Tải bản đầy đủ (.docx) (14 trang)

Vận dụng quan điểm của Anthony Giddens về toàn cầu hóa để phân tích ví dụ trong thực tế.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (340.69 KB, 14 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn
Khoa Xã hội học
----------

TIỂU LUẬN CUỐI KỲ
Học phần: LỊCH

SỬ VÀ LÝ THUYẾT XÃ HỘI HỌC (SOC3039)

Đề tài: “Vận dụng quan điểm của Anthony Giddens về toàn cầu hóa

để phân tích ví dụ trong thực tế.”
Giảng viên:
Sinh viên:

PGS.TS Nguyễn Tuấn Anh
Phan Thị Trang

MSSV:

15034890

Lớp:

K60 XHH

Hà Nội, 05/ 2017

1



MỤC LỤC
1. Tác giả Anthony Giddens.............................................................................................3
2. Nội dung lý thuyết toàn cầu hoá của Anthony Giddens.............................................3
2.1. Khái niệm toàn cầu hoá............................................................................................3
2.2. Các nhân tố tạo nên toàn cầu hoá.............................................................................3
2.2.1 Sự phát triển của công nghệ thông tin và truyền thông.......................................3
2.2.2. Các nhân tố kinh tế.............................................................................................3
2.2.3. Những biến đổi chính trị....................................................................................4
2.3. Tranh luận về toàn cầu hoá.......................................................................................4
2.4. Hệ quả của toàn cầu hoá...........................................................................................4
3. Vận dụng lý thuyết: Vận dụng quan điểm của Giddens về toàn cầu hoá để phân tích
một ví dụ trong thực tế: Mối quan hệ giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc.............................4
3.1. Giới thiệu về Hoa Kỳ và Trung Quốc.......................................................................4
3.1.1. Giới thiệu về Hoa Kỳ..........................................................................................4
3.1.2. Giới thiệu về Trung Quốc...................................................................................5
3.2. Biểu hiện của toàn cầu hoá - Biểu hiện của mối quan hệ phụ thuộc.........................6
3.3. Hệ quả của toàn cầu hóa đối với Hoa Kỳ và Trung Quốc.......................................10

4. Kết luận...............................................................................................................12
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.......................................................................14

2


1. Tác giả Anthony Giddens
Nhà xã hội học người Anh Anthony Giddens (1938 - ) là một tác giả nổi tiếng và có
ảnh hưởng lớn trên thế giới. Công trình của ông được đưa vào các tuyển tập rất nhiều lần và
dịch sang nhiều ngôn ngữ khác; vô số sách cùng bài tạp chí đã ca ngợi và cả phê phán ông.
Tờ phụ trương của báo “Times Higher Education Supplement” cho biết: Giddens là cây bút

khoa học xã hội và nhân văn thuộc khối nói tiếng Anh (Anglophone) được trích dẫn nhiều
nhất thế giới - sau Foucault, Bourdieu và Derrida ở khối tiếng Pháp (Castree, 2010:161). Ông
xếp thứ 39 trong danh sách 100 trí thức hàng đầu của thế giới do các tạp chí “Prospect” và
“Foreign Affairs” lập ra gần đây (Castree, 2010:161).
2. Nội dung lý thuyết toàn cầu hoá của Anthony Giddens
2.1. Khái niệm toàn cầu hoá
Là khái niệm phản ánh thế giới chúng ta đang sống, trong đó các cá nhân, các nhóm,
các quốc gia ngày càng phụ thuộc nhau. Toàn cầu hoá là quá trình đã bắt đầu từ rất lâu trong
lịch sử loài người, chứ không chỉ giới hạn trong xã hội đương đại.
2.2. Các nhân tố tạo nên toàn cầu hoá
2.2.1 Sự phát triển của công nghệ thông tin và truyền thông
Công nghệ thông tin và truyền thông bao gồm các thiết bị như điện thoại di động,
truyền hình cable, Internet...
Các thiết bị này tạo nên sự toàn cầu hoá bằng cách: Hàng ngày truyền thông toàn cầu
mang tin tức, hình ảnh, thông tin đến từng nhà, từng cá nhân, liên kết họ một cách trực tiếp và
liên tục. Vì vậy các cá nhân ngày càng phụ thuộc vào người khác, trách nhiệm cá nhân không
chỉ dừng lại trong đường biên giới quốc gia, quan niệm vè bản sắc thay đổi.
2.2.2. Các nhân tố kinh tế
Các nhân tố kinh tế bao gồm hoạt động kinh tế xuyên quốc gia, tập đoàn xuyên quốc
gia, nền kinh tế điện tử đã tác động trực tiếp và tạo ra sự toàn cầu hoá.

3


2.2.3. Những biến đổi chính trị
Cuối cùng, những biến đổi chính trị cũng là một nhân tố tạo nên sự toàn cầu hoá, trong
đó phải kể đến tác động của việc thay đổi các đường ranh giới sau chiến tranh lạnh; Sự phát
triển các thể chế khu vực và quốc tế; Và các tổ chức chính phủ và phi chính phủ quốc tế.
2.3. Tranh luận về toàn cầu hoá
Có nhiều quan điểm khác nhau về toàn cầu hoá:

 Những người theo chủ nghĩa hoài nghi: Toàn cầu hoá được đánh giá quá cao, sự phụ
thuộc lẫn nhau hiện nay không phải là chưa có tiền lệ.
 Những người Hyperglobalizer: Toàn cầu hoá là hiện tượng thực, đầy sức mạnh và đe
doạ làm xói mòn các chính phủ quốc gia.
 Những người Transformationalist: Toàn cầu hoá đang làm chuyển đổi nhiều chiều
cạnh của trật tự toàn cầu hiện đại, nhưng những khuôn mẫu cũ vẫn được duy trì.
2.4. Hệ quả của toàn cầu hoá
Về cơ hội, toàn cầu hoá tạo ra sự lai tạo/giao thoa văn hoá, kinh tế toàn cầu, và công
dân toàn cầu. Các tổ chức quốc tế đang tạo nên khuôn khổ quân sự, luật pháp, chính trị toàn
cầu. Bất cứ phần nào của thế giới cũng là một bộ phận không thể tách rời của đời sống hàng
ngày trên thế giới. Đồng thời toàn cầu hoá cũng làm gia tăng chủ nghĩa cá nhân: Mọi lựa chọn
của chúng ta trong đời sống hàng ngày cũng là một phần của quá trình tạo ra và tái tạo lại bản
sắc của chúng ta.
Về thách thức, toàn cầu hoá tạo ra những thách thức xuyên biên giới và vượt tầm của
các cấu trúc chính trị hiện tại. Các chính phủ hiện tại không đơn lẻ giải quyết các vấn đề
xuyên biên giới nên cần có cách quản trị toàn cầu để giải quyết các vấn đề toàn cầu một cách
toàn cầu.

3. Vận dụng lý thuyết: Vận dụng quan điểm của Giddens về toàn cầu hoá để phân tích
một ví dụ trong thực tế: Mối quan hệ phụ thuộc giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc.
3.1. Giới thiệu về Hoa Kỳ và Trung Quốc
4


3.1.1. Giới thiệu về Hoa Kỳ

Hoa Kỳ, còn gọi là Mỹ, tên đầy đủ: Hợp chúng quốc Hoa Kỳ hoặc Hợp chúng quốc
Mỹ (tiếng Anh: United States of America viết tắt là U.S hoặc USA), là một cộng hòa lập
hiến liên bang gồm có: 50 tiểu bang và một đặc khu liên bang. Với 9,83 triệu km² và 322,3
triệu dân (2015), Hoa Kỳ là quốc gia lớn thứ 3 về tổng diện tích và thứ 3 về dân số trên thế

giới. Hoa Kỳ là một trong những quốc gia đa dạng chủng tộc nhất trên thế giới, do kết quả
của những cuộc di dân đến từ nhiều quốc gia khác trên thế giới.
Nền kinh tế quốc dân của Hoa Kỳ lớn nhất trên thế giới (tính trên giá trị danh nghĩa)
và đứng thứ 2 thế giới (sau Trung Quốc) tính theo sức mua tương đương. Tổng sản phẩm nội
địa (GDP) của Mỹ được ước tính cho năm 2015 là trên 18,1 ngàn tỉ đô la (khoảng 23% tổng
sản lượng thế giới dựa trên GDP danh nghĩa, và khoảng 16% theo sức mua tương đương).
GDP bình quân đầu người của Hoa Kỳ là 56.421 đô-la, đứng hạng 5 thế giới theo giá trị
thực và hạng 10 theo sức mua tương đương. Đến cuối thế kỷ 19, Hoa Kỳ đã mở rộng
đến Thái Bình Dương và trở thành nền kinh tế lớn nhất thế giới. Chiến tranh Tây Ban Nha Hoa Kỳ và Chiến tranh thế giới thứ nhất đã xác định vị thế cường quốc quân sự toàn cầu của
Hoa Kỳ. Chiến tranh thế giới thứ hai đã xác định vị thế siêu cường toàn cầu của Hoa Kỳ, là
quốc gia đầu tiên có vũ khí hạt nhân và là một trong năm thành viên thường trực của Hội
đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc. Là siêu cường duy nhất còn lại sau Chiến tranh Lạnh, Hoa Kỳ
được nhiều quốc gia nhìn nhận như là một thế lực quân sự, văn hóa, và kinh tế có ảnh hưởng
lớn nhất trên thế giới. Tuy nhiên, xã hội Mỹ cũng đang tồn tại những vấn đề nan giải khó giải
quyết (chênh lệch giàu nghèo cao, nạn xả súng bừa bãi, nạn phân biệt chủng tộc, tỷ lệ tội
phạm cao, chi phí y tế đắt đỏ...).
3.1.2. Giới thiệu về Trung Quốc
Trung Quốc (tiếng Trung: 中 中 ), tên chính thức là nước Cộng hòa Nhân dân Trung
Hoa (tiếng Trung: 中华华华华华华), là một quốc gia có chủ quyền nằm tại Đông Á. Đây là quốc
gia đông dân nhất trên thế giới với số dân trên 1,382 tỷ người. Trung Quốc là quốc gia độc
5


đảng do Đảng Cộng sản cầm quyền, chính phủ trung ương đặt tại thủ đô Bắc Kinh. Với diện
tích xấp xỉ 9,6 triệu km², Trung Quốc là quốc gia có diện tích lục địa lớn thứ nhì trên thế giới
và là quốc gia có tổng diện tích lớn thứ ba hoặc thứ tư trên thế giới, tùy theo phương pháp đo
lường.
Trong hầu hết thời gian trong hai nghìn năm qua, kinh tế Trung Quốc được xem là nền
kinh tế lớn và phức tạp nhất trên thế giới. Kể từ khi tiến hành cuộc cải cách kinh tế vào năm
1978, Trung Quốc trở thành một trong các nền kinh kế lớn có mức tăng trưởng nhanh nhất.

Đến năm 2014, nền kinh tế Trung Quốc đã đạt vị trí số một thế giới tính theo sức mua tương
đương (PPP) và duy trì ở vị trí thứ hai tính theo giá trị thực tế. Trung Quốc được công nhận là
một quốc gia sở hữu vũ khí hạt nhân và có quân đội thường trực lớn nhất thế giới, với ngân
sách quốc phòng lớn thứ nhì. Nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa trở thành một thành viên
của Liên Hiệp Quốc từ năm 1971, khi chính thể này thay thế Trung Hoa Dân Quốc trong vị
thế thành viên thường trực của Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc. Trung Quốc cũng là thành
viên của nhiều tổ chức đa phương chính thức và phi chính thức, trong đó
có WTO, APEC, BRICS, SCO, và G-20. Một điều lưu ý rằng Trung Quốc thiếu ảnh hưởng
quân sự và văn hóa như Hoa Kỳ.
3.2. Biểu hiện của toàn cầu hoá - Biểu hiện của mối quan hệ phụ thuộc
Trong bài nghiên cứu tôi sẽ chỉ ra các sự kiện thể hiện mối quan hệ phụ thuộc chủ yếu.
Qua đó chứng minh rằng bất kỳ động thái của một nước cũng gây ảnh hưởng đến bản thân
nước đó đến các nước xung quanh. Đó thể hiện cho việc toàn cầu hoá đang biến các nước
ngày càng trở nên phụ thuộc, không thể tách rời nhau hơn.
Sự phụ thuộc lẫn nhau ngày càng chặt chẽ giữa Trung Quốc và Hoa Kỳ vì lý do phát
triển bền vững đã làm cho hai nước rơi vào một “bẫy phụ thuộc lẫn nhau” (codependency
trap) kinh điển, gây cản trở cho những thay đổi trong quy tắc giao thiệp giữa hai bên. Những
triệu chứng của chứng bệnh âm ỉ này đã thể hiện rõ trong chuyến công du của Chủ tịch Trung
Quốc Tập Cận Bình đến Hoa Kỳ trong thời gian gần đây. Chuyến đi đã không thu được nhiều
kết quả, và con đường phía trước vẫn còn khá chông gai.
6


Sự phụ thuộc lẫn nhau giữa Mỹ và Trung Quốc bắt đầu hình thành vào cuối những
năm 1970 khi Mỹ lúc bấy giờ đang phải đương đầu với nạn lạm phát đi kèm tăng trưởng trì
trệ, cùng lúc với việc nền kinh tế Trung Quốc cũng rơi vào tình trạng hỗn loạn theo sau cuộc
Cách mạng Văn hoá. Cả hai quốc gia đều cần đến những công thức mới cho sự hồi sinh và
tăng trưởng của mình và do đó đã đến với nhau trong một cuộc hôn nhân vụ lợi. Trung Quốc
cung cấp hàng hoá giá rẻ cho những người Mỹ có thu nhập thấp để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng
trong khi Mỹ lại đem đến nhu cầu bên ngoài giúp củng cố chiến lược tăng trưởng chủ yếu dựa

vào xuất khẩu của Đặng Tiểu Bình. Qua thời gian, cơ chế hợp tác này đã dần chuyển hoá
thành một mối quan hệ sâu sắc hơn. Thiếu các khoản tiết kiệm nhưng có nhu cầu tăng trưởng,
Hoa Kỳ đã ngày càng lệ thuộc vào nguồn dự trữ tiết kiệm thặng dư khổng lồ của Trung Quốc
để đáp ứng nhu cầu của mình. Cùng với việc neo đồng Nhân dân tệ vào đồng đô la, Trung
Quốc đã thu mua một lượng lớn trái phiếu chính phủ Hoa Kỳ, qua đó giúp Hoa Kỳ có tiền bù
đắp cho những khoản thâm hụt ngân sách khổng lồ. Hoa Kỳ cung cấp cho Trung Quốc cả sự
ổn định và động lực tăng trưởng. Trung Quốc cho phép Hoa Kỳ tránh được những nguy cơ
ngày càng tăng của tình trạng thiếu tiết kiệm, chính sách tài khóa thiếu thận trọng, và tăng
trưởng thu nhập hộ gia đình yếu.
Tuy nhiên, sự phụ thuộc lẫn nhau trên lĩnh vực kinh tế cũng rất không ổn định, tương
tự như sự phụ thuộc lẫn nhau giữa con người với nhau vậy. Khi một đối tác thay đổi, đối tác
còn lại sẽ rơi vào tình trạng chới với, đồng thời cảm thấy như bị xem thường. Trung Quốc
hiện đang thay đổi, và Hoa Kỳ rõ ràng là không thích điều này. Trung Quốc giờ đây không chỉ
tái cân bằng mô hình kinh tế từ xuất khẩu sang tiêu dùng trong nước; mà còn đang định nghĩa
lại tính cách quốc gia. Trung Quốc đã áp dụng các chính sách đối ngoại cứng rắn hơn tại Biển
Đông, ôm ấp mong muốn mãnh liệt hồi sinh dân tộc, cái mà Tập Cận Bình gọi là “giấc mộng
Trung Hoa”. Bên cạnh đó, Trung Quốc đã bắt đầu định hình lại cấu trúc tài chính toàn cầu với
những tổ chức mới như Ngân hàng Đầu tư Cơ sở hạ tầng Châu Á, Ngân hàng Phát triển mới,
và Quỹ con đường tơ lụa. Những phản ứng của Hoa Kỳ đã chọc giận Trung Quốc, đặc biệt là
vì cái mà Hoa Kỳ gọi là “xoay trục sang châu Á” hay “chiến lược tái cân bằng” với ẩn ý là
nhằm ngăn chặn Trung Quốc. Mỹ thừa nhận sự cần thiết phải tăng cường vai trò của Trung
7


Quốc trong các thể chế Bretton Woods hiện hữu (Quỹ Tiền tệ Quốc tế và Ngân hàng Thế
giới); nhưng dù Mỹ không thực hiện lời hứa này, Mỹ đã gây khó dễ cho việc xây dựng thể
chế của Trung Quốc. Và trong khi Mỹ từ lâu đã thúc giục Trung Quốc hướng mô hình tăng
trưởng của mình sang tiêu dùng cá nhân, thì Mỹ vẫn không cảm thấy thoải mái với nhiều hệ
quả của sự thay đổi này.
Nhìn chung, sự khó chịu của Hoa Kỳ thể hiện sự thất bại của quốc gia này trong việc

giải quyết các vấn đề kinh tế cốt lõi – chủ yếu là tình trạng thiếu tiết kiệm trong nước. Tỷ lệ
tiết kiệm ròng của quốc gia (bao gồm của các doanh nghiệp, hộ gia đình, và chính phủ cộng
lại) chỉ đạt ở mức 2,9% tổng thu nhập quốc dân vào thời điểm giữa năm 2015, ít hơn một nửa
so với tỉ lệ trung bình 6,3% của ba thập niên cuối của thế kỷ 20. Khi Trung Quốc chuyển từ
thặng dư tiết kiệm sang tiêu dùng tiết kiệm – sử dụng thặng dư tiết kiệm của mình để xây
dựng một mạng lưới an sinh xã hội cho người dân Trung Quốc thay vì bù đắp cho các khoản
tiết kiệm thiếu hụt của người Mỹ – một nước Mỹ thiếu tiết kiệm sẽ gặp khó khăn trong việc
lấp đầy khoảng trống này. Chính sách tiền tệ của Mỹ cho thấy một lớp khác của sự phụ thuộc
lẫn nhau này. Bằng cách viện dẫn những quan ngại quốc tế – đặc biệt là về tốc độ tăng trưởng
chậm lại của Trung Quốc – làm nguyên do chính để trì hoãn việc tăng lãi suất vào tháng Chín,
điều vốn đã được chờ đợi từ lâu, Cục Dự trữ Liên bang đã cho thấy vai trò chính yếu của
Trung Quốc trong việc duy trì sự phục hồi vốn còn mong manh của Mỹ. Bằng chứng đã rất rõ
ràng: Xuất khẩu của Mỹ, vốn đã đạt đến mức kỷ lục 13,7% tổng GDP trong Quý IV năm 2013
(Quý I năm 2009 chỉ chiếm 10,6%), lại giảm trở lại còn 12,7% tổng GDP vào giữa năm 2015.
Với thực trạng nhu cầu trong nước vẫn còn rất thấp – mức tiêu thụ thực tế chỉ tăng trung bình
ở tốc độ yếu là 1,4% trong suốt 7 năm rưỡi qua – Hoa Kỳ đang cần tăng trưởng xuất khẩu hơn
bao giờ hết. Và do đó, triển vọng của Trung Quốc, với tư cách là thị trường xuất khẩu lớn thứ
ba và có tốc độ tăng trưởng nhanh chóng nhất của Hoa Kỳ, là rất quan trọng đối với một Cục
Dự trữ Liên bang vốn đã không thể phát huy nhiều tác dụng từ các chính sách tiền tệ trái lệ
sau khủng hoảng tài chính.
Khía cạnh này của sự phụ thuộc lẫn nhau mang tính toàn cầu. Trong suốt thập niên
qua, Trung Quốc đã luôn mang lại khoảng 1,6% tăng trưởng GDP toàn cầu – hơn gấp đôi mức
8


0,7% của các nền kinh tế tiên tiến trên thế giới cộng lại. Và thậm chí nếu tốc độ tăng trưởng
GDP của Trung Quốc giảm xuống còn ở mức 6,8% trong những năm gần đây, Trung Quốc
vẫn sẽ đóng góp cho tăng trưởng toàn cầu nhỉnh hơn các nước phát triển của thế giới. Không
mấy ngạc nhiên khi triển vọng tăng trưởng của Trung Quốc vẫn sẽ tiếp tục là một mối quan
tâm hàng đầu đối với các nhà hoạch định chính sách trên toàn thế giới.


Tổng sản lượng cúa Mỹ và Trung Quốc. Nguồn: Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF)

Trong thời gian 22 năm (1993-2015) tổng sản lượng quốc gia GNP của Trung Quốc tăng gấp
26 lần, GNP của Hoa Kỳ chỉ tăng 3 lần. Trung Quốc phát triển với tốc độ trung bình 8 - 9%
một năm, nhanh gấp 4 - 5 lần Hoa Kỳ. Theo tài liệu của IMF năm 2016 GNP của Trung Quốc
tính theo hối suất chính thức là 11,391 tỉ đô la nghĩa là bằng gần 2/3 của Hoa Kỳ (18,561 tỉ)
nhưng theo sức mua tương đương, phản ảnh tương đối giá trị thực của mỗi nền kinh tế thì
GNP của Trung Quốc là 21, 269 tỉ – đã lớn hơn của Hoa Kỳ.
Tại buổi nói chuyện ở Seattle vào ngày 22 tháng 9 năm 2015, ông Tập nhấn mạnh việc
Hoa Kỳ và Trung Quốc cần làm sâu sắc hơn “sự thấu hiểu các dự định chiến lược của nhau”,
coi đó là một mục tiêu quan trọng cho quan hệ song phương. Tuy nhiên, những trao đổi của
ông Tập với Tổng thống Barack Obama rõ ràng là thiếu đề cập đến khía cạnh đó. Chương
trình nghị sự giữa hai bên được định hình bởi phần nhiều những vấn đề tách biệt nhau như an
ninh mạng, biến đổi khí hậu, và tiếp cận thị trường hơn là sự quan tâm đến những thách thức
9


chiến lược mà cả hai đều đang phải một mình hay cùng nhau đối mặt. Hơn thế, không có
nhiều dấu hiệu cho thấy sự tiến triển thực chất ngay cả trong những vấn đề mà Tập và Obama
đã thảo luận. Cả hai bên đều ca ngợi cam kết mới đạt được trong việc trao đổi cấp cao về vấn
đề an ninh mạng; tuy nhiên Hoa Kỳ sắp tới sẽ áp đặt các lệnh trừng phạt đối với các công ty
Trung Quốc thu lợi từ việc xâm nhập hệ thống máy tính bất hợp pháp. Tương tự, hai bên tiếp
tục nhấn mạnh sự cần thiết phải có một hiệp định đầu tư song phương “tiêu chuẩn cao” nhưng
lại ít có dấu hiệu cho thấy những bước đi nghiêm túc đối với những ngành công nghiệp sẽ
được miễn trừ khỏi một thỏa thuận như vậy. Trung Quốc cũng đã công bố một thay đổi quan
trọng trong chính sách môi trường: hệ thống hạn chế và buôn bán khí thải cắt giảm áp dụng
trên toàn quốc và sẽ có hiệu lực vào năm 2017. Tuy nhiên, nếu không có những hành động
tương tự xuất phát từ phía Hoa Kỳ, những bước đi của Trung Quốc khó có thể làm dịu đi
những mối đe dọa do biến đổi khí hậu mang lại.

Bị kẹt trong một mạng lưới phụ thuộc lẫn nhau, mối quan hệ Mỹ – Trung đã trở nên
đầy rẫy những xích mích và chỉ trích lẫn nhau. Trong hành vi của con người, kết cục của tình
trạng này thường là một sự chia tay. Cuộc gặp gỡ thượng đỉnh năm 2015 giữa Tổng thống
Obama và Chủ tịch Tập Cận Bình đã không thể làm được gì nhiều để xua tan khả năng này.
3.3. Hệ quả của toàn cầu hóa đối với Hoa Kỳ và Trung Quốc
Một trong những tác động tiêu cực rõ nhất của toàn cầu hoá là làm tăng cách biệt giàu
nghèo và bất bình đẳng. Hội nhập quốc tế càng sâu rộng, các nền kinh tế càng phải đối mặt
với sự khác biệt về thu nhập giữa các tầng lớp nhân dân trong một nước và cả giữa các nước
với nhau. Từ đó, một tầng lớp dân nghèo mới xuất hiện và ngày càng tăng nhanh, làm thay
đổi môi trường chính trị. Cùng với sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ thông tin và khả
năng ứng dụng của nó trong việc liên kết các thị trường, sức ép giảm tiền lương ngày càng
tăng, mặc dù nhóm những người có vị trí cao trong thị trường lao động ít bị tác động trước
sức ép này. Trên thực tế, người giàu càng trở nên giàu hơn trong khi phần còn lại của lực
lượng lao động thì không. Điều này làm khoảng cách về thu nhập tại cả các nước phát triển và
đang phát triển ngày càng tăng.
10


Mỹ và Trung Quốc là hai thí dụ điển hình. Toàn cầu hoá là nguyên nhân dẫn đến bất
bình đẳng cao ở Mỹ và Trung Quốc – 2 quốc gia có sự phụ thuộc lớn, tuy nhiên tác động của
toàn cầu hoá tới từng nước lại không giống nhau.
Theo số liệu mới nhất, Mỹ và Trung Quốc nằm trong nhóm những nền kinh tế lớn có
hệ số Gini cao nhất (lần lượt là 41 và 45) (Hệ số Gini: là thước đo mang tính thống kê về sự
phân hoá thu nhập trong một nước. Hệ số Gini bằng 0 thể hiện sự bình đẳng lý tưởng; ngược
lại, hệ số Gini bằng 100 thể hiện sự bất bình đẳng hoàn toàn: Thu nhập của quốc gia chủ yếu
tập trung vào tay một nhóm người giàu. Hệ số Gini càng cao chứng tỏ bất bình đẳng càng
lớn), phản ánh tình trạng bất bình đẳng sâu sắc hơn nhiều so với các nước có phân phối thu
nhập tương đối đồng nhất hơn như Nhật Bản (25), châu Âu (32) và thậm chí cả Ấn Độ (33).
Trong trường hợp của Mỹ, bất bình đẳng thu nhập không phải là một vấn đề mới mẻ.
Hệ số Gini của Mỹ tăng lên trong suốt hơn 35 năm qua - từ mức 35 (năm 1970) lên mức hơn

40 hiện nay. Về lý thuyết, trong các thị trường lao động cạnh tranh thực sự như ở Mỹ, tiền
lương phải tỷ lệ thuận với tốc độ tăng năng suất. Tuy nhiên điều này đã không xảy ra ở Mỹ
trong những năm gần đây. Trong hơn 16 quý gần đây, sản lượng trong khu vực phi nông
nghiệp của Mỹ đã tăng 13,3% (3,3%/năm) - cao gấp hơn hai lần so với mức tăng của tiền
lương bình quân thực tế tính theo giờ (5,9%). Khi tác động của quá trình toàn cầu hoá tăng
lên, tốc độ tăng năng suất lao động và tiền lương của người lao động không còn tỷ lệ thuận
với nhau nữa. Hiện tượng này xảy ra trước tiên là trong ngành sản xuất và hiện tại là trong
ngành dịch vụ. Việc hội nhập thị trường lao động toàn cầu có xu hướng đẩy mức lương tại Mỹ
xuống bằng mức lương trung bình của thế giới. Nhờ Internet được áp dụng ngày càng rộng
rãi, việc tuyển dụng lao động toàn cầu đã được thực hiện ở cả những lĩnh vực trước đây
không có sự cạnh tranh lớn về lương. Lần đầu tiên trong lịch sử, kinh tế Mỹ đã bắt đầu chịu
ảnh hưởng ngày càng tăng của hoạt động tuyển dụng lao động toàn cầu. Mạng Internet đã làm
thay đổi hoàn toàn môi trường cạnh tranh của hầu hết các lao động trí thức. Nhờ kết nối
mạng, thông tin về lao động trí thức có thể được gửi từ mọi nơi trên thế giới. Các lao động giá
rẻ, được đào tạo tốt và có trình độ ở một số nơi như Bangalo (Ấn Độ), Thượng Hải (Trung
Quốc), Đông và Trung Âu đã có thể gia nhập thị trường lao động trí thức toàn cầu, gây ra sự
11


cạnh tranh rất lớn đối với các lao động trí thức tại Mỹ. Kết quả là, áp lực giảm tiền lương thực
tế ở các nền kinh tế mở như Mỹ tăng lên rất cao. Tuy nhiên một nhóm nhỏ những lao động ở
những vị trí cao nhất lại ít bị tác động bởi tình trạng này. Điều này đã làm tăng thêm bất bình
đẳng về thu nhập tại Mỹ. Đây cũng là vấn đề kinh tế có khả năng gây căng thẳng chính trị
nhiều nhất ở Mỹ.
Tại Trung Quốc, những vấn đề bất bình đẳng lại hoàn toàn khác. Trung Quốc hiện tồn
tại hai bức tranh kinh tế: Kinh tế phát triển mạnh tại khu vực duyên hải đang đô thị hoá nhanh
chóng và sự trì trệ ở những vùng nông thôn miền Trung và miền Tây. Trong khi toàn bộ 560
triệu dân thành thị Trung Quốc hiện đang bị cuốn vào làn sóng phát triển kinh tế nhanh của
đất nước, thì vẫn còn khoảng 745 triệu người dân nông thôn đứng ngoài cuộc. Điều đáng chú
ý là xu hướng di cư từ nông thôn ra thành thị ngày càng tăng không có mấy tác dụng đối với

việc giải quyết sự bất bình đẳng về phân phối thu nhập trong 15 năm qua tại Trung Quốc. Thu
nhập bình quân đầu người của dân cư thành thị Trung Quốc (ở mức 1.531 USD/năm tại 35
thành phố phát triển nhất năm 2004) cao hơn 3 lần so với thu nhập bình quân đầu người tại khu
vực nông thôn (488 USD/năm). Việc hệ số Gini của Trung Quốc tăng từ 35 (năm 1990) lên 45
(năm 2003) không chỉ cho thấy chênh lệch thu nhập ngày càng tăng giữa khu vực ven biển của
Trung Quốc và các vùng còn lại của đất nước, mà còn cho thấy sự gia tăng bất bình đẳng về thu
nhập ngay tại khu vực thành thị. Một báo cáo của Viện khoa học xã hội Trung Quốc cho biết
thu nhập bình quân của những công nhân nghèo nhất ở khu vực thành thị của Trung Quốc chưa
bằng 5% thu nhập trung bình của những người có địa vị cao hơn. Vì vậy, sự bất bình đẳng về
thu nhập đang là vấn đề lớn cần được giải quyết tại đây.

4. Kết luận

Đúng như giả thuyết của tác giả Anthony Giddens, thế giới chúng ta đang sống,
trong đó các cá nhân, các nhóm, các quốc gia ngày càng phụ thuộc nhau, thể hiện qua
ví dụ cụ thể từ Hoa Kỳ,Trung Quốc và mối quan hệ giữa hai quốc gia đó.

12


Toàn cầu hoá chính là con dao hai lưỡi, đòi hỏi các quốc gia phải có sự sáng suốt
để quyết định các chính sách sao cho tận dụng được những cơ hội mà toàn cầu hoá
mang lại và giải quyết những thách thức mà toàn cầu hoá đưa ra.

13


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Stephen S. Roach.“The Sino - American Codependency Trap”, Project Syndicate,


28/09/2015. (Biên dịch: Trần Tuấn Minh)
2. The Observer, “Bẫy phụ thuộc lẫn nhau và quan hệ Mỹ - Trung”, truy cập 30/05/2017:

/>3. The Observer, “Sự đồng thuận của Mỹ về Trung Quốc đang dần đổ vỡ?”, truy cập
31/05/2017:
/>4. “World Economic Outlook Database: United States”. International Monetary Fund. 10/

2014, truy cập 31/05/2017
5. Dahlman, Carl J; Aubert, Jean-Eric. “China and the Knowledge Economy: Seizing the

21st Century. WBI Development Studies”. Học viện Khoa học Giáo dục, truy cập
31/05/2017
6. John W. Garver (1997). The Sino-American alliance: Nationalist China and American

Cold War strategy in Asia. M.E.Sharpe. (tr.169). ISBN 0-7656-0025-0, truy cập
31/05/2017
7. “Development through Globalization?” Trường Đại học Quốc gia Mỹ, 3/2006.

14



×