Tải bản đầy đủ (.docx) (11 trang)

VĂN học VIỆT NAM 1945 1975

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (66.69 KB, 11 trang )

VĂN HỌC VIỆT NAM 1945 1975
1 Sự chuyển biến sâu sắc về chính trị và xã hội
1.1 - Cách mạng tháng Tám thành công đã mở ra một thời kì mới trong lịch sử đấu tranh dựng
nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam.
Từ cảnh sống nộ lệ lầm than với bao nỗi đắng cay, chua xót ... , dân tộc Việt Nam đã vùng dậy
đấu tranh để giành lấy quyền sống Tự do và Ðộc lập.
1.2 - Cuộc sống hạnh phúc và niềm Vui bất tuyệt đến với dân tộc chưa được bao lâu thì kẻ thù
thực dân Pháp lại quay lại xâm lược nước ta một lần nữa.
Toàn thể dân tộc Việt Nam đứng lên kháng chiến với tinh thần Thà hi sinh tất cả chứ không chịu
mất nước không chịu làm nộ lệ. Trong suốt cuộc kháng chiến trường kì, gian khổ, hơn lúc nào
hết, con người Việt Nam lại càng bộc lộ rõ những phẩm chất cao đẹp của mình. Với dân tộc Việt
Nam lúc này Tình sông núi là mối tình đẹp nhất, thiêng liêng nhất trong cuộc sống. Từ trong đau
thương và chiến đấu, vẻ đẹp của Tổ quốc Việt Nam càng ngời sáng hơn. Cuộc kháng chiến
chống Pháp đã làm nên vành hoa đỏ, nên thiên sử vàng cho dân tộc. Nhà thơ Chế Lan Viên đã
cảm nhận và thể hiện ý nghĩa lớn lao đó qua vần thơ sau: Ôi kháng chiến mười năm qua như
ngọn lửa Nghìn năm sau vẫn đủ sức soi đường. ( Tiếng hát con tàu )
1.3 - Kháng chiến chống Pháp thắng lợi, lịch sử đã sang trang, Tổ quốc ta vừa có niềm vui của
cuộc sống xây dựng chủ nghĩa xã hội đang diễn ra sôi nổi hào hùng trên miền Bắc, vừa mang nỗi
đau của cảnh đất nước bị cắt chia, miền Nam đang chịu cảnh trăm đắng, ngàn cay bởi kẻ thù xâm
lược Mĩ. Dân tộc Việt Nam vẫn phải tiếp tục chiến đấu chống lại một kẻ thù hung bạo nhất trong
lịch sử . Ðế quốc Mĩ điên cuồng leo thang đánh phá miền Bắc, khói lửa của cuộc chiến tranh lại
trùm lên cả nước ta. Dân tộc Việt Nam dù đứng trước những thử thách của sự mất còn nhưng vẫn
ngọt ngào qua muôn nỗi đắng cay, vẫn thủy chung,tình nghĩa. Kẻ thù muốn biến chúng ta thành
tro bụi, còn ta hóa vàng nhân phẩm lương tâm, làm sen thơm ngát giữa dòng. Không có gì quý
hơn Ðộc lập, Tự do đó là khát vọng lớn lao, là nguồn sức mạnh vô biên để giúp dân tộc chiến
đấu và giành lấy chiến thắng. 2 Những điều kiện để nền văn học mới phát triển
2.1 Lực lượng sáng tác được đổi đời, ngày càng đông đảo, có nhiệt tình tài năng và kinh nghiệm
sáng tác.
- Trước cách mạng tháng Tám, hầu hết văn nghệ sĩ thường mang nỗi đau đời, rơi vào sự bế tắc,
lâm vào cảnh sống mòn. Thân phận của các nhà văn, nhà thơ như : Thế Lữ, Xuân Diệu, Chế Lan
Viên, Huy Cận, Nguyễn Tuân, Nguyễn Công Hoan ... , ở thời kì trước cách mạng chính là những


bằng chứng sinh động cho điều đó. Nhìn chung, trong hoàn cảnh của cuộc sống trước cách mạng
tháng Tám, văn nghệ sĩ cùng chung một số phận với dân tộc. Sự thành công của cuộc cách mạng
tháng Tám không chỉ đưa lại Ðộc lập, Tự do cho dân tộc, mà còn đưa lại quyền tự do sáng tác
cho văn nghệ sĩ. Cùng với toàn thể dân tộc, anh chị em văn nghệ cảm thấy mình lớn lên ..., được
tự do yêu nước và phục vụ nhân dân, điều mà trước cách mạng tháng Tám không thể có được.
Ðó là những quyền tự do căn bản mà chúng ta đã giành được, nhờ đó mà văn nghệ được tự do
sáng tác theo tiếng gọi của Ðảng mình( Trường Chinh).
- Ðội ngũ nhà văn ngày càng đông đảo với ba thế hệ :
+ Thế hệ nhà văn trước Cách mạng tháng Tám.
+ Thế hệ nhà văn trưởng thành trong cuộc kháng chiến chống Pháp.
+ Thế hệ nhà văn trưởng thành trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội và chống Mĩ cứu
nước. Các thế hệ nhà văn đã có sự bổ sung hỗ trợ lẫn nhau và tạo nên sự vững mạnh của đội ngũ
sáng tác. Ngoài ra, cần phải nói đến sự đóng góp không nhỏ của đội ngũ sáng tác không chuyên.


Họ xuất hiện rất đông đảo trong phong trào văn nghệ quần chúng ở các địa phương và khắp trên
mọi lĩnh vực của đời sống xã hội.
- Nhà văn Việt Nam từ sau Cách mạng tháng Tám rất giàu nhiệt tình, gắn bó với Tổ quốc và dân
tộc. Họ vượt qua mọi gian khổ, hi sinh, đến khắp mọi nẻo đường của Tổ quốc để tìm tòi, khám
phá và sáng tạo. Có thể xem, sự cần mẫn, cố gắng của họ giống như những con ong cần cù, chăm
chỉ tìm kiếm nhụy hoa để kết nên vị ngọt cho đời.
- Bên cạnh sự xông xáo, nhiệt tình, đội ngũ sáng tác có nhiều nhà văn tài năng. Ở mỗi thế hệ đều
có những nhà văn tạo được sự mến mộ, khâm phục của người đọc. Họ đã sáng tạo nên nhiều tác
phẩm có giá trị sâu sắc và sức sống lâu bền.
2.2 Nhu cầu về văn học của quần chúng nhân dân ngày càng cao
-Do trình độ văn hóa ngày càng cao nên số lượng độc giả ngày càng đông, có đủ các tầng lớp và
lứa tuổi khác nhau.
- Khả năng thưởng thức văn chương của quần chúng ngày càng cao và sự am hiểu văn chương
của họ ngày càng sâu sắc .Mặt khác, quần chúng không chỉ biết tiếp nhận mà còn biết phê bình
văn chương. Nguyễn Ðình Thi cho rằng : Ðó là điều kiện căn bản quyết định hết thảy sự phát

triển của một nền nghệ thuật.
2.3 Cuộc sống xây dựng xã hội chủ nghĩa và kháng chiến chống Mĩ nhiều gian khổ và rất oanh
liệt, đã tác động lớn đến tư tưởng, tình cảm của nhà văn và bạn đọc. Mặt khác, hiện thực cuộc
sống phong phú và sôi động đó chính là nguồn chất liệu dồi dào cho nhà văn.
- Các nhà văn ngày càng nhận thức sâu sắc hơn về đất nước, về dân tộc, vì thế, họ càng tự hào và
gắn bó hơn đối với đất nước.
- Hiện thực đời sống luôn luôn đặt ra những vấn đề mới đòi hỏi nhà văn phải nhạy bén, kịp thời
chiếm lĩnh nó ở các phương diện .
+ Ðề tài mới.
+ Nhân vât mới.
+ Thể loại phong phú, đa dạng.
2.4 Thuận lợi trong việc tiếp thu vốn văn học dân tộc, kế thừa và phát huy những tinh hoa của
văn học nhân loại:
- Nhà văn được nâng cao kiến thức chuyên môn nghiệp vụ qua các lớp đào tạo ngắn hạn và dài
hạn.
- Kế thừa và phát huy những di sản văn học dân tộc và nhân loại
2.5 Sự lãnh đạo của Ðảng
- Sự quan tâm của Ðảng đối với văn học
- Yêu cầu của Ðảng đối với nền văn nghệ mới:
+Văn học là bộ phận không thể tách rời của sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và đấu tranh
thống nhất nước nhà.
+ Phát triển nền văn nghệ mới với nội dung xã hội chủ nghĩa, tính dân tộc, tính Ðảng và tính
nhân dân sâu sắc.
+ Ðối với văn nghệ sĩ : Phải thâm nhập vào đời sống thực tế, muốn là nghệ sĩ tốt trước hết phải
là công dân tốt.
- Lãnh đạo về tổ chức, về đường lối 3 Những đặc điểm cơ bản của nền văn học mới
3.1 Những đặc điểm của nền văn học mới
- Phản ảnh và phục vụ cuộc sống có thể xem đó là nguyên tắc sinh tử của văn học nghệ thuật.
Cuộc đời cũng là nơi xuất phát cũng là nơi đi tới của văn học
- Cách mạng tháng Tám đã tạo nên một bước chuyển dịch lớn về hoàn cảnh sống và sáng tác của

nhà văn đưa họ đến với cuộc sống phong phú sôi động của nhân dân ( Ðôi mắt Nam Cao, Nhận


đường Nguyễn Ðình Thi ... ) .
- Ðến với cuộc sống của nhân dân để tìm nguồn cảm hứng mạnh mẽ, chân chính cho sự sáng tạo
nghệ thuật, để hiểu biết, khám phá, sáng tạo.
- Trong thực tế nhiều nhà văn đã không ngại khó khăn , gian khổ để đến với đồng ruộng, nhà
máy, công trường, hải đảo, miền núi xa xôi hẻo lánh để tìm kiếm chất liệu nghệ thuật. Ðặc biệt,
trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và Mĩ, nhiều nhà văn đã đến với đời sống ác liệt ở chiến
trường, vừa sáng tác, vừa chiến đấu. Họ không chọn cho mình chỗ đứng giữa những ngày toàn
thắng.
3.2 Nền văn học mang nội dung xã hội chủ nghĩa, tính dân tộc, tính Ðảng, tính nhân dân sâu sắc
và được sáng tác theo phương pháp hiện thực xã hội chủ nghĩa
- Nội dung xã hội chủ nghĩa của văn học:
+ Hiểu theo nghĩa hẹp: Ðề tài của tác phẩm là đề tài về cuộc sống xây dựng chủ nghĩa xã hội.
+ Hiểu theo nghĩa rộng: Lí tưởng xã hội chủ nghĩa, thế giới quan, nhân sinh quan được thể hiện
trong tác phẩm.
+ Trong nền văn học mới, nội dung xã hội chủ nghĩa thống nhất với tính dân tộc. Ở đây quyền
lợi của giai cấp vô sản và quyền lợi của dân tộc trong cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa được
thống nhất một cách chặt chẽ.
- Tính dân tộc:
+ Tiếp thu và phát huy truyền thống văn học dân tộc, kế thừa tinh hoa của văn học dân gian, cổ
điển, yêu nước cách mạng...
+ Về nội dung: Tinh thần yêu nước, yêu dân, tự hào dân tộc, chống ngoại xâm, đạo đức nhân
nghĩa..a
+ Về hình thức diễn đạt: Trước đây phải dùng chữ Hán, chữ Pháp, nay phải phấn đấu giữ gìn sự
trong sáng của tiếng Việt.
Nói tóm lại, văn học mới ngày càng đi sâu vào thể hiện tâm hồn tính cách của dân tộc Việt Nam,
khẳng định sức sống mãnh liệt, quật cường của dân tộc trong suốt 4000 năm lịch sử, nhằm đạt
đến nền văn học mang bản sắc dân tộc. Tuy nhiên việc đề cao tinh thần dân tộc cần được gắn với

việc tiếp thu có chọn lọc những tinh hoa của văn học nhân loại
- Tính nhân dân:
+ Nền văn học mới là nền văn học vì nhân dân mà phục vụ, phản ảnh sự nghiệp đấu tranh, lao
động của nhân dân, hình tượng trung tâm của nền văn học mới là hình tượng của nhân dân.
+ Nghệ thuật biểu hiện phải giàu tính nhân dân: Cách diễn đạt giản dị, giàu hình ảnh, quen thuộc,
gắn bó với đời sống của nhân dân. Ngôn ngữ văn học phải xuất phát từ ngôn ngữ trong đời sống.
Mặt khác, chống các loại nghệ thuật lai căng, những tư tưởng, tình cảm ốm yếu xa lạ với quần
chúng.
- Tính Ðảng ( đọc giáo trình Lí luận văn học)
- Phương pháp sáng tác hiện thực xã hội chủ nghĩa:
+ Ở nước ta, cơ sở hình thành chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa có từ những năm 20 của thế
kỉ này thông qua một số truyện kí của Nguyễn Ái Quốc.
+ Ðến năm 1943 trong bản Ðề cương văn hóa, Ðảng đã đề cập đến khái niệm tả thực XHCN.
+ Sau cách mạng tháng Tám đến nay, nó được giới thiệu đầy đủ với những đặc điểm của nó.
+ Chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa trong văn học thế giới thường bị tấn công bởi hai khuynh
hướng văn nghệ phản động là : Chủ nghĩa xét lại và Chủ nghĩa giáo điều. + Ở nước ta điều đáng
lưu tâm nhất đó là bệnh sơ lược. Có thể nói rằng: Ðây là căn bệnh dai dẳng nhất của nền văn học
hiện thực xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Ðảng ta đã đánh giá: Cuộc sống của nhân dân ta vô cùng
anh dũng và phong phú, nhưng việc phản ảnh cuộc sống đó vào văn học nghệ thuật của ta còn sơ


lược (Thư gửi Ðại hội Văn nghệ toàn quốc lần IV).
3.3 Nền văn học phát triển trong chiến tranh:
- Ba mươi năm phát triển của nền văn học mới cũng là ba mươi năm đất nước ta trải qua hai cuộc
kháng chiến chống Pháp và Mĩ nhiều gian khổ và hi sinh. Vì lẽ đó, nó chủ yếu phục vụ cho hai
cuộc kháng chiến, thể hiện chủ nghĩa anh hùng cách mạng của dân tộc Việt Nam trong chiến đấu,
cũng vì thế: yêu nước, căm thù giặc, tình đồng đội, tình quân dân… là những vấn đề được khai
thác sâu sắc nhất. Các mối quan hệ: vợ chồng, cha con, tình bạn, tình yêu đều là những sắc thái
khác nhau của tình đồng đội.
- Chiến tranh đó là một hoàn cảnh đặc biệt. Ðời sống của con người phải chịu đựng quy luật

nghiệt ngã của chiến tranh. Sự sáng tạo nghệ thuật của nhà văn không thể nằm ngoài quy luật đó,
văn học cần phải nhanh chóng đáp ứng kịp thời nhu cầu của đời sống chiến đấu, phải góp phần
tuyên truyền động viên, phản ánh và lí giải hững vấn đề trong đời sống là lẽ dĩ nhiên. Mặt khác,
sáng tác trong hoàn cảnh đó, các nhà văn chú tâm đến những vấn đề lớn lao của dân tộc, thời đại.
Vì lẽ đó, chúng ta dễ dàng nhận thấy :
+ Cái riêng tư nhiều khi trở nên vô nghĩa trước cái chung vĩ đại. Những tình cảm cá nhân, gia
đình được đặt trong mối quan hệ với tình yêu Tổ quốc, tình cảm đối Ðảng và cách mạng.
+ Hình tượng trung tâm của văn học giai đoạn này là hình tượng nhân dân anh hùng, nhân dân là
người viết nên trang sử vàng chói lọi của dân tộc.
+ Các nhà văn thường viết nhiều về niềm vui và ít viết về nỗi đau, mặc dù ai cũng hiểu rằng mất
mát đau thương là điều không tránh khỏi. Có thể nói rằng, trong hoàn cảnh chiến tranh của dân
tộc ở giai đoạn này, nhà văn viết với thái độ và cách nhìn như vậy là điều nhân đạo nhất.
+ Trong đau thương gian khổ, con người Việt Nam dồn sức nghĩ về tương lai, hướng về tương lai
với một niềm tin sâu sắc đó chính là sức mạnh tinh thần mà chỉ những người trải qua những năm
tháng đó mới có thể hiểu hết ý nghĩa của nó.
- Vì phát triển trong chiến tranh nên văn học Việt Nam ở thời kì này vừa đậm đà chất lãng mạn,
vừa có khuynh hướng sử thi.
- Do chiến tranh nên hoạt động của văn học cũng có những khó khăn về điều kiện vật chất, ít
nhiều ảnh hưởng đến sự phát triển của văn học.
3.4 Văn học phát triển rất phong phú về nội dung, đa dạng về hình thức thể hiện.
- Sự phát triển toàn diện ở các thể loại văn học mà nổi bật nhất là thơ. Bước phát triển của thơ ca
thời kì kháng chiến chống Pháp gắn liền với vần thơ mới mẻ, độc đáo của Trần Mai Ninh,
Nguyễn Ðình Thi, Quang Dũng, Hoàng Cầm, Chính Hữu, Hồng Nguyên - Chính họ đã đem đến
cho thơ ca kháng chiến những nét khác biệt so với Thơ mới. Còn thơ ca của thời kì chống Mĩ
thật phong phú, đa dạng như một vườn hoa đầy hương sắc. Ðội ngũ nhà thơ hùng hậu, có tài
năng và giàu tâm huyết. Bên cạnh những tiếng thơ quen thuộc, thơ ca Việt Nam có thêm những
tiếng thơ mới giàu sức khám phá và sáng tạo, rất nhạy cảm, tinh tế độc đáo, đặc sắc trong cách
thể hiện, đó là : Xuân Quỳnh, Phạm Tiến Duật, Lê Anh Xuân, Nguyễn Khoa Ðiềm, Hữu Thỉnh,
Thanh Thảo, Trần Ðăng Khoa,... Họ đã góp phần không nhỏ làm phong phú thêm diện mạo của
thơ ca Việt Nam hiện đại.

- Về truyện ngắn, tuy chưa có được những cách tân, chuyển mình mạnh mẽ như thơ, nhưng thật
ra cũng có những tác giả đạt được thành công rất đáng trân trọng như : Kim Lân, Tô Hoài,
Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Thi, Nguyễn Sáng, Anh Ðức,... Những tác phẩm của họ toát lên
một cách nhìn mới, một cách thể hiện mới về cuộc sống. Ðiều đó đã để lại được những rung
động mạnh mẽ và dấu ấn khá sâu đậm trong tình cảm của người đọc khi họ đến với tác phẩm.
- Các thể loại tiểu thuyết, kí, kịch ... , trên thực tế cũng đã đạt được những thành công nhất định,
tạo cho giai đoạn văn học này thêm phần đa dạng, phong phú và đặt nền móng cho sự phát triển


văn học ở giai đoạn sau. 4 Quy luật phát triển tổng quát của nền văn học mới
TOP
4.1 Bước đi của văn học thống nhất chặt chẽ với bước đi của cách mạng.
4.2 Nền văn học mới phát triển mạnh mẽ theo hướng: ngày càng phong phú toàn diện, cân đối về
nội dung đề tài, hình thức thể loại; ngày càng đa dạng về bút pháp, phong cách trên cơ sở thống
nhất về phương pháp sáng tác.
5 Kết luận
- Ba mươi năm qua, đất nước ta có những biến động dữ dội, có thể nói đây là thời kì oanh liệt vẻ
vang nhất trong lịch sử dân tộc. Nền văn học mới với sự lãnh đạo của Ðảng đã vươn lên không
ngừng, trở thành vũ khí sắc bén góp phần vào sự nghiệp đấu tranh và xây dựng đất nước xứng
đáng với tầm vóc anh hùng của dân tộc Việt Nam.
- Thời gian sẽ là người thẩm định nghiêm khắc và công minh nhất đối với nghệ thuật, sẽ không ít
những tác phẩm không đọng lại được trong tâm hồn, tình cảm của bạn đọc, nhưng điều cần
khẳng định, dân tộc sẽ không quên được giá trị của nó trong thời kì lịch sử oai hùng này.
VĂN HỌC VIỆT NAM 1955-1975
1 Vài nét về những thuận lợi và khó khăn đối với sự phát triển của văn học
* Thuận lợi:
Ở miền Bắc, cuộc sống mới tuy còn không ít khó khăn gian khổ, nhưng từ trong cuộc sống đó
các nhà văn luôn giữ được niềm tin vào chế độ và họ nhận thức sâu sắc hơn về Tổ quốc, dân tộc.
Hiện thực đời sống phong phú, đa dạng đem lại cho nhà văn những cảm hứng sáng tạo mạnh mẽ.
So với thới kì 1946 - 1954, ở vào thời kì này, các nhà văn có nhiều sư thuận lợi trong việc học

tập, kế thừa và phát huy những tinh hoa của văn học nhân loại.
Ở miền Nam, trong đau thương và chiến đấu, đồng bào miền Nam vẫn giữ trọn nghĩa tình, thủy
chung, luôn khao khát một cuộc sống hòa bình, độc lập, tự do, mong muốn tự biểu hiện và khẳng
định mình trong gian khổ, hi sinh. Mặt khác, với sự ra đời của Mặt trận giải phóng và Hội văn
nghệ giải phóng, đội ngũ văn nghệ sĩ được tập hợp, củng cố, bước đầu chiếm lĩnh, khám phá để
sáng tạo được những tác phẩm có giá trị lớn. Từ năm 1965 đến năm 1975, cả nước có chiến
tranh. Các nhà văn đã nhanh chóng có mặt ở những nơi gian khổ quyết liệt nhất của cuộc chiến
đấu với tư cách là nhà văn- chiến sĩ . Với vai trò và vị trí đó, họ càng chứng kiến được những
phẩm chất cao quý của con người Việt Nam trong chiến đấu và nhận thức sâu sắc hơn về tâm
hồn, tính cách của dân tộc.
* Khó khăn:
Dân tộc ta đứng trước những thử thách mất còn, vừa sản xuất vừa chiến đấu để bảo vệ Tổ quốc.
Thực tại của cuộc sống đòi hỏi nhà văn phải có sự vươn lên, nhanh chóng hòa mình vào nhịp
sống khẩn trương của dân tộc. Văn học thời kì này đứng trước những thử thách quyết liệt về tư
tưởng, phương pháp sáng tác, cách phản ánh hiện thực đời sống xây dựng và chiến đấu của dân
tộc. Do hoàn cảnh chiến tranh, việc sáng tác, in ấn, xuất bản, cũng như lưu hành ở thời kì này
cũng rất khó khăn. Ðiều đó đã ảnh hưởng không nhỏ đối với sự phát triển của văn học.
2. Những thành tựu ở các thể loại
2.1 Thơ ca:
Dân tộc ta vốn là một dân tộc yêu thơ, một dân tộc lưng đeo gươm tay mềm mại bút hoa, trong
khi đuổi giặc vẫn làm thơ. Trong hoàn cảnh đất nước có chiến tranh, thơ ca phát triển nhanh và
có ưu thế hơn các thể loại khác. Hiện thực của cuộc sống chống Mĩ đã tỏa nắng cho thơ, góp


phần giúp các nhà thơ có thể sáng tạo nên nhiều bài thơ hay.
2.1.1 - Ðội ngũ sáng tác :
Ngoài các nhà thơ trước cách mạng và các nhà thơ được trưởng thành trong kháng chiến chống
Pháp, thời kì này xuất hiện đông đảo các nhà thơ trẻ giàu tài năng và nhiệt tình.
- Lớp nhà thơ trước cách mạng sau một thời kì nhận đường đã khẳng định được mình trong cuộc
đời mới. Họ là những nhà thơ có vị trí quan trọng trong sáng tác và cả trong việc hướng dẫn, dìu

dắt thế hệ các nhà thơ trẻ.
Với nhà thơ Xuân Diệu, người đọc cảm nhận được một tâm hồn thơ khỏe khoắn, tràn đầy như
không bao giờ vơi cạn, một niềm khát khao mãnh liệt được giao cảm với đời, được sống hết
mình cho cuộc sống. Xuân Diệu chủ trương hãy nhìn đời bằng cặp mắt xanh non và mở rộng
cách cửa thơ cho cuộc sống tràn vào. Ông có sự nhạy bén, giàu sức khám phá và sáng tạo khi thể
hiện những vấn đề của đời sống. Xuân Diệu xứng đáng là tấm gương lao động nghệ thuật bền bỉ
cho văn nghệ sĩ noi theo.
Chế Lan Viên là nhà thơ thể hiện sâu sắc nhất cuộc hành trình gian khổ từ chân trời một người
đến với chân trời tất cả. Nhà thơ đã trút bỏ những dĩ vãng buồn thương để đến với niềm vui của
dân tộc, để hòa nhập với cuộc sống mới, gắn bó với cuộc chiến đấu của dân tộc. Thơ ông giàu
chất trí tuệ, đậm đà tính chính luận, thời sự. Huy Cận, sau một thời gian dài dường như vắng
bóng, đã thực sự quên đi cái sầu tràng giang, điệp điệp, mở hồn ra đón lấy cuộc đời với niềm tin
yêu thiết tha mãnh liệt, với sự trăn trở xoáy sâu vào số phận con người, tầm vóc kì vĩ của con
người trong cuộc sống xây dựng chủ nghĩa xã hội và chống Mĩ cứu nước.
Ðặc biệt, Tế Hanh trong lòng miền Bắc vẫn luôn hướng về miền Nam với nỗi nhớ thương da diết
và tràn đầy niềm tin vào ngày đất nước thống nhất ...
- Lớp nhà thơ trưởng thành trong kháng chiến chống Pháp giờ đây càng có điều kiện phát huy
khả năng và từng bước khẳng định phong cách thơ của mình, tiêu biểu có thể nói đến các nhà thơ
sau :
Nguyễn Ðình Thi vừa có sự thâm trầm của suy tư, vừa dạt dào cảm xúc, có sự trăn trở tìm tòi cái
mới trong nghệ thuật biểu hiện.
Chính Hữu tuy viết không nhiều, chỉ có một tập thơ, song mỗi bài thơ là biểu hiện một sự tìm tòi,
vươn tới, mang bản sắc dân tộc một cách sáng tạo. Thơ Chính Hữu có kết cấu chặt chẽ, giàu hình
ảnh, nhạc điệu và cũng giàu ý nghĩa khái quát.
Người đọc cũng khó lòng quên được tiếng thơ dào dạt nghĩa tình của nhà thơ miền Nam tập kết
Hoàng Tố Nguyên với những vần thơ Từ nhớ đến thương lay động tâm tình của người đọc. Thơ
anh nâng niu trân trọng những niềm vui nho nhỏ trong cuộc sống mới ở miền Bắc Quê chung và
nỗi nhớ thương sâu sắc về miền Nam trong xa cách qua những hình ảnh giản dị mà sâu lắng ( Gò
me ). Ngoài ra, cũng cần khẳng định sự đóng góp của các nhà thơ khác như: Trần Hữu Thung,
Xuân Hoàng, Lương An, Minh Huệ ...., và cũng cần nói đến sự góp phần đáng kể của hai nhà thơ

miền núi : Nông Quốc Chấn và Bàn Tài Ðoàn trong việc làm nên vẻ đẹp đầy hương sắc cho thơ
ca 1955 1975. - Lớp các nhà thơ trẻ xuất hiện đông đảo, xông xáo, nhạy cảm. Sự xuất hiện của
lớp nhà thơ này đã góp phần tạo nên sự phong phú, đa dạng cho thơ Việt Nam hiện đại. Tuy
nhiên, phong cách thơ của họ chưa thật ổn định. Tiêu biểu có thể nói đến Lê Anh Xuân, Dương
Hương Ly, Xuân Quỳnh, Bằng Việt, Phạm Tiến Duật, Nguyễn Khoa Ðiềm. Họ là những nhà thơ
giàu cảm xúc, có sự khỏe khoắn, táo bạo của tuổi trẻ trong cấu tứ, trong việc sử dụng ngôn ngữ,
nhịp điệu và hình ảnh,...
2.1.2 Các đề tài lớn :
* Cuộc sống mới :


Cuộc sống xây dựng CNXH ở miền Bắc tuy nhiều gian truân vất vả, nhưng mỗi một người đều
tràn đầy niềm tin yêu, tự hào về những đổi thay kì diệu trong cuộc sống của dân tộc. Hình ảnh
một mùa thu trong xanh ở thơ Huy Cận, mùa xuân trong thơ Tố Hữu với hình ảnh cành táo đầu
hè rung rinh quả ngọt, hay đó là niềm hạnh phúc dâng đầy qua hình ảnh trái cây rơi trên áo người
ngắm quả trong thơ Chế Lan Viên, bầu trời đỏ rực màu ngói mới trong niềm vui hạnh phúc với
âm thanh của tiếng em cười ríu rít ở sau xe trong thơ Xuân Diệu , đã để lại cho người đọc niềm
tươi vui, một cảm giác lâng lâng trước những hạnh phúc đơn sơ, ước mơ nho nhỏ của mỗi con
người Việt Nam khi sống giữa cuộc đời mới.
*Ðấu tranh thống nhất nước nhà:
Ðất nước bị chia cắt đã tạo nên nỗi đau lớn cho con người Việt Nam khi đứng trước cảnh sông
Bến Hải bên bồi bên lở, cầu Hiền Lương bên nhớ, bên thương.
Tố Hữu có nhiều vần thơ xúc động về đề tài này. Nỗi đau về cảnh đất nước chia cắt luôn thường
trực trong tâm hồn nhà thơ. Có thể nói, miền Nam chính là miền sâu thẳm trong cõi lòng ông, là
điều ông không có thể nào yên, không có thể nào quên, có thể nào khuây,...
Xuân Diệu có cả một phần thơ Mũi Cà Mau viết về đề tài đấu tranh thống nhất nước nhà. Ông
cảm nhận:
Tổ quốc ta như một con tàu
Mũi thuyền ta đó , mũi Cà Mau.
Lưu Trọng Lư nói tới nỗi đau trước cảnh đất nước chia cắt thật cảm động qua bài thơ Sóng vỗ

cửa Tùng :
Bờ nớ bờ ni trông thấy
Sao đành nón ngoắt tay đưa
Nhìn lại nhìn qua
Sao mắt đành ứa lệ . Chế Lan Viên nói một cách thấm thía sâu sắc về những kỉ niệm khó quên
trong xa cách qua các bài thơ : Ðêm tập kết, Mẹ, Gốc nhãn cao Lê Anh Xuân với những cảm xúc
ngọt ngào, tươi mát đã bộc lộ nỗi nhớ thương da diết về quê hương qua Nhớ mưa quê hương và
khát vọng cháy bỏng được Trở về quê nội để góp sức mình vào cuộc chiến đấu vì sự thống nhất
đất nước . Ðặc biệt, ở chủ đề này, tiếng thơ của các nhà thơ cách mạng và của quần chúng yêu
nước cách mạng ở miền Nam vẫn luôn ngân vang trong lửa đạn, vẫn thể hiện rõ niềm tin vào
thống nhất , vẫn vững như kiềng ba chân, dù ai rào giậu ngăn sân, vẫn hướng về một ngày mai
thống nhất (Thơ của các nhà thơ : Giang Nam, Thanh Hải, Viễn Phương ,... )
Tóm lại, ở đề tài này, các nhà thơ đã thể hiện đúng những tâm tư tình cảm nguyện vọng của cả
dân tộc về một đất nước thống nhất và niềm tin mãnh liệt vào điều đó .
* Ðề tài ra trận:
Hầu hết các nhà thơ đều viết về đề tài ra trận, và mỗi nhà thơ lại có cách khám phá, thể hiện khác
nhau. Tố Hữu gọi là dòng thơ lửa cháy, Chế Lan Viên quan niệm là Những bài thơ đánh giặc, với
Huy Cận đó là Chiến trường gần đến chiến trường xa...
- Thơ ca đã thể hiện được khí thế ra quân hùng mạnh của dân tộc ( Ðường ra mặt trận của Chính
Hữu, Xuân 68 của Tố Hữu,... ).
- Thể hiện được những cảnh chia tay , đưa tiễn mang nhiều ý nghĩa cao đẹp ( Kỉ niệm có gì của
Chế Lan Viên, Cuộc chia li màu đỏ của Nguyễn Mĩ , Chia tay trong đêm Hà Nội của Nguyễn
Ðình Thi , Hương thầm của Phan Thị Thanh Nhàn , Tiễn đưa của Tố Hữu... ) .
- Thể hiện sự gắn bó sâu sắc, máu thịt của con người Việt Nam đối với Tổ quốc , niềm tự hào của
họ về Tổ quốc, về Ðảng và Bác Hồ vĩ đại (Tổ quốc có bao giờ đẹp thế này chăng?, Sao chiến
thắng của Chế Lan Viên, Mặt đường khát vọng của Nguyễn Khoa Ðiềm, Việt Nam máu và hoa
của Tố Hữu, Quê hương của Giang Nam, Ðất Viên An của Nguyễn Bá ...)


- Thể hiện được chủ nghĩa anh hùng cách mạng của dân tộc Việt Nam trong chiến đấu qua sự

cảm nhận sâu sắc về tâm hồn và tình cảm của dân tộc Việt Nam qua hình tưọng người mẹ ( Mẹ
Suốt của Tố Hữu, Ðất quê ta mênh mông của Dương Hương Ly, Hơi ấm ổ rơm của Nguyễn Duy,
Người mẹ trồng bông của Lê Anh Xuân ... ) , ở hình tượng anh chiến sĩ giải phóng quân ( Dáng
đứng Việt Nam của Lê Anh Xuân, Tiểu đội xe không kính của Phạm Tiến Duật, Dấu chân qua
trảng cỏ của Thanh Thảo, Nấm mộ và cây trầm của Nguyễn Ðức Mậu, Ðường tới thành phố của
Hữu Thỉnh ... ) , và ở nhiều hình tượng khác như : Cô giao liên, cô thanh niên xung phong .
( Khoảng trời và hố bom của Lâm Thị Mĩ Dạ, Gửi em cô thanh niên xung phong của Phạm Tiến
Duật ... ) .Trong chiến đấu, giữa bao nhiêu mất mát và hi sinh tình yêu của con người Việt Nam
càng trở nên cao đẹp ( Bài thơ tình yêu của Dương Hương Ly, Trường Sơn Ðông, Trường Sơn
Tây của Phạm Tiến Duật ... ) . Có thể nói, hiện thực cuộc kháng chiến chống Mĩ đã tỏa nắng cho
thơ , góp phần làm nên vẻ đẹp trọn vẹn cho thơ.
2.1.3 - Hình thức nghệ thuật :
* Thể thơ :
Các nhà thơ ở thời kì này đã sử dụng linh hoạt nhiều thể thơ và ở thể thơ nào họ cũng đạt được
những thành công rực rỡ. Trong đó, thể thơ tự do chiếm một vị trí đáng kể và ngày một trở nên
nhuầân nhuyễn linh hoạt hơn, có khả năng diễn tả được sâu sắc, trọn vẹn những vấn đề cốt lõi
của cuộc sống. Ðặc biệt, trong thời kì này có sự xuất hiện thể trường ca. Với thể trường ca, các
nhà thơ có thể diễn tả được một cách sâu rộng, khái quát hiện thực cuộc sống đấu tranh giữ nước
của dân tộc. Thông qua thể trường ca, các nhà thơ đã thể hiện được năng lực khái quát , sự suy
ngẫm của mình trước những vấn đề của cuộc sống.
* Cách biểu hiện cuộc sống :
Theo hai khuynh hướng : Nâng cao tính hiện thực và nâng cao chất trí tuệ trong thơ .
* Ngôn ngữ thơ :
Gần với ngôn ngữ của cuộc sống kháng chiến, giàu chất gợi cảm và liên tưởng .
*Cấu trúc câu thơ và nhịp điệu thơ :
Câu thơ mở rộng, dài ngắn khác nhau. Cách ngắt câu, xuống dòng uyển chuyển, linh hoạt đẩy
cảm xúc vào dòng chuyển động tạo nên một từ trường lôi cuốn đắm say .
2.1.4 - Một số đặc điểm nổi bật của thơ 55 -75:
- Tính thời sự : Thơ gắn chặt với cuộc sống của dân tộc, phản ánh một cách kịp thời, chân thật,
sinh động hiện thực cuộc kháng chiến chống Mĩ và khí thế sôi nổi hào hùng của đời sống xây

dựng CNXH ở miền Bắc.
- Tính chiến đấu: Các nhà thơ dũng cảm đến với cuộc sống chiến đấu nhiều gian khổ hi sinh
nhưng rất đỗi hào hùng của dân tộc để tìm cảm hứng sáng tạo. Những vần thơ của họ đã vạch
mặt kẻ thù, ca ngợi người yêu nước và cách mạng, tinh thần quyết tâm chiến đấu và giành chiến
thắng của dân tộc Việt Nam.
- Giàu chất trữ tình và chất anh hùng ca: Thơ chứa chan những cảm nhận về quê hương đất nước,
về cuộc sống quá khứ, hiện tại và hướng về tương lai. Thơ chính là tiếng hát tâm tình của dân tộc
Việt Nam trước hiện thực cuộc sống đầy sôi động, với những cảm xúc đằm thắm thiết tha về tình
mẹ con, vợ chồng, tình yêu, đồng chí, quê hương Tổ quốc. Ðặc biệt, thơ có sự kết hợp hài hòa
nhuần nhuyễn giữa chất anh hùng ca và trữ tình (Người con gái Việt Nam của Tố Hữu, Dáng
đứng Việt Nam của Lê Anh Xuân, Bài ca chim Chơrao của Thu Bồn).
- Thơ ca thời kì này vừa có vẻ đẹp chung của cả nền thơ, vừa có vẻ đẹp riêng của từng khuôn
mặt với những phong cách thơ khác nhau.
2.1.5 Nhận xét chung :


Hơn hai mươi năm qua, thơ Việt Nam hiện đại đã có sự vươn lên không ngừng. Các nhà thơ có
sự tìm tòi và thể nghiệm, có sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa truyền thống và hiện đại, để ngày
càng đạt được những thành tựu rực rỡ, góp phần tạo nên vẻ đẹp phong phú, đa dạng và những
hương sắc mới cho thơ ca Việt Nam hiện đại.
2.2 Truyện và kí:
2.2.1 - Ðội ngũ sáng tác :
So với thơ, truyện và kí có vị trí không kém phần quan trọng. Ðội ngũ nhà văn viết truyện và kí
đông đảo, nhiệt tình, gắn bó với cuộc sống, luôn có sự tìm tòi thể nghiệm trong sáng tác để tạo
nên sự phát triển mạnh mẽ, ngày một phong phú hơn cho thể loại này.
- Tiêu biểu cho các nhà văn lớp trước là : Nguyễn Tuân, Nguyên Hồng, Nguyễn Huy Tưởng , Tô
Hoài, Nguyễn Công Hoan , Bùi Hiển. - Tiêu biểu cho lớp nhà văn kế cận là : Nguyễn Ðình Thi,
Nguyễn Khải, Nguyên Ngọc, Nguyễn Văn Bổng, Vũ Tú Nam, Phan Tứ, Vũ Thị Thường, Xuân
Cang, Ðào Vũ, Anh Ðức , Nguyễn Minh Châu, Chu Văn , Nguyễn Thi, Nguyễn Sáng, Vũ Hạnh ,
Hữu Mai đã trở thành nòng cốt, phát huy được khả năng của mình trong sáng tác.

- Tiêu biểu cho lớp nhà văn trẻ là : Lê Văn Thảo, Dương Thị Xuân Quý, Ðỗ Chu, Thái Bá Lợi,
Nhật Tuấn,.... Họ được trưởng thành trong cuộc kháng chiến chống Mĩ với tài năng đầy hứa hẹn.
Nhìn chung, đội ngũ nhà văn ngày một lớn mạnh, đông đảo, khẳng định được vị trí của mình
trong sự nghiệp cách mạng của dân tộc, khẳng định được phong cách sáng tác. Mỗi nhà văn là
một bông hoa có hương sắc riêng, góp phần tạo nên một vườn hoa đầy hương sắc, đa dạng và
phong phú trong vườn hoa văn xuôi Việt Nam hiện đại. Chúng ta có cái đẹp trong sáng, nhẹ
nhõm, thanh thoát, đầy tình cảm yêu thương của Nguyễn Ðình Thi, cái xù xì gân guốc với chất
say đầy hưng phấn lãng mạn của Nguyên Hồng, cái hóm hỉnh thông minh của một năng khiếu
quan sát tinh tế kết hợp với tâm hồn thơ mơ mộng của Tô Hoài, cái đôn hậu ấm áp đượm vẻ huy
hoàng tráng lệ của Nguyễn Huy tưởng, cái tỉnh táo, sắc sảo mang tính chất phát hiện của Nguyễn
Khải, cái khỏe mạnh gân guốc có tính chiến đấu của Chu Văn, cái dân gian mà hiện đại của
Nguyễn Thi, cái hiện đại mà cổ kính của Nguyễn Tuân, cái hùng tráng mà thi vị của Nguyễn
Trung Thành, cái trữ tình trong sáng thiết tha của Anh Ðức, cái trí tuệ hài hòa và cân đối của
Phan Tứ. Bùi Hiển vẫn giữ được cái đậm đà trung hậu của xứ Nghệ, Vũ Thị Thường hướng về
một vả đẹp nông thôn thuần phác, đôn hậu, Nguyễn Kiên đầm ấm yêu thương với những tình
cảm, lí tưởng trong sáng, Nguyễn Sáng thích những xung đột giàu kịch tính, nhân vật có chất tạo
hình, góc cạnh và dữ dội, Ðỗ Chu thu hút chúng ta bằng những cảm xúc tươi mới, những kỉ niệm
ngọt ngào, ấm cúng ,...
( Nhà văn Việt Nam hiện đại, tập 1 Phan Cự Ðệ)
2.2.2 - Các đề tài lớn :
* Ðề tài về cuộc sống trước cách mạng tháng Tám :
Nổi bật là tác phẩm Vỡ bờ của Nguyễn Ðình Thi. Bộ tiểu thuyết Cửa biển của Nguyên Hồng,
Tranh tối tranh sáng, Hỗn canh hỗn cư, Ðống rác cũ, tập I của Nguyễn Công Hoan . Các tác
phẩm trên đã giúp người đọc hiểu về cuộc sống quá khứ của dân tộc trên tầm nhận thức và thể
hiện mới của nhà văn.
Ngoài ra còn có tập kí Nhân dân ta rất anh hùng do một số cán bộ lãnh đạo cách mạng như Võ
Nguyên Giáp, Lê Văn Lương, Phạm Hùng, Hoàng Quốc Việt ... kể lại những hoạt động cứu nước
trước cách mạng, góp phần khơi gợi tinh thần yêu nước của nhân dân.
* Ðề tài về cuộc kháng chiến chống Pháp ( Sau kháng chiến viết về kháng chiến) :
Các nhà văn có khoảng cách về thời gian để nhận thức sâu sắc hơn về hiện thực cuộc sống

kháng chiến. Tiêu biểu phải kể đến: Ðất nước đứng lên của Nguyên Ngọc, Trước giờ nổ súng của
Lê Khâm, Một truyện chép ở bệnh viện của Bùi Ðức Aùi, Sống mãi với thủ đô của Nguyễn Huy


Tưởng, Cao điểm cuối cùng của Hữu Mai, Phá vây của Phù Thăng.
Ngoài ra còn khá nhiều truyện ngắn và kí thể hiện những phẩm chất cao đẹp của người chiến sĩ.
* Ðề tài về cuộc sống xây dựng chủ nghĩa xã hội :
Các nhà văn nhanh chóng chiếm lĩnh hiện thực đời sống xây dựng CNXH để khám phá và sáng
tạo được nhiều tác phẩm hay, tiêu biểu là: Hãy đi xa hơn nữa, Xung đột của Nguyễn Khải, Cái
sân gạch của Ðào Vũ, Bốn năm sau của Nguyễn Huy Tưởng, Bão biển của Chu Văn, Những
người thợ mỏ của Võ Huy Tâm, Gánh vác của Vũ Thị Thường, Vụ mùa chưa gặt của Nguyễn
Kiên, Sông Ðà của Nguyễn Tuân,.... Tác phẩm của họ không chỉ phản ảnh cuộc sống mà còn góp
phần lí giải những vấn đề đặt ra trong cuộc sống ở buổi đầu xây dựng CNXH ở miền Bắc. Những
thành công trên đã khẳng định sự trưởng thành của nhà văn trong quá trình sáng tạo nghệ thuật.
* Ðề tài về cuộc kháng chiến chống Mĩ :
Hầu hết các nhà văn đều viết về đề tài này và họ đã đạt được những thành công đáng trân trọng.
Nổi bật nhất là các tác phẩm : Hòn đất, Bức thư Cà Mau của Anh Ðức, Mẫn và tôi, Gia đình má
Bảy, Về làng của Phan Tứ, Ðất Quảng, Rừng xà nu của Nguyễn Trung Thành, Nguời mẹ cầm
súng của Nguyễn Thi, Rừng U Minh của Trần Hiếu Minh, Chiếc lược ngà, Bông cẩm thạch của
Nguyễn Quang Sáng, Sống như anh của Trần Ðình Vân, Bất khuất của Nguyễn Ðức Thuận, Hà
Nội ta đánh Mĩ giỏi của Nguyễn Tuân, Họ sống và chiến đấu, Chiến sĩ của Nguyễn Khải Vùng
trời của Hữu Mai, Thôn ven đường của Xuân Thiều, Cửa sông, Dấu chân người lính của Nguyễn
Minh Châu, Những ngày nổi giận của Chế Lan Viên...
Các tác phẩm nói trên đã thể hiện được khí thế hào hùng và những phẩm chất cao đẹp cũng như
sức sống mãnh liệt của dân tộc Việt Nam trong chiến tranh.
2.2.3 Vài nhận xét về truyện và kí 1955 1975 :
- Nét nổi bật, nét mới của truyện và kí giai đoạn này đó là :Vừa nâng cao khả năng bao quát hiện
thực, vừa chú ý đào sâu những vấn đề nằm trong hiện thực đó. Vừa miêu tả, vừa phân tích và lí
giải nên tác phẩm có được sức khái quát chính xác và sâu sắc hơn.
- Xuất hiện nhiều tác phẩm có quy mô phản ánh rộng lớn và sâu sắc như : Cửa biển của Nguyên

Hồng, Vỡ bờ của Nguyễn Ðình Thi, Vùng trời của Hữu Mai, Bão biển, Ðất mặn của Chu Văn,
Chiến sĩ của Nguyễn Khải, Dấu chân người lính của Nguyễn Minh Châu....
- Nhiều tác phẩm ra đời một cách kịp thời, đảm bảo tính thời sự. Ðiều đó chứng tỏ các nhà văn
có sự cố gắng lớn để nhanh chóng chiếm lĩnh được hiện thực cuộc sống.
- Các nhà văn đã chú ý khai thác và thể hiện những khía cạnh độc đáo của cuộc sống vừa sản
xuất, vừa chiến đấu, sự gắn bó giữa tiền tuyến và hậu phương …
- Các tác phẩm đã thể hiện được một cách thành công sự sàng lọc con người trong cuộc sống xây
dựng và chiến đấu. Ðặc biệt, thể hiện được sự kế tiếp của hai thế hệ trong cuộc chiến đấu vì độc
lập tự do của dân tộc, tiêu biểu là : Thung lũng Cô Tan của Lê Phương, Dấu chân người lính của
Nguyễn Minh Châu...
- Vấn đề xây dựng nhân vật có bước phát triển đáng chú ý. Nhà văn đi sâu vào khai thác nội tâm,
đời sống tinh thần của nhân vật. Loại nhân vật được mở rộng đáp ứng kịp thời nhu cầu thẩm mĩ
của độc giả. Một số nhân vật được xây dựng từ nguyên mẫu trong đời sống nên càng có tác dụng
giáo dục sâu sắc.
Tóm lại: Truyện và kí của ta trong hai mươi năm qua tuy chưa có những tác phẩm mang tầm vóc
vĩ đại, nhưng dẫu sao cũng đã phản ánh được, đáp ứng được yêu cầu của thời đại, cổ vũ và thúc
đẩy mạnh mẽ cuộc sống xây dựng và bảo vệ Tổ quốc
2.3 Kịch nói: ( Sinh viên đọc các tài liệu tham khảo theo sự hướng dẫn của giáo viên ).
Cần lưu ý các điểm sau :
- Kịch chuyển thể từ kí và tiểu thuyết .


- Kịch lịch sử góp phần khẳng định niềm tin, niềm tự hào, ý chí của ông cha trong lịch sử đấu
tranh dựng nước và giữ nước
- Tác phẩm tiêu biểu : Ngọn lửa của Nguyễn Vũ, Nổi gió, Ðại đội trưởng của tôi của Ðào Hồng
Cẩm, Ðôi mắt của Vũ Dũng Minh ...
3 Kết luận chung
- Sau hai mươi năm phát triển trong một hoàn cảnh đặc biệt, văn học Việt Nam đã đạt được
những bước tiến mới cả về nội dung lẫn hình thức nghệ thuật. Cuộc sống xây dựng và chiến đấu
với nhiều gian khổ hi sinh đòi hỏi mỗi một nhà văn phải có ý thức trách nhiệm, gắn bó sâu sắc

với Tổ quốc, để từ đó có được nguồn cảm hứng sáng tạo, viết nên những tác phẩm xứng đáng với
thời đại ta và nhân dân ta.
- Hai mươi năm qua, tuy không tránh khỏi một số hạn chế nhất định, nhưng văn học Việt Nam
thời kì này vẫn giữ một vị trí và vai trò đặc biệt quan trọng trong đời sống tinh thần của dân tộc,
cũng như tạo cơ sở vững chắc cho sự phát triển của văn học Việt Nam những năm về sau.



Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×