Tải bản đầy đủ (.docx) (12 trang)

Tản đà và việc dân tộc hóa thể thơ đường luật

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (94.98 KB, 12 trang )

Tản Đà và việc dân tộc hóa thể thơ Đường luật
Nguyễn Thị Như Trang

(VH-NN) Luận văn cao học “Tìm hiểu phong
cách thơ Tản Đà” của HVCH Nguyễn Thị Như
Trang (PGS.TS. Lê Giang hướng dẫn) được Hội
đồng nhất trí cho 9.8 điểm, là một trong những
luận văn xuất sắc thuộc chuyên ngành Văn học
Việt Nam mới được bảo vệ thành công tháng 4/
2011 tại Trường Đại học KHXH và Nhân văn –
ĐHQG TP.HCM. VH-NN xin giới thiệu Mục của
Luận văn này.
Thơ trung đại chủ yếu dùng thể thơ cách luật gốc
của Trung Quốc. Khi viết bằng chữ Hán thì các
tác giả tuân thủ đầy đủ niêm luật, nhưng khi
chuyển sang chữ Nôm thì có thể vượt ra ngoài các
quy phạm. Với tinh thần tiếp biến văn hóa dân
tộc: mượn hình thức của văn học Trung Quốc trên
cơ sở vốn ngôn ngữ, âm điệu và nhu cầu diễn đạt tâm hồn mình, đến thế kỷ XVIII - XIX các nhà
thơ nổi tiếng như Hồ Xuân Hương, Nguyễn Khuyến, Tú Xương,…đã gỡ bỏ hết vẻ trang trọng
của thể thơ cách luật, biến nó trở thành âm điệu Việt Nam.
Tản Đà kế thừa đặc điểm này của thế hệ trước và xuất sắc trong vai trò nhà Nho cuối cùng, đúng
như nhận định của Xuân Diệu trong Công của thi sĩ Tản Đà: “Những vần thơ nhẹ nhàng, phất
qua như gió, những câu ca có duyên, những đoạn phong dao mộc mạc, thi sĩ Tản Đà làm rất
thuần thục, rất trong trẻo như hơi thở tự nhiên của phong cảnh Việt Nam. Thơ Tản Đà thực là
thơ An Nam, cả đến những bài thất ngôn luật đường của ông cũng không chút gì gò gẫm khó
khăn như thơ của các cụ nhà nho thuở trước.” [22, tr. 181]

Phần lớn sáng tác của Tản Đà nghiêng về thể thơ Đường luật. Trong Tuyển
tập thơ Tản Đà có đến 106 bài Đường luật (chiếm 58%). Con số thống kê cho
thấy: với Tản Đà, thơ Đường luật chiếm tỷ lệ cao nhất và không ít những bài trong




đó là những tuyệt bút cho hậu thế. Vậy điều gì đã làm cho một thể thơ vốn đã được
rất nhiều các bậc tiền bối Việt hóa thành công nhưng đến Tản Đà nó vẫn là đỉnh
cao? Điều gì khiến một thể loại có tính quy phạm cao về niêm luật, đăng đối, ước
lệ, hàm súc, hạn chế sự biểu đạt tình cảm bay bổng, phóng khoáng, chỉ thích hợp
với những tình cảm đã được tiết chế, những tâm hồn trầm tĩnh, thì với Tản Đà nó
vẫn làm say mê người đọc thời đại mới? Và vì gì khi văn học công khai Việt Nam
ở giai đoạn tiếp sau dù vẫn xuất hiện những hiện tượng như Quách Tấn thì thời
hoàng kim của thơ Đường luật vẫn được xem là đã kết thúc ở Tản Đà? Lí giải
những điều trên chúng ta sẽ thấy được phong cách thơ Tản Đà và những đóng góp
to lớn của Tản Đà cho thơ ca dân tộc trên tiến trình hiện đại hóa.
Những năm 20 của thế kỉ XX, nền thơ ca Việt Nam có sự khủng hoảng đổi
mới. Thể thơ Đường luật từng chiếm ưu thế lâu đời trên thi đàn không còn phù hợp
với nhu cầu và thị hiếu của độc giả. Tản Đà là người một trong những nhà thơ thời
trung – cận đại thành công khi tìm cách giảm bớt sợ ràng buộc khắt khe của thể thơ
này bằng nhiều cách. Nỗ lực này đã đưa ông đến vị trí chủ soái của Đường luật
khẩu ngữ thi.
Để phá vỡ tính quy phạm, uyên bác của thơ Đường luật, Tản Đà đã dùng nhiều động từ thay cho
danh từ khiến cho thơ Đường luật của ông dễ đi vào tâm hồn độc giả:
Trời đẻ, trời nuông, trời phải dạy,
Dẫu rằng bé bỏng khéo kiêng khem.
(Vịnh cánh hoa đào)
Hay:
Một bức mành con coi ngán nỗi,
Một câu đối mảnh nghĩ dơ tuồng.
Một vầng trăng khuất đi mà đứng,


Một lá mảnh treo cuốn lại buông.

Ngồi hết đêm suông, suông chẳng hết,
Chùa ai xa điểm mấy hồi chuông.
(Đêm suông phủ vĩnh)
Ngày ngày vô sự đứng ven sông
Ướm hỏi cô chài: Cá bán không?
Đủng đỉnh ghe nan dòng Hát thủy,
Phất phơ tà áo ngọn đông phong.
Thầy đồ bến nọ khoèo chân ngó,
Bác xã nhà đâu sốt ruột mong.
Cô cất lưới lên bồng bỗng tếch
Lấy chi nuôi nấng cái, con, chồng!
(Xem cô chài đánh cá)

Nhà thi học Triệu Mạnh Phủ đời Nguyên từng nhận xét: "Thơ mà dùng hư tự
không hay". Người đồng thời cùng họ Triệu là Phạm Phanh cũng nói thêm: "Thơ
dùng nhiều thực từ thì mạnh, dùng nhiều hư từ thì yếu" (dẫn theo Quách Tấn). Khi
dùng nhiều hư từ, câu thơ sẽ trở nên lỏng lẻo, cạn cợt, mất đi sự hàm súc, ý tại
ngôn ngoại của thể thơ bác học. Tản Đà đã sử dụng nhuần nhuyễn các quan hệ từ
“Thì”, “Mà”, “Là” và các đại từ phiếm chỉ làm mất đi tính nặng nề, khuôn sáo vốn
có của thơ Đường luật:
“Nữ quyền” hôm ấy tớ rao chơi,
Ai bán mà mua của hiếm hoi.
Một gánh giang sơn cùng gánh lấy,
Thời chi ai có tiếc chi ai.


(Ai “nữ quyền” ra mua)
Ngồi rỗi ăn không nói gẫu chơi,
Ai nghe, nghe gẫu một đôi lời.
Hai mươi năm lẻ hoài cơm áo,

Mà đến bây giờ có thế thôi.
(Đề khối tình con)
Trong những bài thất ngôn bát cú:
Trông ai mà lại tiếc cho ai,
Ai thế, ai ơi, thế cũng hoài.
(Tiếc của đời II)
Hay:
Ấy ai như thế mà ưa,
Ai bảo khôn ngoan hóa cũng khờ.
(Tiếc của đời III)

Độc đáo nhất trong thơ Đường luật của Tản Đà là những chữ “mà” đứng đầu
câu thơ thất ngôn:
Con đường vô hạn vui chăng tá,
Mà hỡi dòng sông tiếng nước reo.
(Sông Cái chiếc thuyền nan)
Chẳng về xếp nếp trong buồng cửi,
Mà đứng bơ phờ ngọn gió đông.
(Ghẹo người vu vơ)


Những ngán cành đa khôn quấn quýt,
Mà hay mặt sóng cũng chơi vơi.
(Tây Hồ vọng nguyệt)
Giang hồ chưa đã bao nhiêu bước,
Mà cuộc trần ai mấy bể dâu.
(Khách giang hồ)
Tản Đà còn đem nhạc điệu du dương, réo rắt của tâm hồn thay vào tính đăng đối, vần luật đầy
khuôn phép của Đường thi. Thơ Đường luật thất ngôn bát cú hay tuyệt cú thường ngắt nhịp 4/3
hay 2/2/3. Ở Tản Đà, nhịp thơ rất uyển chuyển, nhiều câu phá vỡ khuôn nhịp cũ đồng thời có lối

ngừng nghỉ tùy thuộc vào cảnh tình mang dụng ý nghệ thuật của tác giả:
Muốn nói chuyện chơi không có chuyện
Kìa/ đàn con sáo/ nó sang sông”
(Ghẹo người vu vơ)

Câu đầu “Muốn nói chuyện chơi không có chuyện”, nhưng lúng túng không
biết mở lời thế nào. Câu tiếp theo, với cách ngắt nhịp 1/3/3, câu thơ như tiếng reo
vui trước cảnh vật là một cái cớ để bắt chuyện với cô gái.
Hay như câu:
Cô cất lưới lên bồng bỗng tếch
Lấy chi nuôi nấng/ cái,/ con,/ chồng?
(Xem cô chài đánh cá)
Câu đầu ngắt theo nhịp bình thường 4/3 của thơ Đường luật. Câu sau ngắt theo nhịp 4/1/1/1. Ba
từ “cái, con, chồng” tạo thành ba nhịp, làm nổi bật gánh nặng gia đình đè lên vai cô gái, qua đó
bộc lộ niềm cảm thương của Tản Đà đối với cô chài đánh cá.

Nhà thơ cũng đem vào thể loại này một trường từ vựng mới: khẩu ngữ, nhờ
đó Đường luật của Tản Đà tự nhiên mà phóng khoáng:


Đầu ai sao tóc rối lung tung?
Chắc hẳn vì chưng nỗi tưởng chồng?
Cậu ấy đi đâu lâu thế nhỉ?
Phòng riêng hay vẫn hãy còn không?
(Ghẹo người vu vơ)
Những hình ảnh, từ ngữ bình dị “tóc rối lung tung”, “cậu ấy” làm cho lời thơ gần gũi, thân
thiết, tưởng như Tản Đà đã quen biết “người vu vơ” này từ lâu lắm. Tính tự nhiên của bài thơ thể
hiện qua cách dùng từ ngữ thông thường, dùng khẩu ngữ và ngắt nhịp linh động theo sát tình ý,
khiến câu thơ giảm bớt vẻ hoa lệ, trịnh trọng cố hữu của thơ Đường.
Sức hấp dẫn cũng như ý nghĩa cách tân thơ Đường của Tản Đà còn thể hiện ở những câu thơ

được viết theo ngữ khí của lời nói thường vốn rất đậm đà trong ca dao. Những hô ngữ, hư từ, từ
cảm thán,… được ông ưa thích sử dụng đã khiến cho lời thơ trở nên tự nhiên, giàu sắc điệu cảm
xúc:
Đêm thu buồn lắm chị Hằng ơi!
Trần thế nay em chán nửa rồi.
(Muốn làm thằng Cuội)
Hay:
Quái lạ! làm sao cứ nhớ nhau,
Nhớ nhau đằng đẵng suốt canh thâu.
(Tương tư)

Hay:
Vì ai cho tớ phải lênh đênh,
Nặng lắm ai ơi một khối tình.
(Chơi Hòa Bình)


Ngoài việc giảm bớt lớp từ Hán việt trong thơ Đường, lựa chọn và ưu tiên sử dụng những lớp từ
thuần Việt sinh động, tự nhiên, mang sắc thái bình dân, Tản Đà còn kết hợp Đường luật với
những hình thức dân tộc. Ông cũng đã kế tục truyền thống trào lộng của văn học thông tục, sáng
tác những vần thơ hồn nhiên, giòn giã, từ cái nhếch mép, mỉa mai nhẹ nhàng đến cái cười trào
phúng cay độc đủ các cung bậc.
Đó là nụ cười làm ta nhớ đến Tú Xương:
Thối om sọt phẩn, nhiều cô gánh,
Tanh ngắt hơi đồng, lắm cậu yêu.
(Sự đời)

Có khi phảng phất phong cách bà chúa thơ Nôm Hồ Xuân Hương:
Nước tuôn ngòi biếc trong trong vắt,
Đá hỏm hang đen tối tối mò.

Chốn ấy muốn chơi còn mỏi gối,
Phàm trần chưa biết, nhắn nhe cho.
(Chơi chùa Hương Tích)
Tuy nhiên, ở Tản Đà, sự trào lộng ấy thiên về hóm hỉnh, tình tứ, lém lỉnh, chứ không châm biếm,
đả kích như Hồ Xuân Hương hay Tú Xương.
Sự cải biến làm cho nhiều bài thơ Đường luật của Tản Đà không giống những vần thơ cũ kĩ
khuôn sáo nhan nhản trong vườn thơ tạp chí Nam Phong, ngược lại, chúng mang một vẻ êm ái
tròn trĩnh, một ý vị tươi tắn đậm đà, phóng khoáng, tự nhiên thể hiện qua phép đối phóng:
Trăm năm cuộc thế còn man mác,
Bốn bể thương ai luống lạnh lùng.
(Hủ nho lo mùa đông)
Hoặc cách kết thúc bằng một ý lạ, giọng mới, đầy bất ngờ:
Ngày ngắn đêm dài đêm lại sáng,
Đêm qua ai có bạc đầu không?


(Hủ nho lo mùa đông)
Tản Đà còn dùng phép so sánh và hình tượng hóa làm cho câu thơ Đường luật có sức cuốn hút,
dễ gây ấn tượng sâu xa trong tâm hồn người đọc:
Công danh hai chữ mùi men nhạt
Sự nghiệp trăm năm nét mực mờ
(Ngày xuân thơ rượu)
Sự nghiệp nghìn thu xa vút mắt
Tài tình một gánh nặng bên vai
(Năm hết hữu cảm)
Thơ Tản Đà có sức cảm mạnh. Người đọc dễ đồng tình với sự ca ngợi của Tản Đà trước nhan sắc
người đẹp trong tranh, khi ông diễn đạt sự ca ngợi bằng mấy đường nét cụ thể, khác xa với lối
ước lệ, trừu tượng của thơ Đường:
Vẻ ngọc long lanh pha sắc nước,
Nhị non ngào ngạt lộn hương trời.

(Đề ảnh mỹ nhân)
Tuy nhiên, sự hàm súc, rắn chắc, công phu đúc chữ của thơ Đường luật cổ điển vẫn là một đặc
điểm dễ nhận ra trong thơ Tản Đà, nhất là những bài thơ được sáng tác ở giai đoạn cuối đời:
Bồn chồn chín khúc cơn mưa lạnh
Đòi đoạn năm canh bóng nguyệt mờ
Hay:
Mặt nước khói tan chìm vía cá
Đầu non sương phủ dạn thân tùng
Đối chỉnh, dùng nhiều từ Hán Việt, giảm thiểu đến tối đa hư từ,... thơ Đường luật của Tản Đà
càng về sau càng hàm súc. Có thể nói, thơ Tản Đà là điểm kết cho chặng dài Việt hóa thơ Đường
luật theo hướng dân gian với điểm khởi đầu kể từ Quốc âm thi tập của Nguyễn Trãi. Trong một
chừng mực nào đó, với Tản Đà, câu thơ vốn thiên về điệu ngâm của thể Đường luật cổ điển đã


đậm đà những âm vực của câu thơ điệu nói - một thành tựu sẽ được thơ Mới sau này khai thác
triệt để.
Thơ Đường luật có nguồn gốc ngoại sinh, nên trong suốt lịch sử tồn tại, bằng nhiều phương thức
khác nhau, các nhà thơ luôn tìm cách đưa yếu tố Việt vào trong cấu trúc thể loại để phù hợp với
tâm tư, tình cảm của con người Việt Nam. Kinh nghiệm từ sáng tác của Nguyễn Trãi, Hồ Xuân
Hương, Nguyễn Khuyến, Trần Tế Xương,… cho thấy vai trò đặc biệt của dòng mạch dân gian
trong quá trình Việt hóa thơ Đường. Tiếp thu những ảnh hưởng của thơ ca dân gian, đến Tản Đà,
ông đã khai thác, vận dụng yếu tố dân gian theo hướng riêng, rất độc đáo, đưa thơ Đường luật
gia nhập môi trường văn học đô thị.







×