Tải bản đầy đủ (.docx) (7 trang)

đổi mới trong thời xa vắng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (72.28 KB, 7 trang )

Cùng với bước đường đổi mới phát triển của đất nước trên nhiều lĩnh vực thì từ
năm 1986 đời sống văn học cũng có những bước chuyển mình để bắt kịp sự vận động
chung của đất nước.. Thay vì cảm hứng sử thi của giai đoạn trước các nhà văn đã tìm tòi
những cảm hứng đời tư thế sự, thay vì xu hướng ngợi ca, văn học đặc trưng bởi thái độ
phê phán trực diện những tồn đọng của cuộc sống xã hội, phản ánh kịp thời và tương đối
trọn vẹn những ưu phẫn của cuộc sống con người cá nhân. Trên cơ sở đó về phương diện
hình thức cũng có sự cách tân phong phú, đa dạng. Lê Lựu với tác phẩm Thời xa vắng đã
phác họa thành công được chặng đường lịch sử 30 năm oai hùng của dân tộc, từ buổi lập
nước đến khi giải phóng đất nước, lịch sử được khái quát thong qua số phận của người
nông dân Giang Minh Sài và hơn thế nữa tác phẩm đã góp tiếng nói vào công cuộc đổi
mới văn xuôi việt nam sau năm 1975 trên nhiều phương diện.
Qúa trình đổi mới văn học diễn ra trên cả bề rộng và bề sâu, cả phương diện thể
loại và tiếp cận đời sống, không dừng lại ở đó sự phong phú về đội ngũ sáng tác, sự đa
dạng và bùng nổ về cá tính sang tạo đã làm cho nền văn học sau năm 1986 đem đến một
cách nhin mới, một quan điểm mới về hiện thực cũng như sự phát triển của văn học trong
viêc đổi mới văn học về cả nội dung và đặc sắc nghệ thuật.
Khảo sát Thời xa vắng trên bình diện nội dung, có thể nhận thấy sự cách tân của
Lê Lựu trên phương diện đề tài, chủ đề và cảm hứng nghệ thuật.
Thời xa vắng có một hệ thống đề tài vừa quen vừa lạ. Sự bổ sung đề tài thành thị vào
hệ thống những đề tài quen thuộc của văn học thời đại như đề tài nông thôn, đề tài xây
dựng, đề tài chiến tranh và người lính đã góp phần tạo nên bộ mặt vừa quen vừa lạ đó của
Thời xa vắng. Mặt khác, quan sát sự thể hiện các đề tài kể trên trong tác phẩm, ta cũng
nhận thấy tác giả đã xác định vị trí độc lập cho đề tài xây dựng, đã tách nó khỏi ý nghĩa
chức năng soi sáng cho đề tài chiến đấu như thường thấy trong các tác phẩm văn xuôi
giai đoạn trước, và vì thế, nó chỉ mang ý nghĩa là phạm vi đời sống xã hội.
Vấn đề trung tâm đặt ra trong tác phẩm là số phận con người, cụ thể hơn là
hạnh phúc của con người. Nếu trong văn xuôi trước đây, hạnh phúc của con người được
hòa vào hạnh phúc chung của dân tộc, hạnh phúc là được cống hiến cho sự nghiệp chung
của đất nước, thì giờ đây trong tác phẩm của mình, Lê Lựu lại chú ý đến hạnh phúc riêng
tư, hạnh phúc cá nhân. Trong quan niệm của Lê Lựu, hạnh phúc của con người trước hết
là được ấm no, thứ đến là được yêu thương và cao hơn hết, hạnh phúc là khi tư tưởng cá


nhân được khẳng định, là khi con người xác định được vị trí của mình trong mối quan hệ
với cộng đồng xã hội.
Câu chuyện về một thời mà Lê Lựu gọi là “thời xa vắng” là một câu chuyện buồn
mà suốt một thời gian dài người ta cố tình không nhắc tới. Trong cái thời ấy, người ta
sống hào hùng, hồn nhiên; người ta thương yêu, đùm bọc và lo lắng cho nhau nhưng lại
giản đơn, ấu trĩ không biết người được yêu thương, quan tâm ấy có thực sự hạnh phúc
hay không. Đó là cái thời mà sự yêu ghét của con người bị định đoạt một cách thô bạo,
khiến người ta muốn tồn tại phải tự gọt đẽo mình, phải “sống hộ ý định người khác”. Tất
cả những sai lầm một thời đó in rõ trong số phận và tính cách của nhân vật chính Giang
Minh Sài. Suốt nửa cuộc đời, Sài loay hoay giữa muôn vàn đau khổ do sức ép từ nhiều
phía. Thưở nhỏ, Sài phải dằn lòng sống theo ý muốn của gia đình, dòng họ. Đến tuổi


trưởng thành, Sài lại phải cố gồng mình lên để chịu đựng, phải “tự giết chết đi những xao
xuyến thèm khát một hạnh phúc thực sự”. Khi vào quân ngũ, Sài lại phải theo ý các thủ
trưởng “yêu cái người khác yêu, ghét bỏ cái người khác ghét bỏ”. Khi bước vào cuộc hôn
nhân thứ hai với Châu, tuy là người tự do lựa chọn và sống theo ý mình, nhưng cách sống
của anh vẫn là hệ quả của những tháng ngày “sống hộ ý định người khác” thuở trước.
Hôn nhân đổ vỡ là kết quả của một thời “yêu cái mình không có” của anh. Sau biết bao
đau khổ, dằn vặt, anh quyết định dứt bỏ quá khứ lầm lạc, trở về Hạ Vị, góp phần xây
dựng cuộc sống mới trên quê hương. Viết thêm phần ba câu chuyện như một kết thúc có
hậu, Lê Lựu muốn hoàn tất việc lý giải chủ đề tác phẩm và thể hiện suy nghĩ của mình:
Con người ta không nên “yêu cái người khác yêu”, cũng không nên “yêu cái mà mình
không có”. Người ta chỉ có thể hạnh phúc khi biết sống theo suy nghĩ và hành động của
mình. Cái “thời xa vắng” vì thế có tác dụng như một bài học để mọi người không bao giờ
lặp lại.
Viết về cuộc đời Giang Minh Sài gắn với một “thời xa vắng” đầy những bi hài mà ở đó,
con người cá nhân bị đè nén, bị giết chết, nhà văn muốn hướng tới một cuộc sống bình
thường, một xã hội nhân văn tôn trọng cá nhân, cá tính; và ở đó, con người cũng phải có
ý thức sâu sắc hơn nữa về vị trí của mình trong mối quan hệ hài hòa, thống nhất với gia

đình, tập thể, cũng như dám chịu trách nhiệm về nhân cách của mình. Với ý nghĩa
này,Thời xa vắng của Lê Lựu thực sự hòa tiếng nói riêng của mình vào tiếng nói nhân
bản chung của văn học nhân loại.
Thời xa vắng cũng như văn học thời đại không chỉ miêu tả đời sống mà còn lý giải,
cắt nghĩa đời sống. Trong tác phẩm, nhà văn đã đưa ra những lý giải thuyết phục về
những nguyên nhân cuộc sống đói nghèo của người nông dân Hạ Vị, đặc biệt lý giải
những nguyên nhân sâu xa dẫn đến tình trạng con người cá nhân không có chỗ đứng
trong cái “thời xa vắng” đã qua đầy những áp đặt duy lý, ấu trĩ và không ít những sai lầm.
Vì sao Sài không được là mình, không thể sống theo ý mình, không thể đi theo tiếng gọi
của tình yêu đích thực? Bởi trước hết, theo Lê Lựu, trong cái thời ấy, không ai cho Sài cái
quyền làm như vậy. Cái danh dự của gia đình, dòng họ ông đồ Khang, cái uy tín cán bộ
của ông Hà, của anh Tính không cho phép Sài “thò ra cái ý định bỏ vợ”. Cái sự yêu
thương, quan tâm của Hiền, Hiểu và những người khác trong quân ngũ cũng không cho
phép Sài sống với tình yêu đích thực của mình, thâm chí không thể sống với suy nghĩ
riêng tư của mình. Thế nên, Sài “không được là mình, không dám là mình”
Mặt khác, Sài không thể sống theo ý mình bởi dư luận. Chính cái sức mạnh của dư luận
đã đè nặng lên gia đình Sài, rồi tất cả đổ ụp lên đầu Sài. Và cũng như bao người khác ở
làng Hạ Vị, Sài phải “dựa vào dư luận mà sống”, Sài không đủ can đảm “dẫm lên dư luận
mà đi theo ý của mình”.
Bi kịch của Sài là do những nguyên nhân khách quan mang lại, bi kịch đó còn được tạo
nên từ nguyên nhân chủ quan: Sài là người nhu nhược, thiếu dũng cảm. Trong đoạn đời
đầu, vì nhu nhược,hèn nhát, Sài đã không dám chống lại sự áp đặt của gia đình, không
dám vượt qua dư luận, không dám phá bỏ những ràng buộc để sống với con người thật
của mình, không dám đấu tranh để bảo vệ tình yêu và hạnh phúc thực sự của mình. Trong


đoạn đời sau, cũng vì nhu nhược, Sài đã để vợ lấn lướt, xem thường. Đó cũng chính là
nguyên nhân dẫn đến sự đổ vỡ trong cuộc hôn nhân thứ hai của anh.
Cách lý giải chủ đề của Lê Lựu thể hiện cái nhìn biện chứng đối với quá khứ, thể hiện cái
nhìn đầy đủ, toàn diện về con người. Và do đó, những lý giải đó có sức thuyết phục cao.

Tuy nhiên, bên cạnh những lý giải thuyết phục đó, trong tác phẩm không phải không có
những lý giải mang tính chủ quan, không tránh được phần cứng nhắc. Chính sự phức tạp
trong việc lý giải và định giá thế giới như trên đã đưa đến một cấu trúc cảm hứng phức
tạp trong Thời xa vắng.
Cảm hứng bi - hài là cảm hứng cơ bản của tác phẩm đã tỏ rõ tính chân thực lịch sử
của nó. Cảm hứng này đem đến cho người đọc một cái nhìn sâu sắc và biện chứng hơn
về cuộc đời và con người. Câu chuyện về một thời đã qua trong Thời xa vắng chứa chất
biết bao nỗi buồn, bao bi kịch, và cũng chứa đựng biết bao chuyện nực cười. Điều dặc
biệt là với Thời xa vắng, Lê Lựu hầu như không sử dụng phương thức cường điệu, phóng
đại, phương thức quen thuộc của văn xuôi viết theo cảm hứng hài kịch. Nhà văn kể về cái
thời đã qua với những chuyện rất thật, thật như đùa. Những đoạn kể, đoạn tả trong tác
phẩm về cảnh đi làm thuê của người dân Hạ Vị; cảnh đám tang cụ đồ Khang; chuyện
người ta can thiệp thô bạo đến quyền tự do cá nhân; cách đánh giá con người rất quan
liêu, cứng nhắc; chuyện anh chàng Sài việc gì cũng phải theo các thủ trưởng kể cả chuyện
yêu và ngủ với vợ, chuyện Sài sập bẫy tình của cô gái Hà thành khôn ngoan, lọc lõi là
Châu, chuyện Sài sống với vợ mà chẳng khác gì thằng đầy tớ,…vừa khiến người ta bật
cười về những chuyện thật như đùa mà tác giả kể, vừa khiến người ta xót xa thương cảm
cho những người phải “sống vo tròn tính cách” đi như Giang Minh Sài.
Bổ sung cho cảm hứng bi - hài là cảm hứng ngợi ca, khẳng định. Với cảm hứng này, nhà
văn mong muốn mang đến cho mọi người niềm tin, niềm hy vọng về nhứng điều tốt đẹp
sẽ đến nếu con người biết sống đối với chính mình, với những ước mơ khát khao của
chính mình. Tuy nhiên, cảm hứng ngợi ca, khẳng định tỏ ra gượng gạo và ít tính thuyết
phục so với cảm hứng bi - hài trong tác phẩm.
Khảo sát Thời xa vắng với sự đổi mới văn xuôi Việt Nam sau 1975 trên bình diện nghê
thuật, thi pháp, ta có thể thấy sự cách tân trong nghệ thuật xây dựng nhân vật, xây
dựng cốt truyện và kết cấu trần thuật.
Thời xa vắng đã có sự thay đổi rất căn bản trong quan niệm nghệ thuật về con
người, từ đó dẫn đến những thay đổi trong nghệ thuật xây dựng nhân vật. Xóa bỏ
những nguyên tắc nhận thức cứng nhắc về con người, xóa bỏ cách phân tuyến nhân vật
rạch ròi như trong văn xuôi giai đoạn trước, Thời xa vắng đã có sự thay đổi trong quan

niệm về nhân vật văn học. Lê Lựu đã xây dựng được “lịch sử trong con người”
Nhìn nhận vật như một tính cách thực sự, khám phá sự hình thành và phát triển tính cách
trong sự tác động của hoàn cảnh, môi trường lịch sử - xã hội, chú ý mối quan hệ giữa tính
cách và số phận của nó, nhìn sâu vào nhân vật để nhận ra sự vênh lệch trong bản thân nó
và sự vênh lệch của nó với chuẩn mực xã hội - sự vênh lệch làm nên số phận bi kịch của
nhân vật; dịch chuyển các điểm nhìn trần thuật để có cái nhìn toàn diện, đầy đủ hơn về


nhân vật; sử dụng độc thoại nội tâm để khám phá đời sống tinh thần phong phú của nhân
vật… đã giúp Lê Lựu đạt được những thành công trong nghệ thuật xây dựng nhân vật, và
Giang Minh Sài trở thành một nhân vật điển hình sống động, có sức ám ảnh to lớn đối
với mọi thế hệ độc giả.
Có thể nói tính cách của Giang Minh Sài là sản phẩm của một hoàn cảnh đáng buồn, đầy
bất công phi lý thời quá khứ: cái xấu bao quanh cái tốt, cái ác nằm ngay trong cái thiện,
con người bị biến thành nô lệ cho những định kiến hẹp hòi, những nguyên tắc chủ quan
cứng nhắc, giáo điều. Hoàn cảnh đó khiến Sài phải tự bào mòn, gọt đẽo mọi cá tính cho
vừa với khuôn mẫu chung của cộng đồng xã hội, biến Sài thành kẻ nhu nhu nhược, hèn
nhát, và vì thế, cuộc đời của Sài là cuộc đời bất hạnh, đầy rẫy những bi kịch.
Tính cách nhu nhược, hèn nhát của Sài do đâu mà thành? Lê Lựu lý giải: Một phần do sự
áp đặt của hệ tư tưởng gia trưởng, mặt khác nó xuất phát từ căn nguyên sâu xa là tâm lý
cố hữu của người nông dân làm thuê “sẵn cơm thì ăn, sẵn việc thì làm, chỉ hong hóng chờ
chủ sai bảo chứ không dám quyết đoán, định đoạt một việc gì”.
Cuộc đời của Sài không hề phẳng lặng, bình yên. Sài luôn phải sống trong tình trạng
“vênh lệch” giữa một bên là khát vọng tình yêu và hạnh phúc cá nhân với một bên là
nguyên tắc chủ quan ấu trĩ, là hiện thực bi đát, đau khổ; giữa một bên là “điều mình mong
muốn” với bên kia là “điều người khác muốn”. Đây chính là xung đột dữ dội nhất trong
con người Sài, đẩy Sài vào bi kịch. Cuộc đời Sài không giản đơn thuận chiều mà chứa
đầy những nghịch lý: Sài tốt, Sài hiền lành, Sài có đủ điều kiện để tìm thấy hạnh phúc
giữa cuộc đời này nhưng Sài lại không gặp lành, Sài bất hạnh; Sài phấn đấu không mệt
mỏi và chấp nhận những điều mà mình không muốn để được đứng vào hàng ngũ của

Đảng, nhưng Sài không được kết nạp; Sài là người lính dũng cảm, đạt nhiều thành tích
nhưng Sài không trở thành anh hùng; Sài sống trong sự yêu thương của mọi người nhưng
chính tình yêu thương đó lại làm hại đời anh. Qua nhân vật này, cuộc đời đầy rẫy những
nghịch lý, bất công được tác giả khái quát một cách sâu sắc.
Trong quá trình khắc họa tính cách và số phận nhân vật, Lê Lựu hết sức quan tâm
tới những dằn vặt, suy tư, những suy nghĩ, trải nghiệm của nó trước cuộc sống, tức
là chú ý đến quá trình tự ý thức và đời sống nội tâm của nhân vật. Để khắc họa rõ nét
về nhân vật, nhà văn sử dụng ngôn ngữ độc thoại nội tâm, một phương tiện biểu hiện hữu
hiệu thế giới bên trong của con người. Thông qua độc thoại nội tâm, cái thế giới bên
trong của Giang Minh Sài với tất cả những hoài bão, ước mơ, với tất cả những đau khổ,
cay đắng đã hiện lên một cách chân thực, sinh động. Thông qua độc thoại nội tâm, người
đọc nhận ra rằng sâu xa trong ý nghĩ của Sài, anh luôn mong muốn được giải thoát, dù bề
ngoài của anh có vẻ như chấp nhận mọi sắp đặt. Đọc những trang nhật ký của Sài, ta sẽ
thấy rõ điều đó.
Với nhân vật Giang Minh Sài, Lê Lựu đã có một cách nhìn thấu đáo, biện chứng về con
người. Con người ngoài những mặt tốt, đáng thương còn có cả những mặt xấu, đáng giận.
Điều đặc biệt khi khắc họa tính cách của Giang Minh Sài, nhà văn không đứng ở vị trí
phán truyền và áp đặt. Người đọc được cảm nhận đầy đủ về nhân vật qua việc xê dịch các
điểm nhìn trần thuật thể hiện những cách đánh giá khác nhau đối với nhân vật. Tính cách


của nhân vật được đánh giá từ nhiều phía, nhiều thời điểm; những cách đánh giá đó có
giá trị bổ sung tạo cho nhân vật một tính cách hoàn chỉnh. Ta có thể hiểu rõ hơn về tính
cách nhân vật Sài thông qua nhận xét của các nhân vật khác trong tác phẩm như Hương,
Hiểu, Hiền, chính ủy Đỗ Mạnh, anh Tính, chú Hà, Châu và người nhà của Châu…
Một yếu tố khác của thi pháp nghệ thuật tác phẩm cũng rất đáng quan tâm đấy là hệ
thống cốt tuyện. Có thể nói, cốt truyện Thời xa vắng là một cốt truyện truyền thống,
trong đó các sự kiện, biến cố được trình bày theo trật tự thời gian khách quan và sự
phát triển các biến cố ấy cũng phù hợp với lôgich khách quan. Đó là một cốt truyện
đơn giản, mạch lạc, không có sự ly kỳ với những sự kiện, biến cố có tính chất ngẫu nhiên,

xuất hiện đột ngột, bất ngờ làm xoay chiều câu chuyện hoặc làm thay đổi số phận nhân
vật. Một cốt truyện với hệ thống biến cố như vậy phù hợp với việc thể hiện tư tưởng luận
đề của tác phẩm, nhưng lại khiến người đọc cảm thấy thiếu đi sự hấp dẫn. Tuy nhiên, nếu
quan niệm cốt truyện không chỉ là hệ thống các biến cố mà còn là hệ thống tính cách với
các chi tiết nghệ thuật hỗ trợ cho việc khắc họa tính cách, chúng ta sẽ nhận ra nét mới của
cốt truyện Thời xa vắng. Sức hấp dẫn của cốt truyện tác phẩm ở chính những chi tiết
nghệ thuật rất độc đáo này.
Cốt truyện Thời xa vắng được đan dệt bằng một hệ thống các chi tiết nghệ thuật độc
đáo, hấp dẫn. Các chi tiết dù nhỏ nhưng lại mang một sức chứa lớn về cảm xúc và tư
tưởng, góp phần làm cho hình tượng mang tính cụ thể, gợi cảm, sống động hơn. Các chi
tiết này đóng vai trò vật liệu xây dựng, làm tiền đề cho cốt truyện phát triển thuận lợi và
hợp lý. Chi tiết về cuộc họp của dân làng Hạ Vị trong phần đầu tác phẩm; chi tiết chú Hà
quàng khăn đỏ cho Sài và Sài thay mặt đội thiếu nhi tháng Tám nói lời hứa hẹn phấn đấu;
chi tiết Sài mua phở cho vợ ăn suốt ba ngày liên tục khiến cho vợ bỏ về nhà mẹ đẻ,… là
những chi tiết tiêu biểu, hàm chứa rất nhiều ý nghĩa. Trong tác phẩm còn nhiều chi tiết
thú vị khác nữa: Chi tiết Sài theo mẹ đi làm thuê rồi cay đắng nhận ra nỗi tủi nhục của kẻ
đi làm thuê kiếm miếng ăn; chi tiết Sài và Hương gặp nhau và tỏ tình cùng nhau giữa
mênh mông nước lụt; chi tiết ông Hà triệu tập cán bộ xã để làm rõ chuyện đồn đại về
quan hệ Sài - Hương; hay như chi tiết lần đầu tiên đi chơi của Châu với Sài đã bắt đầu
báo hiệu tính cách của Châu như thế nào,…Mỗi chi tiết đều được tác giả dựng lên với ý
đồ nghệ thuật riêng. Nó góp phần giải thích hoặc báo hiệu cho những gì sẽ xảy ra sau đó
hoặc góp phần đắc lực vào việc khắc họa tính cách nhân vật. Đây chính là điểm hấp dẫn
của Thời xa vắng trong nghệ thuật xây dựng cốt truyện.
Còn có thể nhận thấy trong nghệ thuật trần thuật của tác phẩm, dường như Lê Lựu
rất ít tả mà thiên về kể. Đặc biệt tác giả thường sử dụng lối kết hợp kể - tả hoặc kết hợp
tả - bình luận, nhiều nhất là kết hợp lời kể với lời giải thích, bình luận. Trong tác phẩm,
nhà văn rất ít miêu tả cảnh thiên nhiên hoặc chân dung con người, nếu có thì chỉ tả xen
trong những đoạn kể. Cái được nhà văn chú ý miêu tả hơn cả là những bức tranh sinh
hoạt của con người. Trong tác phẩm có nhiều đoạn tả cảnh sinh hoạt khá hay, hấp dẫn:
Cảnh người làng Hạ Vị đi làm thuê đã được mô tả với ngòi bút sắc sảo và đầy xúc động.

Đoạn tả cảnh mẹ con Sài bưng nồi cơm nhà chủ vừa dọn lên, chưa kịp ăn đã phải bỏ
chạy, hình ảnh Sài đói khát thèm thuồng vùa chạy theo mẹ vừa ngoái nhìn bát cơm mới
xới ra thật xót xa và thấm thía. Những đoạn tả cảnh lụt lội hay cảnh mâm trên mâm dưới;
cảnh tiếp khách ở nhà quê,…vừa thật vừa chua xót đến nao lòng. Đoạn tả về bọn người


cơ hội xu nịnh xuất hiện trong đám ma cụ đồ Khang cũng là một đoạn tả xuất thần, chỉ
cần phẩy vài nét thôi, ngòi bút sắc lẻm của Lê Lựu đã lột tả được hồn vía, tâm địa của
chúng…Phải là người từng trải, từng day dứt về cuộc sống nghèo khổ của người nông
dân, Lê Lựu mới có thể viết những trang văn ứa lệ như vậy; cũng phỉa là người am hiểu
sâu sắc tình người tình đơi, Lê Lựu mới có những trang văn sắc sảo đến như vậy. Chính
từ những trang miêu tả xuất sắc này, tác phẩm được nhà thơ Trần Đăng Khoa đánh giá là
“có nhiều trang đạt tiêu chuẩn Nam Cao”.
Trong quá trình trần thuật, Lê Lựu đặc biệt chú trọng đến nghệ thuật kể chuyện
Chính vì thế, lời kể trở thành thành phần dày đặc nhất trong tác phẩm. Điều đặc biệt là Lê
Lựu thường hay kết hợp lời kể với lời bình luận. Cứ hễ kể chuyện gì là nhà văn lại đưa ra
ngay một lời nhận xét, một lời bình. Sự kết hợp này giúp người kể bộc lộ trực tiếp thái độ
tình cảm của mình trước con người, trước hiện thực khách quan và đưa ra nhiều triết lý
thể hiện chiều sâu của tư duy cũng như chiều dài của những trải nghiệm cuộc sống.
Với việc ưu tiên lời kể hơn lời tả, nghệ thuật trần thuật của Thời xa vắng rất gần gũi với
văn xuôi truyền thống, nhưng bằng sự phối hợp lời kể, lời tả với lời giải thích bình luận,
Thời xa vắng lại thể hiện tính chất hiện đại trong nghệ thuật trần thuật của mình.
Thời xa vắng thể hiện tình cảm thẩm mỹ của thời đại mới, thời đại của ý thức cá
nhân, một thời đại không chấp nhận bất cứ cái gì là giáo điều. Thời đại ấy cho phép
nhà văn thể hiện kinh nghiệm cá nhân của mình thông qua tác phẩm. Tình cảm thẩm mỹ
của thời đại không chỉ thể hiện trong việc sử dụng phối hợp lời kể, lời tả, lời giải thích,
bình luận mà còn được thể hiện trong giọng điệu trần thuật của tác phẩm. Thời xa vắng là
một tác phẩm đa giọng điệu, có khi ngậm ngùi, xót xa, có khi triết lý, có khi giễu nhại,
trong đó giếu nhại là giọng điệu cơ bản nhất. Giọng giễu nhại này thường gắn với cảm
hứng về cái hài. Nó biến thành trò cười tất cả những gì có cái vỏ bề ngoài nghiêm túc

bằng cách tô đậm tính lố bịch, vô nghĩa, lỗi thời của nó. Trong tác phẩm, Lê Lựu giễu
nhại thứ quan hệ giả dối của lũ người xu nịnh, cơ hội; giễu nhại thứ quan niệm giai cấp
giáo điều, xơ cứng; giễu nhại cái lối đánh giá người khác chủ quan, theo một khuôn mẫu
cứng nhắc, cứ thấy ai khác mình là xấu; giễu nhại cung cách làm ăn tập thể không chú
trọng chất lượng lao động cũng như chất lượng cuộc sống; giễu nhại chủ nghĩa thành tích,
chủ nghĩa hình thức,…Thời xa vắng là một tác phẩm giễu nhại độc đáo.Trong tác phẩm,
khoảng cách thời gian và khoảng cách giá trị của sử thi hoàn toàn bị đảo ngược. Từ vị trí
của người trần thuật từng trải, hiện thực hiện ra như một “thời xa vắng” đầy những bi
hài.
Xét về tính đa giọng của tác phẩm, Thời xa vắng không phải là tác phẩm đầu tiên, duy
nhất trong văn xuôi thời kỳ đổi mới, nhưng xét riêng về giọng giễu nhại thì tác phẩm lại
có ý nghĩa quan trọng trong tiến trình đổi mới văn xuôi Việt Nam sau 1975. Giọng điệu
này thể hiện một cái nhìn “phi thành kính” đối với hiện thực được miêu tả. Giọng điệu
này cho phép tác giả tấn công vào cái cũ, cái lỗi thời, cái lạc hậu một cách trực diện, thể
hiện sự căm ghét sâu cay đối với thói giả trá, xu nịnh, đối với những nguyên tắc cứng
nhắc, ấu trĩ, đồng thời thể hiện nhu cầu khẳng định cá nhân, cá tính. Giọng điệu này nhập
vào tiếng nói xã hội để biến tiếng nói ấy trở thành tiếng nói nghệ thuật.


Trong sự so sánh với văn xuôi Việt Nam trước và sau 1975, Thời xa vắng của Lê Lựu
vừa như rất cũ, rất gần gũi với văn xuôi thời kỳ chiến tranh, vừa như rất mới với những
yếu tố cách tân trên cả hai phương diện nội dung và nghệ thuật. Điều đó xác định tính
chất quá độ của tác phẩm trên hành trình đổi mới của văn xuôi Việt Nam sau 1975. Tuy
không phải là sự cách tân toàn diện như các tác phẩm của một số tác giả khác trong giai
đoạn sau, nhưng Thời xa vắng của Lê Lựu vẫn là tác phẩm có ý nghĩa mở đường, tác
phẩm đã đặt dấu mốc quan trọng trong tiến trình vận động và phát triển của văn xuôi
nước nhà, tác phẩm đã đưa Lê Lựu lê vị trí danh dự của những nhà văn xuất sắc thời kỳ
đổi mới.




×