thức ăn chăn nuôi. Đối với miền núi, những nơi kinh tế còn khó khăn,
dong riềng cũng là cây có thể đảm bảo an ninh lương thực. Trong thân cây dong riềng có
sợi màu trắng, có thể được sử dụng để chế biến thành sợi dệt thành các loại bao bì nhỏ.
Củ dong riềng có thể dùng làm thức ăn chăn nuôi, tuy nhiên cả củ, thân, lá đều dùng được
vào mục đích này.
Những vùng có truyền thống trồng dong riềng chế biến thành bột thì bã có thể
dùng để nấu rượu, nấu rượu xong có thể dùng bã rượu (hèm) phục vụ chăn nuôi. Bã thải
của chế biến tinh bột cũng có thể ủ làm phân bón cho cây trồng và làm giá thể trồng nấm
ăn. Ngoài ra, hoa dong riềng có màu sắc sặc sỡ , bộ lá đẹp nên cũng có thể sử dụng dong
riềng làm cây cảnh trong vườn nhà.
Ở Ecuador, dong riềng được trồng trên đất cát pha, ở độ cao 2.340m trên mực
0
nước biển, trong điều kiện nhiệt độ bình quân 15-17 C. Trong 6 tháng đầu người ta trồng
xen với khoai tây, sau 12 tháng thu hoạch cho năng suất củ trung bình 56 tấn/ha, chi số
thu hoạch 56+8%.
Nghiên cứu đánh giá 26 mẫu giống dong riềng từ ngân hàng gen dong riềng quốc

o
tế của CIP tại Ecuador, trong nhà lưới ở độ cao 2400m, biên độ 12-27 C với mật độ
2cây/m2, trên nền đất cát pha, không bón phân, Hermann và CS đã thu được kết quả rất
thú vị. Năng suất củ tươi đạt từ 17-96 tấn/ha, hàm lượng tinh bột trong củ tươi đạt 4-22%
và đạt 12-31% qui về chất khô, hàm lượng đường hòa tan trong củ tươi là 5-11 độ Brix
[24].
Nghiên cứu hệ số tương quan giữa các chi tiêu kinh tế cho thấy có sự tương quan
thuận cao giữa hàm lượng chất khô của củ với hàm lượng đường hòa tan và hàm lượng
tnh bột trong củ tươi r =0,66, trong khi số chồi tương quan nghịch với hàm lượng chất
khô trong củ r = -0,57.
Phân tích các chất dinh dưỡng trong đất trồng và trong cây, các nhà khoa học cho
biết, để thu được 1tấn củ tươi, cho 120-130kg tinh bột khô ở mật độ 20.000cây/


ha, cây dong riềng cần 0,54kg N, 0,53kg P, 3,11kgK, 2,47kg Mg và 0,37kg Ca. Dong
riềng là cây sử dụng rất hiệu quả nguồn N và nước trong đất.
Nhóm tác giả trong công bố của mình đã kết luận, mặc dù hàm lượng tnh bột
trong củ dong riềng thấp nhưng do năng suất củ rất cao nên vẫn có năng suất tnh bột
đạt 2,8-14,3 tấn/ha và chi số thu hoạch cao nên dong riềng là cây tăng thu nhập của nông
dân nghèo ở các vùng cao nhiệt đới. Tuy nhiên cho đến nay, tại các nước có trồng dong
riềng thì nó vẫn chưa được quan tâm nghiên cứu. Ở châu Á, Trung Quốc và Việt Nam là
những nước trồng và sử dụng dong riềng hiệu quả nhất (Hermann, M. et al. 2007) [24].
Hiện nay trên thế giới chọn tạo giống dong riềng chủ yếu chọn lọc từ nguồn gen
hoang dại, sau đó tiến hành cải tiến nguồn gen để chọn lọc giống mới. Nhưng cũng có một
số ít công trình đã nghiên cứu chọn giống dong riềng bằng chi thị phân tử.
1.2.2. Các kết quả nghiên cứu về cây dong riềng ở Việt Nam
Dong riềng Canna edulis Ker là cây thân thảo, họ dong riềng (Cannaceae). Dựa vào
tính chất củ, thân lá và hoa dong riềng, được chia ra 3 loại: Cây chuối hoa (Canna indica
L.), cây dong đao (Canna sp), cây dong riềng (Canna Edulis ker). Dong riềng có tên nhiều
địa phương khác nhau như khoai chuối, khoai lào, dong tây, củ đao, khoai riềng, củ đót,

chuối nước.
Dong riềng được nhập vào Việt Nam đầu thế kỷ 19. Năm 1898, người Pháp đã
trồng thử dong riềng ở nước ta nhưng công việc đã bị dừng lại vì thời đó chưa biết cách
chế biến tnh bột dong riềng (Lý Ban, 1963) [1]. Từ năm 1961 đến 1965 một số nghiên cứu
về nông học với cây dong riềng đã được thực hiện tại Viện khoa học kỹ thuật nông nghiệp
(INSA) nhằm mục đích mở rộng diện tích dong riềng, tuy nhiên vấn đề trồng dong riềng
vẫn không được quan tâm vì thiếu công nghệ chế biến và têu thụ thấp. Từ năm 1986 do
nhu cầu sản xuất miến từ bột dong riềng ngày càng tăng nên diện tích loại cây này đã
được người dân tự phát mở rộng. Những địa phương trồng dong riềng với diện tích lớn là
Hoà Bình, Ngoại thành Hà Nội, Sơn La, Lai Châu, Thanh Hoá, Hưng Yên, Bắc Kạn, Thái
Nguyên và Đồng Nai.
Theo một số tài liệu, vì trong thân lá dong riềng có một lượng dự trữ chất dinh
dưỡng khá cao (ép 7 cây khoai riềng cho 1,5 lít nước, trong đó dinh dưỡng


chiếm 86%) do đó dong riềng chịu hạn tốt hơn lúa, khoai lang và sắn. Dong riềng có sức
sống rất mạnh, có khả năng thích nghi cao với điều kiện ngoại cảnh, có sức chống đỡ tốt
với sâu bệnh. Cây không có nhu cầu nhiều về ánh sáng nên có thể sinh trưởng bình
thường nơi cớm nắng. Cây dong riềng có khả năng chống chịu tốt nhiệt độ thấp, có thể
trồng ở những nơi mà khoai lang, sắn không trồng được. Hơn nữa, dong riềng còn là cây
trồng dễ tính, yêu cầu đất không nghiêm khắc nên có thể trồng trên nhiều loại đất
0
khác nhau như: đồi, sườn núi dốc trên 15 , vườn nhà và bãi cao ven sông vẫn cho năng
suất củ cao. Nếu trồng ở nơi đất tốt, một khóm có thể thu được 15 - 20kg. Trồng trên
diện tích lớn dong riềng có thể cho năng suất đạt tới
45 - 60tấn củ/ha nếu thâm canh. Với những đặc điểm này, dong riềng đã trở thành một
loại mặt hàng có nhiều triển vọng phát triển ở vùng miền núi nước ta, có thể phát triển
cây dong riềng trên một phạm vi rộng lớn ở nhiều vùng để tăng nguồn vật liệu cho sản
xuất ngành hàng miến, tnh bột và các sản phẩm khác (Nguyễn Ngọc Huệ, Đinh Thế Lộc,
2005) [7].

Dong riềng có nhiều đặc tính sinh học quý như kích thước hạt tnh bột lớn nhất
trong nhóm cây có củ, tới 150 micron (tnh bột sắn là 35 micron). Điều này giúp cho
việc tách chiết tnh bột dong riềng dễ dàng hơn so với một số cây có củ khác. Hàm lượng
amiloza trong tnh bột dong riềng cao đạt từ 38% - 41%, gần bằng hàm lượng amiloza
trong tnh bột đậu đỗ (46 - 54%) (Lê Ngọc Tú và cs., 1994) [20]. Điều này làm cho sợi
miến dong riềng dai và giòn tương tự miến đỗ xanh, trong khi giá thành miến dong chi
bằng một nửa so với miến đậu xanh. Đây là lợi thế canh tranh của miến dong so với miến
đậu xanh. Dong riềng chế biến thành bột lãi gấp 2 - 3 lần trồng lúa trong điều kiện khó
khăn [13].
Dong riềng đã và đang đóng một vai trò quan trọng trong việc xoá đói, giảm nghèo,
giải quyết việc làm cho người lao động ở nông thôn miền núi. Trong những năm qua, sản
xuất dong riềng và các sản phẩm chế biến đã thu hút nhiều ngày công lao động của nông
dân, thợ thủ công, góp phần tạo việc làm cho nhiều người lao động, đồng thời đã góp một
phần quan trọng trong việc nâng cao nguồn thu cho người sản xuất.


Dong riềng là cây tăng thu nhập cho nông dân tại một số vùng sinh thái đặc thù
như nơi đất khô hạn (vùng đồi núi của Huế, Sơn Tây), đất dốc, khí hậu lạnh như Mộc
Châu, Sơn la, Hòa Bình.... Tuy nhiên trong những năm gần đây do không có sự đầu tư
về chọn lọc, phục tráng giống cũng như các kỹ thuật canh tác phù hợp, các giống dong
riềng có tiềm năng và chất lượng cao đang bị suy giảm. Bên cạnh đó, quá trình chuyển
đổi cơ cấu cây trồng làm cho diện tích trồng dong riềng đang có xu hướng giảm khiến
cho nguồn cung cấp nguyên liệu ngày càng bị cạn kiệt trong khi nhu cầu tiêu dùng các
sản phẩm của nó vẫn không ngừng tăng lên ở Việt Nam cũng như trên thế giới [15].
Tại Việt Nam trong những năm 60 cây dong riềng đã được một số tác giả nghiên
cứu về đặc điểm thực vật học, giải phẫu lá và một số biện pháp kỹ thuật trồng (Bùi
Công Trừng, Nguyễn Hữu Bình, 1963; Tổ nghiên cứu cây có củ., 1969). Theo Mai Thạch
Hoành (2003), nước ta thường trồng 3 nhóm giống: Nhóm dong đỏ, nếu thâm canh tốt
năng suất đạt 40 tấn/ha, bột ướt chiếm 27% củ tươi, thời gian sinh trưởng 8,5 – 10 tháng;
Nhóm dong xanh năng suất đạt 40-42 tấn/ha nếu thâm canh tốt, bột ướt chiếm từ 25 –

27% củ tươi, thời gian sinh trưởng 9-12 tháng; Nhóm Việt-CIP năng suất đạt trên diện
tích nhỏ thâm canh có thể tới 60 tấn/ha, bột ướt chiếm 23% củ tươi, thời gian sinh
trưởng 7,5 tháng. Những năm 1993-1994, Trung tâm Nghiên cứu khoai tây rau, nay là
Trung tâm Nghiên cứu và phát triển cây có củ với sự hợp tác tài trợ của Trung tâm Nghiên
cứu và phát triển quốc tế Canada (IDRC), đã bước đầu thu thập nguồn gen dong riềng tại
nhiều vùng sinh thái trong cả nước, đây là cuộc thu thập có quy mô lớn nhất và rộng nhất
từ trước đến nay. Hiện tại Ngân hàng gen cây trồng quốc gia có 71 mẫu giống dong riềng
gồm cả địa phương và nhập nội từ CIP, tuy nhiên vẫn chưa khai thác hiệu quả tài nguyên
này do điều kiện kinh phí hạn hẹp chi đủ cho hoạt động bảo quản lưu giữ và đánh giá
ban đầu (Nguyễn Thị Ngọc Huệ và Cs, 2006) [8].
Hiện nay, tại khu vực miền núi phía Bắc đang có một số giống dong riềng, phổ biến
là giống DR1, DR3, DR70, V-CIP, VC... đều cho năng suất củ tươi đạt xung quanh 50tấn/ha.
Ngoài ra cũng còn một số giống bản địa nhưng năng suất thấp (Nguyễn Đức Hưng, 2012)
[10].


Kết quả nghiên cứu của Đỗ Thị Minh Hoa (2013) khi Nghiên cứu ảnh hưởng của
một số biện pháp kỹ thuật đến sinh trưởng và năng suất của cây dong riềng tại huyện Ba
Bể, Tinh Bắc Kạn, cho kết luận mức bón phân đạm là 110kgN, tương đương với 260kg
urê/1ha, dong riềng sinh trưởng phát triển tốt, cho năng suất và hiệu quả kinh tế cao nhất
[4].
Về kỹ thuật trồng dong riềng đạt năng suất cao, Sở Nông nghiệp và Phát triển
nông thôn tinh Bắc Kạn khuyến cáo: Thời vụ trồng dong riềng từ tháng 1 đến tháng 3
dương lịch, tốt nhất là tháng 2. Mật độ từ 1,6 – 2,5 vạn cây, hàng cách hàng
0,8 – 1 m, cây cách cây 0,5 – 0,6 m. Phân bón: 15 – 25 tấn phân hữu cơ + 200 – 400 kg
đạm + 500 – 650 kg lân + 200 kg kali. Phân hữu cơ và lân bón 1 lần trước khi trồng, phân
đạm bón 3 lần (trước trồng, sau trồng 1 và 4 – 5 tháng), kali bón 2 lần (sau trồng 1 và 4 – 5
tháng). Làm cỏ và vun gốc 3 lần (sau mọc 1, 2 và 4 – 5 tháng). Thu hoạch sau trồng 10- 11
tháng, nếu thu sớm củ non giảm năng suất và hàm lượng tinh bột, nếu thu muộn cây có
thể ra mầm mới làm giảm hàm lượng tinh bột [17].

Theo Nguyễn Thiếu Hùng (2012) [9], dong riềng có thể trồng quanh năm trừ những
tháng quá nóng hoặc quá rét, nhưng thích hợp nhất là từ tháng 2 đến tháng 5. Dong riềng
có thể trồng trên rất nhiều loại đất, từ đất bạc màu, đất đồi núi, đất mặn… nhưng tốt nhất
là đất xốp, nhiều mùn. Nếu trồng dong riềng trên đất đồi núi, đất đá, bãi thoát nước thì
không cần phải làm đất mà sau khi dọn cỏ, bổ hốc đường kính khoảng 20cm, sâu
khoảng 20 đến 25cm sau đó mới trồng. Trồng trên đất ruộng, vườn, bãi đọng nước thì
cần lên luống rộng 1,4 đến 2m; cao 15cm- 20cm và rãnh rạch ngang luống sâu khoảng
15cm. Mật độ trồng từ 4 đến 5 vạn cây/ha, khoảng cách khóm cách khóm là 45 đến
50 cm, hàng cách hàng: 50 cm, nếu trồng xen với ngô và đậu tương thì giảm mật độ trồng.
Lượng phân bón: 10 đến 15 tấn phân hữu cơ + 200 kg N + 100 kg P205 + 200 kg K2O chia
làm 3 lần. Bón lót 100% phân hữu cơ + 100% P205 + 1/3 N; sau trồng 1 tháng bón thúc
lần 1: 1/3 N + 1/2
K2O kết hợp với xới đất và vun nhẹ vào gốc; sau trồng 4 tháng bón lượng phân còn
lại kết hợp với vun cao gốc. Thu hoạch để ăn tươi sau khi trồng 6 đến 8 tháng, còn thu
hoạch để chế biến tinh bột phải sau trồng 10 đến 12 tháng.


Về thời điểm thu hoạch: Thích hợp nhất của cây dong riềng là khoảng 280 ngày
sau trồng. Thời gian này thu hoạch cây dong riềng đạt năng suất củ tươi và tỷ lệ tnh bột
và hiệu quả kinh tế cao nhất (Nguyễn Thị Lân và cs, 2014) [11].
Như vậy trên thế giới và ở Việt nam có rất ít các công trình nghiên cứu về cây
dong riềng đỏ, đặc biệt là chưa có nghiên cứu xây dựng quy trình canh tác tổng hợp và
bền vững cho vùng Trung du và miền núi phía Bắc. Vì vậy việc điều tra, thu thập, đánh giá
và tuyển chọn một số giống dong riềng có năng suất, chất lượng cao và quy trình kỹ thuật
phù hợp với những điều kiện sinh thái vùng Trung du và miền núi phía Bắc được coi là một
giải pháp quan trọng góp phần vào công tác xoá đói, giảm nghèo ở nông thôn miền núi
đồng thời từng bước phát triển sản xuất dong riềng, nhất là dong riềng đỏ tại vùng khô
hạn ở Việt Nam.
1.3. Tình hình nghiên cứu cây dược liệu
1.3.1. Tình hình nghiên cứu về dược liệu trên Thế giới

Từ ngàn xưa, trong quá trình hái lượm các loại cây cỏ để làm thức ăn, con người
đã phát hiện ra những cây cỏ có độc thì tránh; những cây cỏ ăn được thì sử dụng làm
lương thực, thực phẩm; những loại cây cỏ ăn vào khỏi bệnh thì dần được tích lũy thành
kinh nghiệm sử dụng làm thuốc và được truyền tụng từ đời này qua đời khác. Cùng với
sự tến hóa và phát triển của xã hội, kho tàng kiến thức về cây thuốc của nhân loại ngày
càng trở nên phong phú.
Năm 2838 TCN, Thần Nông đã biên soạn cuốn sách “Thần nông bản thảo”. Cuốn
sách có ghi chép về 364 vị thuốc và cách sử dụng. Đây là cuốn sách nền tảng cho sự phát
triển của nghành y học dược thảo Trung Quốc cho đến ngày nay.
Năm 1595, Lý Thời Trân đã tổng kết tất cả các kinh nghiệm về cây thuốc, kinh
nghiệm sử dụng và soạn ra cuốn “Bản thảo cương mục”. Đây là cuốn sách vĩ đại nhất của
Trung Quốc về lĩnh vực dược liệu, mô tả 1094 cây thuốc và vị thuốc từ cây cỏ.
Năm 348 – 322 TCN , Aristote người Hy Lạp đã có những ghi chép về cây cỏ của
Hy Lạp. Sau đó năm 340 Theophrate với tác phẩm “Lịch sử vạn vật” đã giới thiệu gần 480
loài cây cỏ và công dụng của chúng. Tuy tác phẩm chi mới dừng lại ở mô tả các đặc điểm
của cây cỏ, nhưng nó đã đặt nền tảng cho các khoa học nghiên cứu về thực vật sau này.


Năm 60 – 20 TCN, thầy thuốc Dioscorides người Hy Lạp đã mô tả 600 loài cây cỏ
chủ yếu để chữa bệnh, ông cũng là người đặt nền móng cho y dược học Hy Lạp.
Năm 79 – 24 TCN, nhà tự nhiên học Plinus người La Mã đã soạn thảo bộ sách “
Vạn vật học” gồm 37 tập, giới thiệu gần 1000 loài thực vật có ích.
Năm 1952, A.Petelot đã soạn thảo cuốn sách “Les plantes de médicinales du
Cambodye, du Laos et du Vietnam” gồm 4 tập đã giới thiệu về các loại cây thuốc và sản
phẩm làm thuốc ở Đông Dương.
Theo tài liệu của Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) năm 1985, trong tổng số khoảng
250.000 loài thực vật bậc thấp cũng như bậc cao đã biết, khoảng 20.000 loài được sử dụng
làm thuốc ở mức độ khác nhau. Trong đó, Ấn Độ được biết trên 6000 loài; Trung Quốc
trên 5000 loài; riêng về thực vật có hoa ở một vài nước Đông Nam Á đã có tới 2000
loài là cây thuốc.

Năm 2004, Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) đã có tài liệu hướng dẫn thực hành nông
nghiệp tốt đối với cây thuốc (Good Agricultural and Collection Practices - GACP). Tài liệu
đã đưa ra những hướng dẫn cụ thể từ chọn cây thuốc, chọn vùng trồng trọt thích hợp, kỹ
thuật trồng, chăm sóc, thu hoạch và bảo quản sau thu hoạch. Đây là một hướng dẫn và là
thước đo chất lượng sản phẩm dược liệu khi trở thành sản phẩm hàng hóa trên Thế giới.
Trung Quốc và Nhật Bản là hai nước đã dựa trên tài liệu hướng dẫn này để xây dựng
khung quy định chung cho sản xuất cây dược liệu, nhằm đưa cây dược liệu và các sản
phẩm dược liệu trở thành sản phẩm hàng hóa trên toàn Thế giới [25].
Trong vài thập kỷ gần đây, các nước trên thế giới đã đẩy mạnh việc nghiên cứu các
chế phẩm mới từ cây thuốc. Ở Mỹ, 25% các đơn thuốc được pha chế tại các cửa hàng
dược gồm các chất chiết từ cây cỏ, 13% từ các loài vi sinh và 3% từ động vật với nhu cầu
hàng tỷ USD/ năm. Ở Trung Quốc, có 940 xí nghiệp và xưởng sản xuất thuốc từ cây cỏ
với 6266 mặt hàng; doanh thu các thuốc từ cây cỏ chiếm
33,1% thị trường thuốc năm 1995; tổng giá trị xuất khẩu dược liệu và thuốc cổ truyền từ
năm 1997 đạt 600 triệu USD. Hiện nay, Trung Quốc có chủ trương đầu tư mạnh cho công
tác nghiên cứu dược liệu, đã tự túc được khoảng 90% nhu cầu thuốc trong nước, trong đó
thuốc sản xuất từ nguồn gốc thực vật chiếm ưu thế.


Như vậy, con người đã nghiên cứu về các loại cây thuốc từ rất lâu đời. Ban đầu,
những nghiên cứu về cây thuốc chi dừng lại ở mức mô tả các đặc điểm và cách sử dụng
theo kinh nghiệm cổ truyền. Ngày nay, khi khoa học kỹ thuật phát triển, đã có nhiều
nghiên cứu sâu hơn về hoạt chất chính có tác dụng trong cây thuốc, tạo sự tn tưởng cho
người bệnh khi sử dụng các sản phẩm thuốc có nguồn gốc từ cây cỏ.
1.3.2. Tình hình nghiên cứu về cây thuốc trong nước
1.3.2.1. Nguồn tài nguyên cây thuốc ở nước ta.
Nằm trong vành đai khí hậu nhiệt đới gió mùa, nước ta có nguồn tài nguyên thực
vật vô cùng phong phú và đa dạng. Theo GS.TS. Phạm Hoàng Hộ và GS.TS Nguyễn Nghĩa
Thìn, số lượng thực vật bậc cao có mạch đã thống kê được ở nước ta khoảng 10.500 loài,
dự đoán khoảng 12.000 loài. Trong đó các loài cây được sử dụng làm thuốc khoảng trên

3900 loài thuộc 307 họ thực vật
1.3.2.2. Cây thuốc trong y học cổ truyền
Nền y học cổ truyền Việt Nam có lịch sử phát triển từ rất lâu đời. Cộng đồng các
dân tộc Việt Nam có nhiều kinh nghiệm độc đáo trong việc sử dụng các loài cây cỏ để làm
thuốc. Từ xa xưa, ông cha ta đã biết sử dụng các loài cây thuốc sẵn có trong tự nhiên với
các phương pháp bào chế khác nhau để sử dụng chữa bệnh cho mọi người. Trải qua hàng
nghìn năm lịch sử, từ thế hệ trước truyền cho thế hệ sau đã đúc kết được các kinh
nghiệm từ thực tiễn lâm sàng, xây dựng nên lý luận về các phương pháp phòng và chữa
bệnh. Đồng thời còn dựa vào hệ thống Triết học phương Đông, vận dụng vào y học
để chữa bệnh phù hợp với điều kiện và hoàn cảnh của con người Việt Nam.
Từ thời Hồng Bàng và các Vua Hùng (2879 – 257 TCN), người dân đã có tục ăn
trầu và nhuộm răng đen với mục đích bảo vệ răng, làm chắc răng. Việc sử dụng gừng, tỏi,
ớt, sả làm gia vị trong các bữa ăn hàng ngày giúp tiêu hóa tốt, phòng trừ các bệnh đường
ruột.
Cuối thế kỷ III TCN, ở Nam Việt giao chi đã phát hiện và sử dụng các loại cây thuốc
để chữa bệnh như sắn dây, gừng, riềng, đậu khấu, ích trí, lá lốt, sả, quế, vông nem….


Dưới các thời phong kiến, các ty Thái y, viện Thái y đã hình thành để chữa bệnh
cho vua, quan và nhân dân. Dưới triều Trần, danh y Tuệ Tĩnh (Nguyễn Bá Tĩnh) đã nói
“Nam dược trị Nam nhân”, ông cũng đề xuất việc trồng cây thuốc và chữa bệnh trong
nhân dân. Ông đã biên soạn cuốn sách “Nam dược thần hiệu”, mô tả 499 vị thuốc và các
phương thuốc để chữa 184 bệnh. Năm 1717, “Nam dược thần hiệu” đổi tên thành “Hồng
nghĩa giác lĩnh tư y thư” gồm 590 vị thuốc.
Dưới triều đại nhà Lê, nổi bật trong nền y học nước nhà là danh y Hải
Thượng lãn ông – Lê Hữu Trác. Ông đã để lại nhiều kinh nghiệm quý báu trong sử dụng
các loại dược liệu chữa bệnh trong bộ sách “ Hải Thượng y tông tâm lĩnh” gồm 28 tập,
66 quyển.
Trong nền y học cổ truyền hiện đại, Đảng và Nhà nước rất quan tâm đến Y
học cổ truyền trong hệ thống các bệnh viện và cơ sở khám chữa bệnh.

Điều 49, chương III, Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (1992)
đã nêu rõ “ Phát triển và hoàn thiện hệ thống bảo vệ sức khỏe cho người dân trên cơ
sở kết hợp y học, dược học hiện đại với y học cổ truyền”.
Ngày 4/11/1955, Bộ y tế có công văn 9126 YD/PBCB hướng dẫn các địa phương
khai thác và sử dụng các loại thuốc Nam để chữa bệnh trong nhân dân.
Nghị định 238/TTg về việc thành lập Viện nghiên cứu Đông y; Thành lập các
vườn thuốc mẫu y học cổ truyền từ Trung ương đến các địa phương với mục đích giúp
cho sinh viên, học viên học tập, người dân biết cách nhận biết và sử dụng một số cây
thuốc nam để chữa bệnh.
Trên cơ sở chủ trương của Đảng, chính sách của Nhà nước, có nhiều công trình
nghiên cứu về các loài cây dược liệu trong dân gian để phục vụ công tác chữa bệnh, bảo
tồn và phát triển các loại cây thuốc, bài thuốc quý.
Năm 1963, Hội đồng Dược điển Việt Nam được thành lập để tổ chức công tác
xây dựng Dược điển Việt Nam và tiêu chuẩn hóa thuốc; Hội đồng Dược điển đã biên soạn,
trình Bộ Y tế bán hành 04 bộ Dược điển Việt Nam, xuất bản vào các năm
1971, 1990, 2002 và 2009. Dược điển Việt Nam tập xuất bản lần thứ 4 (năm 2009)
gồm 314 chuyên luận dược liệu và thuốc từ dược liệu.


×