Tải bản đầy đủ (.docx) (5 trang)

Lại nói về khái niệm văn hóa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (71.6 KB, 5 trang )

Lại nói về khái niệm văn hóa
TS Phan Quốc Anh
Đã có hàng trăm bài viết, công trình nghiên cứu luận bàn về khái niệm hay định nghĩa
về văn hoá, nhưng cho đến nay, giới nghiên cứu khoa học, giảng dạy về văn hoá trong
nước cũng như trên thế giới vẫn chưa thống nhất được một khái niệm chung nhất.
Từng nhà khoa học, tác giả của từng cuốn sách nghiên cứu các lĩnh vực về văn hoá,
mỗi giảng viên lại tự đặt ra một khái niệm riêng cho mình để nghiên cứu và giảng dạy.
Mỗi thể chế chính trị, mỗi quốc gia, mỗi ngành khoa học xã hội nhân văn cũng có một
khái niệm về văn hoá riêng biệt. Nhiều nhà khoa học đi thống kê các khái niệm văn hoá
và có thể tìm thấy hàng vài trăm khái niệm và đi đến kết luận rằng khái niệm về văn hoá
được dùng rất tuỳ tiện.

Vào năm 1952, hai nhà nhân học người Mỹ là A. L. Kreber và K.Klaxon đã thu thập
được 164 cách định nghĩa khác nhau về thuật ngữ văn hoá. Trong cuốn “Triết học văn
hoá” M.S.Kagan thu thập được hơn 70 cách định nghĩa khác nhau. Tại Hội nghị về văn
hoá UNESCO tại Mêhicô năm 1982, người ta cũng đã đưa ra 200 định nghĩa về văn
hoá. Hiện nay thì số lượng khái niệm về văn hoá ngày càng tăng thêm đến vô vàn, khó
mà thống kê hết được. Tại sao vậy? Phải chăng văn hoá là một cái gì đó quá phức tạp
mà loài người (chủ thể của văn hoá) không thể tìm ra được một khái niệm chung nhất?
Có lẽ vì văn hoá là một hiện tượng trừu tượng, là cả một khối gồm rất nhiều khái niệm,
hầu như không thể bản thể hoá chúng được. Do tính phức tạp như vậy, chúng ta có thể
coi văn hoá là một hệ thống những khái niệm văn hoá, hoặc những thành tố của văn
hoá được tách riêng và hệ thống hoá. E.A Orlova đã đưa ra một mô hình hệ thống hoá
các khái niệm chính yếu của văn hoá. Nhưng mô hình ấy cũng không thể là mô hình
toàn diện và duy nhất vẫn bởi tính phức tạp, đa dang của văn hoá.

Qua quá trình tìm hiểu về văn hoá, có thể định vị một số dạng tiêu biểu của các
khái niệm về văn hoá và quy các dạng khái niệm về văn hoá như sau:


- Khái niệm văn hóa theo nghĩa rộng: là tất cả sự sáng tạo của con người


- Khái niệm theo nghĩa hẹp: Là những khái niệm theo một lĩnh vực nào đó mà nó được
gắn
với
chữ
văn
hoá
(trong
ngôn
ngữ
Việt
Nam).
Văn hoá theo nghĩa rộng nhất là khái niệm văn hoá bao gồm tất cả những sản phẩm
vật thể và phi vật thể do con người sáng tạo ra và mang tính giá trị. Theo khái niệm này,
có thể thấy văn hoá bao gồm cả vật chất và tinh thần, cả kinh tế lẫn xã hội. Có lẽ đây là
những
khái
niệm
theo
nghĩa
rộng
nhất
về
văn
hoá.
Một số khái niệm dù không theo nghĩa rộng như trên nhưng vẫn theo nghĩa rộng kiểu
như: Văn hoá là nền tảng tinh thần xã hội, văn hoá là tất cả đời sống tinh thần của con
người
v.v…
Đa số các nhà nghiên cứu, giảng dạy về văn hoá ở Việt Nam là những người được đào
tạo trong khối các nước Xã Hội Chủ Nghĩa trước đây. Vì vậy, khái niệm được sử dụng

nhiều nhất và gây ảnh hưởng nhiều nhất trong lý thuyết và áp dụng thực tiễn ở Việt
Nam

khái
niệm
văn
hoá
của
Liên

(cũ).
“Văn hóa là toàn bộ giá trị vật chất và tinh thần, được nhân loại sáng tạo ra trong quá
trình hoạt động thực tiễn lịch sử - xã hội; Các giá trị ấy nói lên trình độ phát triển của
lịch
sử
loài
người”
.
Đây là một khái niệm văn hoá theo nghĩa rộng, mang tính triết học, có phần nghiêng về
hoạt động sáng tạo trong lịch sử xã hội loài người, thiên về tính giá trị, được hình thành
trên cơ sở chủ nghĩa Mác - Lê nin. Trong cuốn “Cơ sở văn hoá Việt Nam:, GS Viện sĩ
Trần Ngọc Thêm (cũng học tập ở Liên Xô) đưa ra khái niệm:
“Văn hoá là một hệ thống hữu cơ các giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo
và tích lũy qua quá trình hoạt động thực tiễn, trong sự tương tác giữa con người với môi
trường
tự
nhiên


hội

”.

Có thể thấy hai khái niệm nêu trên có sự tương đồng. Theo đó, văn hoá được hình
thành từ khi con người biết sáng tạo (có nghĩa là văn hoá hình thành cùng với sự hình
thành loài người). Văn hoá là tất thảy những sản phẩm vật chất (văn hoá vật thể) và
tinh thần (văn hoá phi vật thể) do con người sáng tạo ra trong quá khứ, hiện tại. cả hai
khái niệm nêu trên đều gắn với chữ “giá trị”. Có nghĩa rằng, không phải tất cả những
sản phẩm con người sáng tạo ra đều là văn hoá mà chỉ những sản phẩm có chứa đựng
giá trị (là cái có ích cho con người). Cũng có nghĩa, những sản phẩm do con người làm
ra (sáng tạo ra) nhưng không mang tính giá trị thì không phải là văn hoá (ví dụ: bom hạt
nhân, heroin, chất độc hoá học, vũ khí giết người v.v…). Những danh lam thắng cảnh
như vịnh Hạ Long, động Phong Nha - Kẻ Bảng v.v… tuy không phải do con người làm
ra nhưng con người tìm ra và thưởng thức vẻ đẹp của nó (thưởng thức là một sáng
tạo)
cũng

văn
hoá.


Năm 1940, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết: "Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc
sống, loài người mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật,
khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt hằng ngày về ăn,
mặc, ở và các phương thức sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó tức là
văn hóa. Văn hóa là sự tổng hợp của mọi phương thức sinh hoạt cùng với biểu hiện
của nó mà loài người đã sản sinh ra nhằm thích ứng những nhu cầu đời sống và đòi
hỏi
của
sự
sinh

tồn".
Ở khái niệm trên, Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu lên một số những sản phẩm do con người
sáng tạo ra, trong đó có văn hoá vật thể (những công cụ cho sinh hoạt hàng ngày về
ăn, mặc, ở…), có văn hoá phi vật thể (ngôn ngữ, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn
giáo, văn học nghệ thuật). Chữ “giá trị” được ẩn dưới câu “Vì lẽ sinh tồn cũng như mục
đích của cuộc sống… nhu cầu đời sống và đòi hỏi của sự sinh tồn”. Những sản phẩm
do con người phát minh ra mà Chủ tịch Hồ Chí Minh liệt kê nêu trên phải là những sản
phẩm nhằm phục vụ cho con người, có nghĩa là chứa đựng những giá trị. Như vậy, Chủ
tịch Hồ Chí Minh đã đưa ra một khái niệm văn hoá theo nghĩa rộng.
Trong Hội nghị liên Chính phủ về các chính sách văn hoá họp năm 1970 tại Venise, ông
Federico
Mayor,
Tổng
giám
đốc
UNESCO
đưa
ra
khái
niệm:
"Đối với một số người, văn hóa chỉ bao gồm những kiệt tác tuyệt vời trong các lĩnh vực
tư duy và sáng tạo; đối với những người khác, văn hóa bao gồm tất cả những gì làm
cho dân tộc này khác với dân tộc khác, từ những sản phẩm tinh vi hiện đại nhất cho
đến tín ngưỡng, phong tục tập quán, lối sống và lao động".
Đây là khái niệm được đưa ra trong bối cảnh thế giới còn có sự phân biệt văn hoá dân
tộc lớn, dân tộc nhỏ, văn hoá dân tộc này cao, dân tộc kia thấp, văn hoá dân tộc này
văn minh, văn hoá dân tộc kia lạc hậu. Khái niệm nêu trên có ý nghĩa chính trị rất lớn về
việc khẳng định mỗi dân tộc có bản sắc riêng. Quan điểm này càng được khẳng định tại
Tại Hội nghị quốc tế về văn hóa ở Mêhicô để bắt đầu thập kỷ văn hoá UNESCO. Hội
nghị này có hơn một nghìn đại biểu đại diện cho hơn một trăm quốc gia tham gia từ

ngày 26/7 đến 6/8 năm 1982, người ta đã đưa ra trên 200 định nghĩa. Cuối cùng Hội
nghị chấp nhận một định nghĩa như sau:

“Trong ý nghĩa rộng nhất, văn hóa là tổng thể những nét riêng biệt về tinh thần và vật
chất, trí tuệ và xúc cảm quyết định tính cách của một xã hội hay của một nhóm người
trong xã hội. Văn hóa bao gồm nghệ thuật và văn chương, những lối sống, những


quyền cơ bản của con người, những hệ thống các giá trị, những tập tục và tín ngưỡng”.
Khái niệm trên vừa nói đến văn hoá vật chất và văn hoá tinh thần, vừa nói đến hệ giá trị
và đặc biệt là nêu lên “những nét riêng biệt về văn hoá của một xã hội hay một nhóm
người trong xã hội”. Như vậy, khái niệm trên cũng là khái niệm văn hoá theo nghĩa
rộng, kèm theo đó là quan điểm công nhận mỗi dân tộc dù lớn hay nhỏ đều có bản sắc
văn
hoá
riêng
biệt.
Văn hoá theo nghĩa hẹp gồm những khái niệm gắn từ “văn hoá” với một chuyên ngành
nào đó. Ví dụ: văn hoá dân gian, văn hoá bác học, văn hoá tôn giáo, văn hoá giao tiếp,
văn hoá xã hội. văn hoá chính trị, văn hoá ứng xử (giao tiếp), văn hoá nghệ thuật, văn
hoá giáo dục (học vấn), văn hoá kinh doanh, dân tộc học văn hoá, nhân học văn hoá,
địa văn hoá, sử văn hoá, triết học văn hoá, xã hội học văn hoá v.v…
Còn đối với những khái niệm văn hoá theo nghĩa hẹp, những từ được gắn với từ “văn
hoá” sẽ chiếm vị trí chính yếu trong khái niệm đó. Ví dụ khái niệm “văn hoá nghệ thuật”
hay “văn học nghệ thuật” là khái niệm văn hoá gắn với việc sáng tạo, hưởng thụ và phê
bình các chuyên ngành văn hoá nghệ thuật như âm nhạc, mỹ thuật, sân khấu, điện ảnh
v.v…; Khái niệm “văn hoá tư tưởng” là khái niệm gắn với thể chế chính trị và công tác lý
luận; Khái niệm “văn hoá giao tiếp” nói đến mối quan hệ ứng xử giữa người với người;
Khái niệm “sử văn hoá” nói đến quá trình hình thành và phát triển của một nền văn hoá
theo trục thời gian và trong không gian; Khái niệm “địa văn hoá” nói đến điều kiện địa lý

khí hậu trong một không gian nhất định ảnh hưởng đến một nền văn hoá nào đó v.v…

Ngày nay, các ngành nghiên cứu khoa học xã hội ngày càng phát triển. Trong đó có
Văn hoá học. Văn hoá học như là một ngành khoa học tổng hợp bởi tính chất liên
ngành của nó, thể hiện đầy đủ bản chất vừa phong phú, vừa phức tạp của văn hoá.
Mặc dù là một khoa học liên ngành nhưng khi nghiên cứu, tuỳ theo từng đối tượng,
phạm vi nghiên cứu để nhà nghiên cứu định ra một hoặc hai ngành trung tâm. Ví dụ
như nghiên cứu về lễ hội thì phải lấy ngành văn hoá dân gian làm trung tâm, nghiên
cứu về đời sống tâm linh của người Kh’me thì phải lấy ngành văn hoá tôn giáo làm
trung tâm, nghiên cứu về lý luận văn hoá thì phải lấy văn hoá chính trị làm trung tâm
v.v…
Mặc dù khoa học nghiên cứu văn hoá đã hình thành từ vài trăm năm nay và ngày càng
phát triển, nhưng cho đến nay vẫn chưa có một khái niệm văn hoá chung nhất, được
thống nhất cao nhất. Tổ chức cao nhất về văn hoá của nhân loại là UNESCO đã nhiều
lần đưa ra những khái niệm về văn hoá (như khái niệm năm 1982) nhưng cũng chưa


phải là khái niệm được toàn thế giới chấp nhận. Với tính chất vừa phong phú, vừa phức
tạp của văn hoá, để tìm ra một khái niệm văn hoá chung cho tất cả các nhà nghiên cứu
khoa học văn hoá là điều khó có thể có được. Khái niệm về văn hoá của Liên Xô (cũ)
được ghi trong Từ điển triết học - Nxb Chính trị Matxcova – 1972, với sự phân tích ở
trên, có lẽ đây là một trong những khái niệm chung nhất. Tuy nhiên, để khái niệm vừa
có tính kế thừa, vừa có tính khái quát cao hơn nữa, theo quan điểm cá nhân tôi, có thể
đi đến một khái niệm rộng nhất: “Văn hoá là toàn bộ những gì do con người sáng tạo ra
có tính giá trị”. Thực ra, việc đưa những khái niệm “giá trị vật chất và tinh thần” trong
khái niệm của Liên Xô cũng như của GS Trần Ngọc Thêm là sự phân chia theo cấu trúc
của văn hoá (văn hoá vật chất, văn hoá tinh thần, văn hoá vật thể, văn hoá phi vật thể),
vì vậy, có thể “rút gọn” thành “những gì do con người sáng tạo ra” là đủ.
Bài viết này chỉ là những suy nghĩ, quan điểm của một cá nhân về vấn đế khái niệm văn
hoá, rất mong bạn đọc gần xa, các nhà nghiên cứu, giảng dạy và hoạt động văn hoá

tham
gia
góp
ý

cùng
trao
đổi,
bàn
bạc.
TS Phan Quốc Anh



×