Tải bản đầy đủ (.doc) (27 trang)

ĐẢNG bộ TỈNH bà rịa VŨNG tàu LÃNH đạo PHÁT TRIỂN KINH tế DU LỊCH từ năm 1991 đến năm 2015 tt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (198.85 KB, 27 trang )

1
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH

ĐINH VĂN AN

ĐẢNG BỘ TỈNH BÀ RỊA - VŨNG TÀU
LÃNH ĐẠO PHÁT TRIỂN KINH TẾ DU LỊCH
TỪ NĂM 1991 ĐẾN NĂM 2015

TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ
Chuyên ngành: LỊCH SỬ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
Mã số: 62 22 03 15

HÀ NỘI – Năm 2018


1

Công trình được hoàn thành tại
Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh

Người hướng dẫn khoa học:

1. PGS.TS. Đinh Quang Hải
2. TS. Lê Thị Minh Hạnh

Phản biện 1:………………………………………………………
……………………………………………………
Phản biện 2:…………………………………………………….....
……………………………………………………
Phản biện 3: ……………………………………………………….


……………………………………………………

Luận án sẽ được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận án cấp
Học viện họp tại Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh
vào hồi

giờ

ngày

tháng

năm 2018

Có thể tìm hiểu luận án tại thư viện: Thư viện Quốc gia,
Thư viện Học viện chính trị quốc gia Hồ Chí Minh,
Thư viện Viện Lịch sử Đảng


2

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài luận án
Khi xã hội càng phát triển, thì du lịch càng trở thành một ngành
kinh tế quan trọng trong chiến lược phát triển của mỗi quốc gia. Ở
Việt Nam, ngay từ những năm 1960, ngành Du lịch đã được ra đời,
đánh dấu nhận thức quan trọng của Đảng ta về triển vọng của một
“ngành công nghiệp không khói” này. Tuy nhiên, bên cạnh những
thành tựu đã đạt được, du lịch Việt Nam vẫn bộc lộ nhiều hạn chế,
bất cập khiến sự phát triển chưa tương xứng với tiềm năng, thế

mạnh và những đòi hỏi của đất nước.
Tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu từ lâu đã được biết đến và nổi tiếng là
một trong những điểm du lịch hấp dẫn của cả nước. Nhận thức rõ
tiềm năng và lợi thế của địa phương, ngay sau khi được thành lập
(1991), Đảng bộ và chính quyền tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu đã xác
định rõ du lịch là “ngành kinh tế tổng hợp”, có vị trí quan trọng
trong tổng thể nền kinh tế - xã hội của tỉnh.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh, kinh tế du lịch Bà Rịa - Vũng
Tàu mau chóng trở thành ngành kinh tế mũi nhọn đem lại nhiều lợi ích
thiết thực cho địa phương. Tuy nhiên, trên một số lĩnh vực trong phát
triển kinh tế du lịch còn bộc lộ các hạn chế, yếu kém và những bất cập,
đòi hỏi cần nghiên cứu và tổng kết cả về lý luận và thực tiễn để rút ra
những kinh nghiệm cho quá trình lãnh đạo phát triển.
Xuất phát từ thực tế nêu trên, với góc nhìn lịch sử, nghiên cứu
sinh chọn đề tài: “Đảng bộ tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu lãnh đạo phát
triển kinh tế du lịch từ năm 1991 đến năm 2015” làm luận án tiến sĩ.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích nghiên cứu
Nhằm làm sáng tỏ toàn diện quá trình Đảng bộ tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu lãnh đạo phát triển kinh tế du lịch từ năm 1991 đến năm
2015, góp phần cung cấp cơ sở khoa học cho việc định hướng phát
triển kinh tế du lịch của Đảng bộ tỉnh trong giai đoạn hiện nay.


3

2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Hệ thống khái quát hóa những chủ trương về phát triển du lịch
của Đảng bộ tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu từ năm 1991 đến năm 2015.
- Phân tích những thuận lợi, khó khăn, những nhân tố tác động
đến quá trình Đảng bộ tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu lãnh đạo phát triển

kinh tế du lịch từ năm 1991 đến năm 2015.
- Luận giải quá trình Đảng bộ tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu lãnh đạo,
chỉ đạo phát triển kinh tế du lịch từ năm 1991 đến năm 2015.
- Nhận xét khoa học về những thành tựu và hạn chế; rút ra
nguyên nhân; đúc kết những kinh nghiệm lãnh đạo phát triển kinh tế
du lịch giai đoạn 1991 - 2015 của Đảng bộ tỉnh.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận án tập trung nghiên cứu chủ trương, chính sách và tổ chức
chỉ đạo của Đảng bộ tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu phát triển kinh tế du lịch
từ năm 1991 đến năm 2015.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về nội dung: Nghiên cứu quá trình lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh
Bà Rịa - Vũng Tàu về phát triển kinh tế du lịch; công tác đào tạo
nguồn nhân lực, quy hoạch và quản lý Nhà nước, nâng cao hiệu quả
phục vụ; thu hút vốn đầu tư, nâng cao năng lực cạnh tranh thị trường
du lịch và sản phẩm du lịch.
- Về không gian nghiên cứu: Địa bàn tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu.
- Về thời gian nghiên cứu: Từ năm 1991 đến năm 2015.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
4.1. Cơ sở lý luận: Luận án dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa
Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối của Đảng Cộng sản
Việt Nam về phát triển kinh tế du lịch trong nền kinh tế quốc dân.
4.2. Phương pháp nghiên cứu: chủ yếu bằng phương pháp lịch
sử và logic, kết hợp với phương pháp phân tích, thống kê, tổng hợp,
phỏng vấn và tổng kết thực tiễn.


4


4.3. Nguồn tài liệu
- Các văn kiện của Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư và
Chính phủ về phát triển kinh tế du lịch trong thời kỳ đổi mới.
- Các văn kiện của Đảng bộ tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu; các nghị
quyết, quyết định, báo cáo của Tỉnh ủy, Ủy ban nhân dân tỉnh, các sở,
ban, ngành về phát triển kinh tế du lịch tỉnh từ năm 1991 - 2015.
- Các công trình nghiên cứu khoa học có liên quan đến đề tài.
5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài nghiên cứu
5.1. Ý nghĩa khoa học
- Góp phần làm sáng tỏ hơn một số vấn đề lý luận , chủ trương
của Đảng Cộng sản Việt Nam, của Đảng bộ tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu
về phát triển kinh tế du lịch trong giai đoạn 1991 - 2015.
- Bước đầu rút ra một số kinh nghiệm từ thực tiễn lãnh đạo của
Đảng bộ tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu về phát triển kinh tế du lịch.
5.2. Ý nghĩa thực tiễn
- Góp phần tổng kết thực tiễn, xác định rõ hơn nguyên nhân
thành công và hạn chế trong quá trình phát triển kinh tế du lịch trở
thành ngành kinh tế mũi nhọn của tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu.
- Đúc kết kinh nghiệm, góp phần vào quá trình lãnh đạo của
Đảng bộ tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu trong giai đoạn hội nhập hiện nay.
6. Những đóng góp khoa học của luận án
- Khái quát nguồn sử liệu về Đảng lãnh đạo phát triển kinh tế du
lịch tại một địa phương, cụ thể là tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu.
- Góp phần làm phong phú thêm lý luận lãnh đạo của Đảng về
phát triển kinh tế trên một lĩnh vực, một ngành (cụ thể là ngành kinh
tế du lịch) trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa và hội nhập quốc tế.
7. Kết cấu của luận án
Luận án gồm mở đầu; 4 chương, 10 tiết nội dung; kết luận, danh
mục tài liệu tham khảo và phụ lục.


Chương 1


5

TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
1.1. NHỮNG CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN
ĐỀ TÀI LUẬN ÁN

1.1.1. Các nghiên cứu chung về phát triển du lịch và kinh tế
du lịch ở Việt Nam
Những công trình sách tiêu biểu, gồm: Cuốn Du lịch và kinh
doanh du lịch của Trần Nhạn, Nxb. Văn hóa, 1996; Di tích Lịch sử Văn hóa và danh thắng Việt Nam của Dương Văn Sáu, Nxb. Đại học
Quốc gia Hà Nội, 2007; Thị trường du lịch của Nguyễn Văn Lưu,
Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội, 2009; Quy hoạch Du lịch của Bùi
Thị Hải Yến, Nxb. Giáo dục Việt Nam, 2010; Địa lý du lịch Việt Nam
của Nguyễn Minh Tuệ và các cộng sự, Nxb. Giáo dục Việt Nam,
2012; Du lịch cộng đồng của nhóm tác giả Bùi Thị Hải Yến và các
cộng sự, Nxb. Giáo dục Việt Nam, 2012; Kinh tế Du lịch của Vũ
Mạnh Hà, Nxb. Giáo dục Việt Nam, 2014; Văn hóa Du lịch của
Hoàng Văn Thành, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2014, Du Lịch
Việt Nam thời kỳ đổi mới là công trình nghiên cứu khoa học của
nhóm tác giả Trần Thị Minh Hoà và các cộng sự, Nxb. Đại học Quốc
gia, Hà Nội, 2015...
Một số công trình là luận án, luận văn, như: Luận án tiến sĩ kinh
tế của Vũ Đình Thuỵ, Những điều kiện và giải pháp chủ yếu để phát
triển du lịch Việt Nam thành ngành kinh tế mũi nhọn, Đại học kinh tế
Quốc dân, Hà Nội, 1996; luận án tiến sĩ kinh tế của Nguyễn Anh

Tuấn, Năng lực cạnh tranh điểm đến của du lịch Việt Nam Đại học
quốc gia Hà Nội, 2010; luận văn thạc sĩ lịch sử Đảng của Nguyễn
Văn Tài, Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo phát triển kinh tế du lịch
thời kỳ đổi mới (1986 - 2001), Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí
Minh, 2001;...
Ngoài ra, còn nhiều công trình khác được các nghiên cứu sinh, học
viên và các nhà khoa học tham gia nghiên cứu ở nhiều cơ sở đào tạo và đã
được bảo vệ thành công, được đăng tải trên các tạp chí chuyên ngành…


6

1.1.2. Các nghiên cứu về phát triển kinh tế du lịch ở các địa
phương, cơ sở
Luận án tiến sĩ kinh tế của Trần Thị Kim Dung, Một số giải pháp
hoàn thiện quản trị nguồn nhân lực trong các doanh nghiệp du lịch trên
địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh, Đại học kinh tế Thành phố Hồ Chí
Minh, 2001; luận án tiến sĩ kinh tế của Trương Sĩ Quý, Phương hướng và
một số giải pháp để đa dạng hóa loại hình và sản phẩm du lịch ở Quảng
Nam - Đà Nẵng, Đại học Kinh tế quốc dân, Hà Nội 2002; Luận án tiến sĩ
kinh tế (2007): Phát triển du lịch tỉnh An Giang đến năm 2020 của Mai
Thị Ánh Tuyết, Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh; luận án tiến sĩ
kinh tế của Nguyễn Tấn Vinh, Hoàn thiện quản lý Nhà nước về du lịch
trên địa bàn tỉnh Lâm Đồng, Đại học kinh tế quốc dân, Hà Nội, 2008;
luận án tiến sĩ kinh tế của Trần Xuân Ảnh, Thị trường du lịch Quảng Ninh
trong hội nhập kinh tế quốc tế, Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia
Hồ Chí Minh, 2011; luận án tiến sĩ kinh tế của Nguyễn Thị Hồng Lâm,
Kinh tế du lịch ở các tỉnh Bắc Trung Bộ trong hội nhập kinh tế quốc tế,
Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, 2013.
Luận văn thạc sĩ kinh tế của Dương Thế Vinh, Khai thác tiềm năng

phát triển du lịch Hà Nội trong giai đoạn hiện nay, Học viện Chính trị
quốc gia Hồ Chí Minh, 1996; Luận văn thạc sĩ kinh tế của Nguyễn Thị
Hóa, Kinh tế du lịch Thừa Thiên - Huế, tiềm năng và phương hướng phát
triển, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, 1997; luận văn thạc sĩ
lịch sử Đảng của Lê Trung Kiên, Đảng bộ tỉnh Kiên Giang lãnh đạo phát
triển du lịch từ năm 2001 đến năm 2010, Học viện Chính trị quốc gia Hồ
Chí Minh, 2012; luận văn thạc sĩ lịch sử của Đoàn Hải Đăng, Đảng bộ
tỉnh Quảng Ninh lãnh đạo phát triển Du lịch giai đoạn từ năm 2001 đến
năm 2010, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, 2014;...
1.1.3. Những công trình nghiên cứu nước ngoài
Managing Tourism (Quản lý Du lịch), của S.Medlik, Nxb. Butterworth
- Heinemann Ltd, 1991, tái xuất bản 1995; Marketing and Managing
Tourism Destinations (Tiếp thị và quản lý điểm đến) của Alastair M.
Morrison, Nxb. Taylor & Francis Ltd, 2013; Global Tourism - The next
decade (Du lịch toàn cầu - Thập kỷ tới) của William Theobald, Nxb.


7

Butterworth - Heinemann Ltd, 1994; Leisure and Tourism (Giải trí và Du
lịch) của John Ward, Phil Higson và William Campbell, Nxb. Stanley
Thomes Ltd, 1994; Kinh tế du lịch của Robert Lanquar, Nxb. Thế giới,
1993; Quy hoạch Du lịch của G.Cazes - R. Lanquar - Y. Raynouard, Nxb.
Đại học Quốc gia Hà Nội, 2000;...
1.1.4. Nhóm công trình nghiên cứu liên quan đến du lịch và
kinh tế du lịch tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu
Ngoài các công trình là lịch sử của Đảng bộ tỉnh và Đảng bộ các huyện,
thị, thành phố, có các cuốn sách tiêu biểu: Di tích, danh thắng Bà Rịa - Vũng
Tàu của Bảo tàng tổng hợp Bà Rịa - Vũng Tàu, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà
Nội, 1996; Sắc màu du lịch Bà Rịa - Vũng Tàu, Sở Du lịch tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu, 2006; Bà Rịa - Vũng Tàu 20 năm xây dựng và phát triển (1991 2011), Thư viện tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu, 2011;...

Một số luận án, luận văn, như: luận án tiến sĩ kinh tế của Vũ Văn
Đông, Phát triển Du lịch bền vững Bà Rịa - Vũng Tàu, Đại học kinh
tế Quốc dân Hà Nội, 2014; luận văn thạc sĩ của Nguyễn Thị Hiền,
Đảng bộ tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu lãnh đạo phát triển du lịch từ năm
2001 đến năm 2012, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, 2013.
Các công trình đăng trên các tạp chí khoa học và kỷ yếu hội thảo
gồm: Bài viết “Ngành du lịch Bà Rịa - Vũng Tàu ba năm thực hiện
Nghị quyết Đại hội tỉnh Đảng bộ lần thứ III” của Nguyễn Trọng Tín,
Tạp chí Kinh tế và Dự báo, số 4-2004; “Côn Đảo với mục tiêu trở
thành khu kinh tế du lịch - dịch vụ chất lượng cao” của Hoàng Nghĩa
Doãn, Tạp chí Kinh tế và Dự báo, số 17-2010; “Bà Rịa - Vũng Tàu
phát huy lợi thế, tập trung phát triển tốt các ngành du lịch của Trần
Minh Sanh, Tạp chí Cộng sản, số 788 (6-2008); “Đảng bộ tỉnh Bà
Rịa - Vũng Tàu lãnh đạo thực hiện phát triển kinh tế tư nhân 1996 2005” của Nguyễn Huy Phương, Tạp chí Lịch sử Đảng, số 9-2011...
Các bài kỷ yếu hội thảo với chủ đề: Nghiên cứu giải pháp đầu tư
và khai thác tiềm năng văn hóa phục vụ du lịch tỉnh Bà Rịa - Vũng
Tàu, do Phạm Quang Khải làm chủ nhiệm đề tài, 2005, lưu trữ tại Sở
khoa học và Công nghệ tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu; Nâng cao chất
lượng dịch vụ, đảm bảo môi trường du lịch tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu
trong thời kỳ hội nhập và phát triển, Kỷ yếu hội thảo do UBND tỉnh
Bà Rịa - Vũng Tàu tổ chức, 2015.


8

1.2. NHẬN XÉT VỀ KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ
NHỮNG NỘI DUNG LUẬN ÁN TIẾP TỤC LÀM RÕ
1.2.1. Kết quả nghiên cứu của các công trình đã được công bố
Các công trình nghiên cứu đã đề cập đến những vấn đề lý luận và
thực tiễn về phát triển kinh tế du lịch của Việt Nam và một số quốc

gia trên thế giới. Các tác giả đã góp phần làm rõ hơn nội hàm, vị trí
và tầm quan trọng của ngành kinh tế du lịch trong nền kinh tế quốc
dân; đánh giá thực trạng, đề xuất những giải pháp quản lý Nhà nước
với việc nâng cao chất lượng dịch vụ du lịch; các giải pháp liên kết
phát triển du lịch vùng, liên kết phát triển các loại hình du lịch; quy
hoạch, thu hút đầu tư; các vấn đề liên quan đến phát triển bền vững;...
Các công trình nghiên cứu về phát triển kinh tế du lịch ở các địa
phương cũng rất phong phú, cho thấy tầm quan trọng đặc biệt trong
vai trò lãnh đạo của các Đảng bộ tỉnh đối với một “ngành kinh tế mũi
nhọn” thúc đẩy phát triển các ngành kinh tế - xã hội của địa phương.
Dù ở các cấp độ khác nhau, chuyên ngành nghiên cứu khác nhau,
nhưng các công trình đã công bố đều là những nghiên cứu chuyên
sâu có giá trị khoa học và thực tiễn, giúp nghiên cứu sinh kế thừa
nguồn tư liệu và các vấn đề lý luận, phương pháp luận nghiên cứu
khoa học, xây dựng niềm tin trong quá trình hoàn thành luận án.
Tuy nhiên, đối với đề tài luận án của nghiên cứu sinh, vẫn còn những
“khoảng trống” khoa học mà chưa có công trình nào đề cập một cách toàn
diện, chuyên sâu theo hướng tiếp cận nghiên cứu lịch sử Đảng.
1.2.2. Những vấn đề luận án tiếp tục nghiên cứu làm rõ
Kế thừa kết quả nghiên cứu nêu trên, luận án hệ thống hóa rõ hơn
nguồn sử liệu thuộc lĩnh vực Đảng lãnh đạo phát triển kinh tế du lịch,
nhất là đối với những nội dung liên quan đến phát triển du lịch tỉnh
Bà Rịa - Vũng Tàu trong không gian chung của cả nước. Phân tích, đánh
giá các bước phát triển về nhận thức và kết quả đạt được trong công tác
lãnh đạo phát triển kinh tế du lịch của Đảng bộ tỉnh từ 1991 - 2015.
Thông qua quá trình nghiên cứu, rút ra những nhận xét, đúc kết
những kinh nghiệm, làm rõ hơn những yêu cầu cấp thiết từ thực tiễn
cần phải giải đáp về quá trình lãnh đạo của Đảng đối với nền kinh tế
nói chung và kinh tế du lịch nói riêng hiện nay từ góc nhìn lịch sử.



9

Chương 2
CHỦ TRƯƠNG VÀ SỰ CHỈ ĐẠO CỦA ĐẢNG BỘ
TỈNH BÀ RỊA - VŨNG TÀU PHÁT TRIỂN KINH TẾ
DU LỊCH TỪ NĂM 1991 ĐẾN NĂM 2005
2.1. NHỮNG YẾU TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN SỰ LÃNH ĐẠO
PHÁT TRIỂN KINH TẾ DU LỊCH CỦA ĐẢNG BỘ TỈNH BÀ RỊA
- VŨNG TÀU

2.1.1. Khái niệm về du lịch và kinh tế du lịch
Khái niệm về Du lịch: Luật Du lịch Việt Nam 2005 định nghĩa:
“Du lịch là các hoạt động có liên quan đến chuyến đi của con người
ngoài nơi cư trú thường xuyên của mình nhằm đáp ứng nhu cầu tham
quan, tìm hiểu, giải trí, nghỉ dưỡng trong một khoảng thời gian nhất
định (Điều 4, Chương 1). Với định nghĩa trên, đã hội tụ được nhiều
khái niệm của các nhà nghiên cứu và tổ chức du lịch; phản ánh rõ nội
hàm về một hoạt động xã hội có nhiều tính đặc thù, bao gồm nhiều
thành phần tham gia, tạo thành một tổng thể vừa mang đặc điểm của
ngành kinh tế vừa có đặc điểm của ngành văn hóa - xã hội.
Khái niệm về kinh tế du lịch: Từ điển Bách khoa Việt Nam định
nghĩa: “Kinh tế du lịch là một loại hình kinh tế có tính đặc thù, mang
tính dịch vụ và thường được xem như ngành công nghiệp không
khói, gồm có du lịch quốc tế và du lịch trong nước; có chức năng,
nhiệm vụ tổ chức, khai thác các tài nguyên và cảnh quan của đất
nước nhằm thu hút khách du lịch trong và ngoài nước; tổ chức buôn
bán, xuất nhập khẩu tại chỗ hàng hoá và dịch vụ cho du khách”.
Như vậy, du lịch, kinh tế du lịch là một dạng hoạt động tổng hợp.
Nếu đứng ở góc độ kinh tế, du lịch mang đặc điểm của một ngành

kinh tế; nếu đứng ở góc độ xã hội, du lịch lại có đặc điểm của một
ngành văn hóa, xã hội. Các quan niệm phổ biến ở nước ta hiện nay
được công nhận rộng rãi là quan niệm được trình bày trong Luật Du
lịch Việt Nam 2005.
2.1.2. Tiềm năng du lịch Bà Rịa - Vũng Tàu
Tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu có diện tích tự nhiên là 2.047,45 km 2,
được phân bổ thành 8 đơn vị hành chính, gồm 2 thành phố: Vũng Tàu
và Bà Rịa; 6 huyện: Long Điền, Đất Đỏ, Xuyên Mộc, Châu Đức, Tân


10

Thành và huyện đảo Côn Đảo. Toàn tỉnh có 82 xã, phường, thị trấn.
Địa hình tỉnh chia làm 4 vùng: bán đảo, hải đảo, vùng đồi núi bán
trung du và vùng thung lũng đồng bằng ven biển. Bà Rịa - Vũng Tàu
có nhiều cảnh quan tươi đẹp với nhiều danh lam thắng cảnh hiếm có
của cả nước, nhiều di tích lịch sử có giá trị, mang đậm tính nhân văn
sâu sắc với nhiều lợi thế hơn hẳn so với các tỉnh ven biển miền Bắc
và miền Trung, là những điều kiện thuận lợi phát triển kinh tế du lịch
một cách toàn diện, bền vững.
2.1.3. Thực trạng kinh tế du lịch Bà Rịa-Vũng Tàu
trước năm 1991
Trước khi được thành lập tỉnh (1991), kinh tế du lịch còn nhỏ
yếu, phát triển hạn chế trong khuôn khổ của đặc khu Vũng Tàu - Côn
Đảo (tiền thân của tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu ngày nay). Dưới sự lãnh
đạo của Đảng bộ Đặc khu, phát triển kinh tế du lịch bước đầu được
quan tâm, từng bước tạo dựng cơ sở vật chất, thu hút ngày càng tăng
lượng khách trong nước và quốc tế. Từ khi thành lập Đặc khu (tháng
5-1979) đến năm 1990, trung bình mỗi năm có 30 - 40 vạn lượt
khách du lịch, năm 1990 lên tới 70 - 80 vạn lượt khách với 10 đơn vị

kinh doanh du lịch, có gần 100 khách sạn, biệt thự gồm 3.155 phòng
ngủ, trong đó có hơn 1.000 phòng đủ tiêu chuẩn phục vụ khách quốc
tế. Ngoài ra, có hơn 70 nhà nghỉ, nhà khách của các tỉnh, đơn vị
Trung ương và hơn 500 nhà trọ bình dân của tư nhân. Tuy nhiên, hoạt
động du lịch của Đặc khu trong giai đoạn này vẫn còn ảnh hưởng bởi
cơ chế bao cấp, hầu như các hoạt động du lịch đều ít tính đến hiệu
quả kinh tế.
Du lịch nội địa chủ yếu chỉ phục vụ nghỉ dưỡng của cán bộ theo kế
hoạch. Năm 1990, việc phát triển du lịch bị giảm sút, đặc khu sắp xếp tổ
chức lại kinh doanh đối với một số công ty. Tập trung giải thể “Công ty
du lịch Vũng Tàu”, thành lập “Công ty dịch vụ Du lịch Vũng Tàu”,
thành lập mới Công ty Vũng Tàu Intourco…, đáp ứng nhu cầu du lịch
của xã hội, tạo nên sự cạnh tranh lành mạnh trong kinh doanh, mở ra
hướng mới trong tư duy về phát triển kinh tế du lịch.
Có thể nói, sự phát triển kinh tế du lịch trong giai đoạn này còn
nhiều khó khăn, nhưng là tiền đề quan trọng cho việc phát triển du lịch
của tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu từ sau khi được thành lập (1991) trở đi.


11
2.2. ĐẢNG BỘ TỈNH BÀ RỊA - VŨNG TÀU VẬN DỤNG CHỦ
TRƯƠNG CỦA ĐẢNG, LÃNH ĐẠO PHÁT TRIỂN KINH TẾ DU
LỊCH (1991 - 2005)

2.2.1. Một số chủ trương của Đảng về phát
triển kinh tế du lịch
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII (1991) của Đảng xác định:
“Du lịch là ngành kinh tế dịch vụ cần được đẩy mạnh phát triển trên
cơ sở khai thác sự hấp dẫn của thiên nhiên, di sản văn hóa phong phú
và các lợi thế khác của đất nước, mở rộng hợp tác với nước ngoài để

phát triển mạnh du lịch”. Cụ thể hóa chủ trương nêu trên, ngày
14/10/1994, Ban Bí thư Trung ương Đảng (khóa VII) đã ban hành
Chỉ thị số 46-CT/TW về lãnh đạo đổi mới và phát triển du lịch trong
tình hình mới, lần đầu tiên xác định: “Du lịch là ngành kinh tế tổng
hợp có tính liên ngành, liên vùng và xã hội hóa cao”.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII (1996) của Đảng có bước
nâng cao về nhận thức: “Phát triển kinh tế du lịch,… với mục tiêu:
Từng bước đưa nước ta trở thành trung tâm du lịch, thương mại dịch vụ có tầm cỡ trong khu vực”.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX (2001) của Đảng xác định
rõ hơn tầm quan trọng của ngành kinh tế du lịch: “Phát triển du lịch
thật sự trở thành một ngành kinh tế mũi nhọn; nâng cao chất lượng và
hiệu quả hoạt động trên cơ sở khai thác lợi thế về điều kiện tự nhiên,
sinh thái, truyền thống văn hóa, lịch sử, đáp ứng nhu cầu du lịch
trong nước và phát triển nhanh du lịch quốc tế”.
Năm 2005, Luật Du lịch ra đời, nêu rõ: “Phát triển du lịch bền
vững, theo quy hoạch, kế hoạch, bảo đảm hài hòa giữa kinh tế, xã hội
và môi trường; phát triển có trọng tâm, trọng điểm theo hướng du
lịch văn hoá - lịch sử, du lịch sinh thái; bảo tồn, tôn tạo, phát huy giá
trị của tài nguyên du lịch” .
Đó là những chủ trương cơ bản được phát triển trong quá trình
đổi mới tư duy lãnh đạo của Đảng. Du lịch từng bước được coi là
ngành kinh tế quan trọng trong nền kinh tế quốc dân và có vai trò
không nhỏ trong các hoạt động xã hội, an ninh - quốc phòng.


12

2.2.2. Chủ trương của Đảng bộ tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu về
phát triển kinh tế du lịch (1991 - 2005)
Ngay từ khi mới được thành lập, Đảng bộ tỉnh đã quan tâm phát

triển kinh tế du lịch. Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Bà Rịa - Vũng
Tàu lần thứ I (4-1992) xác định: “...Coi trọng cả du lịch quốc tế và du
lịch nội địa. Mở rộng liên doanh tạo nguồn du lịch trong và ngoài
nước. Tổ chức nhiều điểm du lịch với các loại hình du lịch phong
phú, khai thác có hiệu quả điều kiện tự nhiên các di tích lịch sử và
các sản phẩm du lịch hiện có…”. Tiếp đến, Đại hội đại biểu Đảng bộ
tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu lần thứ II (tháng 5-1996) chủ trương: “Quy
hoạch và đầu tư phát triển mạnh ngành du lịch thành ngành kinh tế
mũi nhọn của kinh tế địa phương. Tiếp tục mở rộng du lịch quốc tế,
đồng thời tạo cho được tiến bộ mới trong kinh doanh du lịch nội địa”.
Cụ thể hóa chủ trương của Đại hội Đảng bộ tỉnh, ngày 5/12/1998,
Ban Thường vụ Tỉnh ủy Bà Rịa - Vũng Tàu đã ban hành Nghị quyết
chuyên đề (số 17/NQ-TV) về phát triển du lịch đến năm 2000, nhận
định: “Phát triển đa dạng các loại hình du lịch trên địa bàn đã tạo
được tiến bộ mới trong kinh doanh du lịch nội địa; mở rộng dịch vụ
du lịch quốc tế”. Đồng thời, xác định rõ 6 nhiệm vụ chủ yếu phát
triển kinh tế du lịch trong thời gian tới. Đây là nghị quyết chuyên đề
đầu tiên của Đảng bộ tỉnh, thể hiện rõ sự quan tâm lãnh đạo, định
hướng, khai thác có hiệu quả tiềm năng du lịch trên địa bàn tỉnh.
Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu lần thứ III (12001) xác định: “Đến năm 2010, Bà Rịa - Vũng Tàu cơ bản trở thành
một trong những trung tâm công nghiệp, du lịch và khai thác hải sản
của khu vực và cả nước, một thương cảng quốc gia và quốc tế… mục
tiêu tăng trưởng tốc độ bình quân của ngành du lịch là 10,9%/năm”.
Như vậy, từ khi thành lập tỉnh đến năm 2005, Đảng bộ tỉnh Bà
Rịa - Vũng Tàu đã vận dụng sáng tạo chủ trương của Đảng vào điều
kiện thực tế của địa phương, với mục tiêu phát triển du lịch thành
ngành kinh tế mũi nhọn; là trung tâm du lịch của khu vực và cả nước.


13

2.3. ĐẢNG BỘ TỈNH BÀ RỊA - VŨNG TÀU CHỈ ĐẠO PHÁT
TRIỂN KINH TẾ DU LỊCH (1991 - 2005)

2.3.1. Chỉ đạo phát triển đồng bộ ngành du lịch
Về công tác quản lý phát triển du lịch
Thực hiện Nghị quyết số 45/CP của Chính phủ và Quyết định số
171/TTg ngày 17/4/1993 của Thủ tướng Chính phủ về việc thành lập
một số sở du lịch, Đảng bộ tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu chỉ đạo UBND
tỉnh xúc tiến việc thành lập Sở Du lịch, đáp ứng công tác quản lý về
mặt Nhà nước. Cơ cấu nhân sự gồm 30 cán bộ làm việc tại các
phòng: Quản lý du lịch, Văn phòng sở và Thanh tra, giúp cho các
hoạt động quản lý du lịch đi vào nền nếp. Bộ máy quản lý nhà nước
về du lịch từng bước được hoàn thiện; công tác thanh tra, giám sát
được tăng cường, đáp ứng yêu cầu phát triển du lịch trên địa bàn.
Về công tác quy hoạch phát triển du lịch
Thực hiện chủ trương của Đảng và chỉ đạo của Chính phủ, công
tác quy hoạch phát triển ngành du lịch được Đảng bộ tỉnh quan tâm,
coi đây là lĩnh vực quan trọng, đem lại hiệu quả cho ngành kinh tế du
lịch. Với nhiều nỗ lực, năm 1996, UBND tỉnh đã ban hành Quy
hoạch Tổng thể phát triển Du lịch tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu giai đoạn
1996 - 2000 là cơ sở quan trọng để kêu gọi đầu tư, phát triển. Việc
làm tốt công tác quy hoạch, tạo tiền đề quan trọng để xây dựng ngành
Du lịch phát triển bền vững.
Công tác đào tạo, phát triển nguồn nhân lực
Đảng bộ tỉnh đã tập trung chỉ đạo xây dựng kế hoạch đào tạo,
bồi dưỡng cán bộ: “Kết hợp đào tạo dài hạn, trung hạn và ngắn hạn;
nội dung chương trình gồm những vấn đề thiết thực về chính trị,
nghiệp vụ du lịch và an ninh kinh tế”. Vì thế, công tác đào tạo được
quan tâm đúng mức với nhiều giải pháp thiết thực, hiệu quả.
2.3.2. Chỉ đạo từng bước nâng cao chất lượng hoạt động các

loại hình du lịch
Căn cứ vào tiềm năng, thế mạnh của từng địa phương trong tỉnh,
Đảng bộ tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu thường xuyên quan tâm chỉ đạo cải
tiến các hoạt động du lịch, dịch vụ tại các tuyến, điểm du lịch. Tỉnh
đã phát triển khá ổn định các loại hình du lịch như du lịch sinh thái
cảnh quan, nghỉ dưỡng cuối tuần, du lịch văn hóa kết hợp thể thao.
Du lịch nghỉ dưỡng cuối tuần là loại hình chủ yếu, được quan tâm
tạo một môi trường nghỉ dưỡng đặc trưng của tỉnh.


14

2.3.3. Chỉ đạo tăng cường đầu tư cơ sở vật chất và phát triển
các loại hình dịch vụ du lịch
Tăng cường đầu tư cơ sở vật chất phục vụ du lịch
Năm 1996, toàn tỉnh mới có 65 khách sạn, 88 biệt thự với 1.314
phòng ngủ nội địa và 1.090 phòng đạt tiêu chuẩn quốc tế. Đến năm
2005 có 77 khách sạn, 13 khu du lịch nghỉ dưỡng với 3.628 phòng,
trong đó có 48 khách sạn và khu nghỉ dưỡng được xếp hạng từ đạt
tiêu chuẩn tối thiểu đến 4 sao với 2.312 phòng, trong đó có 14 khách
sạn, khu nghỉ dưỡng 3 và 4 sao, với 1.218 phòng. Đến cuối năm
2005, toàn tỉnh có 101 doanh nghiệp kinh doanh du lịch trên địa bàn,
trong đó doanh nghiệp Nhà nước trực thuộc các bộ, ngành Trung
ương có 14 doanh nghiệp, 9 doanh nghiệp Nhà nước do tỉnh quản lý,
12 doanh nghiệp hoạt động theo Luật đầu tư nước ngoài.
Đẩy mạnh phát triển các loại hình dịch vụ du lịch
Đảng bộ tỉnh tập trung chỉ đạo phát triển mạnh các loại hình du
lịch, với phương châm “đa dạng hoá các loại hình, sản phẩm du
lịch”. Trong đó, chú trọng loại hình vui chơi, giải trí hiện đại nhưng
mang dấu ấn văn hóa dân tộc, văn hóa của địa phương, kết hợp với

tắm biển và du lịch sinh thái. Nhờ đó, chất lượng, hiệu quả kinh tế
du lịch của tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu ngày càng nâng cao. Lượng
khách cả nội địa và quốc tế ngày càng tăng, doanh thu tăng hàng
năm, đóng góp quan trọng cho nền kinh tế của tỉnh.
Tiểu kết chương 2
Qua 15 năm (1991 - 2005), Đảng bộ tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu từng
bước xác định rõ các các loại hình du lịch có thế mạnh trong tỉnh,
khai thác hiệu quả tiềm năng của địa phương. Nhờ đó, kinh tế du lịch
của tỉnh đã đạt được nhiều kết quả đáng khích lệ, làm cơ sở nền tảng
để phát triển trong các giai đoạn sau.
Tuy còn nhiều khó khăn, hạn chế, nhưng với những kết quả đạt
được trong giai đoạn 1991 - 2005 đã khẳng định sự lãnh đạo, chỉ đạo
kịp thời, đúng hướng của Đảng bộ tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu. Thông
qua quá trình công tác, năng lực và tư duy lãnh đạo phát triển kinh tế
du lịch của Đảng bộ tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu được nâng lên. Đảng bộ
tỉnh đã giải quyết tốt mối quan hệ giữa phát triển du lịch với phát
triển kinh tế, văn hóa - xã hội, an ninh - quốc phòng, góp phần vào sự
nghiệp phát triển chung của tỉnh và đất nước.


15

Chương 3
ĐẢNG BỘ TỈNH BÀ RỊA - VŨNG TÀU LÃNH ĐẠO
ĐẨY MẠNH PHÁT TRIỂN KINH TẾ DU LỊCH
TỪ NĂM 2005 ĐẾN NĂM 2015
3.1. TÌNH HÌNH MỚI VÀ CHỦ TRƯƠNG CỦA ĐẢNG BỘ TỈNH
BÀ RỊA - VŨNG TÀU ĐẨY MẠNH PHÁT TRIỂN KINH TẾ DU LỊCH
( 2005 - 2015)


3.1.1. Tình hình mới tác động đến kinh tế du lịch
Nhận định rõ tình hình thế giới có những tác động rất lớn đến
phát triển kinh tế du lịch của cả nước nói chung và kinh tế du lịch
tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu nói riêng, Đại hội đại biểu lần thứ X của
Đảng (4-2006) xác định “Ưu tiên phát triển và hiện đại hoá các dịch
vụ tài chính, ngân hàng, viễn thông, thương mại, du lịch, đồng thời:
Xây dựng một số trung tâm du lịch lớn trong nước, gắn kết có hiệu
quả với các trung tâm du lịch lớn của các nước trong khu vực”. Tiếp
đến, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI (01- 2011) chỉ rõ: “...đa
dạng hóa các sản phẩm và các loại hình du lịch, nâng cao chất lượng
để đạt tiêu chuẩn quốc tế”. Các chủ trường của Đảng cũng cho thấy ý
nghĩa và tầm quan trọng của việc phát triển kinh tế du lịch: “nhằm
đảm bảo gia tăng nhanh về thu nhập, là chỉ tiêu đánh giá hiệu quả
kinh tế. Phát triển du lịch tạo động lực phát triển các ngành nông
nghiệp, công nghiệp, thương mại…”.
Như vậy, quan điểm coi du lịch là một ngành kinh tế tổng hợp là
bước tiến bộ mới trong nhận thức của Đảng. Tiếp đến, Đảng chủ
trương coi du lịch là ngành “kinh tế quan trọng” và hướng tới chủ
trương phát triển du lịch thành “ngành kinh tế mũi nhọn” là một quá
trình nhận thức sâu sắc của Đảng về vị trí, vai trò và tầm quan trọng
của kinh tế du lịch - một ngành “công nghiệp không khói” mang lại
nhiều hiệu quả cho đất nước.


16

3.1.2. Chủ trương của Đảng bộ tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu
Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu lần thứ IV
(2005 - 2010) xác định: “Đẩy mạnh đầu tư, hình thành đồng bộ các
khu du lịch ở Vũng Tàu; Long Hải; Bình Châu; Hồ Tràm và Hồ Cốc;

Núi Minh Đạm, Núi Dinh và Côn Đảo theo hướng phát triển các loại
hình du lịch nghỉ dưỡng, giải trí, du lịch sinh thái và du lịch lịch sử,
văn hóa”.
Cụ thể hóa Nghị quyết của Đảng bộ tỉnh, ngày 27/5/2008, Ban
Thường vụ Tỉnh ủy đã ban hành Nghị quyết số 05-NQ/TU về phát
triển kinh tế du lịch tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu đến năm 2010 và tầm
nhìn đến 2015. Nghị quyết số 05 đặt mục tiêu: “Đến năm 2015, Bà
Rịa - Vũng Tàu trở thành một trong những trung tâm du lịch nghỉ
dưỡng và giải trí lớn của cả nước và du lịch trở thành ngành kinh tế
mũi nhọn của tỉnh”.
Đại hội Đảng bộ tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu lần thứ V (2010 - 2015)
trên cơ sở kết quả đạt được đã đề ra chủ trương: “Xây dựng các loại
hình du lịch, các sản phẩm du lịch có tính cạnh tranh so với các địa
phương ven biển khác. Tập trung phát triển loại hình du lịch nghỉ
dưỡng, chữa bệnh; du lịch sinh thái; du lịch hội thảo, sự kiện...
Như vậy, từ năm 2005 đến năm 2015, Đảng bộ, chính quyền tỉnh
Bà Rịa - Vũng Tàu đã đề ra những chủ trương có tính đột phá trong
lãnh đạo phát triển kinh tế du lịch, từng bước cụ thể hóa sự chỉ đạo
của Trung ương vào điều kiện của tỉnh, khai thác tiềm năng, thế
mạnh đưa ngành du lịch từ điểm xuất phát thấp với nhiều khó khăn,
thách thức từng bước phát triển đem lại hiệu quả kinh tế rõ rệt.
3.2. ĐẢNG BỘ TỈNH BÀ RỊA - VŨNG TÀU CHỈ ĐẠO ĐẨY
MẠNH PHÁT TRIỂN KINH TẾ DU LỊCH ( 2005 - 2015 )

3.2.1. Đổi mới công tác quản lý Nhà nước, xây dựng quy
hoạch phát triển kinh tế du lịch
Về đổi mới công tác quản lý Nhà nước phát triển kinh tế du lịch
Xác định rõ, du lịch là ngành mang tính liên vùng, liên ngành và
xã hội hóa cao nên hoạt động của bộ máy quản lý Nhà nước về du



17

lịch cũng mang tính liên ngành, liên vùng rõ rệt. Đảng bộ tỉnh Bà Rịa
- Vũng Tàu tập trung chỉ đạo các cơ quan quản lý về du lịch của tỉnh
phối hợp với UBND các huyện, thành phố triển khai các văn bản luật
và các quy định khác liên quan đến hoạt động kinh doanh lưu trú cho
các tổ chức, cá nhân kinh doanh phòng trọ, phòng nghỉ trên địa bàn
các huyện, thành phố. Tăng cường kiểm tra các hoạt động kinh
doanh; chấn chỉnh các tồn tại về giá cả, trật tự trị an, vệ sinh môi
trường, an toàn thực phẩm. Công tác thanh tra, kiểm tra được thực
hiện thường xuyên hàng năm, đặc biệt là vào các đợt cao điểm về du
lịch như các ngày lễ, tết, hè... Nhờ đó, du lịch Bà Rịa - Vũng Tàu
ngày càng đi vào nền nếp.
Chú trọng công tác quy hoạch
Tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu được xem là địa bàn trọng điểm phát
triển du lịch của cả nước. Bám sát kế hoạch, quy hoạch, chiến lược
phát triển du lịch của Trung ương là cơ sở quan trọng để tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu xây dựng và triển khai thực hiện các quy hoạch của quốc
gia và của tỉnh. Đến năm 2011, toàn tỉnh đã có 8 quy hoạch chi tiết tỷ
lệ 1/2000. Các huyện Xuyên Mộc, Long Điền và thành phố Vũng Tàu
đã hoàn thành và phê duyệt quy hoạch tổng thể phát triển du lịch của
huyện đến năm 2020. Đặc biệt đối với Côn Đảo, đã được Chính phủ
xác định: “Phát triển Côn Đảo trở thành khu kinh tế - du lịch hiện
đại, đặc sắc tầm cỡ khu vực và quốc tế”; “phát triển du lịch biển - đảo
chất lượng cao, với những khu du lịch sinh thái đa dạng, hấp dẫn, khu
du lịch văn hóa - di tích lịch sử”.
Về công tác đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực
Nhằm nâng cao chất lượng công tác tổ chức hoạt động du lịch
mang lại hiệu quả kinh tế, Đảng bộ tỉnh thường xuyên quan tâm chỉ
đạo công tác đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực, đáp ứng nhu cầu

nhiệm vụ đề ra, nhất là đáp ứng các dự án đầu tư đang và sẽ hình
thành trong tương lai. Nhiệm vụ Đảng bộ tỉnh đề ra (Nghị quyết 05)
từ năm 2008 đến năm 2015 là xây dựng và thực hiện kế hoạch đào


18

tạo nguồn nhân lực cho “đội ngũ cán bộ quản lý, công nhân viên,
người lao động thuộc các doanh nghiệp du lịch trong tỉnh có đủ phẩm
chất, kiến thức về hội nhập, về lịch sử, văn hóa địa phương, pháp luật
quốc gia, luật pháp quốc tế và nghiệp vụ du lịch…
Ngoài đào tạo của Nhà nước, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp
tổ chức đào tạo, dạy nghề, thu hút các nhà đầu tư mở trường, mở
ngành đào tạo về du lịch”. Nhờ đó, nguồn nhân lực của ngành du lịch
của tỉnh ngày càng tăng nhanh. Đến năm 2015, tổng số nhân lực đang
làm việc trong ngành du lịch ước khoảng 16.520 người (tăng 9.288
người so với thời điểm năm 2006). Chủ trương của Đảng bộ tỉnh đã
mở ra một lộ trình tiến bộ trong công tác đào tạo, giảm mạnh các chi
phí của ngân sách.
3.2.2. Phát triển các loại hình du lịch và các sản phẩm du lịch
Đảng bộ tập trung chỉ đạo phát triển mạnh các loại hình du lịch
có thế mạnh của tỉnh, như: nghỉ dưỡng, giải trí, trú đông, du lịch sinh
thái và du lịch văn hóa. Trong quá trình lãnh đạo, chỉ đạo, Đảng bộ
tỉnh đánh giá rõ, cụ thể các loại hình du lịch để tập trung đầu tư phát
triển. Trong đó, xác định 3 loại hình du lịch tập trung là: du lịch nghỉ
dưỡng, chữa bệnh; du lịch sinh thái; du lịch hội thảo, sự kiện. Trên cơ
sở loại hình du lịch trọng tâm, Đảng bộ tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu đánh
giá đúng tiềm năng và lợi thế của các vùng, huyện, thành phố để tập
trung phát triển thành những sản phẩm du lịch đặc thù.
Với phương châm: “thỏa mãn nhu cầu của du khách”, các doanh

nghiệp du lịch hợp tác, liên kết khai thác thị trường, đa dạng hóa các
sản phẩm du lịch, phục vụ tối đa các đoàn khách đến tổ chức hội
thảo, hội nghị, kết hợp nghỉ dưỡng và vui chơi, giải trí, thăm quan
các điểm di tích trên địa bàn.


19

3.2.3. Tăng cường thu hút vốn đầu tư nước ngoài, phát triển
cơ sở hạ tầng và nâng cao năng lực cạnh tranh của du lịch Bà Rịa
- Vũng Tàu
Đầu tư là một lĩnh vực luôn được Đảng bộ tỉnh quan tâm không
chỉ trong chủ trương mà còn sát sao trong công tác chỉ đạo. Các dự
án về du lịch ngay từ khi được xây dựng đều phải dựa trên nguyên
tắc “tạo điều kiện thuận lợi để kêu gọi đầu tư”.
Đến tháng 12 năm 2015, trên địa bàn toàn tỉnh có 156 dự án đầu
tư du lịch, với tổng diện tích là 3.446,5 ha, tổng số vốn đăng ký đầu
tư là 35.123,9 tỷ đồng và 10.758 triệu USD, trong đó 18 dự án đầu tư
nước ngoài, tổng diện tích 1.272,1 ha, tổng vốn thực hiện là 742,3
triệu USD, đạt 6,92% trên tổng vốn đăng ký. Các dự án đầu tư hoạt
động có hiệu quả đã góp phần thúc đẩy kinh tế du lịch Bà Rịa - Vũng
Tàu từ năm 2005 đến 2015 tăng trưởng đạt 18%/năm, đóng góp đáng
kể vào GDP của địa phương.
3.2.4. Xây dựng môi trường du lịch văn minh, hiện đại; tăng
cường quảng bá, xúc tiến du lịch
Về công tác bảo vệ môi trường tự nhiên
Xác định rõ vệ sinh môi trường, giữ gìn trật tự trị an, ứng xử văn
minh có tầm quan trọng trong việc duy trì, phát triển du lịch trên địa
bàn, Đảng bộ tỉnh chỉ đạo các ngành, đơn vị triển khai hiệu quả các
nhiệm vụ, giải pháp về bảo vệ môi trường, đảm bảo phát triển bền

vững du lịch của tỉnh, nhất là trong điều kiện du lịch hội nhập ngày
càng cao. Qua đó, nhận thức pháp luật, ý thức trách nhiệm của các
cấp chính quyền, đoàn thể, các doanh nghiệp, tổ chức cá nhân và
cộng đồng dân cư trong việc bảo vệ môi trường được nâng cao, góp
phần xây dựng những điểm du lịch trên địa bàn “xanh, sạch, đẹp”.
Tăng cường công tác quảng bá, xúc tiến đầu tư
Công tác quảng bá, xúc tiến du lịch, là một trong những nhiệm
vụ quan trọng được Đảng bộ tỉnh quan tâm chỉ đạo thường xuyên


20

nhằm nâng cao hơn nữa uy tín, hình ảnh của du lịch Bà Rịa - Vũng
Tàu trên thị trường trong nước và quốc tế. Đảng bộ tỉnh đã chỉ đạo:
“Tăng thêm kinh phí đầu tư từ nguồn vốn ngân sách cho công tác xúc
tiến, tuyên truyền, quảng bá hình ảnh du lịch Bà Rịa - Vũng Tàu.
Huy động nguồn lực từ các doanh nghiệp du lịch thông qua Hiệp
hội du lịch và mở rộng các kênh thông tin để tuyên truyền quảng bá
các sản phẩm du lịch, loại hình du lịch của doanh nghiệp”; đồng thời,
tập trung xây dựng chiến lược marketing du lịch và quảng bá rộng rãi
thương hiệu du lịch Bà Rịa-Vũng Tàu. Nhiều hình thức tuyên truyền
quảng bá được thực hiện hiệu quả, vừa hỗ trợ doanh nghiệp quảng bá
thương hiệu, vừa làm phong phú lượng thông tin về du lịch về tỉnh
Bà Rịa - Vũng Tàu.
Tiểu kết chương 3
Từ việc xác định du lịch là ngành kinh tế quan trọng ở Đại hội
Đảng bộ tỉnh lần thứ IV, đến chủ trương phát triển ngành du lịch
thành ngành kinh tế mũi nhọn, xây dựng Bà Rịa - Vũng Tàu trở thành
trung tâm du lịch của khu vực và cả nước được đề ra tại Đại hội
Đảng bộ tỉnh lần thứ V, là những bước tiến quan trọng trong nhận

thức của Đảng bộ tỉnh.
Những thành tựu đạt được về phát triển kinh tế du lịch của Đảng
bộ tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu từ năm 2005 đến 2015, cho thấy năng lực
lãnh đạo, quản lý, điều hành của Đảng bộ, chính quyền và các sở, ban
ngành đoàn thể tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu là đúng hướng, phù hợp với
thực tiễn của địa phương, từng bước góp phần nâng cao chất lượng,
hiệu quả của ngành du lịch. Trong quá trình lãnh đạo phát triển kinh
tế du lịch, Đảng bộ tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu đã nhận được sự tham gia
tích cực của các tổ chức, các doanh nghiệp du lịch, của nhân dân tạo
nên sức mạnh tổng hợp lãnh đạo phát triển kinh tế du lịch, hoàn
thành mục tiêu nhiệm vụ đề ra. Kết quả đạt được là cơ sở, nền tảng
quan trọng cho việc thực hiện chiến lược phát triển của địa phương
trong giai đoạn tiếp theo.


21

Chương 4
NHẬN XÉT VÀ KINH NGHIỆM
4.1. NHẬN XÉT QUÁ TRÌNH ĐẢNG BỘ TỈNH BÀ RỊA - VŨNG
TÀU LÃNH ĐẠO PHÁT TRIỂN KINH TẾ DU LỊCH (1991 - 2015)

4.1.1. Ưu điểm
Một là, trên cơ sở quan điểm, chủ trương của Đảng, Đảng bộ tỉnh
Bà Rịa - Vũng Tàu vận dụng sáng tạo, phù hợp với tình hình thực tế,
lãnh đạo phát triển kinh tế du lịch của tỉnh ngày càng có hiệu quả.
Đảng bộ tỉnh nhận thức về vị trí, vai trò của kinh tế du lịch, kịp
thời hoạch định chủ trương, chính sách phát triển kinh tế du lịch phù
hợp với tiềm năng, thế mạnh của tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu. Phát huy
sức mạnh của hệ thống chính trị, các tổ chức xã hội, nhân dân vào

phát triển kinh tế du lịch, phản ánh được yêu cầu phát triển du lịch
trong tình hình mới, tiềm năng thế mạnh về du lịch của địa phương,
xu thế phát triển du lịch của thế giới và của đất nước ta.
Hai là, chỉ đạo tích cực, thực hiện đồng bộ các biện pháp, huy
động các nguồn lực, các thành phần kinh tế vào phát triển du lịch
Công tác quản lý Nhà nước về phát triển kinh tế du lịch ngày
càng đổi mới, có nhiều tiến bộ; Thu hút mọi nguồn lực, phát triển
sáng tạo các loại hình, sản phẩm, nâng cao chất lượng dịch vụ du
lịch; Môi trường du lịch tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu ngày càng sạch đẹp,
văn minh, hiện đại; Quảng bá, xúc tiến du lịch được đẩy mạnh, góp
phần quan trọng trong tăng trưởng kinh tế du lịch.
Ba là, kinh tế du lịch của tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu phát triển ngày
càng toàn diện, theo hướng bền vững
Quán triệt chủ trương của Đảng, vận dụng sáng tạo các chính sách
của Nhà nước về phát triển kinh tế du lịch, Đảng bộ tỉnh Bà Rịa - Vũng
Tàu đã bám sát thực tiễn đề ra các chủ trương sát đúng với tình hình
của địa phương. Điều đó được thể hiện qua Nghị quyết của Đảng bộ
tỉnh các nhiệm kỳ, từ Đại hội Đảng bộ lần thứ I (1992) đến Đại hội
Đảng bộ lần thứ VI (2015); đặc biệt là qua hai Nghị quyết chuyên đề


22

về phát triển du lịch (Nghị quyết số 17/NQ-TV về phát triển du lịch
đến năm 2000 và Nghị quyết số 05-NQ/TU về phát triển kinh tế du
lịch đến năm 2010 và tầm nhìn đến 2015. Nhận thức Đảng bộ tỉnh
ngày càng phát triển, hoàn thiện, phản ánh được yêu cầu phát triển du
lịch trong tình hình mới. Qua đó, phát huy được tiềm năng, thế mạnh
của địa phương, khai thác mạnh sự phát triển du lịch của thế giới và
trong nước, tạo sự phát triển bền vững kinh tế du lịch của địa phương.

* Nguyên nhân của thành công
Khách quan: Sự nghiệp đổi mới của Đảng ngày càng thu được
nhiều thắng lợi, nhiều chủ trương phát triển kinh tế du lịch của Đảng đi
vào cuộc sống tác động mạnh mẽ đến sự lãnh đạo của các địa phương.
Ngoài tiềm năng, lợi thế, Đảng bộ tỉnh luôn nhận được sự quan tâm
của Đảng, Chính phủ và các ngành chức năng của Trung ương.
Chủ quan: Sự vận dụng sáng tạo của Đảng bộ tỉnh các chủ
trương phát triển kinh tế du lịch của Đảng vào điều kiện cụ thể của
địa phương; sự chỉ đạo quyết liệt và sự tham gia tích cực của toàn hệ
thống chính trị. Công tác xã hội hóa được đề cao… mang lại hiệu quả
thiết thực trong kinh tế du lịch.
4.1.2. Một số hạn chế
Bên cạnh những ưu điểm vẫn còn có một số hạn chế, khuyết điểm:
Một là, về hoạch định chủ trương của Đảng bộ tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu có sự chuyển biến, ngày càng hoàn thiện nhưng chưa đồng
bộ và chưa đầy đủ. Quy hoạch các khu, điểm du lịch chưa hợp lý.
Công tác quy hoạch phát triển kinh tế du lịch triển khai thực hiện
chưa thu hút được các nguồn vốn lớn đầu tư trong và ngoài nước vào
phát triển kinh tế du lịch.
Hai là, trong chỉ đạo công tác quản lý Nhà nước về kinh tế du
lịch của Đảng bộ tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu còn những hạn chế, kết quả
đạt được chưa cao. Bộ máy quản lý nhà nước về du lịch thay đổi.
Ba là, loại hình du lịch và các sản phẩm du lịch tỉnh Bà Rịa - Vũng
Tàu vẫn còn thiếu hấp dẫn, sản phẩm du lịch còn thiếu tính đặc trưng.
* Nguyên nhân của hạn chế
Về khách quan: Là tỉnh mới được thành lập, xuất phát điểm thấp;
tình hình thế giới có nhiều vấn đề phức tạp ảnh hưởng đến công tác


23


lãnh đạo, phát triển du lịch của tỉnh; hệ thống chính sách, cơ chế pháp
luật, vẫn chưa hoàn chỉnh; sự kết nối vùng chưa chặt chẽ.
Về Chủ quan: Nhận thức của các cấp ủy chưa đồng đều, chưa thấy
hết tầm quan trọng của kinh tế du lịch; bộ máy quản lý còn nhiều bất
cập; sự gắn kết giữa các ngành còn thiếu chặt chẽ; một bộ phận nhân
dân còn thiếu năng lực trong tham gia các hoạt động du lịch.
4.2. MỘT SỐ KINH NGHIỆM
Thực tiễn quá trình Đảng bộ tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu lãnh đạo
phát triển kinh tế du lịch để lại một số kinh nghiệm quý:
4.2.1. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh, phát huy sức
mạnh của cả hệ thống chính trị và toàn xã hội trong quá trình phát
triển kinh tế du lịch.
4.2.2. Chú trọng công tác đào tạo, xây dựng nguồn nhân lực đáp
ứng các yêu cầu hội nhập và phát triển du lịch bền vững.
4.2.3. Chú trọng nâng cao chất lượng sản phẩm du lịch đặc trưng
của tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu; tăng cường công tác quảng bá, xúc tiến
du lịch nhằm thu hút du khách đến với tỉnh.
4.2.4. Đẩy mạnh đầu tư phát triển du lịch, huy động xã hội hóa,
tăng cường liên kết, hợp tác trong và ngoài nước về phát triển kinh tế
du lịch.
4.2.5. Phát triển kinh tế du lịch gắn với bảo đảm quốc phòng, an ninh

Tiểu kết chương 4
Đảng bộ tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu đã vận dụng linh hoạt, sáng tạo
chủ trương của Đảng vào điều kiện cụ thể của địa phương, lãnh đạo
phát triển kinh tế du lịch của tỉnh ngày càng có hiệu quả, đạt được
nhiều thành tựu quan trọng. Thông qua lãnh đạo, nhận thức của Đảng
bộ tỉnh về vị trí, vai trò và tầm quan trọng của ngành kinh tế du lịch
được nâng lên rõ rệt; Đảng bộ tỉnh kịp thời hoạch định các chủ
trương, chính sách, tranh thủ sự giúp đỡ của Trung ương, từng bước

kêu gọi đầu tư phát triển kinh tế du lịch phù hợp với tiềm năng, lợi
thế của tỉnh, kinh tế du lịch của tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu phát triển
ngày càng toàn diện, theo hướng bền vững.


24

KẾT LUẬN
1. Bà Rịa - Vũng Tàu là tỉnh có nhiều yếu tố thuận lợi ít nơi có
được để phát triển du lịch quanh năm. Khí hậu, tài nguyên biển, đảo
với nhiều bãi biển đẹp, nhiều di tích lịch sử văn hóa là tiềm năng lớn
để tỉnh tận dụng và phát huy, phát triển du lịch đem lại lợi ích thiết
thực cho xã hội.
Phát huy những kết quả đạt được trong lãnh đạo phát triển thời
kỳ Đặc khu Vũng Tàu - Côn Đảo, Đảng bộ tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu
từ rất sớm đã xác định phát triển kinh tế du lịch thành ngành kinh tế
mũi nhọn, phấn đấu trở thành trung tâm du lịch lớn của cả nước,
đánh dấu bước tiến quan trọng trong nhận thức của Đảng bộ tỉnh về
kinh tế du lịch.
Quá trình lãnh đạo thực hiện các nhiệm vụ đề ra, Đảng bộ tỉnh đã
tận dụng những yếu tố thuận lợi, tập trung chỉ đạo đổi mới công tác
quản lý Nhà nước, xây dựng quy hoạch phát triển kinh tế du lịch,
hình thành quy hoạch phát triển các khu du lịch trọng điểm của tỉnh;
tăng cường đào tạo nguồn nhân lực; đa dạng hoá các loại hình du
lịch, các sản phẩm du lịch; đầu tư khai thác các loại hình du lịch thế
mạnh, xây dựng sản phẩm du lịch độc đáo của tỉnh; thu hút vốn đầu
tư nước ngoài, phát triển cơ sở hạ tầng và nâng cao năng lực cạnh
tranh của du lịch...
2. Dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh, du lịch tỉnh Bà Rịa - Vũng
Tàu ngày càng phát triển. Nhiều chính sách của Đảng bộ, chính

quyền tỉnh đã huy động mọi nguồn lực, tăng đầu tư cho phát triển
kinh tế du lịch. Qua đó, ngày càng phát huy sức mạnh của hệ thống
chính trị, các tổ chức xã hội, nhân dân tham gia các hoạt động du
lịch. Môi trường du lịch ngày càng văn minh, phong phú và hấp dẫn.
Hình ảnh du lịch Bà Rịa - Vũng Tàu ngày càng trở nên thân thiện với
du khách trong nước và quốc tế. Nhiều sản phẩm du lịch trở thành


×