Tải bản đầy đủ (.pdf) (103 trang)

Công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức ngành xây dựng tại học viện cán bộ quản lý xây dựng và đô thị

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.45 MB, 103 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN THỊ XUÂN HƯƠNG

CÔNG TÁC ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG CÔNG CHỨC, VIÊN
CHỨC NGÀNH XÂY DỰNG TẠI
HỌC VIỆN CÁN BỘ QUẢN LÝ XÂY DỰNG VÀ ĐÔ THỊ
Chuyên ngành: Chính sách công
Mã số: 834.04.02

LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH SÁCH CÔNG

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
PGS.TS Nguyễn Hữu Tri

HÀ NỘI, 2018

HÀ NỘI - năm


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết
quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nghiên cứu nào
khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận băn đảm bảo tính chính xác, tin cậy
và trung thực.
Người cam đoan

NGUYỄN THỊ XUÂN HƯƠNG




MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN THỰC
HIỆN CHÍNH SÁCH ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG CÁN BỘ, CÔNG
CHỨC Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
1.1. Một số khái niệm cơ bản
1.2. Quan điểm của Đảng và Nhà nước về vai trò và yêu cầu tầm quan trọng

1
7

7
9

của thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức
1.3. Nội dung tổ chức thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công
chức

13

1.4. Những điều kiện đảm bảo thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán

19

bộ, công chức.
1.5 Kinh nghiệm về thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công

22


chức ở một số nước và bài học đối với Việt Nam.
Chương 2: THỰC TRẠNG CÔNG TÁC ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG CÁN
BỘ, CÔNG CHỨC, VIÊN CHỨC NGÀNH XÂY DỰNG TẠI HỌC
VIỆN CÁN BỘ QUẢN LÝ XÂY DỰNG VÀ ĐÔ THỊ
2.1 Giới thiệu chung về học viện.
2.2 Tình hình tổ chức, thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công
chức ở học viện qua giai đoạn 5 năm 2013-2017.
2.3 Đánh giá chung.
Chương 3: PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP ĐỔI MỚI CÔNG TÁC
ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG CÁN BỘ, CÔNG CHỨC, VIÊN CHỨC
NGÀNH XÂY DỰNG TẠI HỌC VIỆN CÁN BỘ QUẢN LÝ XÂY
DỰNG VÀ ĐÔ THỊ
3.1. Phương hướng đổi mới công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức,
viên chức ngành Xây dựng trong giai đoạn 2018 – 2020 và tầm nhìn 2030
3.2 Một số giải pháp và kiến nghị trong công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ,
công chức, viên chức tại Học viện Cán bộ quản lý xây dựng và đô thị
KẾT LUẬN
TÀI LIỆU THAM KHẢO

PHỤ LỤC

31

31
41
51
61

61

64

74
76
78


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

CBCC

Cán bộ, công chức

CCHC

Cải cách hành chính

ĐTBD

Đào tạo, bồi dưỡng

HVCBXD

Học viện Cán bộ quản lý xây dựng và đô thị

QLNN

Quản lý nhà nước

XHCN


Xã hội chủ nghĩa


DANH MỤC CÁC BIỂU BẢNG

Nội dung bảng

Trang

Bảng 2.1 Mô hình tổ chức của Học viện

32

Bảng 2.2 Chất lượng nguồn nhân lực của Học viện;

36

Bảng 2.3 Tổng hợp kết quả phiếu điều tra của học viên tham gia học

48

theo Đề án 1961 và 1956 của Thủ tướng chính phủ trong năm 2017;
Bảng 2.4. Kết quả tổng hợp số người được đào tạo, bồi dưỡng phân theo

48

đối tượng khóa học qua các năm;
Bảng 2.5. Bảng tổng hợp kết quả nghiên cứu khoa học trong 5 năm từ
2013 -2017 của Học viện Cán bộ quản lý xây dựng và đô thị.


55


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Bất kỳ quốc gia nào cũng phải quan tâm đến việc xây dựng đội ngũ cán bộ,
công chức (CBCC) để thực hiện chức năng quản lý nhà nước (QLNN), cung cấp
dịch vụ một cách hiệu quả, hiệu suất và chất lượng. Xuất phát từ góc độ lý luận cán
bộ là nhân tố quyết định sự thành công hay thất bại của cách mạng, gắn liền với vận
mệnh của Đảng, của đất nước và chế độ. Có thể thấy rõ nếu đội ngũ cán bộ công
chức còn hạn chế, yếu kém thì hiệu lực, hiệu quả QLNN sẽ có nhiều bất cập. Không
chỉ trong hoạt động của bộ máy nhà nước mà kéo theo nhiều hệ lụy cho phát triển
kinh tế - xã hội khiến quốc gia ngày càng tụt hậu do khả năng cạnh tranh ở mọi lĩnh
vực giảm sút, nhất là trong bối cảnh nước ta hội nhập ngày càng sâu rộng với thế
giới. Đây là khẳng định về phương diện lý luận cực kỳ quan trọng đã được Đảng và
Nhà nước ta luôn quan tâm, đặc biệt là trong giai đoạn đẩy mạnh cải cách hành
chính (CCHC) nhà nước nhằm xây dựng đội ngũ CBCC chuyên nghiệp trong thời
kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, nhất là thời điểm bắt đầu thời kỳ cách
mạng 4.0 với trí thông minh nhân tạo, internet vạn vật…
Hội nghị lần thứ 9, Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa X tổng kết 10
năm về việc thực hiện “Chiến lược cán bộ, thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước” khi đánh giá về chất lượng đào tạo, bồi dưỡng CBCC thời gian qua đã chỉ
rõ: việc đào tạo, bồi dưỡng (ĐTBD) còn “….nặng về ĐTBD lý luận chính trị, nhẹ
về ĐTBD chuyên môn, nghiệp vụ, kiến thức QLNN, ngay cả trong đào tạo về
chuyên môn nghiệp vụ cũng thiếu cân đối. Hình thức, nội dung ĐTBD chậm đổi
mới, thời gian học tập còn dài, nặng về trang bị lý luận, thiếu thực tiễn, chưa chú
trọng bồi dưỡng, cập nhật kiến thức mới, khả năng thực hành, xử lý tình huống và
yếu về đào tạo theo chức danh” … “nhiều người đi học nặng về bằng cấp, nhẹ kiến
thức, học chỉ để thực hiện tiêu chuẩn hóa cán bộ mà không thiết thực phục vụ công

việc đang làm, dẫn đến mâu thuẫn giữa bằng cấp với trình độ, năng lực thực
tiễn…”.

1


Trên cơ sở đó Hội nghị đã xác định: “Mục tiêu cần đạt được là xây dựng đội
ngũ cán bộ có bản lĩnh chính trị vững vàng, phẩm chất và năng lực tốt, có cơ cấu
phù hợp với chiến lược phát triển kinh tế - xã hội và bảo vệ tổ quốc…” cũng chỉ ra
nhiệm vụ phải: “tạo chuyển biến sâu sắc trong công tác ĐTBD cán bộ theo quy
định, theo tiêu chuẩn chức danh CBCC, chú trọng bồi dưỡng cập nhật kiến thức mới
cho cán bộ làm lãnh đạo quản lý, coi đây là giải pháp hàng đầu trong thực hiện
chiến lược cán bộ trong giai đoạn mới”.
Cho đến nay nhìn lại chặng đường ĐTBD CBCC đã qua, có thể nói công tác
này có những bước tiến đáng ghi nhận, góp phần nâng cao chất lượng cũng như quy
mô ĐTBD đối với đội ngũ CBCC, bước đầu tạo chuyển biến trong hoạt động
QLNN theo hướng tích cực. Tuy nhiên, công tác ĐTBD CBCC cũng bộc lộ những
hạn chế, yếu kém, chưa đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ QLNN minh bạch, hiệu
lực, hiệu quả như kỳ vọng cũng như yêu cầu mà Đảng và Nhà nước đặt ra, đó là
điều được nêu ra khi đánh giá về đội ngũ CBCC trong chương trình tổng thể CCHC
nhà nước giai đoạn 2001 – 2010. Tình hình thực trạng nền hành chính đã chỉ rõ:
“Đội ngũ CBCC còn nhiều điểm yếu về phẩm chất, tinh thần trách nhiệm, năng lực
chuyên môn, kỹ năng hành chính, phong cách làm việc còn chậm đổi mới, tệ quan
liêu, tham nhũng, sách nhiễu nhân dân tiếp tục diễn ra nghiêm trọng trong một bộ
phận CBCC” 20.
Trong bối cảnh chung như trên của nền hành chính, của đội ngũ CBCC, việc
thực hiện chính sách ĐTBD CBCC ngành Xây dựng cũng mang những đặc điểm,
tính chất tương đồng, không khỏi có những hạn chế.
Trong thực tiễn QLNN ở lĩnh vực xây dựng và quản lý đô thị, thể hiện hạn
chế, yếu kém của đội ngũ CBCC càng bộc lộ rõ cả phẩm chất, bản lĩnh nghề nghiệp,

đạo đức cũng như kiến thức và kỹ năng quản lý chuyên ngành
Luận văn nghiên cứu đề tài: “Công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức,
viên chức ngành Xây dựng tại Học viện Cán bộ quản lý xây dựng và đô thị” sẽ góp
phần đề ra giải pháp thực hiện chính sách ĐTBD CBCC được kịp thời, phù hợp và
chất lượng nhằm đạt được kết quả cao như kỳ vọng đặt ra trong việc xây dựng đội
ngũ CBCC ngành Xây dựng ở nước ta.

2


2. Tình hình nghiên cứu của đề tài
Việc nghiên cứu thực hiện chính sách ĐTBD CBCC đã được nhiều công
trình nghiên cứu và bài viết ở nhiều góc độ khác nhau thuộc nội dung của chính
sách ĐTBD CBCC. Luận văn điểm qua một số công trình nghiên cứu đề tài cấp Bộ
như sau:
Nguyễn Trọng Điều (2012) Tổ chức khoa học công tác đào tạo, bồi dưỡng
CBCC Nhà nước trong thời kỳ đổi mới; Trần Quang Minh (2012) Công tác đào tạo,
bồi dưỡng công chức hành chính Nhà nước thời kỳ công nghiệp hóa và hiện đại hóa
đất nước; Nguyễn Hữu Tám (2012) Cơ sở khoa học xây dựng đội ngũ giảng viên
đào tạo, bồi dưỡng CBCC đáp ứng yêu cầu CCHC; Nguyễn Thanh Xuân (2012) Cơ
sở lý luận và thực tiễn của việc đào tạo, bồi dưỡng tiếng dân tộc cho CBCC và cán
bộ cơ sở ở các địa phương vùng đồng bào dân tộc; Nguyễn Thanh Xuân (2013) Cơ
sở khoa học của việc đào tạo, bồi dưỡng theo vị trí việc làm đối với công chức
ngành Nội vụ; Vũ Thanh Xuân (2013) Nghiên cứu đào tạo, bồi dưỡng theo vị trí
chức danh; Nguyễn Ngọc Vân (2014) Nghiên cứu hệ thống tiêu chí đánh giá chất
lượng đào tạo, bồi dưỡng CBCC. Ngoài ra còn nhiều công trình nghiên cứu ĐTBD
CBCC theo nhóm đối tượng CBCC cấp xã, CBCC cấp huyện, tỉnh…
Các góc độ nghiên cứu đa dạng từ cách thức khoa học ĐTBD; các hình thức
ĐTBD CBCC theo vị trí chức danh lãnh đạo, quản lý; theo vị trí làm việc, về kiến
thức kỹ năng chuyên ngành; đánh giá chương trình ĐTBD…

Những nghiên cứu này đã chỉ ra được khá sâu sắc những tích cực cũng như
hạn chế trong tổ chức thực hiện chính sách ĐTBD CBCC, viên chức, từ đó rút ra
được một số vấn đề lý luận, thực tiễn và đề xuất, khuyến nghị một số giải pháp
nhằm nâng cao chất lượng ĐTBD CBCC, viên chức.
Dù các công trình nghiên cứu và bài viết có một số kết luận có giá trị (tuy
chưa toàn diện và hệ thống) trong ĐTBD CBCC nhưng một số điểm yếu cốt tử
trong ứng dụng của nền hành chính nước ta nói chung, của lĩnh vực ĐTBD CBCC
nói riêng là việc đưa những kết luận có giá trị lý luận và thực tiễn vào để sửa đổi, bổ
sung, cập nhật kịp thời trong tổ chức thực hiện rất chậm hoặc là bỏ qua và không
chú ý đến (công trình cất ngăn kéo), khiến cho kết quả ĐTBD, chất lượng CBCC

3


chậm tiến bộ, hạn chế năng lực trong thi hành công vụ. Điều này đúng với nhận xét,
đánh giá trong những nội dung về CBCC tại các Nghị quyết Trung ương cũng như
các báo cáo tổng kết CCHC Nhà nước.
Đề cập về hoạt động ĐTBD đội ngũ CBCC ngành Xây dựng, cho đến này
chưa được tác giả nào nghiên cứu một cách đầy đủ. Đề tài nghiên cứu thực hiện
chính sách ĐTBD CBCC ngành Xây dựng từ thực tiễn Học viện Cán bộ quản lý
xây dựng và đô thị (HVCBXD) là đề tài nghiên cứu đầu tiên về vấn đề này để
chúng ta có một sự nhìn nhận đầy đủ, toàn diện những mặt tích cực và hạn chế của
hoạt động thực hiện chính sách ĐTBD CBCC của ngành Xây dựng, từ đó đưa ra
những giải pháp phù hợp cho hoạt động ĐTBD CBCC ngày càng chất lượng, hiệu
quả hơn.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1 Mục đích
Trên cơ sở nghiên cứu, phân tích quan điểm, chủ trương và chính sách của
Đảng và Nhà nước về vai trò, thực trạng đội ngũ CBCC, viên chức; thực trạng công
tác ĐTBD CBCC, viên chức nước ta nói chung, tại Học viện Cán bộ quản lý xây

dựng và đô thị nói riêng; luận văn đề xuất phương hướng và giải pháp đổi mới chất
lượng ĐTBD CBCC, viên chức nhằm nâng cao hiệu quả trong hoạt động thực hiện
chính sách ĐTBD của Học viện Cán bộ quản lý xây dựng và đô thị.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Làm rõ tính cấp thiết việc lựa chọn chủ đề trong luận văn trên cơ sở nghiên
cứu đánh giá của Đảng và Nhà nước về vai trò, vị trí, những tồn tại hạn chế của đội
ngũ CBCC, viên chức nói chung và những bất cập về hoạt động xây dựng nói riêng.
- Nghiên cứu hệ thống hóa những tài liệu nghiên cứu những quan điểm của
Đảng, tư tưởng Hồ Chí Minh và chính sách của Nhà nước về ĐTBD CBCC để làm
rõ một số khía cạnh nhận thức lý luận về thực hiện chính sách ĐTBD CBCC trong
điều kiện cải cách nền hành chính đáp ứng yêu cầu phát triển và hội nhập.
- Nghiên cứu hệ thống hoá một số kinh nghiệm của nước ngoài cũng như
trong nước về ĐTBD CBCC, viên chức.

4


- Nghiên cứu tình hình thực hiện chính sách ĐTBD CBCC, viên chức ở Việt
Nam và ngành Xây dựng qua thực tiễn tại HVCBXD, đánh giá những kết quả, ưu
điểm, hạn chế và nguyên nhân.
- Trên cơ sở đánh giá chung về kết quả đạt thực hiện chính sách ĐTBD
CBCC, viên chức; luận văn đề xuất phương hướng và một số giải pháp chủ yếu
trong thực hiện chính sách ĐTBD CBCC, viên chức nhằm nâng cao chất lượng của
đội ngũ CBCC, viên chức ngành Xây dựng.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1 Đối tượng nghiên cứu.
- Quan điểm của Đảng về vai trò, chất lượng đội ngũ CBCC, viên chức;
chính sách của Nhà nước về ĐTBD CBCC, viên chức.
- Kinh nghiệm ĐTBD ở nước ngoài.
- Công tác tổ chức và thực hiện ĐTBD CBCC, viên chức ở nước ta và tại

Học viện Cán bộ quản lý xây dựng và đô thị
4.2 Phạm vi nghiên cứu.
- Chủ yếu tại Học viện Cán bộ quản lý xây dựng và đô thị.
- Tại một số địa phương tổ chức khoá học (điều tra, khảo sát học viên sau mỗi
khoá học).
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Đề tài sử dụng phương pháp thu thập thông tin, nghiên cứu tài liệu, điều tra
khoảng 200 phiếu, phân tích, so sánh, tổng hợp, lấy ý kiến chuyên gia và những nhà
quản lý, sử dụng CBCC.
Trên cơ sở các thông tin dữ liệu để phân tích so sánh thực trạng công tác
ĐTBD CBCC, viên chức tại Học viện với chính sách ĐTBD CBCC, viên chức cũng
như yêu cầu nâng cao chất lượng đội ngũ CBCC, viên chức để rút ra những kết luận
làm cơ sở cho việc đề xuất phương hướng và giải pháp đối với Học viện.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
6.1 Ý nghĩa lý luận
Luận văn nghiên cứu thực hiện chính sách ĐTBD CBCC tại Học viện, để
làm rõ hơn chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước trong việc xây dựng đội

5


ngũ CBCC, nghiên cứu tổng thể đổi mới nền hành chính Nhà nước và chính sách tự
chủ của các đơn vị sự nghiệp công lập với bối cảnh nước ta đang hoàn thiện thể chế
kinh tế thị trường để từ đó thấy được sự hạn chế hoạt động thực thi chính sách
ĐTBD CBCC, viên chức tại Học viện.
6.2 Ý nghĩa thực tiễn
Luận văn đề ra một số giải pháp cụ thể về tổ chức bộ máy; chức năng, nhiệm
vụ; về nâng cao chất lượng đội ngũ viên chức của Học viện cùng những đề xuất đổi
mới thực hiện chính sách ĐTBD CBCC của các cơ quan, đơn vị trong hệ thống
chính trị nước ta.

7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục tài liệu tham khảo, nội dung chính của
đề tài gồm 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về thực hiện chính sách đào
tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức ở Việt Nam hiện nay;
Chương 2: Thực trạng công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên
chức ngành Xây dựng tại Học viện Cán bộ quản lý xây dựng và đô thị;
Chương 3: Phương hướng và giải pháp đổi mới công tác đào tạo, bồi dưỡng
cán bộ, công chức, viên chức ngành Xây dựng tại Học viện Cán bộ quản lý xây
dựng và đô thị.

6


Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN THỰC HIỆN
CHÍNH SÁCH ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG CÁN BỘ, CÔNG CHỨC
Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
1.1. Một số khái niệm cơ bản
1.1.1 Khái niệm về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức
“Đào tạo” và “bồi dưỡng” là thuật ngữ sử dụng phổ biến trong các văn bản
quy phạm pháp luật cũng như các tài liệu nghiên cứu của nước ta hiện nay. Hai khái
niệm này hiện có nhiều cách hiểu khác nhau. Cách thứ nhất hiểu theo nghĩa đào tạo
và bồi dưỡng là hai nội dung khác nhau; cách thứ hai hiểu theo nghĩa ĐTBD là hai
nghĩa không tách rời là hoạt động thường xuyên của cơ quan, đơn vị quản lý và sử
dụng CBCC nhằm cập nhật kiến thức, trang bị kỹ năng, phương pháp làm việc cho
CBCC. Theo từ điển Tiếng Việt thì “Đào tạo là làm cho trở thành người có năng lực
theo những tiêu chuẩn nhất định”; “Bồi dưỡng là làm cho năng lực hoặc phẩm chất
tăng thêm” 6, tr. 593, 191.
Trong luận văn này, khái niệm ĐTBD theo nội dung tại văn bản quy phạm

pháp luật trong chính sách ĐTBD CBCC trong Nghị định số 18/2010/NĐ-CP ngày
08/3/2010 Điều 5 của Nghị định này xác định đối tượng chịu tác động thực hiện
chính sách ĐTBD là CBCC nhà nước. Đồng thời nêu rõ khái niệm đào tạo là quá
trình truyền thụ, tiếp nhận có hệ thống những tri thức, kỹ năng theo quy định của
từng cấp học, bậc học; còn bồi dưỡng là hoạt động trang bị, cập nhật, nâng cao kiến
thức, kỹ năng làm việc.
Tuy nhiên, trong thực tế khái niệm đào tạo và bồi dưỡng CBCC không có
ranh giới một cách rạch ròi, hai khía cạnh này mang tính tương đối trong lĩnh vực
ĐTBD CBCC. Một CBCC khi tốt nghiệp một chuyên ngành trong bậc học, khi
được tuyển dụng vào một cơ quan nhà nước, phải tham gia khóa học về ngạch
chuyên viên thì những kiến thức, kỹ năng quy định cho vị trí công chức là hoàn
toàn mới mà công chức đó phải tiếp thu để thực hiện tốt công việc đảm nhiệm.

7


Đào tạo trong trường hợp này cũng có thể hiểu là bồi dưỡng. Trường hợp
khác là khi được tuyển dụng là CBCC Nhà nước, do lịch sử để lại, một số đối tượng
CBCC chưa đáp ứng được tiêu chuẩn ngạch QLNN theo qui định là chuyên viên trở
lên phải có trình độ đại học. Khi đó muốn được xếp ngạch chuyên viên, công chức
đó phải được cơ quan cử đi học đại học và tiến tới phải được chứng nhận đạt kết
quả qua khóa nghiên cứu QLNN ngạch chuyên viên.
Từ phân tích trên, đề tài sẽ sử dụng thống nhất khái niệm ĐTBD để chỉ một
công chức tham gia một khóa học nâng cao kiến thức, kỹ năng, kinh nghiệm thực
thi công vụ, không kể thời gian dài hay ngắn.
1.1.2 Khái niệm về chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức.
Để hiểu về chính sách ĐTBD CBCC, trước hết chúng ta cần hiểu khái niệm
chính sách, chính sách công là gì.
Theo từ điển Tiếng Việt thì “chính sách là sách lược và kế hoạch cụ thể
nhằm đạt một mục đính nhất định, dựa vào đường lối chính trị chung và tình hình

thực tế mà đề ra” 6, tr.493. Một chính sách của Nhà nước được gọi là chính sách
công. Trong chính sách công, chủ thể là Nhà nước, đại diện cho quyền lực của nhân
dân, tác động mạnh tới mọi đối tượng trong phạm vi cả nước nhằm mang lại lợi ích
cho nhân dân.
Nói cách khác “Chính sách công là kết quả ý chí chính trị của Nhà nước
được thể hiện bằng một tập hợp các quyết định có liên quan với nhau, bao hàm
trong đó định hướng, mục tiêu và cách thức giải quyết những vấn đề trong xã hội”.
Để tránh hiểu lệch lạc, ta cần phân biệt với chính sách tư. Cơ sở để phân biệt
là căn cứ vào đặc trưng của khái niệm chính sách công đã nêu. Theo các đặc trưng
chính sách công, thì nếu chính sách của chủ thể ban hành không phải là chính phủ,
(đại diện quyền lực cho nhân dân và toàn xã hội), có phạm vi tác động chỉ vào
những đối tượng ở phạm vi hẹp để thực hiện mục tiêu đặt ra, không mang lại lợi ích
trực tiếp hay gián tiếp, mang tính bao trùm cho toàn dân trong phạm vi cả nước ở
các lĩnh vực kinh tế, xã hội, môi trường, quốc phòng… thì không phải chính sách
công. Như vậy những quyết định của doanh nhân, của các tổ chức xã hội, của các
nhóm lợi ích hay cá nhân để thực hiện mục tiêu của mình là những chính sách tư.

8


Chính sách công được hình thành trên cơ sở thực tiễn các hoạt động đời sống
xã hội một quốc gia trên mọi lĩnh vực được nghiên cứu, phân tích diễn biến trong
quá trình vận hành. Khi những diễn biến đó không còn phù hợp, do chính sách công
đó đã lạc hậu cản trở thì Nhà nước sẽ thiết kế, ban hành chính sách công mới hoặc
điều chỉnh chính sách công hiện hành cho phù hợp với chủ trương, định hướng,
mục tiêu, yêu cầu đặt ra cho giai đoạn mới (điều này thể hiện thái độ quản lý của
Chính phủ, trong hoạt động QLNN của mình). Trong các chính sách công mới này,
Chính phủ đưa ra các giải pháp cơ bản; huy động các nguồn lực, thiết lập các
nguyên tắc, cơ chế vận hành cho chính sách của mình và bằng những quy định phân
công các cơ quan nhà nước theo chức năng, nhiệm vụ được pháp luật quy định phối

hợp tổ chức thực hiện để đạt mục tiêu mà chính sách mong muốn. Từ những lý luận
nêu trên, khái niệm chính sách ĐTBD CBCC là một chính sách công nhằm thực
hiện chủ trương, mục tiêu định hướng do Chính phủ đặt ra trong lĩnh vực ĐTBD
CBCC được thực thi bởi các quyết định hành động trong quá trình tổ chức triển
khai thực hiện chính sách đáp ứng yêu cầu năng cao chất lượng đội ngũ cán bộ,
công chức Nhà nước.
1.2. Quan điểm của Đảng và Nhà nước về vai trò và yêu cầu tầm quan trọng
của thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức
Từ trước đến nay, Đảng và Nhà nước ta luôn coi trọng và xây dựng đội ngũ
CBCC trong sạch, vững mạnh. “vừa hồng vừa chuyên” là nhiệm vụ trọng tâm trong
các giai đoạn phát triển của cách mạng Việt Nam. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhấn
mạnh: “cán bộ là cái gốc của mọi công việc, mọi việc thành bại đều do cán bộ tốt
hoặc kém” 4, tr 273.
Tại kết luận Hội nghị lần thứ 9 Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa X về
tiếp tục đẩy mạnh thực hiện chiến lược cán bộ từ nay đến năm 2020 (kết luận ngày
02/2/2009) nêu rõ quan điểm và mục tiêu về xây dựng đội ngũ cán bộ cũng khẳng
định: “Cán bộ là nhân tố quyết định sự thành bại của cách mạng” 7. Quan điểm
của Đảng và tư tưởng của Bác Hồ xác định rõ và nhất quán vai trò của đội ngũ
CBCC có tầm quan trọng hàng đầu, mang tính quyết định trong xây dựng và phát
triển đất nước. Hoạt động thực thi công vụ của họ có vai trò đặc biệt quan trọng,

9


quyết định tới hiệu lực, hiệu quả của bộ máy Nhà nước. Họ là những người hoạch
định, thực thi những chính sách, quyết định của Nhà nước, là yếu tố quyết định
thành bại của các chủ trương, chính sách.
Đảng ta nhận thức rất rõ vấn đề này, nên thời gian qua đã ban hành các nghị
quyết liên quan trực tiếp tới chiến lược cán bộ. Đó là Nghị quyết lần thứ ba Ban
chấp hành Trung ương Đảng khóa VIII về: “Chiến lược cán bộ trong thời kỳ đẩy

mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước” 8. Tiếp nối qua tổng kết đánh giá
về công tác cán bộ; đến Hội nghị lần thứ 9 Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa X
lại ban hành kết luận Hội nghị này về “tiếp tục đẩy mạnh thực hiện chiến lược cán
bộ từ nay đến năm 2020” 7.
Trong Nghị quyết và kết luận trên, Đảng xác định phần quan trọng đặc biệt
về vai trò của công tác ĐTBD CBCC để đề ra chủ trương định hướng làm chuyển
biến chất lượng đội ngũ CBCC thông qua những mục tiêu và nhiệm vụ trong công
tác ĐTBD CBCC cho thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Kết luận của
Hội nghị thứ 9 Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá X nêu rõ mục tiêu: “mục tiêu
cần đạt được là xây dựng đội ngũ cán bộ có bản lĩnh chính trị vững vàng, phẩm chất
và năng lực tốt…đáp ứng yêu cầu của nhiệm vụ đổi mới”.
Tại Nghị quyết 17-NQ/TW ngày 01/8/2007 về đẩy mạnh CCHC, xây dựng
hiệu lực, hiệu quả quản lý bộ máy nhà nước (Nghị quyết 17-NQ/TW được ban hành
tại Hội nghị lần thứ 5 Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá X) cũng chỉ rõ chi tiết
về mục tiêu của CCHC ở nội dung về CBCC: “CCHC phải đáp ứng yêu cầu xây
dựng đội ngũ CBCC có phẩm chất chính trị, trình độ chuyên môn nghiệp vụ, tinh
thần trách nhiệm và tận tuỵ phục vụ nhân dân”.
Từ quan điểm về vai trò và trách nhiệm của đội ngũ CBCC nêu trên, Đảng xác
định và đề ra chủ trương, định hướng trong việc tổ chức, thực hiện chính sách ĐTBD
CBCC hướng tới mục tiêu làm chuyển biến thực sự chất lượng ĐTBD CBCC, đó là
phải: “tạo chuyển biến sâu sắc trong công tác ĐTBD cán bộ theo qui hoạch, theo tiêu
chuẩn chức danh cán bộ, chú trọng bồi dưỡng cập nhật mới cho cán bộ lãnh đạo,
quản lý; coi đây là giải pháp quan trọng hàng đầu trong thực hiện chiến lược cán bộ

10


trong giai đoạn mới” (kết luận của Hội nghị lần thứ 9 Ban chấp hành Trung ương
Đảng khoá X). Từ đó “xây dựng chương trình quốc gia về ĐTBD cán bộ” 7.
Quan điểm, chủ trương định hướng của Đảng cũng được Chính phủ quán

triệt, thống nhất nhận thức, biểu hiện rõ về quan điểm trong chương trình CCHC
Nhà nước giai đoạn 2001 – 2010: “Tiếp tục đổi mới nội dung chương trình và
phương thức ĐTBD, chú trọng nâng cao kiến thức, kỹ năng hành chính cho đội ngũ
CBCC theo chức trách, nhiệm vụ đảm nhiệm. Mỗi loại CBCC có chương trình, nội
dung đào tạo và bồi dưỡng cho phù hợp”20. Với bối cảnh quản lý nền kinh tế thị
trường và hội nhập quốc tế trong điều kiện của cuộc cách mạng 4.0.
Kinh tế thị trường là một thành tựu của nhân loại, các qui luật của kinh tế thị
trường như qui luật cung - cầu, quy luật giá trị, qui luật cạnh tranh… và sự phát
triển của các loại thị trường trong một quốc gia như thị trường tài chính, chứng
khoán, thị trường lao động, thị trường khoa học công nghệ, các thị trường dịch vụ
hàng hóa…. Cùng với các hình thức sở hữu đa dạng kèm theo các loại hình kinh
doanh được thiết lập là động lực cho sự phát triển kinh tế - xã hội ở nước ta. Chúng
ta còn đang trong quá trình hoàn thiện thể chế cho các loại thị trường trên với yêu
cầu minh bạch, kiến tạo môi trường thuận lợi và bình đẳng để phát huy hết mọi
nguồn lực cho phát triển.
Sự chuyển dịch này nằm trong tiến trình toàn cầu hóa mà Việt Nam đang
tham gia chủ động tích cực bởi các hiệp định kinh tế khu vực và thế giới. Chúng ta
đã là thành viên của tổ chức thương mại thế giới (WTO); các hiệp định trong khối
ASEN, hiệp định kinh tế liên minh thuế quan với Nga, Kazastan, Belarus… và mới
đây là hiệp định kinh tế toàn diện, tiến bộ với 10 nước, trong đó có những nước có
nền kinh tế thị trường rất phát triển như Canada, Singapore, Nhật Bản… Đặc điểm
này khiến Việt Nam phải nghiên cứu, thay đổi hàng loạt chính sách kinh tế, xã hội,
môi trường để đáp ứng tiêu chuẩn của nền kinh tế thị trường đầy đủ.
Song song sự đổi mới kinh tế một cách toàn diện và hội nhập quốc tế ngày
một sâu rộng với độ mở lớn đòi hỏi chúng ta cần phải nghiên cứu đổi mới về nền
dân chủ xã hội chủ nghĩa (XHCN) nhằm phát huy cao nhất, ưu việt nhất quyền dân
chủ của người dân, trong điều kiện của cuộc cách mạng về công nghệ thông tin và

11



giờ đây đang chuyển đổi sang mức độ cạnh tranh cao chưa từng có, là trí tuệ thông
minh nhân tạo, internet vạn vật có ảnh hưởng to lớn, quyết định sự thành công hay
thất bại của sự phát triển quốc gia, làm biến đổi sâu sắc và nhanh chóng nền kinh tế
cũng như cuộc sống của người dân….
Đây là thách thức vô cùng to lớn đối với đội ngũ CBCC – những người
hoạch định, trực tiếp tổ chức thực hiện chính sách của Nhà nước để kiến tạo sự phát
triển quốc gia cùng những lực lượng khác trong xã hội (doanh nghiệp, các tổ chức
xã hội nghề nghiệp, mọi người dân cùng tham gia). Xác định là thách thức to lớn
đối với đội ngũ CBCC, bởi thực tiễn. Tuy đã nhận thức nền kinh tế thị trường khá
tốt về tổng quát nhưng lối mòn tư duy trong thời kỳ bao cấp vẫn còn nặng nề, năng
lực và kiến thức xây dựng thể chế kinh tế thị trường và điều hành nó còn rất nhiều
hạn chế. Chưa kể nhiều vấn đề về phẩm chất chính trị, đạo đức trong thực thi công
vụ còn bất cập và tạo ra sự cản trở cho quá trình đổi mới toàn diện đất nước đang
diễn ra như tính cẩu thả, ban ơn, nhũng nhiễm, tham nhũng, tính kỷ luật kém…
Để khắc phục thực trạng đó, với quá trình tổng kết lý luận và thực tiễn, Đảng
đã thấy rõ thực tiễn chất lượng đội ngũ CBCC cũng như đặc điểm, vai trò đặc biệt
của chính sách ĐTBD có ý nghĩa vô cùng quan trọng và bức thiết, quyết định tới sự
phát triển của đất nước. Điều này đã được thể hiện rõ những chủ trương trong Nghị
quyết Trung ương 5 khoá X về “đẩy mạnh CCHC, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản
lý của bộ máy Nhà nước”; trong đó về đổi mới công tác ĐTBD CBCC, hiện đại hóa
nền hành chính, Nghị quyết nêu rõ: “Đổi mới phương thức và nội dung các chương
trình ĐTBD CBCC sát với thực tế, hướng vào các vấn đề thiết thực đặt ra từ quá
trình thực thi công vụ, nâng cao kỹ năng hành chính. Thống nhất qua ĐTBD chuyên
môn nghiệp vụ và kỹ năng hành chính bảo đảm tính thống nhất trong hoạt động của
cơ quan hành chính, nhất là trong giải quyết các yêu cầu của nhân dân, doanh
nghiệp”. “đẩy mạnh ĐTBD nâng cao tính chuyên nghiệp của bộ máy hành chính,
của CBCC đặc biệt là kỹ năng hành chính và áp dụng công nghệ thông tin vào hoạt
động của cơ quan hành chính”.
Những yêu cầu nêu trên sẽ chi phối cách làm cụ thể trong từng khâu của quá

trình thực hiện chính sách ĐTBD CBCC phải được thay đổi. Chính sách ĐTBD

12


CBCC từ Chính phủ cho đến hệ thống các cơ sở ĐTBD, các nội dung chương trình
ĐTBD, đội ngũ giảng viên, cũng như phương pháp ĐTBD và đánh giá hiệu quả của
việc ĐTBD, tính cạnh tranh trong ĐTBD và quyền lựa chọn về hình thức, nội dung
đào tạo của người CBCC cần được đảm bảo tính tự chủ. Tất cả những mắt xích trong
chu trình đó phải được nghiên cứu, thiết kế trên nền tảng mục tiêu của công cuộc
CCHC Nhà nước và nằm trong sự vận hành của cơ chế thị trường với các qui luật của
nó (qui luật cạnh tranh, qui luật giá trị…) đòi hỏi phải rất khoa học và hiệu quả.
1.3. Nội dung tổ chức thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức
Việt tổ chức thực hiện chính sách ĐTBD CBCC, được thực hiện qua những
nội dung sau:
1.3.1 Xây dựng kế hoạch, phổ biến quán triệt chính sách, triển khai thực hiện
Căn cứ Luật Cán bộ, công chức năm 2008, Chính phủ đã ban hành các Nghị
định số 18/2010/NĐ-CP về ĐTBD công chức, Nghị định số 101/2017/NĐ-CP đào
tạo, bồi dưỡng CBCC, viên chức; và Thủ tướng Chính phủ đã ra các Quyết định số
40/2006/QĐ-TTg về kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng CBCC 2006-2010; Quyết định số
1374/QĐ-TTg phê duyệt kế hoạch ĐTBD CBCC giai đoạn 2011 – 2015.
Hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật trên đã tạo ra hành lang pháp lý và
định hướng cho hoạt động ĐTBD. Qui định rõ mục tiêu; nguyên tắc ĐTBD; chế độ
ĐTBD lý luận chính trị đối với CBCC qui hoạch lãnh đạo, quản lý; nội dung,
chương trình, chứng chỉ ĐTBD công chức; phân cấp tổ chức và quản lý; thực hiện
ĐTBD CBCC; đánh giá chất lượng ĐTBD; tiêu chuẩn, nhiệm vụ và chính sách, chế
độ đối với giảng viên; quyền lợi và trách nhiệm của công chức, viên chức được cử
đi ĐTBD, kinh phí ĐTBD….
Trong hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về ĐTBD CBCC, chú trọng thể
chế hóa việc ĐTBD theo yêu cầu của CCHC, đó là tăng cường phân cấp cho các

Bộ, ngành, địa phương từ thẩm quyền quyết định nội dung, chương trình tới tổ chức
ĐTBD và cấp chứng chỉ; bảo đảm quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm của cơ quan
quản lý, sử dụng CBCC trong hoạt động ĐTBD; đổi mới hình thức, nội dung
chương trình và phương pháp ĐTBD nhằm nâng cao kỹ năng hành chính và năng
lực chuyên môn nghiệp vụ cho CBCC.

13


Việc lập quy hoạch và kế hoạch đào tạo bồi dưỡng CBCC đảm bảo tính khoa
học. chúng ta biết rằng, lập qui hoạch và kế hoạch ĐTBD CBCC là một khâu của
hoạt động thực thi chính sách ĐTBD; nhằm xác định mục tiêu, đối tượng, nội dung,
hình thức và tiến độ cụ thể của hoạt động ĐTBD trên cơ sở phân tích thực trạng và
nhu cầu ĐTBD nhằm nâng cao năng lực đội ngũ CBCC.
Có quy hoạch, kế hoạch ĐTBD mới tránh được tình trạng phân tán, tự phát,
tùy tiện, tránh được lãng phí sức người, kinh phí, thời gian của CBCC và mới tạo
được hiệu quả, chất lượng.
Việc lập quy hoạch ĐTBD CBCC phải căn cứ vào quan điểm, đường lối,
chính sách của Đảng và Nhà nước, mà cụ thể là trong giai đoạn hiện nay căn cứ vào
Nghị quyết Trung ương 3 khóa VIII về “chiến lược cán bộ thời kỳ đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”12, tr.66, Nghị quyết Trung ương 9 khóa X về
tiếp tục đẩy mạnh chiến lược cán bộ từ nay đến năm 2020; Các văn bản pháp luật
của Nhà nước hiện hành về chính sách ĐTBD CBCC, viên chức. Như chương trình
tổng thể CCHC Nhà nước giai đoạn 2016-2020; Luật Cán bộ, công chức số
22/2008/QH12 ngày 13/11/2008; Luật Viên chức số 58/2010/QH12 ngày
15/11/2010; Nghị định số 101/2017/NĐ-CP; các thông tư hướng dẫn liên quan…
Trong đó xác định mục tiêu, nguyên tắc đối tượng, nội dung, hình thức, phương
pháp để thực hiện chính sách ĐTBD CBCC một cách cụ thể.
Ngoài ra, mỗi cơ quan của mỗi vùng khác nhau cũng phải căn cứ vào chiến
lược phát triển của ngành, địa phương mình và của đơn vị mình để xây dựng, quy

hoạch, kế hoạch ĐTBD CBCC. Sự phát triển CBCC cả về qui mô, chất lượng, cơ
cấu, trình độ trong tương lai. Đặt ra yêu cầu cho những cơ quan và CBCC làm công
tác ĐTBD CBCC phải nắm được những yêu cầu này để thực hiện nó trong xây
dựng quy hoạch và kế hoạch ĐTBD.
Trong lập quy hoạch, kế hoạch ĐTBD CBCC phải đựa vào thực trạng đội
ngũ CBCC thuộc ngành mình, địa phương hoặc cơ quan mình, cụ thể là: Số lượng
CBCC cần được phân tích theo các tiêu chí, cơ cấu về giới, tuổi, thâm niên công
tác, ngạch bậc, chức vụ, vị trí công tác; trình độ CBCC qua bằng cấp, chứng chỉ về
lĩnh vực nào, đã đáp ứng tiêu chuẩn chưa. Đặc biệt trình độ CBCC phải gắn với

14


năng lực qua thực tế công tác để biết được điểm mạnh, yếu mặt nào của CBCC để
đưa vào kế hoạch ĐTBD mới đạt hiệu quả tốt nhất.
Với những yêu cầu nêu trên, chúng ta sẽ xác định được nhu cầu một cách
khoa học, phù hợp nhất là tiền đề quan trong bậc nhất để đảm bảo thực hiện chính
sách ĐTBD CBCC đạt kết quả như mong muốn.
1.3.2 Phân công phối hợp các cơ quan thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng
Từ nội dung chính sách ĐTBD CBCC (hệ thống văn bản pháp luật), các Bộ,
ngành, địa phương căn cứ vào kế hoạch nhiệm vụ của mình chỉ đạo các đơn vị quản
lý, sử dụng CBCC, các cơ sở ĐTBD trực thuộc phối hợp xây dựng kế hoạch ĐTBD
CBCC hàng năm. Trong kế hoạch ĐTBD, các cơ quan xác định nhu cầu ĐTBD
CBCC gắn với qui hoạch bổ nhiệm CBCC, đảm bảo tiêu chuẩn chức danh lãnh đạo,
quản lý, nâng cao trình độ, kiến thức chuyên môn nghiệp vụ, kỹ năng hành chính.
Đối với các nhóm đối tượng CBCC khác nhau theo định hướng nhu cầu phát triển
nguồn nhân lực của mình. Kế hoạch ĐTBD CBCC được giao cho hệ thống các cơ
quan có trách nhiệm quản lý CBCC làm đầu mối tổng hợp chung để xác lập một kế
hoạch thống nhất theo dõi quá trình triển khai tổ chức thực hiện.
Sự phối hợp giữa các cơ quan quản lý, sử dụng công chức với các cơ sở

ĐTBD CBCC ở Trung ương và địa phương hướng theo cách thức tổ chức linh hoạt
và hiệu quả nhất, tạo điều kiện thuận lợi cho học viên tham gia các khoá học (tổ
chức tập trung ở tại các cơ sở ĐTBD hoặc tại địa phương để học viên có thể vừa
học vừa công tác).
Sự phân công, phân cấp trong chính sách ĐTBD CBCC từ xây dựng quản lý
chương trình, tài liệu; tổ chức ĐTBD phân theo đối tượng rõ ràng, cụ thể giúp công
tác thực hiện chính sách ĐTBD CBCC của các cơ quan đơn vị trong hệ thống
ĐTBD CBCC diễn ra thuận lợi, đúng kế hoạch.
Trong quá trình tổ chức ĐTBD; cơ quan quản lý, sử dụng CBCC phối hợp
chặt chẽ với cơ sở ĐTBD, với giảng viên trực tiếp giảng dạy để quản lý, giám sát
học viên đảm bảo khoá học diễn ra nghiêm túc. Quy chế tổ chức lớp học được thực
hiện nhằm buộc học viên có mặt đầy đủ; việc điểm danh, kiểm tra cuối khoá giúp
đánh giá kết quả học tập khách quan, hiệu quả. Kết thúc khoá học phải tiến hành

15


tổng kết, đánh giá chất lượng giảng dạy, học tập và cấp chứng chỉ cho những học
viên đạt kết quả. Tất cả theo một qui trình chặt chẽ trong thực hiện chính sách
ĐTBD CBCC.
Trong thực hiện chính sách ĐTBD CBCC không thể tách rời sự phối hợp
giữa hai loại cơ quan đơn vị là cơ quan quản lý, sử dụng CBCC với cơ sở ĐTBD
CBCC bởi mỗi cơ quan có chức năng, nhiệm vụ khác nhau theo quy định của pháp
luật nhưng lại có mối quan hệ hữu cơ giữa hai bộ phận cơ bản, giữa đảm bảo đào
tạo và bồi dưỡng CBCC với nhu cầu chất lượng sử dụng CBCC. Cơ quan quản lý,
sử dụng CBCC là bên “cầu” về nâng cao năng lực đội ngũ CBCC, là nơi nắm được
nhu cầu cần thiết trong việc ĐTBD CBCC của mình, là nơi lập qui hoạch kế hoạch
ĐTBD để phát triển nhân lực theo chiến lược phát triển của mình, cũng như đảm
bảo kinh phí và các điều kiện cần thiết liên quan tới việc hoàn thiện đội ngũ CBCC
do mình quản lý, sử dụng, phục vụ cho nhiệm vụ của cơ quan ở mức kỳ vọng. Với

cơ sở ĐTBD CBCC, nơi cung cấp các dịch vụ ĐTBD nhằm đáp ứng yêu cầu đặt
hàng của cơ quan quản lý, sử dụng CBCC. Người học được trang bị về kiến thức,
kỹ năng nghiệp vụ và kinh nghiệm thực thi công vụ của mọi đối tượng CBCC theo
nhu cầu. Muốn hoàn thành sứ mệnh của mình cơ sở ĐTBD CBCC phải có tổ chức
bộ máy với hệ thống nhân sự có đủ tầm nhìn, năng lực đáp ứng cao nhất các nhu
cầu mà khách hàng (CBCC) yêu cầu. Cụ thể là cơ sở ĐTBD phải có năng lực thực
hiện ĐTBD, có đội ngũ giảng viên giỏi, kinh nghiệm cũng như các chương trình
ĐTBD đa dạng phù hợp yêu cầu của mọi đối tượng CBCC theo các vị trí, chức
danh đảm nhiệm, theo các ngạch bậc về trình độ… Cùng với năng lực của mình,
các cơ sở ĐTBD CBCC phải được cơ quan quản lý, sử dụng CBCC và bản thân
CBCC biết đến, hiểu và có niềm tin về chất lượng ĐTBD. Điều này đòi hỏi các cơ
sở ĐTBD CBCC phải làm tốt công tác tuyên truyền về hình ảnh tích cực của cơ sở
đào tạo với năng lực cạnh tranh hiệu quả thực sự trong hệ thống các cơ sở ĐTBD
CBCC; làm rõ được tính hiệu quả (chi phí thấp nhưng chất lượng cao trong khả
năng); tính linh hoạt trong tổ chức thực hiện ĐTBD.

16


Về phương thức ĐTBD áp dụng đa dạng các hình thức tập trung, bán tập trung,
ĐTBD trong nước kết hợp với ĐTBD ở nước ngoài, trong giảng dạy áp dụng phương
pháp giảng dạy mới để phát huy tính chủ động và tư duy sáng tạo của CBCC.
Trên phạm vi toàn quốc, cho đến nay hệ thống các cơ sở ĐTBD CBCC
tương đối hoàn chỉnh từ trung ương đến địa phương. Ở trung ương có hai học viện
quốc gia là Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, và Học viện Hành chính
Quốc gia; 35 học viện, trường, trung tâm ĐTBD CBCC các Bộ, ngành; 63 trường
chính trị cấp tỉnh và 702 trung tâm bồi dưỡng chính trị cấp huyện. Tại hệ thống các
cơ sở ĐTBD nêu trên, các cơ sở ĐTBD là hai Học viện Quốc gia và các trường,
trung tâm cấp huyện có cơ cấu tổ chức bộ máy thống nhất và đầy đủ theo quy định;
đối với các cơ sở ĐTBD bộ, ngành, một mặt cơ cấu bộ máy bên trong tổ chức còn

có sự chênh lệch, chưa đồng đều về qui mô và chất lượng nhân lực. Mặt khác các
trang thiết bị phục vụ cho việc tổ chức dạy và học cũng chưa được đảm bảo đồng
đều, còn chênh lệch khá nhiều giữa các cơ sở ĐTBD.
1.3.3 Theo dõi, kiểm tra, đôn đốc, đánh giá thực hiện chính sách ở cơ sở
đào tạo, bồi dưỡng
Theo Báo cáo số 88/BC-HVCTQGHCM ngày 22/6/2013 của Học viện
Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh sơ kết 5 năm thực hiện Quyết định số 184-QĐ/TW
ngày 03/9/2008 của Ban bí thư trung ương Đảng khóa X về chức năng, nhiệm vụ, tổ
chức bộ máy của trường chính trị tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương thì: 100%
giảng viên của Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh và Học viện Hành chính
Quốc gia có trình độ đại học và trên đại học. Thạc sĩ chiếm 50%, Học viện trung
tâm có 40% tiến sĩ, Học viện khu vực chiếm 10% tiến sĩ. Tại 63 trường chính trị
tỉnh có 2163 giảng viên, trong đó 57 giảng viên có học vị tiến sĩ (chiếm 2,64%).
1053 thạc sĩ (chiếm 48,70%). Các Trung tâm chính trị huyện các giảng viên đều có
trình độ đại học.
Tại các trường ĐTBD CBCC của Bộ, ngành, lực lượng giảng viên cơ hữu
chiếm từ 20% - gần 30%. Các giảng viên cơ hữu giảng các bộ môn, chuyên ngành
và giảng viên thỉnh giảng giảng dạy các chuyên đề thực tiễn là chủ yếu.

17


Nhìn tổng quan, chúng ta thấy một hệ thống quan điểm, chủ trương, định
hướng, mục tiêu, yêu cầu của Đảng về xây dựng đội ngũ CBCC đã được Chính phủ
thiết kế, xây dựng và ban hành tổ chức thực hiện một cách toàn diện, thống nhất với
những nhiệm vụ cụ thể từ tạo lập một hệ thống văn bản pháp luật ĐTBD CBCC đến
đầu tư phát triển và nâng cấp cơ sở vật chất cũng như phân công phân cấp cho hệ
thống các cơ sở ĐTBD trải rộng suốt từ Trung ương đến cơ sở trong đó đặc biệt chú
trọng tới phát triển nâng cao chất lượng đội ngũ giảng viên cả về số lượng và chất
lượng, đồng thời có chính sách thu hút những CBCC có kinh nghiệm quản lý thực

tiễn tham gia giảng dạy. Các chương trình, tài liệu đã bước đầu bao quát và phục vụ
cho việc ĐTBD theo chức danh lãnh đạo, quản lý, vị trí công việc cho đội ngũ
CBCC ngoài các chương trình, tài liệu ĐTBD theo ngạch truyền thống. Các chương
trình, tài liệu được biên soạn với nội dung nghiên cứu theo quan điểm mới là tăng
cường kỹ năng thực hành, các kỹ năng thiết yếu gắn với vị trí công việc nên cho đến
nay có thể nói, chúng ta bước đầu đã tạo ra sự nâng cao chất lượng của đội ngũ
CBCC trong việc phục vụ công dân và doanh nghiệp.
Theo Báo cáo số 2880/BC-BNV ngày 31/7/2014 của Bộ Nội vụ sơ kết 3 năm
thực hiện Quyết định số 1374/QĐ-TTg ngày 12/8/2011 của Thủ tướng Chính phủ
phê duyệt kế hoạch ĐTBD CBCC giai đoạn 2011 – 2015, tính đến 2014 có gần
98% CBCC lãnh đạo cấp phòng của Bộ, ngành và gần 84% của địa phương được
ĐTBD theo chương trình qui định, 72% công chức các bộ ngành và 63% CBCC địa
phương được bồi dưỡng bắt buộc tối thiểu hàng năm. Tại cấp xã gần 78% cán bộ
cấp xã đạt trình độ chuyên môn theo tiêu chuẩn và gần 65% cán bộ cấp xã được bồi
dưỡng kiến thức kỹ năng lãnh đạo, quản lý theo yêu cầu công việc.
Đối với chính sách ĐTBD CBCC ở nước ngoài, cũng tại báo cáo sơ kết trên
của Bộ Nội vụ, tính đến hết 2014 có tổng số lượt CBCC được cử đi ĐTBD ở nước
ngoài là 53.300 người; trong đó có gần 25.000 lượt người là CBCC lãnh đạo quản
lý và 14.000 lượt người là cán bộ tham mưu hoạch định chính sách, nguồn quy
hoạch lãnh đạo quản lý.
Nội dung ĐTBD cho CBCC ở nước ngoài là những nội dung, yêu cầu tại
Quyết định số 1374/QĐ-TTg gồm những nội dung kiến thức, kỹ năng phù hợp với

18


đối tượng được cử đi ĐTBD để đáp ứng chức năng, nhiệm vụ, vị trí mà họ đảm
nhiệm như quản lý hành chính công, QLNN đa ngành, đa lĩnh vực, quản lý và phát
triển nguồn nhân lực, tài chính công, dịch vụ công, hội nhập kinh tế quốc tế, chính
phủ điện tử…

Các khoá ĐTBD CBCC ở nước ngoài góp phần trang bị kiến thức, kỹ năng,
kinh nghiệm quản lý tiên tiến, giúp cho đội ngũ CBCC có tầm nhìn, có cách thức tổ
chức, quản lý xã hội của các nước phát triển.
Tóm lại, cho đến nay việc thực hiện chính sách ĐTBD CBCC của nước ta về
cơ bản đảm bảo cho việc xây dựng và phát triển đội ngũ CBCC đáp ứng yêu cầu
của CCHC để phát triển kinh tế - xã hội trong giai đoạn chuyển đổi từ nền kinh tế
kế hoạch hoá tập trung bao cấp sang nền kinh tế thị trường định hướng XHCN.
1.3.4 Đánh giá, tổng kết – rút kinh nghiệm và kiến nghị
Bất cứ một hoạt động thực thi chính sách công nào cũng đều không tách
rời việc đánh giá quá trình thực hiện cũng như kết quả cuối cùng của hoạt động
thực hiện chính sách công. Thực hiện chính sách ĐTBD CBCC cũng như vậy.
Trong chuỗi hoạt động đánh giá cần có đánh giá một cách khách quan, công
minh và được thực hiện một là từ phía cơ quan quản lý, sử dụng CBCC; hai là ý
kiến của CBCC được ĐTBD đối với cơ sở ĐTBD CBCC và ba là đánh giá từ
chính cơ sở đào tạo. Nội dung đánh giá về các mặt cách thức tổ chức giảng dạy;
nội dung, hình thức, phương pháp giảng học tập và kết quả cuối cùng là năng lực
người CBCC sau khi được ĐTBD thông qua chất lượng thực thi công vụ. Có như
vậy thì việc thực hiện chính sách ĐTBD CBCC mới đảm bảo có kết quả thành
công như mục tiêu, yêu cầu đề ra.
1.4. Những điều kiện đảm bảo thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ,
công chức
Trong quá trình tổ chức thực hiện chính sách ĐTBD CBCC, để đảm bảo
chính sách thành công, có nghĩa là quá trình thực hiện chính sách làm cho sứ mệnh,
mục đích của cơ quan đơn vị đạt được theo yêu cầu đề ra, ngày càng thực hiện tốt
chức năng, nhiệm vụ hiện tại cũng như tạo ra được cơ sở vững chắc cho dự kiến
phát triển trong tương lai.

19



Đối với đội ngũ CBCC thì ngày càng nâng cao kiến thức, kỹ năng chuyên
môn nghiệp vụ, trách nhiệm, công tâm, hết lòng phục vụ (yếu tố về văn hóa, phẩm
chất đạo đức người CBCC). Nhu cầu được ĐTBD để phát triển bản thân trở thành
thực chất để nâng cao năng lực chứ không mang tính bằng cấp.
Để đạt được mục tiêu kỳ vọng trên, những điều kiện đảm bảo cho việc thực
hiện chính sách ĐTBD đi tới thành công, đó là:
1.4.1 Chất lượng đội ngũ giảng viên
Hạt nhân quan trọng nhất trong việc ĐTBD CBCC là đội ngũ giảng viên, đây
là yếu tố có tính quyết định tới việc nâng cao kiến thức, kỹ năng nghiệp vụ, năng
lực cho đội ngũ CBCC.
Đội ngũ giảng viên gồm viên chức cơ hữu và giảng viên thỉnh giảng, giảng
viên kiêm chức. Đặc điểm tạo nên tính hiệu quả cho việc giảng dạy và học tập, bởi
đây là sự kết hợp giữa nhóm giảng viên chuyên nghiệp có phương pháp sư phạm và
kiến thức sâu rộng với nhóm giảng viên có kinh nghiệm quản lý – đáp ứng tính thực
tiễn cao trong quá trình truyền thụ kiến thức.
1.4.2 Chương trình, tài liệu cập nhật phù hợp yêu cầu của người học
Để thực hiện chính sách ĐTBD có chất lượng cao thì chương trình, tài liệu
ĐTBD là hết sức quan trọng, cho tới nay các chương trình, tài liệu lý luận chính trị
đã đưa vào tổ chức giảng dạy cho CBCC từ Trung ương đến địa phương; các
chương trình, tài liệu biên soạn theo ngạch hành chính, theo chức danh lãnh đạo
quản lý, chức danh CBCC cấp xã đã được xây dựng và biên soạn hoàn chỉnh đưa
vào giảng dạy. Ngoài ra các chương trình chuyên môn, nghiệp vụ theo yêu cầu
nhiệm vụ công việc cũng được ban hành nhưng chưa đáp ứng hết các vị trí công
việc và vẫn tiếp tục nghiên cứu để xây dựng.
Đây là những chương trình rất quan trọng nhưng gặp khó khăn, thách thức
bởi lý do chính là trong hệ thống cơ quan hành chính hiện nay, việc nghiên cứu chi
tiết với bản mô tả công việc cho từng vị trí công việc chưa được làm một cách khoa
học, bài bản, chưa coi là một nguyên tắc nên từ nhận thức cho đến chỉ đạo thực hiện
còn hạn chế và buông lỏng. Điều này ảnh hưởng lớn đến việc cơ quan quản lý, sử
dụng CBCC, chưa nắm được nhu cầu của CBCC, đồng thời CBCC cũng không xác


20


×