Tải bản đầy đủ (.pdf) (80 trang)

Giáo dục phổ thông huyện Vĩnh Bảo, thành phố Hải Phòng từ năm 1996 đến năm 2016

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.19 MB, 80 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

Trần Thị Hương

GIÁO DỤC PHỔ THÔNG HUYỆN VĨNH BẢO,
THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG
TỪ NĂM 1996 ĐẾN NĂM 2016
Chuyên ngành: Lịch sử Việt Nam
Mã số: 8229013

LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
PGS.TS. Trần Đức Cường

HÀ NỘI, 2018


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số
liệu, kết quả nêu trong luận văn là trung thực, có nguồn gốc rõ ràng và được
trích dẫn đầy đủ theo quy định.
Tác giả

Trần Thị Hương


LỜI CẢM ƠN


Bằng tình cảm chân thành của mình, em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc
tới .....đã cung cấp nguồn kiến thức, luôn giúp đỡ và tạo điều kiện thuận lợi để
em hoàn thành tốt nhiệm vụ học tập cũng như kết quả nghiên cứu thực tiễn
của mình.
Với sự trân trọng và lòng biết ơn sâu sắc, em xin cảm ơn PGS.TS. Trần
Đức Cường là thầy giáo, người hướng dẫn khoa học đã tận tình chỉ bảo và
giúp đỡ trong suốt quá trình nghiên cứu và hoàn thành luận văn. Tác giả cũng
xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ nhiệt tình của Phòng Giáo dục và Đào tạo
huyện Vĩnh Bảo, các đồng chí cán bộ quản lý, giáo viên, học sinh các trường
trung học phổ thông huyện Vĩnh Bảo, các bạn đồng nghiệp và người thân đã
nhiệt tình giúp đỡ, cung cấp tài liệu, số liệu, thông tin bổ ích; đã động viên,
khích lệ trong suốt quá trình học tập nghiên cứu và hoàn thành luận văn này.
Mặc dù tác giả đã có nhiều cố gắng trong quá trình thực hiện đề tài,
song không thể tránh khỏi những thiếu sót. Rất mong được sự chỉ dẫn, góp ý
và giúp đỡ quý báu của các thầy cô giáo và các bạn đồng nghiệp để luận văn
được bổ sung và hoàn thiện hơn.
Xin trân trọng cảm ơn!
Hải Phòng, tháng 5 năm 2018
Tác giả luận văn

Trần Thị Hương


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Giáo dục đào tạo là một lĩnh vực quan trọng. Đối với nhiều quốc gia, giáo
dục đào tạo đã và đang trở thành lực lượng vật chất thực thụ, có ý nghĩa quyết
định đối với sự phát triển về kinh tế, xã hội cũng như quyết định vị thế, sự
bình đẳng giữa các quốc gia, dân tộc trong khu vực hay trên thế giới. Từ xa
xưa, giáo dục đào tạo đã trở thành nơi sản sinh ra những bậc hiền tài - nguyên

khí của quốc gia. Cho nên, muốn thấy sự tiến bộ của một đất nước, người ta
thường nghĩ ngay đến thước đo về giáo dục đào tạo, nhìn vào mặt bằng dân trí
nói chung. Chính vì nhận thức được điều đó, cho nên trong nhiều thế kỉ qua,
giáo dục đào tạo trở thành mảng công việc được cả xã hội Việt Nam đặc biệt
quan tâm. Việc tập trung đầu tư phát triển nguồn nhân lực đạt trình độ cao
toàn diện về đức – trí – thể - mĩ, đáp ứng được yêu cầu phát triển kinh tế - xã
hội của đất nước trong xu thế quốc tế hóa, toàn cầu hóa hiện nay là một đòi
hỏi khách quan. Hiến pháp 2013 của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt
Nam đã khẳng định “Phát triển giáo dục là quốc sách hàng đầu nhằm nâng
cao dân trí, phát triển nguồn nhân lực, bồi dưỡng nhân tài”. Việt Nam là một
trong những quốc gia rất coi trọng sự phát triển của giáo dục đào tạo, đã và
đang củng cố xây dựng nền giáo dục thực sự vững mạnh và có chất lượng.
Trong hệ thống giáo dục quốc dân, Đảng và Nhà nước luôn quan tâm, tập
trung đầu tư nhiều cho giáo dục phổ thông vì cấp học này là một bộ phận
quan trọng, mang những đặc thù riêng, là nền tảng cơ bản quyết định chất
lượng của hệ thống giáo dục Việt Nam. Giáo dục phổ thông dành cho lứa tuổi
từ 6 đến 18 tuổi. Với lứa tuổi này, các em từ bước đi chập chững, từ nhận biết
đơn sơ tiến lên nắm bắt được những kiến thức cơ bản nhất và định hướng
được hướng phát triển cuộc sống của mình. Chính giáo dục phổ thông đã góp
phần không nhỏ đào tạo những con người phát triển toàn diện, giàu kỹ năng
1


sống, trở thành công dân tốt và tài năng của đất nước. “Giáo dục phổ thông là
nền tảng văn hóa của một nước, là sức mạnh tương lai của một dân tộc. Nó
đặt cơ sở vững chắc cho sự phát triển toàn diện con người Việt Nam xã hội
chủ nghĩa, đồng thời chuẩn bị lực lượng lao động dự trữ và nguồn tuyển chọn
để đào tạo công nhân và cán bộ cần thiết cho sự nghiệp xây dựng kinh tế,
phát triển văn hóa và tăng cường quốc phòng” (Nghị quyết của Bộ Chính trị
Trung ương Đảng khóa IV, số 14 – NQ/TW ngày 11/1/1979, về cải cách giáo

dục).
Hải Phòng là thành phố lớn thứ ba của cả nước, nơi hội tụ nhiều điều kiện
thuận lợi để trở thành trung tâm văn hóa – giáo dục của miền duyên hải Bắc
Bộ. Nhận thức vai trò “xương sống”, “bản lề” của giáo dục phổ thông trong
hệ thống giáo dục quốc dân, lãnh đạo thành phố Hải Phòng thường xuyên
quan tâm, chăm lo, tạo điều kiện để giáo dục phổ thông toàn thành phố từng
bước đổi mới và phát triển vững chắc, đạt được nhiều thành tựu quan trọng.
Trên tinh thần chỉ đạo chung đó, giáo dục phổ thông huyện Vĩnh Bảo thuộc
thành phố Hải Phòng trong những năm qua đã có những bước tiến rõ rệt về
chất lượng đội ngũ giáo viên, về số học sinh khá giỏi, số học sinh đạt giải cao
trong các kì thi trung học phổ thông, thi học sinh giỏi cấp tỉnh, cấp quốc gia,
góp phần thúc đẩy sự phát triển giáo dục của thành phố Hải Phòng trong thời
kì công nghiệp hóa – hiện đại hóa. Tuy nhiên, bên cạnh những thành công đó,
giáo dục phổ thông trên địa bàn huyện Vĩnh Bảo cũng đã và đang đứng trước
một loạt thách thức, khó khăn, bất cập trước những đòi hỏi của chủ trương
công nghiệp hóa, hiện đại hóa và cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 đang đặt
ra. Nguyên nhân dẫn đến những thành công và hạn chế đó là gì, giải pháp nào
để khắc phục hạn chế và đưa sự nghiệp giáo dục phổ thông huyện Vĩnh Bảo
đạt được những thành tựu cao hơn nữa, nhằm đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc
tế của thành phố Hải Phòng cũng như của đất nước hiện nay.
2


Là một người hiện đang công tác trong ngành giáo dục huyện Vĩnh Bảo,
tôi thực sự quan tâm đến những thuận lợi, khó khăn cũng như những thành
công và chưa thành công của ngành giáo dục huyện Vĩnh Bảo nói riêng và
thành phố Hải Phòng nói chung.
Xuất phát từ những lí do trên, tôi chọn đề tài “Giáo dục phổ thông huyện
Vĩnh Bảo, thành phố Hải Phòng từ năm 1996 đến năm 2016” làm đề tài
Luận văn Thạc sĩ, chuyên ngành Lịch sử Việt Nam.

2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Giáo dục nói chung, giáo dục phổ thông nói riêng là nội dung quan trọng,
quyết định đến sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Chính vì vậy, đây
là vấn đề nhận được sự quan tâm của nhiều cấp lãnh đạo, nhiều nhà quản lí,
nhà khoa học, nhà giáo cũng như của mỗi người dân. Sự kết hợp chặt chẽ giữa
gia đình, nhà trường và xã hội sẽ là điều kiện quan trọng thúc đẩy sự phát
triển của giáo dục phổ thông. Cho đến nay, đã có một số công trình nghiên
cứu với những góc độ khác nhau, có thể tập trung thành các nhóm công trình
tiêu biểu liên quan đến đề tài này như sau:
2.1. Nhóm công trình đề cập đến giáo dục nói chung
Các công trình mang tính lí luận giáo dục nói chung của các nhà lãnh đạo
Đảng và Nhà nước Việt Nam, tiêu biểu như:
Chủ tịch Hồ Chí Minh có các tác phẩm “Vấn đề giáo dục”, Nxb Giáo dục,
Hà Nội, 1990 và“Bàn về công tác giáo dục”, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1992. Các
tác phẩm này đều nhấn mạnh giáo dục phải phục vụ cho sự nghiệp xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc; học đi đôi với hành; lí luận phải liên hệ với thực tế; giáo
dục đạo đức là hàng đầu; giáo dục là sự nghiệp của quần chúng, nhà trường
phải liên hệ chặt chẽ với gia đình và xã hội.
Cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng có các tác phẩm “Mấy vấn đề về văn hóa
giáo dục”, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1980, “Về vấn đề giáo dục – đào tạo”, Nxb
3


Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1999 và “Giáo dục đào tạo quốc sách hàng đầu,
tương lai của dân tộc”, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2008. Các tác phẩm
đó đề cập đến vai trò quan trọng của giáo dục, coi đó là nhân tố không chỉ làm
nên sự nghiệp của một con người mà là động lực làm nên lịch sử của một dân
tộc và của cả loài người.
“Phát triển mạnh mẽ giáo dục – đào tạo phục vụ đắc lực sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước” của nguyên Tổng bí thư Đỗ Mười, đăng

trên Tạp chí nghiên cứu giáo dục, tháng 1/1996. Bài viết nhấn mạnh sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước nhất thiết phải đặt trên nền
tảng dân trí ngày càng được nâng cao thông qua phát triển mạnh mẽ giáo dục
và đào tạo.
Bên cạnh đó, còn có các công trình nghiên cứu về giáo dục của một số cá
nhân và tập thể. Cụ thể là Giáo sư, Viện sĩ, Nhà giáo Nhân dân Phạm Minh
Hạc có các tác phẩm tiêu biểu: “Giáo dục nhân cách, đào tạo nguồn nhân
lực”, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1997; “Giáo dục Việt Nam trước
ngưỡng cửa của thế kỉ XXI”, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1997; “Phát
triển toàn diện con người thời kì công nghiệp hóa, hiện đại hóa”, Nxb Chính
trị quốc gia, Hà Nội, 2002 và “Về giáo dục”, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2003. Những công trình này đề cập đến nhiệm vụ của giáo dục là phải phát
triển con người hoàn thiện, tốt đẹp, tạo ra được nguồn nhân lực có chất lượng
cao. “Giáo dục Việt Nam những năm đầu thế kỉ XXI” của Nguyễn Hữu Châu,
Nxb Giáo dục, Hà Nội, 2007, làm rõ một số vấn đề chung của giáo dục Việt
Nam những năm đầu thế kỉ XXI, về tình hình, phương hướng phát triển giáo
dục Việt Nam trong đó có hệ thống giáo dục phổ thông.“Ngành giáo dục và
đào tạo thực hiện Nghị quyết Trung ương 2(khóa VIII) và Nghị quyết Đại hôi
IX” của Nguyễn Minh Hiển; “Đề án đổi mới giáo dục Việt Nam giai đoạn
2006 - 2020”, Bộ Giáo dục và Đào tạo, 2005; “Giáo dục Việt Nam những
4


thập niên đầu thế kỉ XXI: chiến lược phát triển” của Đặng Bá Lãm, Nxb Giáo
dục, xuất bản năm 2003;…
Một số công trình viết về lịch sử giáo dục cũng đề cập đến những nội
dung thể hiện tình hình giáo dục phổ thông ở Việt Nam qua các thời kì, như:
“Lịch sử giáo dục Việt Nam” của Bùi Minh Hiển, Nxb Đại học sư phạm Hà
Nội, 2004, đề cập đến bối cảnh lịch sử, các yếu tố tác động đến giáo dục và
những thành tựu của nền giáo dục đã đạt được, trong đó có giáo dục phổ

thông giai đoạn từ năm 1975 đến năm 2000. Cuốn “Kỷ yếu hội thảo 60 năm
ngành sư phạm Việt Nam” của các tác giả Đặng Huỳnh Mai, Nguyễn Viết
Thịnh, Trần Toàn Mộc thực hiện, trường Đại học Sư phạm Hà Nội xuất bản
năm 2008, đề cập đến những thành tựu ngành giáo dục Việt Nam đã đạt được,
trong đó giáo dục phổ thông là nội dung quan trọng nhất. Cuốn sách “Đảng
Cộng sản Việt Nam với sự nghiệp giáo dục và đào tạo” do Giáo sư Phan
Ngọc Liên chủ biên, Nxb Đại học sư phạm Hà Nội, 2008, gồm hai phần: phần
I, giới thiệu một số văn kiện Đảng về công tác giáo dục và đào tạo; phần II,
gồm một số bài viết về tình hình giáo dục và đào tạo qua các thời kì, trong đó
có một số bài viết về giáo dục phổ thông của Nguyễn Thiện Nhân, Nguyễn
Anh Dũng....
Những công trình nghiên cứu trên đây rất phong phú và đa dạng, thể hiện
một cách có hệ thống các quan điểm, tư tưởng khoa học, bao gồm cả khái
niệm, mục đích, nội dung, cách dạy, cách học, cách quản lí, cách lãnh đạo
ngành giáo dục. Với góc nhìn đa chiều về vai trò của giáo dục – đào tạo trong
sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội, đặc biệt trong thời kì công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước, đã đem đến những nhận thức cơ bản, toàn diện giúp tác
giả luận văn rất nhiều trong quá trình triển khai nghiên cứu đề tài của mình.
2.2. Nhóm công trình nghiên cứu về thành phố Hải Phòng có đề cập đến
giáo dục
5


Các tác phẩm tiêu biểu như: “Địa chí Hải Phòng” do Hội đồng lịch sử
thành phố Hải Phòng ấn hành năm 1990; “Lịch sử Đảng bộ Hải Phòng 1975 2000” của Ban chấp hành Đảng bộ thành phố Hải Phòng, xuất bản năm 2002;
"Hải Phòng những chặng đường lịch sử" của Thành ủy - Hội đồng Nhân dân
- Ủy ban Nhân dân thành phố Hải Phòng, Nxb Hải Phòng, xuất bản năm
2010, đều đề cập đến tình hình giáo dục ở Hải Phòng, trong đó có huyện Vĩnh
Bảo. Các công trình: “Giáo dục và đào tạo Hải Phòng hiện tại và hướng tới
năm 2010” của Sở giáo dục và Đào tạo Hải Phòng, Nxb Thống kê, xuất bản

năm 2001; “Sơ lược lịch sử giáo dục Hải Phòng” của Nguyễn Trọng Lô, Nxb
Hải Phòng, 1996; “40 năm (1955 - 1995) giáo dục - đào tạo Hải Phòng” của
Sở Giáo dục và Đào tạo Hải Phòng, xuất bản năm 1995; "Giáo dục và đào tạo
Hải Phòng 60 năm (1955 - 2015) xây dựng và phát triển" của Ủy ban Nhân
dân thành phố Hải Phòng, Nxb Hải Phòng, xuất bản năm 2015; “Lịch sử
Đảng bộ Vĩnh Bảo 1930 - 1996” của Ban Chấp hành Đảng bộ huyện Vĩnh
Bảo, Nxb Hải Phòng, xuất bản năm 1998; "60 năm giáo dục Vĩnh Bảo (1945 2005)" của Phòng Giáo dục huyện Vĩnh Bảo, Nxb Hải Phòng, xuất bản năm
2005.
Các công trình nêu trên phản ánh các góc độ khác nhau về vùng đất và con
người huyện Vĩnh Bảo nói riêng và thành phố Hải Phòng nói chung, đặc biệt
nhấn mạnh về giáo dục - đào tạo của thành phố qua các thời kì. Tuy nhiên,
chưa có công trình nghiên cứu nào đề cập một cách có hệ thống, toàn diện về
quá trình phát triển giáo dục phổ thông huyện Vĩnh Bảo khi đất nước bước
vào thời kì công nghiệp hóa, hiện đại hóa từ năm 1996 đến năm 2016. Trên cơ
sở tiếp thu, kế thừa kết quả nghiên cứu của các công trình khoa học trên đây,
tôi chọn vấn đề giáo dục phổ thông huyện Vĩnh Bảo từ năm 1996 đến năm
2016 làm đề tài nghiên cứu để làm sáng tỏ những nội dung chủ yếu của giáo
dục phổ thông huyện Vĩnh Bảo – những thành công và hạn chế cần khắc phục
6


nhằm góp phần thúc đẩy sự nghiệp giáo dục phổ thông của huyện Vĩnh Bảo
phát triển lên một tầm cao mới trong thời gian tới.
2.3. Những nội dung luận văn sẽ tập trung thể hiện
Thứ nhất, làm rõ hơn nữa chủ trương, quan điểm của Đảng và Nhà nước về
xây dựng và phát triển giáo dục trong cả nước; những chính sách phát triển
giáo dục của thành phố Hải Phòng, của huyện Vĩnh Bảo trong thời kì công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Thứ hai, làm sáng tỏ thực trạng của công tác giáo dục phổ thông huyện
Vĩnh Bảo từ năm 1996 đến năm 2016.

Thứ ba, đánh giá khái quát những thành tựu và hạn chế của giáo dục phổ
thông huyện Vĩnh Bảo từ năm 1996 đến năm 2016 trên cơ sở căn cứ khoa
học. Bài học kinh nghiệm rút ra.
Thứ tư, làm rõ hơn nữa vị trí, vai trò của giáo dục phổ thông đối với sự
phát triển kinh tế - xã hội huyện Vĩnh Bảo, thành phố Hải Phòng.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu về giáo dục phổ thông huyện Vĩnh Bảo, thành phố Hải Phòng
nhằm trình bày một cách tương đối toàn diện và chân thực về quá trình xây
dựng, phát triển của giáo dục phổ thông huyện Vĩnh Bảo, thành phố Hải
Phòng từ năm 1996 đến năm 2016.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Làm rõ chủ trương đường lối phát triển giáo dục phổ thông của Đảng và
Nhà nước, sự vận dụng linh hoạt những chủ trương đó của lãnh đạo thành phố
Hải Phòng và huyện Vĩnh Bảo từ năm 1996 đến năm 2016.
Khảo sát, tập hợp, phân tích, so sánh những tư liệu có được để làm rõ nội
dung các giai đoạn phát triển của giáo dục phổ thông huyện Vĩnh Bảo từ năm
1996 đến năm 2016.
7


Trên cơ sở đó thấy được những thành tựu, hạn chế cơ bản của giáo dục
phổ thông huyện Vĩnh Bảo và rút ra bài học kinh nghiệm để đưa giáo dục phổ
thông ở huyện Vĩnh Bảo phát triển hơn nữa trong tình hình hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Nghiên cứu giáo dục phổ thông huyện Vĩnh Bảo, thành phố Hải Phòng từ
năm 1996 đến năm 2016 ở cả ba cấp học: tiểu học, trung học cơ sở, trung học
phổ thông.
4.2. Phạm vi nghiên cứu

Phạm vi không gian: Luận văn đi sâu nghiên cứu toàn bộ hệ thống giáo
dục phổ thông huyện Vĩnh Bảo, thành phố Hải Phòng từ năm 1996 đến năm
2016, bao gồm 30 đơn vị hành chính là thị trấn Vĩnh Bảo và 29 xã thuộc
huyện: Trấn Dương, Hòa Bình, Cổ Am, Liên Am, Lý Học, Vĩnh Tiến, Cao
Minh, Tam Cường, Thanh Lương, Tiền Phong, Vĩnh Phong, Cộng Hiền,
Đồng Minh, Vinh Quang, Nhân Hòa, Hưng Nhân, An Hòa, Hiệp Hòa, Hùng
Tiến, Thắng Thủy, Trung Lập, Dũng Tiến, Việt Tiến, Vĩnh An, Tân Liên,
Giang Biên, Tân Hưng, Vĩnh Long, Tam Đa.
Phạm vi thời gian: Luận văn giới hạn thời gian nghiên cứu từ năm 1996 –
năm đánh dấu bước chuyển của đất nước sang thời kì phát triển mới, thời kì
đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa; năm thực hiện Nghị quyết Trung
ương 2 khóa VIII về chiến lược phát triển giáo dục – đào tạo cho đến năm
2016 là năm gần nhất với thời gian học viên bắt đầu chương trình Cao học.
Phạm vi nội dung: Luận văn tập trung nghiên cứu giáo dục phổ thông
huyện Vĩnh Bảo từ năm 1996 đến năm 2016 trong cả ba cấp học: tiểu học,
trung học cơ sở, trung học phổ thông.
5. Phương pháp luận, phương pháp nghiên cứu và nguồn tài liệu
5.1. Phương pháp luận
8


Trong quá trình nghiên cứu, tôi luôn dựa trên các nguyên lí của chủ nghĩa
duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, của tư tưởng Hồ Chí Minh
và quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng Cộng sản Việt Nam về giáo
dục - đào tạo nói chung và giáo dục phổ thông nói riêng, đặc biệt chủ trương
của Đảng và Nhà nước về phát triển nguồn nhân lực trong bối cảnh quốc tế và
đất nước thời kì đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội
nhập khu vực, quốc tế.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng phương pháp nghiên cứu liên ngành, chủ yếu phương

pháp lịch sử và phương pháp logic trong nghiên cứu và thể hiện nội dung luận
văn, kết hợp với một số phương pháp khác như: phương pháp thống kê, so
sánh, phân tích, tổng hợp, khái quát hóa, điều tra, phỏng vấn… để làm sáng tỏ
vấn đề nghiên cứu.
5.3. Nguồn tài liệu
Để thực hiện luận văn, tôi chủ yếu dựa vào các nguồn tư liệu chính như:
các văn kiện, các nghị quyết của Đảng và Nhà nước; các văn bản của Bộ Giáo
dục; của Đảng bộ, Ủy ban Nhân dân thành phố Hải Phòng; của Huyện ủy, Ủy
ban Nhân dân huyện Vĩnh Bảo; các văn bản, các báo cáo của Sở Giáo dục Đào tạo Hải Phòng, phòng Giáo dục huyện Vĩnh Bảo và một số trường tiêu
biểu của huyện Vĩnh Bảo, thành phố Hải Phòng; các sách báo, tạp chí, luận
văn, luận án; các công trình nghiên cứu tập thể, cá nhân của các nhà khoa học
có liên quan đến đề tài. Bên cạnh đó, tôi còn sử dụng những tư liệu thông qua
phỏng vấn thực tế. Tôi cũng tham khảo và kế thừa kết quả nghiên cứu của
một số nhà khoa học, nhà hoạt động chính trị, xã hội có đề cập đến giáo dục
phổ thông ở Việt Nam nói chung và huyện Vĩnh Bảo nói riêng.
6. Ý nghĩa lí luận và thực tiễn của luận văn
6.1. Ý nghĩa lí luận
9


Luận văn góp phần trình bày có hệ thống những chủ trương của Đảng và
Nhà nước về công tác giáo dục trong thời kì công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước, các nội dung phù hợp và chưa phù hợp trong phát triển giáo dục ở Việt
Nam hiện nay.
Luận văn góp phần làm rõ vai trò quan trọng của giáo dục phổ thông
trong thời kì công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở huyện Vĩnh Bảo nói riêng và
của thành phố Hải Phòng cũng như cả nước nói chung.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Luận văn cố gắng trình bày trung thực về thực trạng của công tác giáo
dục phổ thông huyện Vĩnh Bảo, thành phố Hải Phòng từ năm 1996 đến năm

2016.
Đánh giá khách quan, có căn cứ khoa học về những thành tựu, hạn chế
của giáo dục phổ thông huyện Vĩnh Bảo, thành phố Hải Phòng từ năm 1996
đến năm 2016.
Luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo trong việc nghiên
cứu, xây dựng và thực hiện công tác giáo dục phổ thông của huyện Vĩnh Bảo
và các địa phương khác có đặc điểm tương đồng.
7. Cơ cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục, danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung luận văn được bố cục làm 3 chương:
Chương 1: Khái quát chung về giáo dục phổ thông huyện Vĩnh Bảo,
thành phố Hải Phòng trước năm 1996.
Chương 2: Giáo dục phổ thông huyện Vĩnh Bảo, thành phố Hải Phòng
từ năm 1996 đến năm 2005.
Chương 3: Giáo dục phổ thông huyện Vĩnh Bảo, thành phố Hải Phòng
từ năm 2005 đến năm 2016.

10


Chương 1
KHÁI QUÁT VỀ GIÁO DỤC PHỔ THÔNG
HUYỆN VĨNH BẢO, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG TRƯỚC NĂM 1996
1.1. Vị trí địa lí, điều kiện tự nhiên và kinh tế, văn hóa, xã hội huyện
Vĩnh Bảo
1.1.1. Vị trí địa lí và điều kiện tự nhiên
Huyện Vĩnh Bảo nằm ở phía Tây Nam thành phố Hải Phòng, giáp với các
huyện: Thái Thụy, Quỳnh Phụ (tỉnh Thái Bình); Tứ Kì, Ninh Giang (tỉnh Hải
Dương); Tiên Lãng (thành phố Hải Phòng). Huyện Vĩnh Bảo cách trung tâm
thành phố Hải Phòng khoảng 40 km, là huyện đất liền xa nhất của thành phố.

Huyện Vĩnh Bảo được bao bọc kín xung quanh bởi ba con sông: phía tây
bắc có sông Luộc – ranh giới của huyện với tỉnh Hải Dương; phía tây nam và
phía nam là sông Hóa – ranh giới của huyện với tỉnh Thái Bình; sông Thái
Bình làm ranh giới giữa huyện Vĩnh Bảo với huyện Tiên Lãng. Cửa sông Hóa
đổ vào sông Thái Bình là điểm cực đông của huyện Vĩnh Bảo trước khi sông
Thái Bình đổ ra vịnh Bắc Bộ (biển Đông).
Diện tích tự nhiên của huyện Vĩnh Bảo là 18.054 ha, trong đó diện tích
canh tác là 12.896 ha. Dân số: 184.526 người (2014), có 48.000 hộ.
Huyện Vĩnh Bảo có các đường giao thông chính: quốc lộ 10, đoạn qua
huyện dài 15 km; đường 37 dài 23,7 km, từ bến phà Chanh giáp huyện Ninh
Giang (Hải Dương) đến cống 1 Trấn Dương giáp huyện Thái Thụy (Thái
Bình); đường Cúc Phố - Vĩnh Phong dài 8 km và đường Hàn – Hóa dài 6 km.
Các tuyến đường này đều được rải nhựa, cơ bản đảm bảo yêu cầu giao thông
của nhân dân trên địa bàn huyện.
Vĩnh Bảo có vị trí chiến lược về quân sự, là địa điểm phòng thủ bờ biển
quan trọng để bảo vệ vùng đất phía Đông của Tổ quốc. Vì vậy, suốt chiều dài
lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc, người Vĩnh Bảo với lòng yêu nước nồng
11


nàn, không hề rời vũ khí, đóng góp tích cực vào sự nghiệp bảo vệ đất nước.
Thời nào cũng vậy, vùng đất Vĩnh Bảo luôn xuất hiện những người con tiêu
biểu, những chiến công vang dội của quê hương giàu truyền thống đánh giặc,
giữ nước. Trong quá trình xây dựng và mở mang cộng đồng, các thế hệ người
Vĩnh Bảo đã không ngừng đấu tranh quyết liệt với thiên nhiên, xây dựng nên
truyền thống yêu nước và kiên cường trước mọi khó khăn, thử thách của
người dân Vĩnh Bảo.
1.1.2. Đặc điểm kinh tế, xã hội
Vĩnh Bảo là vùng đất trẻ ven biển (năm 1952 được tách ra từ Hải Dương,
sáp nhập vào tỉnh Kiến An, từ năm 1963 trở thành một huyện của Thành phố

Hải Phòng), do đặc điểm địa hình có nhiều ô trũng, nhiều đầm hồ, kênh
mương nên đồng đất phần nhiều bị nhiễm chua, tiềm năng kinh tế không đa
dạng, trồng trọt, chăn nuôi và nghề thủ công là cơ bản. Ngoài cây lúa là cây
trồng chính, Vĩnh Bảo còn nổi tiếng về đặc sản thuốc lào và nghề trồng cói.
Dân gian vẫn lưu truyền câu ca dao: “Chiếu cói làng Bào, thuốc lào Cổ Cát”.
Vĩnh Bảo có nhiều nghề thủ công cổ truyền, có tiếng là nghề dệt vải khổ nhỏ
ở Cổ Am, Hội Am; chiếu cói ở làng Bào và tạc tượng, làm con rối ở Linh
Đông. Nghề dệt vải ở xã Cổ Am có từ thế kỉ XV, “vải Cổ” bền và đẹp, có
mặt ở Kinh kì, sánh vai với các mặt hàng vải nổi tiếng của nhiều xứ, từng làm
mê mẩn khách thập phương. Xã Đồng Minh có phường điêu khắc, tạc tượng,
làm con rối, đồ sơn mài khá nổi tiếng từ thế kỉ XV – XVI và mau chóng
chiếm được vị trí xứng đáng trong lịch sử, sản phẩm điêu khắc có mặt nhiều
nơi trong và ngoài nước. Hiện nay cụm công nghiệp Tân Liên đã đi vào hoạt
động, giải quyết được phần nào vấn đề việc làm và thúc đẩy sự phát triển kinh
tế của huyện.
Huyện Vĩnh Bảo có 29 xã và 1 thị trấn; tỉ lệ phát triển dân số tự nhiên (số
liệu năm 2004) là 0,6%; là huyện có tỉ lệ hộ nghèo cao nhất thành phố Hải
12


Phòng; số lao động dư thừa, không có việc làm còn nhiều, chiếm tỉ lệ 30%
tổng số lao động toàn huyện.
Hiện nay, tình hình an ninh chính trị của huyện được giữ vững ổn định, trật
tự an toàn xã hội được đảm bảo, rất thuận lợi cho các nhà đầu tư và các tổ
chức phi chính phủ nước ngoài vào đầu tư cho các dự án phát triển kinh tế xã hội của địa phương.
1.1.3. Truyền thống văn hoá, giáo dục
Cũng như dân tộc Việt Nam, ở Vĩnh Bảo tục thờ tổ tiên được truyền nối
ngàn đời, khuyến khích và bảo tồn trong mỗi gia đình, dòng họ. Nhớ về cội
nguồn cũng là một trong những yếu tố văn hóa tạo nên sự đoàn kết trong từng
gia đình, dòng họ và mở rộng hơn tới cộng đồng, quốc gia. Vĩnh Bảo là quê

hương của nhiều lễ hội, sinh hoạt văn hóa dân gian khá đặc sắc, phản ánh
khiếu thẩm mĩ, tài năng của cư dân trồng lúa nước có nghề thủ công mĩ nghệ
phát triển, mang đậm dấu ấn văn hóa truyền thống của dân tộc Việt Nam.
Môn nghệ thuật múa rối ở Vĩnh Bảo khá tiêu biểu và nổi tiếng, dóng góp rất
nhiều tới thành công và phát triển của môn nghệ thuật này của thành phố, của
đất nước. Tục thi pháo đất ở Vĩnh Bảo gắn liền với sự tích đánh giặc giữ nước
của bà Lê Chân. Từ đó, mỗi khi việc đồng áng rỗi rãi, dân làng lại tụ họp diễn
tích tung đất, reo hò, dần trở thành hội thi pháo đất mang đậm ý nghĩa văn hóa
và thượng võ của người Vĩnh Bảo.
Nhân dân nơi đây chủ yếu theo Phật giáo, hệ thống chùa tồn tại ở hầu hết
các xã. Số người theo đạo Thiên chúa chiếm khoảng 6%, một số nhà thờ được
xây dựng làm nơi hành lễ, lớn nhất là nhà thờ Nam Am (xã Tam Cường).
Từ xưa, huyện Vĩnh Bảo được đánh giá là “Đất học, đất quan”, nơi đây
luôn cung cấp cho xã hội một đội ngũ trí thức đông đảo, học vấn cao ở nhiều
lĩnh vực khoa học hoặc làm quan nổi tiếng thanh liêm. Nhiều cử nhân, bảng
nhãn, thám hoa, tiến sĩ, trạng nguyên sinh ra và lớn lên từ Vĩnh Bảo. Những
13


người tiêu biểu đó đã được sử sách Nhà nước ghi chép song còn rất nhiều
người chỉ được ghi lòng tạc dạ trong mỗi dòng họ, cộng đồng làng xã và bia
kí ở làng quê mình. Học hành đã trở thành truyền thống của người Vĩnh Bảo,
việc học được coi là đương nhiên như việc cày cấy của nhà nông vậy. Trẻ em
nhà khá giả cũng như nhà nghèo khó đều đua nhau học. Nhiều người học liên
tục từ trường làng, trường huyện, trường tỉnh lên cả kinh thành tiếp tục đèn
sách, thành tài. Dù ở cương vị nào họ vẫn giữ được bản lĩnh và lương tâm như
tấm lòng trong sáng, trung trinh của những người ở làng quê đã sinh ra và
nuôi dưỡng mình. Trong hàng chục nhân vật đỗ đạt cao, học vấn uyên thâm,
có nhiều cống hiến cho đất nước, tiêu biểu nhất phải kể đến Trạng trình
Nguyễn Bỉnh Khiêm, ông là “Nhà thơ, nhà văn, một thầy giáo, một nhà hiền

triết, một nhà dự báo, một danh nhân văn hóa như cây đại thụ bóng trùm cả
thế kỉ XVI”(Đỗ Mười, nguyên Tổng Bí thư Ban chấp hành Trung ương Đảng)
[3, tr. 20]. Phát huy truyền thống học hành, các thế kỉ tiếp theo, đội ngũ trí
thức xuất thân từ quê hương Vĩnh Bảo ngày càng nhiều. Họ nổi tiếng trên
nhiều lĩnh vực: khoa học – kĩ thuật, văn hóa – văn nghệ, giáo dục, y tế, quân
sự, quản lí...Trong mạch chảy truyền thống, Vĩnh Bảo hôm nay lại viết tiếp
những kì tích trong sự nghiệp giáo dục của huyện nhà, góp phần xây dựng và
phát triển bộ mặt nông thôn thời kì đổi mới.
1.2. Khái quát giáo dục phổ thông huyện Vĩnh Bảo, thành phố Hải Phòng
trước năm 1996
Trong thời kì thực hiện kế hoạch 5 năm (1981 - 1985), nước ta đã không
đạt được mục tiêu đề ra là cơ bản ổn định tình hình kinh tế - xã hội, ổn định
đời sống của nhân dân. Sai lầm về tổng điều chỉnh giá, lương, tiền cuối năm
1985 đã đưa nền kinh tế của đất nước ta đến những khó khăn mới, tháng 12
năm 1986, giá bán lẻ hàng hóa tăng 845,3%, số người bị thiếu đói tăng, bội
chi lớn. Nền kinh tế - xã hội nước ta lâm vào khủng hoảng trầm trọng. Tình
14


hình này đòi hỏi Đảng Cộng sản Việt Nam phải tích cực chuẩn bị và tiến hành
Đại hội lần thứ VI theo yêu cầu đổi mới mạnh mẽ, phải nhìn thẳng vào sự
thật, nói rõ sự thật, đánh giá đúng thực trạng của đất nước. Từ đó xác định
đúng mục tiêu và nhiệm vụ của cách mạng trong chặng đường tiếp theo, đề ra
chủ trương, chính sách đúng để xoay chuyển tình thế, đưa đất nước vượt qua
khó khăn, ổn định tình hình kinh tế - xã hội.
Trong bối cảnh đó, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI ( 12 - 1986) của
Đảng Cộng sản Việt Nam họp tại Hà Nội. Đại hội đã đề ra đường lối đổi mới
toàn diện đất nước, đặt nền tảng cho việc tìm con đường thích hợp đi lên chủ
nghĩa xã hội ở Việt Nam. Những chủ trương, chính sách mới đã gợi mở,
khuyến khích các thành phần kinh tế phát triển, giải phóng năng lực sản xuất

của xã hội để mở đường cho phát triển sản xuất, đánh dấu một bước ngoặt đột
phá trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta, đem lại luồng sinh
khí mới trong xã hội, đưa đất nước tiến lên. Đối với sự nghiệp giáo dục - đào
tạo, Đại hội đã nêu ra việc điều chỉnh nội dung Nghị quyết về cải cách giáo
dục năm 1979. Đáng chú ý là Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần
thứ 4, khóa VII (1 - 1993), ra nghị quyết chuyên đề về “tiếp tục đổi mới sự
nghiệp giáo dục – đào tạo” . Nghị quyết đưa ra những quan điểm chỉ đạo:
Giáo dục, đào tạo cùng với khoa học và công nghệ được xem là quốc sách
hàng đầu, phảỉ coi đầu tư giáo dục và đào tạo là một trong những hướng chính
của đầu tư phát triển. Huy động toàn xã hội góp sức xây dựng giáo dục. Giáo
dục phải nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài. Giáo
dục phải gắn chặt với yêu cầu phát triển đất nước, phù hợp với xu thế tiến bộ
của thời đại, phải được tổ chức để mọi người đều được học và học thường
xuyên suốt đời. Đa dạng hóa các hình thức giáo dục, đào tạo, đảm bảo công
bằng xã hội trong giáo dục; người đi học nói chung phải đóng học phí. Nhà
nước có chính sách đảm bảo cho người nghèo và các đối tượng chính sách
15


đều được đi học [94, tr. 88]. Như vậy, Nghị quyết đã khẳng định: Giáo dục là
quốc sách hàng đầu, là động lực thúc đẩy sự phát triển, là hạ tầng cơ sở xã
hội, đầu tư cho giáo dục là một hướng đầu tư cho phát triển.
Những năm đầu của công cuộc đổi mới (1986 - 1990), ngành giáo dục Hải
Phòng nói chung và Vĩnh Bảo nói riêng phải đối mặt với những khó khăn,
thách thức không nhỏ. Hậu quả của những sai lầm trong cải cách giá – lương
– tiền (9 - 1985) dẫn đến tình trạng lạm phát (trên 700%), trượt giá nhanh,
lương và các chính sách đối với nhà giáo chậm được chi trả. Tuy ngành giáo
dục thành phố cố gắng duy trì số lượng nhưng số học sinh các bậc học có hiện
tượng giảm sút, tỉ lệ học sinh lưu ban, bỏ học cao, đặc biệt ở khối cấp II, cơ
sở vật chất nhiều trường học bị xuống cấp, thiếu đồ dùng và thiết bị dạy học.

Chương trình học nặng về lí thuyết, coi nhẹ thực hành, thực nghiệm.
Thực hiện chủ trương của thành phố là quyết tâm duy trì và giữ vững số
lượng cũng như chất lượng học tập của các trường học, giáo dục phổ thông
Vĩnh Bảo đã từng bước tháo gỡ khó khăn, nhằm tạo chuyển biến một số vấn
đề cấp bách: chăm lo, giúp đỡ đội ngũ giáo viên khắc phục khó khăn về đời
sống, tích cực thực hiện phương châm “Nhà nước và nhân dân cùng làm” xây
dựng cơ sở vật chất trường học…Ngành giáo dục huyện Vĩnh Bảo đã thực
hiện “xã hội hóa giáo dục” nhằm huy động trí tuệ, sức lực của toàn xã hội cho
phát triển giáo dục, trước tiên là tăng cường cơ sở vật chất trường học. Do đó,
cùng với việc huy động một phần đóng góp của nhân dân, thành phố và huyện
tiếp tục đầu tư xây dựng mới các phòng học, mua sắm bàn ghế, đồ dùng dạy
học. Điển hình là các xã: Cổ Am, Vinh Quang, Vĩnh Tiến đã xây dựng được
trường học 2 tầng khang trang. Năm 1988, Vĩnh Bảo đã căn bản hoàn thành
chương trình phổ cập cấp III bổ túc văn hóa cho cán bộ chủ chốt huyện và xã.
Công tác phổ cập giáo dục tiểu học và xóa mù chữ tiếp tục được đẩy mạnh
theo chương trình quốc gia phổ cập giáo dục tiểu học và chống mù chữ của
16


Chính phủ ban hành năm 1990. Về quy mô giáo dục căn bản được giữ vững,
nhất là quy mô và số lượng học sinh tiểu học. Các trường học triển khai thực
hiện cuộc vận động “dân chủ hóa nhà trường” do Công đoàn ngành phát động
nhằm mục tiêu: phát huy vai trò chủ thể, tính tích cực và quyền làm chủ của
học sinh; phát huy tính sáng tạo trong giảng dạy giáo dục và làm chủ nhà
trường của giáo viên; xây dựng quan hệ thầy – trò đúng đắn…[60, tr. 75]. Tuy
nhiên, học sinh vẫn bỏ học nhiều (cấp I: 5%, cấp II: 20%), chất lượng giáo
dục toàn diện, nhất là chất lượng văn hóa, đạo đức của học sinh giảm sút (Báo
cáo chính trị - Đại hội Đảng bộ huyện Vĩnh Bảo, thành phố Hải Phòng lần thứ
19, tháng 2 năm 1989).
Thực hiện Nghị quyết Trung ương 4, giáo dục Vĩnh Bảo đã tích cực thực

hiện việc tiếp tục đổi mới giáo dục – đào tạo. Từ năm 1991, hệ thống các
trường phổ thông cơ sở được tách thành hệ thống các trường tiểu học và hệ
thống các trường trung học cơ sở. Chính vì vậy, chỉ trong một thời gian ngắn
(1991 - 1993), Vĩnh Bảo đã hình thành hai bậc học: bậc tiểu học và bậc trung
học (gồm cấp trung học cơ sở và cấp trung học phổ thông) nằm trong hệ
thống giáo dục quốc dân theo Luật Giáo dục, hoạt động ổn định và chất
lượng. Năm 1992, trường chuyên cấp II của huyện được thành lập (nay là
trường trung học sơ sở Nguyễn Bỉnh Khiêm) có nhiệm vụ đào tạo, bồi dưỡng
học sinh giỏi của huyện, góp phần tích cực, hiệu quả vào việc nâng cao chất
lượng giáo dục, thành tích học sinh giỏi của huyện trong các kì thi học sinh
giỏi thành phố đều đạt thứ bậc cao.
Về công tác xóa mù chữ, ngành giáo dục huyện Vĩnh Bảo đã điều tra cơ
bản các đối tượng từ 6 – 35 tuổi, đề ra các biện pháp tích cực để huyện đạt
chuẩn quốc gia về phổ cập giáo dục tiểu học và xóa mù chữ. Theo số liệu điều
tra, “ huyện Vĩnh Bảo còn khoảng 3.000 người ở độ tuổi từ 15 – 35 gồm hầu
hết là nữ giới có hoàn cảnh gia đình khó khăn đã bỏ học từ lớp 1, lớp 2, nay
17


đã tái mù, được tỏ chức đến lớp học tập” [ 60, tr. 80]. Do kết quả của công tác
xóa mù chữ và phong trào bổ túc văn hóa, huyện Vĩnh Bảo đã hoàn thành chỉ
tiêu phổ cập tiểu học ở 100% số xã – thị trấn và có 23% số xã - thị trấn đạt
tiêu chuẩn phổ cập trung học cơ sở năm 1991.
Năm 1993, Công đoàn giáo dục huyện Vĩnh Bảo đã phát động cuộc vận
động “kỉ cương, tình thương, trách nhiệm”. Cuộc vận động có nội dung mang
tính nghề nghiệp sâu sắc nên được cán bộ , giáo viên hưởng ứng nhiệt tình.
Các chi bộ trường học và công đoàn các trường đã cụ thể hóa các nội dung
cuộc vận động, xây dựng các quy ước, quy định cụ thể cho phù hợp với yêu
cầu thực tế của mỗi trường nhằm chấn chỉnh nề nếp, kỉ cương trong các hoạt
động giáo dục, môi trường sư phạm ở mối nhà trường. Bên cạnh đó, để tạo

điều kiện khuyến khích, động viên thầy và trò thi đua “dạy tốt, học tốt”, năm
1992, Ủy ban Nhân dân huyện Vĩnh Bảo ban hành quy chế tạm thời vveef
việc định giải thưởng Nguyễn Bỉnh Khiêm cho thầy và trò có thành tích xuất
sắc trong công tác giảng dạy và học tập hàng năm. Khâu đột phá trong quá
trình thực hiện “xã hội hóa giáo dục” trong thời kì này là việc tổ chức các Đại
hội giáo dục cấp cơ sở, khởi đầu từ năm học 1994 – 1995. Từ điểm đầu tiên là
xã Liên Am, lần lượt các xã trong huyện tiến hành tổ chức Đại hội giáo dục.
Đây là diễn đàn dân chủ của cộng đồng bàn về giáo dục theo quan điểm của
Đảng “giáo dục là sự nghiệp của quần chúng”. Việc tổ chức Đại hội giáo dục
cấp xã thành công đã góp phần nâng cao nhận thức của mọi thành viên trong
xã hội về vai trò, vị trí của giáo dục – đào tạo, huy động mọi lực lượng xã hội
tham gia giáo dục phù hợp với cơ chế mới, góp phần to lớn tạo thêm nguồn
lực để giáo dục – đào tạo của huyện phát triển.
Tiểu kết
Như vậy, từ năm 1986 đến năm 1996, tuy có những năm (1986 - 1990)
giáo dục phổ thông của huyện Vĩnh Bảo giảm sút về các mặt do ảnh hưởng
18


tiêu cực từ cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội của đất nước. Bắt đầu từ năm
1991 trở đi, mức độ khủng hoảng kinh tế - xã hội đã giảm bớt, ngành giáo dục
huyện tập trung vào tháo gỡ những khó khăn, yếu kém nhằm thiết lập lại trật
tự, kỉ cương trong trường học, đẩy mạnh phong trào thi đua “dạy tốt, học tốt”.
“dân chủ hóa”, “xã hội hóa” và bước đầu đã đạt được kết quả. Song những
hạn chế của giáo dục phổ thông giai đoạn này vẫn còn tồn tại như: tỉ lệ học
sinh bỏ học, lưu ban còn cao. Nếu tình trạng này không giải quyết sẽ ảnh
hưởng đến thành quả phổ cập trung học của huyện; nội dung chương trình
vừa quá tải, vừa thiếu hụt, còn nặng về lí thuyết, thiếu chú trọng ứng dụng,
thực hành, gắn với thực tiễn; lối viết, cách trình bày của sách giáo khoa hạn
chế so với yêu cầu và xu thế đổi mới; giáo dục thẩm mỹ, giáo dục thể chất

chưa được đề cao; phương pháp dạy học còn lạc hậu, thực dụng, tình trạng
đọc – chép quá nhiều, việc dạy và học mang tính đối phó với thi cử, thành
tích; học sinh vẫn ở tư thế thụ động, hạn chế trong việc nắm bắt kiến thức,
phát triển năng lực sáng tạo và tự học. Nhưng với những cố gắng của ngành
về đổi mới quản lí giáo dục, đổi mới phương pháp dạy và học, cùng với các
cuộc vận động rộng lớn trong toàn ngành, đẻ rồi những tồn tại, vấp váp trở
thành những bài học kinh nghiệm rất bổ ích, giúp cho giáo dục phổ thông
huyện Vĩnh Bảo thực hiện tốt sự nghiệp đổi mới của Đảng, vững bước tiến
vào thế kỉ XXI.

19


Chương 2
GIÁO DỤC PHỔ THÔNG HUYỆN VĨNH BẢO
TỪ NĂM 1996 ĐẾN NĂM 2005
2.1. Chủ trương của Đảng, Nhà nước và địa phương về phát triển giáo
dục nói chung và giáo dục phổ thông nói riêng từ năm 1996 đến năm
2005
Đến năm 1996, công cuộc đổi mới của nước ta đã tiến hành được 10 năm
và đạt được nhiều thành tựu quan trọng về mọi mặt. Đất nước thoát khỏi
khủng hoảng kinh tế - xã hội, cải thiện một bước đời sống vật chất của đông
đảo nhân dân, giữ vững ổn định chính trị, quốc phòng, an ninh được củng cố.
Đồng thời, thành tựu 10 năm đổi mới đã tạo được tiền đề cần thiết cho công
cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Bên cạnh những thành tựu đạt
được, nước ta cũng phải đối đầu với nhiều thách thức như nguy cơ tụt hậu xa
về kinh tế, diễn biến hoà bình, tệ quan liêu, tham nhũng, nguy cơ chệch
hướng xã hội chủ nghĩa. Tình hình thế giới và thực tiễn công cuộc đổi mới đặt
ra cho Đảng ta những nhiệm vụ và bước đi mới.
Trong hoàn cảnh đó, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII Đảng đã diễn

ra từ ngày 28 - 6 đến ngày 01-7-1996. Đại hội VIII của Đảng là đại hội tiếp
tục đổi mới vì sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, vì hạnh phúc của nhân
dân. Đại hội đã đánh dấu bước ngoặt quan trọng, chuyển đất nước sang thời kì
mới - thời kì đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng nước Việt
Nam độc lập, tự chủ, giàu mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh theo
định hướng xã hội chủ nghĩa, vì hạnh phúc của nhân dân. Đại hội có ý nghĩa
quyết định đối với vận mệnh dân tộc và tương lai của đất nước khi chúng ta
sắp bước vào thế kỉ XXI.
Đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, phấn đấu đến năm
2020 đưa Việt Nam cơ bản trở thành một nước công nghiệp là nhiệm vụ hàng
20


đầu bảo đảm sự thành công của sự nghiệp đổi mới xây dựng và phát triển đất
nước. Để thực hiện nhiệm vụ hàng đầu đó, từ sau Đại hội VIII, Bộ Chính trị
đã chuẩn bị và triệu tập Hội nghị lần thứ hai của Ban Chấp hành Trung ương
Đảng. Hội nghị lần thứ hai (12/1996) của Ban Chấp hành Trung ương Đảng
đã thông qua hai nghị quyết quan trọng là: định hướng chiến lược phát triển
giáo dục - đào tạo và định hướng chiến lược phát triển khoa học - công nghệ
trong thời kì công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Về định hướng chiến lược phát
triển giáo dục - đào tạo, Nghị quyết đã nêu rõ thực trạng giáo dục - đào tạo ở
nước ta trong thời gian qua; về định hướng phát triển giáo dục - đào tạo;
những giải pháp chủ yếu và phải tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng đối
với giáo dục - đào tạo. Nghị quyết xác định: Nhiệm vụ và mục tiêu cơ bản của
giáo dục là nhằm xây dựng những con người thiết tha gắn bó với lí tưởng độc
lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, có đạo đức trong sáng, có ý chí kiên cường
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, năng động, sáng tạo trong thời kì công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước; thực sự coi giáo dục - đào tạo là quốc sách hàng
đầu. Như vậy, giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ là khâu đột phá
trong thời kì cách mạng mới, giáo dục phải đi trước một bước hợp lí so với

phát triển kinh tế. Đây chính là mốc quan trọng cho sự phát triển giáo dục ở
nước ta, mở ra một thời kì mới của sự phát triển giáo dục và đào tạo – thời kì
chấn hưng nền giáo dục nước nhà.
Tháng 12 năm 1998, Quốc hội thông qua Luật Giáo dục. Chưa bao giờ
chính sách phát triển giáo dục lại được ban hành đầy đủ và toàn diện như giai
đoạn này. Các chính sách đó đều thể hiện sự quan tâm của Đảng và Nhà nước
đến sự phát triển một nền giáo dục đa dạng hóa các loại hình giáo dục - đào
tạo, nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện nhằm giữ gìn và phát huy truyền
thống nhân, trí, dũng, nhân lên gấp bội sức mạnh của cả dân tộc trong sự

21


nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xóa bỏ lạc hậu, nghèo nàn,
biến lí tưởng mục tiêu cao cả của chủ nghĩa xã hội thành hiện thực.
Cùng với việc tập trung chỉ đạo phát triển kinh tế, Thành ủy, Ủy ban
Nhân dân thành phố Hải Phòng và các cấp ủy Đảng, chính quyền thực sự coi
trọng phát triển văn hóa, giáo dục, khoa học – công nghệ, y tế...Những vấn đề
này đã được Đại hội Đảng bộ thành phố Hải Phòng lần thứ XI thảo luận kĩ và
đề ra mục tiêu: phải phát triển văn hóa, giáo dục, khoa học – công nghệ, giải
quyết tốt các vấn đề xã hội, nâng cao dân trí, chăm lo ngày càng tốt hơn đời
sống vật chất, tinh thần của nhân dân [82, tr. 307]. Trong 3 ngày, từ ngày 6
đến ngày 8-3-1997, Hội nghị Ban Chấp hành Đảng bộ thành phố Hải Phòng
lần thứ 4 (khóa XI) nghiên cứu, quán triệt Nghị quyết Trung ương 2 (khóa
VIII), đánh giá thực trạng và phương hướng, nhiệm vụ, mục tiêu, giải pháp
chủ yếu nhằm phát triển giáo dục – đào tạo thành phố trong thời kì công
nghiệp hóa, hiện đại hóa và nhiệm vụ đến năm 2000. Thành phố tập trung vào
các giải pháp nâng cao chất lượng giáo dục – đào tạo, phấn đấu phổ cập trung
học cơ sở nhằm góp phần nâng cao dân trí, đào tạo nguồn lực con người – yếu
tố cơ bản cho sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, của thành phố.

Trên cơ sở quán triệt nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của
Đảng (6/1996), các nghị quyết của Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX
(4/2001), nghị quyết Đại hội Đảng bộ Hải Phòng lần thứ XI, Đại hội Đảng bộ
huyện Vĩnh Bảo lần thứ XXI đã quyết định phương hướng nhiệm vụ những
năm cuối cùng của thế kỉ XX, chuẩn bị các điều kiện cùng thành phố và cả
nước vững bước tiến vào thế kỉ XXI với những cơ hội phát triển và thách thức
mới.
Trong quá trình triển khai nghị quyết Đại hội Đảng các cấp, huyện ủy
Vĩnh Bảo đã tiếp tục quán triệt Nghị quyết Trung ương 2 khóa VIII và Nghị
quyết 04 của Thành ủy về "Định hướng chiến lược phát triển giáo dục và đào
22


×