Tải bản đầy đủ (.docx) (23 trang)

Thơ thiền trong văn học lý trần

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (144.75 KB, 23 trang )

Thơ Thiền trong văn học Lý Trần.
MỞ ĐẦU
1.Lí do chọn đề tài
Văn học là một hình thái ý thức xã hội gắn liền với xã hội cụ thể, nhất là văn học trung đại. Khi
nghiên cứu về văn học dân tộc, nhất là văn học trung đại Việt Nam chúng ta không thể nào quên
nền văn học Phật giáo hay nói đúng hơn là những yếu tố Phật giáo nằm trong văn học thi ca.
Đức Phật xuất hiện trên cuộc đời vì một đại sự nhân duyên “KHAI THỊ NGỘ NHẬP PHẬT TRI
KIẾN CHO CHÚNG SANH” – Ngọn đuốc trí tuệ đó Đức Phật đã thắp lên từ hơn 25 thế kỷ qua
vẫn tiếp tục soi sáng cho chúng ta ngày nay. Để tiếp nối hạnh nguyện cao cả của Đức Phật, các
Thiền sư thời Lý – Trần đã sống và hành động theo lời dạy của Đức Phật.
Khi nghiên cứu văn học dân tộc, nhất là văn học trung đại Việt Nam chúng ta không thể nào
quên nền văn học Phật giáo và đặc biệt là các văn thơ của thơ Thiền Lý Trần.
Văn học trung đại Việt Nam hình thành và phát triển từ lâu đời nay và trong đó có sự xen lẫ của
các yếu tố phật giáo, chính yếu tố Phật giáo với tư tưởng nhân văn là từ bi bác ái đó đã làm cho
nền văn học trung đại Việt Nam ngày một phát triển. Chính yếu tố Phtj giáo đó đã làm nên một
giai đoạn văn học trung đại Việt Nam trầm hùnh thanh thoát và sâu lắng, nó đi sâu vào tâm thức
người Việt với những giá trị nhân văn cao đẹp.
Đề tài thu hút nhiều nhà nghiên cứu tham gia và tìm hiểu, mặc dù chỉ được tìm hiểu qua một thời
gian hạn hẹp, song qua những bài giảng, cộng với sự tận tuỵ nhiệt tình của giảng viên, tôi cũng
muốn tìm hiểu một khía cạnh nào đó về yếu tố phật giáo và đạo giáo trong văn học trung đại.
Học phần “Văn học so sánh” vấn đề nào cũng hấp dẫn và thú vị, nhưng tôi vẫn tâm đắc nhất là
vấn đề “ Yếu tố phật giáo và Đạo giáo trong văn học trung đại”.
Vậy khi xem xét phương diện này ta sẽ thấy điều gì hấp dẫn và đặc sắc? Trả lời câu hỏi đó chúng
ta hãy cùng nhau nghiên cứu về vấn đề này và đó cũng là lí do để tôi chọn vấn đề làm đề tài
nghiên cứu.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề.
Đã có nhiều nhà nghiên cứu về văn học trung đại với quy mô lớn như: Nguyễn Đăng Na, Trần
Nho Thìn, Nguyên Lộc…
Một số vấn đề lien quan đến yếu tố Phật giáo trong văn học như: Văn học đời Lý và những
truyền thống của dân tộc, (Lê Bảo). Các tác phẩm thơ văn Lý – Trần của Viện văn học, Ủy Ban
Khoa Học Xã Hội Việt Nam, Lịch Sử Phật giáo Việt Nam của Lê Mạnh Thác, Việt Nam Phật


giáo Sử Luận của Nguyễn Lang, Thiền Sư Việt Nam của HT.Thích Thanh Từ, Thiền Học đời
Trần của Viện Nghiên Cứu Phật Học Việt Nam (in 1995)... đều ít nhiều có đề cập thơ Thiền trong
văn học trung đại.
Và nhiều công trình khác nhưng tôi không thể đưa vào hết, từ những công trình đó tôi mạnh dạn
đi vào nghiên cứu vấn đề.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Ở đầ tài này đối tượng nghiên cứu của nó là “Yếu tố Phật giáo và đạo
giáo trong văn học trung đại”
Phạm vi nghiên cứu: Với đề tài là nghiên cứu: “Yếu tố Phật giáo và đạo giáo trong văn học trung
đại” Nhừg tôi chỉ đi nghiên cứu về Phật giáo trong văn học trung đại, mà phạm vi nghiên cứu
chủ yếu là: Thơ Thiền trong văn học Lý- Trần.
4. Phương pháp nghiên cứu.
Để nghiên cứu đề tài này trước tiên tôi đã tìm hiểu về lịch sử nghiên cứu của vấn đề, tìm hiểu và


nhìn nhận các khía cạnh mà các tác giả đã nghiên cứu từ đó rút ra vấn đề chung nhất cho vấn đề
cần giải quyết. Kết hợp tổng hợp và phân tích để đi đến kết luận.
5. Bố cục đề tài.
Đề tài tôi nghiên cứu gồm ba phần, ngoài phần mở đầu và phần kết luận, nội dung của đề tài gồm
hai chương chính:
Chương 1: Những vấn đề chung.
Chương 2: Thơ Thiền trong văn học Lý Trần.
Cuối cùng là thư mục tài liệu tham khảo.

NỘI DUNG
CHƯƠNG I: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG
1.1Văn học trung đại Việt Nam
Văn học trung đại còn được gọi bằng những cái tên khác nhau như văn học thành văn, văn học
phong kiến, văn học cổ điển. Bởi từ TK X đến TK XIX, văn học trung đại phát triển trong một
môi trường xã hội phong kiến với ý thức hệ nho giáo, lực lượng sáng tác chủ yếu là tầng lớp trí

thức, những người có trình độ cao, được đào tạo từ ''cửa Khổng sân Trình'' và những sánh tác chỉ
lưu truyền trong tầng lớp công chúng ấy, bên cạnh đó văn học thời kì này còn chịu ảnh hưởng
bởi thi pháp văn chương cổ điển. Văn học trung đại tồn tại và phát triển trong suốt mười thế kỉ
nhưng không bao giờ tách rời khỏi cảm hứng yêu nước; cảm hứng nhân đạo, thế sự.
Khi vận mệnh đất nước gặp nguy nan thì cảm hứng chủ đạo của văn học là cảm hứng yêu nước
và văn học trung đại luôn bám sát lịch sử dân tộc, phản ánh những sự kiện trọng đại liên quan
đến vận mệnh đất nước. Cảm hưng yêu nước luôn gắn liền với tư tưởng trung quân như là một
tất yếu trong lịch sử xã hội phong kiến, bởi xã hội phong kiến quan niệm nước là vua, vua là
nước. Do đó văn học có một quan niệm: yêu nước là phải trung với vua và trung với vua là phải
yêu nước (trung quân ái quốc). Cảm hứng yêu nước được thể hiện phong phú, đa dạng qua mội
thời kì lịch sử, khi đất nước có giặc ngoại xâm (căm thù giặc ngoại xâm, xót xa trước cảnh người
bị đàn áp, ý chí tiêu diệt kẻ thù, sẵn sàng xả thân vì nước), khi đất nước hòa bình (khát khao xây
dựng Tổ quốc, yêu thiên nhiên, con người, tự hào với truyền thống dân tộc), âm hưởng hào hùng,
khi thì bi tráng, khi thì trầm lắng, thiết tha.
Khi vận mệnh cá nhân con người, quyền sống, quyền hạnh phúc của con người bị đe dọa thì cảm
hứng nhân đạo lại thăng hoa rực rỡ. Văn học trung đại Việt Nam luôn gắn bó với số phận con
người. Cảm hứng nhân đạo có hàm chứa cảm hứng yêu nước bởi có những bài ca yêu nước thể
hiện nỗi băn khoăn, day dứt trước số phận con người. Tư tưởng nhân đạo trong văn học trung đại
Việt Nam là sự kế thừa của truyền thống tư tưởng lớn của con người Việt Nam: thương người
như thể thương thân, lá lành đùm lá rách; tư tưởng của phật giáo: từ bi bác ái, yêu thương con
người rộng rãi; và tư tưởng của nho giáo: cái nhân cái nghĩa. ĐIều này được thể hiện một cách đa
dạng qua việc ca ngợi vẻ đẹp con người, đồng cảm với bi kịch con người, đồng tình với ước mơ,
khát vọng của con người, lên án các thế lực bạo tàn. Tư tưởng nhân đạo được thể hiện một cách
đầy đủ nhất trong nội dung của tác phẩm Truyện Kiều, đỉnh cao của tư tưởng nhân văn chủ
nghĩa.
Các tác phẩm trong giai đoạn văn học này cũng thể hiện một quan niệm thẩm mĩ truyền thống
của người Việt Nam. Người Việt Nam rất yêu thiên nhiên, yêu đời sống vui vẻ, lạc quan, có nghị
lực và sức mạnh vượt qua thử thách
Trung đại” là một thuật ngữ của khoa học lịch sử phương Tây để chỉ một thời đại nằm giữa thời



cổ đại và thời cận đại, có nghĩa là giai đoạn lịch sử gắn liền với chế độ phong kiến. Thuật ngữ
“Văn học trung đại” được dùng khá phổ biến ở Việt Nam trong vòng vài chục năm trở lại đây(1),
thay cho khái niệm tương tự: văn học thời “trung cổ” hay “trung thế” (thậm chí “trung thế kỷ”
như cách dịch trong công trình Phương Đông và Phương Tây của N.Konrat(2)), tuy cũng không
phải đồng nhất hoàn toàn. Một trong những nghĩa khác của “Trung cổ” hay “Trung thế” là chỉ
một giai đoạn trong văn học thời phong kiến mà thôi.
1.2Thơ thiền trong văn học trung đại.
1.2.1 Khái niệm thơ thiền.
Trong từ điển Nho, Phật, Đạo, NXB Văn học Hà Nội (2001) cho rằng, thơ Thiền lúc đầu là
những bài kệ. Đây là thể văn Phật giáo, còn gọi là “tụng”, nói chung là do bốn câu tổ thành. Có
các loại, 4 chữ, 5 chữ, 6 chữ, 32 chữ. Là văn vần, loại thể tài giống như thơ . Nhưng từ đời
Đường, kệ được “thơ hoá”. Nhà thơ nói bang hình ảnh, kêu gọi chứ không dung khái niệm khô
khan. Do vậy, thơ kệ làm thành một bộ phận của tghơ Thiền, tức dòng thơ thể hiện cảm xúc
mang ý vị Thiền học nhưng vẫn đậm đà chất thơ. Kệ thường được viết trong những hoàn cảnh:
lúc nhà thơ sắp viên tịch, khi ngộ đạo, khi trả lời đệ tử về giáo lí đạo Phật… Các bài kệ hầu hết
không có nhan đề, nhan đề là do người đời sau đặt ra. Theo GS Trần Đình Sử, thơ Thiền phải có
ba tính chất: Truyền nhận được cảm nhận thế giới của Thiền học, bộc lộ được vẻ đẹp của thế
giới, của tâm hồn và là thơ của tầng lớp tăng lữ cao cấp, tầng lớp trí thức đặc biệt, không giống
với tình cảm Phật giáo dân gian.
Nguyễn Phạm Hùng trong luận án PTS “Vận dụng quan điểm thể loại vào việc nghiên cứu văn
học Việt Nam thời Lý – Trần” đã tổng kết quan niệm về thơ Thiền như sau: “Thơ Thiền là các bài
kệ, là thơ bao gồm cả kệ và thơ, nêu lên một triết lý, một quan niệm Thiền hay một bài học Thiền
nào đó, hoặc vừa ảnh hưởng Thiền vừa mang rung động thi ca có tính trần thế. Thơ Thiền là thơ
cuảt các nhà sư và của cả những người không tu hành nhưng am hiểu và yêu thích triết lý Phật
giáo, bày tỏ trực tiếp hay gián tiếp triết lý, cảm xúc hay tâm lý Thiền”.
Như vậy, khái niệm thơ Thiền mang một nghĩa tương đối rộng, có tính chất mở. Ta có thể thấy
đó là những bài kệ trong Thiền uyển tập anh, khoá hư lục, tuệ trung thượng sĩ ngũ lục hoặc
những bài thơ mang cảm hứng Thiền. Trong văn học đời Trần, số thơ này xuất hiện ở một tần số
cao hơn văn học Phật giáo thời Lý.

1.2.2 Đặc diểm hình thức nghệ thuật của thơ Thiền
Thơ Thiền trong văn học trung đại không những mang đặc điểm lớn về mặt nội dung mà ở hình
thức nghệ thuật cũng có nhữn đặc điểm khiến chúng ta quan tâm chú ý.
Về ngôn ngữ: Trong một số bài thơ Thiền thường xuất hiện một số từ ngữ nhà Phật như: sắc,
không, chân như, hữ huyền, duyên, nghiệp, tứ diệu đế… những điển tích, điển cố phật giáo. Thơ
thiền thường hay xuất hiện hình ảnh núi.
Về hình tượng nghệ thuật: Thơ thiền thường xuất hiện những hình ảnh ẩn dụ, so sánh, biểu tượng
để nói về giáo lý đạo Phật như: hoa sen, hoa mai, đình núi, dòng song, song nước…
Theo quan niệm “sắc”, “không” của Phật giáo thì sự tồn tại của con người cũng như vạn vật là
“sắc” (hiện hữu) mà cũng là “không” (vô hình), sắc mà không, không mà sắc. Thân như bóng
chớp có rồi không nhưng chẳng phải là mất mà là chuyển sang trạng thái trở về với bản thể.
Về kết cấu thơ, bài thơ: Thơ thiền thường sử dụng kiểu câu nghi vấn, phi cảm xúc thong thường.
Nó chỉ là một tượng trưng của Phật pháp. Nếu như không có một chiếc chìa khoá của giác ngộ,
chân như thì không có gì giải mã được. Bởi mối lien hệ của những câu thơ, nhưũng hình ảnh thơ
được xác lập và tưởng tượng từ cảm hứng riêng, cảm hứng Thiền, không hẳn giống mạch thơ
thông thường của các nhà thi sĩ.
Tuy vậy sự gắn bó giữa hai mặt lí trí và tình cảm trong thơ không phải lúc nào cũng hoàn toàn


thống nhất. Những rung động trực cảm đã tạo nên những hình tượng nghệ thuật bộc lộ phần nào
tâm hồn nhà thơ nhiều khi mâu thuẫn hay ít ra là xa lạ với chính cái lí trí mà nhà thơ hướng tới.
1.3 Vài nét về ảnh hưởng của Phật giáo trong văn học Việt Nam
Sử liệu đã khẳng định sự hiện hữu và việc đồng hành mật thiết của Phật giáo với dân tộc Việt
Nam trải qua suốt chiều dài lịch sử hơn 2.000 năm. Chính tinh thần hòa nhập nhuần nhuyễn của
Phật giáo trong đời sống của người dân Việt đã tạo thành mô hình Phật giáo Việt Nam có sắc thái
độc đáo, tràn đầy sức sống. Trí tuệ và công sức của hàng đệ tử Phật còn lưu dấu ấn son sắt trên
những trang sử oai hùng với nhiều thành quả bảo vệ đất nước một cách thần kỳ. Đặc biệt, giới
Phật giáo cũng góp phần đáng kể qua những tác phẩm văn thơ, làm sáng danh nền văn học Việt
Nam trải qua nhiều giai đoạn khá dài.
Thật vậy, trong thời kỳ nước nhà vừa độc lập, Phật giáo đã đóng vai trò khá quan trọng. Lực

lượng sáng tác văn học lúc đó chủ yếu cũng là các nhà sư. Những tác phẩm văn học thành văn
của giai đoạn này còn lại đến nay là một số bài thơ chữ Hán của các nhà sư Đỗ Pháp Thuận, Ngô
Chân Lưu, Vạn Hạnh, v.v…
Đến thời Lý, là giai đoạn thịnh đạt của Phật giáo Việt Nam. Phật giáo đã giữ vị trí độc tôn và góp
phần chính yếu cho nền văn hóa dân tộc trong suốt hơn 200 năm. Ảnh hưởng của Phật giáo thể
hiện rõ nét ở mọi lĩnh vực hoạt động. Về phương diện văn học, các Tăng sĩ đều là hàng thượng
tầng trí thức, có ảnh hưởng lớn đến nền văn hóa đương thời và đóng góp nhiều nhất về sáng tác
thi ca.
Thời nhà Trần, các vị minh vương đã anh dũng dẹp tan giặc Nguyên Mông một cách vẻ vang.
Mang lại sự thái bình, độc lập cho nước nhà xong, các ngài lại đưa ra những tư tưởng trong sáng
của những bậc chân tu ngộ đạo, tạo thành một dòng Thiền nổi tiếng - Trúc Lâm Yên Tử.
Văn học chữ Nôm được hình thành trong thời Trần. Những tác phẩm chữ Nôm của Trúc Lâm
Điều Ngự và Huyền Quang còn được lưu truyền. Như đã nói, văn học đời Trần chịu ảnh hưởng
sâu đậm tinh thần cởi mở, dung hợp của Phật giáo. Vì thế, giới sĩ phu không theo Phật giáo cũng
được trọng dụng. Điều này đã là tác nhân giúp cho văn học đời Trần phong phú, rực sáng, nhiều
nét đẹp . Về thi ca đời Trần, chúng ta thấy rõ sự ảnh hưởng mạnh mẽ của Thiền học, diễn tả sự
diễn tiến của mọi việc với tâm định tĩnh tuyệt vời, thể hiện cái thấy biết sâu xa của người thâm
nhập thiền quán.
Ngoài văn học thời Lý - Trần hưng thịnh, phần nhiều các nhà thơ cổ điển Việt Nam đều chịu ảnh
hưởng đạo Phật. Nhất là qua những tác phẩm của các tác giả tiêu biểu như Nguyễn Trãi, Lê
Thánh Tông, Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác, Lê Quý Đôn, Ngô Thì Nhậm, Nguyễn Du…
Tóm lại, các vị thiền sư, các vị minh vương, cùng nhiều Phật tử hoặc những người có cảm tình
với Phật giáo từ thời kỳ dựng nước cho đến thế kỷ XVIII, XIX, đã sáng tác rất nhiều tác phẩm
thi ca chữ Hán, chữ Nôm chuyển tải nhiều mảng đề tài liên quan đến tư tưởng Phật giáo, hay
cảnh đẹp của thiền môn, hoặc nếp sống thanh cao của người tu Phật, v.v... Tất cả đã đặt nền
móng cho văn học Việt Nam cũng như làm phong phú thêm sự nghiệp văn chương của người dân
Việt chúng ta.
1.4Đạo Phật thờ Lý - Trần
Phật giáo có mặt ở Việt Nam trong hơn 20 thế kỷ qua đã có một vai trò, một vị trí quan trọng
nhất định trong lịch sử dân tộc. Nhất là Phật giáo Lý – Trần đã thể hiện trí tuệ và từ bi sâu sắc

bằng sự nhập thế sinh động và đa dạng qua tư tưởng, lời nói, hành động gắn bó với cuộc sống an
vui hạnh phúc của dân tộc. Cả hai triều đại Lý – Trần Phật giáo đã trở thành quốc giáo. Lúc bấy
giờ, cả nước từ vua, quan đến thứ dân đều theo Phật, đến chùa quy y, giữ giới, tụng kinh, Thiền
định nên mới có được một tinh thần an lạc, hòa hợp và thuần từ.
Thâm nhập giáo lý nhà Phật qua chính sách an dân trị nước nên các vua Lý – Trần đã chinh phục


trái tim, khối óc con người bằng đức trị thay pháp trị. Đạo đức vô ngã đã tạo cho con người một
cuộc sống hòa hợp, giản dị nhưng tạo lực tác động mạnh mẽ vô cùng. Vì thế cả hai triều đại Lý –
Trần đều tồn tại khá lâu. Triều Lý hơn 200 năm (1010 – 1225) và Triều Trần gần 200 năm (1226
– 1400). Như vậy, hai triều đại Lý – Trần tồn tại gần 400 năm. Có thể nói đây là thời đại cực
thịnh của Phật giáo Việt Nam mà cũng là thời đại đất nước hùng mạnh nhất trong trang sử nước
nhà. Các vua thời đại Lý – Trần được thừa hưởng những thành qủa tốt đẹp của thế hệ trước, đồng
thời biết phát huy những tinh hoa gạn lọc được từ bên ngoài biến thể sao cho phù hợp với quốc
dân thủy thổ mà không đánh mất bản sắc dân tộc. Thêm vào đó, họ đã thấm nhuần lời chỉ bảo
của Thiền sư Pháp Thuận:
Quốc tộ như đằng lạc
Nam thiên lý thái bình
Vô cư như điện các
Xứ xứ tức đao binh
Muốn đất nước thái bình, thịnh trị. Chính nơi bản thân các vua đã tự trau dồi bằng đạo đức vị
tha, triết lý sống nhập thế trên tinh thần từ, bi, hỷ, xả của đạo Phật. Các vua không ngừng học
hỏi, tu tập cho đến khi thấu rõ giáo lý Phật Đà, góp phần tạo một sức sống mạnh mẽ, không khép
kín mà phổ biến khắp nơi trong dân chúng, khiến họ cùng học tập theo và sống đúng. Một đời
sống hướng thượng, hướng con người đến chân – thiện – mỹ và đạt được chân lý ngay trong đời
sống thực tại này chứ không phải nơi một thế giới xa xăm nào khác. Đạo Phật đã tạo cho dân tộc
Việt Nam đương thời một niềm tin mạnh mẽ vào tự lực, vào khả năng trong sáng thuần khiết của
bản thân để sống đúng và sống đẹp theo tinh thần Chánh kiến, Chánh tư duy và Chánh mạng.
Đây chính là nguyên nhân làm cho triều đại Lý – Trần phát triển rực rỡ nhất trong lịch sử với
những chiến công vẻ vang và sự thành tựu to lớn về chính trị, kinh tế, văn hóa. … Chính đạo

Phật đã chan hòa vào lòng dân tộc góp phần hình thành một quan niệm, một lối sống tích cực,
hữu ích cho con người và cho cuộc sống.
Hơn thế nữa, Phật giáo đời Lý đã có những Thiền sư nổi tiếng làm cầu nối cho Phật giáo đời
Trần đạt đến đỉnh cao trong lịch sử để khẳng định quyền tự chủ tự cường của một đất nước. Vì
vậy, dân tộc Việt Nam sẵn sàng chống lại bất cứ sức mạnh nào muốn phá hoại nền hòa bình,
hạnh phúc của mình. Và Phật giáo Lý – Trần đã đáp ứng nguyện vọng ấy, góp phần vĩ đại vào
công cuộc xây dựng bảo vệ đất nước. Chiến công hiển hách còn ghi lại trong lịch sử. Nếu Lý
Thái Tông đã đánh giặc Nùng rồi bình được Chiêm Thành. Lý Thường Kiệt đem binh đánh Tống
thì Trần Thái Tông cũng thu phục được đất Chiêm và cuộc chiến thắng Nguyên Mông vẻ vang
này dưới sự lãnh đạo tài tình của vua Trần Nhân Tông và Hưng Đạo Vương.
Nói chung, các ông vua Phật tử thuần thành đời Lý và đời Trần đều có tấm lòng thương yêu dân
như vậy là nhờ thấm nhuần tinh thần từ, bi, hỷ, xả, vô ngã vị tha của đạo Phật. Đường lối lấy đức
trị dân của hai triều đại Lý – Trần đã minh chứng sự hội nhập của Phật giáo vào đời sống văn
hóa, chính trị và xã hội của dân tộc Việt Nam.
Song, điểm đặc sắc của hai triều đại Phật giáo Lý – Trần là ngoài những ông vua Phật tử thuần
thành, còn có những ông vua kiêm Thiền sư, kiêm là những nhà Phật học uyên bác, viết sách,
giảng kinh, không khác gì các cao Tăng thạc đức. Có thể kể Lý Thái Tông, học trò đắc pháp của
Thiền sư Thiền Lão, và được dự vào hàng Tổ thứ 7 của dòng thiền Vô Ngôn Thông. Lý Thánh
Tông được tuyền thừa làm Tổ thứ 2 của Phái Thiền Thảo Đường, và đặc biệt là hai ông vua Trần
Thái Tông và Trần Nhân Tông là một trong những ngôi sao sáng của Phật giáo thời đó. Vua Trần
Thái Tông là tác giả cuốn Khóa Hư Lục, một tác phẩm Phật giáo viết bằng chữ Hán Nôm, đã
được dịch ra tiếng Việt và xuất bản nhiều lần. Cuốn sách chứa nhiều tư tưởng độc đáo. Thí dụ, tư
tưởng xem mọi người đều là Phật, đều là những vị Phật sống mà không tự biết. Ông viết trong


bài Niệm Phật Luận: “Thân ta tức là thân Phật, không có hai tướng”. Lại viết tiếp: “Tướng Phật
là tướng ta không phải hai, lặng vậy mà thường tồn tại, tồn tại mà không biết. Đó là Phật sống
vậy”. Người là Phật, nhưng người lại không tự biết, cho nên Trần Thái Tông gọi người là Phật
sống.
Và điểm nổi bật của Phật giáo Lý – Trần là nó cung cấp một triết lý sống, chứ không phải là

những tín điều chết, các Phật tử Lý – Trần đã quán triệt, đã thực hiện triết lý đó bằng cả cuộc
sống của chính mìmh. Đạo Phật đời Lý – Trần không chấp tướng, không giáo điều, không vướng
mắc vào hình thức, không bó hẹp trong chùa chiền, tu viện, càng không phải là sở hữu riêng của
giới Tăng, Ni mà là của tất cả mọi người biết lấy nó làm lẽ sống, dù người đó là vua chúa, Thiền
sư, quan lại, hay là người dân bình thường. Ai cũng học và tu đạo Phật được, ở đâu, làm gì cũng
học và tu theo đạo Phật được, miễn là biết nhìn rõ tâm mình, chuyển hóa tâm và sử dụng tâm cho
tốt. Trong “Khóa Hư Lục”, Trần Thái Tông gọi đó là biện tâm, Trần Thái Tông viết: “Không kể
là sống ẩn trên núi hay giữa thành thị, không phân biệt tại gia hay xuất gia, tăng hay tục, điều chủ
yếu là biện tâm, vốn không có phân biệt nam nữ sao còn chấp tướng”. Vì không chấp tướng nên
Phật giáo đời Trần mới có được một nhân vật đặc biệt như Tuệ Trung Thượng Sĩ, tuy là một cư sĩ
tại gia, nhưng lại được mọi người Tăng cũng như tục tôn kính, học hỏi như là một bậc Thầy lớn
trong đạo. Thậm chí Trần Nhân Tông và Pháp Loa là hai vị Tổ thứ nhất và thứ hai của Phái
Thiền Trúc Lâm cũng suy tôn Tuệ Trung Thượng Sĩ là Thầy của mình. Với tinh thần không chấp
tướng, vua Trần Nhân Tông sau khi xuất gia, đã không quản gian khổ nhọc nhằn, đi khắp nơi
trong nước khuyên mọi người sống theo năm giới, mười thiện là những nguyên lý căn bản của
Đạo Đức Phật giáo. Nhờ vậy, ngay giữa lòng của xã hội Phong kiến, đạo Phật đời Lý – Trần đã
tạo ra những mẫu người tuyệt vời, mà con người ở vào thời đại nào cũng cảm thấy tự hào.
Đạo Phật thời Lý – Trần là đạo Phật của từ bi và trí tuệ, là hai đức hạnh hàng đầu của Phật giáo.
Tinh thần từ bi của Phật giáo thời Lý – Trần là đường lối trị nước bằng đức trị còn hạnh trí tuệ là
nó không hướng đến giải quyết các vấn đề thuần túy lý luận hay là siêu nghiệm, như chúng ta có
thể thấy ở một số luận sư Phật giáo Ấn Độ, mà hướng tới giải quyết các vấn đề rất cụ thể, rất bức
xúc, có tầm quan trọng đối với đời sống con người và trong công cuộc xây dựng đất nước như
cuộc kháng chiến chống quân Nguyên Mông. Để đánh thắng một kẻ thù có sức mạnh về vật chất
và quân sự gấp hàng trăm lần chúng ta, dân quân ta dưới sự lãnh đạo của các ông vua Phật tử đã
áp dụng những đường lối chiến lược và chiến thuật đầy trí tuệ, cho phép triển khai mọi ưu thế
của một cuộc chiến tranh nhân dân, đánh địch ngay trên đất nước của mình.
Hai triều đại Lý – Trần đánh dấu đỉnh cao của sự hội nhập Phật giáo vào giòng sống của đất
nước và xã hội Việt Nam. Một sự hội nhập được trải dài trên mọi bình diện của đời sống. Phật
giáo thời Lý – Trần đã hình thành một nước Việt Nam thật sự độc lập, tự chủ, có đủ sức mạnh tự
thân để đánh đuổi mọi cuộc xâm lăng của ngoại ban.

Tóm lại, tính độc đáo và sáng tạo của Phật giáo Lý – Trần chính là ở chỗ luôn luôn chủ động gạn
lọc, tiếp thu cái hay, gạt bỏ cái dở, từ đó sáng tạo ra một xã hội thường xuyên đổi mới, trẻ trung,
cập nhật với thời thế, có nhiều sinh khí. Đó là điểm nổi bật nhất của Phật giáo thời Lý – Trần
trong những thế kỷ đầu xây dựng nền độc lập, tự chủ. Qủa thật, Phật giáo thời đại Lý – Trần đã
góp phần không nhỏ trong việc xây dựng nền độc lập quốc gia trong lịch sử nước nhà. Các vua
trị vì đã thực sự thấm nhuần lời dạy của đức Phật trong kinh Trường A Hàm: “Biết đoàn kết, biết
ăn ở hòa hảo cùng nhau và thường hội họp nhau lại để lo bàn việc nước thì không sợ gì sẽ bại
vong mà nhất định sẽ được cường thịnh, phong phú thêm”. Đây là những nhân tố tư tưởng góp
phần tích cực vào sự tồn tại lâu dài của hai triều đại Lý – Trần.


CHƯƠNG II: THƠ THIỀN TRONG VĂN HỌC LÝ- TRẦN
2.1 tinh thần nhập thế.
Trong lịch sử đã chứng minh cho chúng ta thấy có không ít những vị Thiền sư Việt Nam đã thể
hiện trọn vẹn tinh thần vì dân vì nước. Các Thiền sư này xuất hiện dưới nhiều dạng khác nhau,
khi thì đóng vai Thái sư Khuông Việt, hay người chèo đò Đỗ Thuận, lúc lại là người thầy thuốc
Tuệ Tĩnh hay thợ đúc đồng Nguyễn Minh Không, thậm chí có lúc tự tại ở ngôi vị đế vương xông
pha trước mũi tên lằn đạn để chống đỡ cho muôn dân thoát khỏi nạn dày xéo của ngoại bang.
Đối với các Ngài, hình thức cư sĩ, xuất gia, làm vua, làm quan, làm người chèo đò, làm thầy
thuốc, làm thợ mộc hay thợ đúc đồng hoặc bất cứ ngành nghề gì chẳng qua chỉ là lớp áo đổi thay
không dừng trên sân khấu cuộc đời, trong tâm niệm các Ngài luôn mong mỏi đem lại ấm no hạnh
phúc cho dân tộc. Vì vậy, tất cả những Thiền sư đi vào cuộc đời mà không bị lợi danh quyền thế
làm hoen ố vẩn đục, tâm hồn các Ngài luôn thanh thoát như những đóa hoa sen thơm ngát giữa
bùn lầy mà không bị bùn nhơ làm ô nhiễm đã thể hiện trọn vẹn tinh thần nhập thế.
Tinh thần Nhập thế của Phật giáo thời Trần” xuất phát từ lời dạy của Quốc sư Viên Chứng với
vua Trần Thái Tông là người đi đầu thực hiện đã tạo thành làn sóng Phật Giáo Việt Nam mang vị
mặn dân tộc, phả vào tất cả mọi bờ mé tâm thức của từng người dân Việt và kết tụ nên tiếng vang
lớn “Phật giáo đời Trần là quốc giáo” trong lịch sử Phật giáo Việt Nam. Đến đời vua thứ ba triều
Trần là Trần Nhân Tông, vừa thừa tiếp dòng chảy “Nhập thế” ấy và vừa thừa sức sáng tạo đã làm
nên đợt sóng thần bất diệt, tác động lớn đến nền văn hóa xã hội Đại Việt thời Trần. Đó là sự ra

đời của dòng thiền Trúc Lâm Yên Tử mà chính Ngài làm Đệ Nhất Tổ.
Đa số người đời cho rằng đạo Phật là đạo bi quan, tiêu cực, yếm thế; người tu Phật là kẻ chán
đời, ăn bám, trốn tránh cuộc đời. Nếu có được một ít thiện cảm, người ta lại nhìn những Tăng Ni
trẻ bằng cặp mắt tiếc rẻ, tội nghiệp.
“Đạo Phật là gì? Đạo Phật là câu hát não nùng để ru ngủ cho những dân chán đời ở cõi đông
phương, ru cho êm giấc mộng nghìn năm. Mà câu hát ấy, từ hai mươi lăm thế kỷ đến giờ cũng đã
từng ru cho biết bao nhiêu kẻ sầu não đau lòng! Nào những người đa sầu đa cảm, ngán nỗi đời
mà cam lòng đợi chết, nào những kẻ học giả thâm trầm, cay sự thế mà mơ màng tịch diệt, nên
chắp tay mà vái lạy Phật Đà. Lại những người kia nữa, số nhiều biết bao nhiêu, sống ở đời mà
ghét căm sự sống, khác nào như một phường kèn thảm, thổi sau một đám rước to, chạy quanh
trên vũ đài thế giới, nên lên giọng mà ngợi khen Thầy Mâu Ni đã đắc đạo. Thầy là tôn Sư của các
người. Dù giọng các người căm tức mà ngạo mạn, hay than khóc mà nỉ non thâm trầm mà trịnh
trọng, hay nức nở mà kêu oan, bài than vãn cũng là một, mà bài ấy là Phật đã xướng lên.
Lại những bậc triết nhân yếm thế, các ngài nên tôn trọng Phật đà. Ngày nay các ngài băn khoăn


trong dạ, xưa kia Phật đã khắc khoải trong lòng, các ngài làm môn đồ Phật cũng không mất giá
chi. Cổ lai những người được cái thiên chức làm hướng đạo cho loài người vào trong cõi siêu
nhân loại không phải là có nhiều. Tưởng thế cũng là đủ, cái bí tàng của tạo vật, biết chút thế cũng
đủ sống...”
“Nếu như nhập thế là một khuynh hướng tư tưởng của một học thuyết, một tôn giáo chủ trương
tham gia các hoạt động chính trị và giải quyết các vấn đề chính trị xã hội thì Phật giáo không
phải là một tôn giáo nhập thế-trái lại nó là tôn giáo xuất thế hay còn gọi là yếm thế.”
Rõ ràng không phải ngẫu nhiên đạo Phật khi du nhập vào Việt Nam lại có thể trở thành thứ tôn
giáo tín ngưỡng của đa số dân chúng Việt Nam, thở cùng nhịp đập Việt Nam, gắn chặt với văn
hóa Việt Nam và hòa quyện cùng vận mệnh thịnh suy của Việt Nam. Chắc chắn phải nhờ một nét
đặc thù nào đó đã kết tụ nên sắc thái Phật giáo việt Nam như thế. Người ta có thể khẳng định đó
là do tinh thần khế lý khế cơ hoặc tính vô ngã, từ bi bác ái, bình đẳng, trí tuệ,...của đạo Phật. Tuy
nhiên, một điểm son đặc biệt bao trùm lên tất cả, ấy là “tinh thần nhập thế” của đạo Phật. Nhất là
tinh thần ấy lại nở nụ kết hoa ở thời Trần – một thời để lại ấn tượng sâu đậm nhất trong lịch sử

Phật giáo Việt Nam.
Thật vậy, chính giai đoạn thời Trần với luồng gió “nhập thế” lớn mạnh của Phật giáo đã dựng
nên một bối cảnh huy hoàng của lịch sử Việt Nam trải dài gần hai trăm năm, tạo nên những trang
sử hào hùng oanh liệt của dân tộc Đại Việt nhỏ bé đã ba lần chiến thắng đội quân xâm lược vô
địch Nguyên – Mông đương thời. Một thời đại điển hình về những vị vua anh minh: Trần Thái
Tông, Trần Nhân Tông...mãi mãi lưu danh trong hậu thế cùng những vị tướng tài ba, trung hiếu:
Trần Thủ Độ, Trần Hưng Đạo, Phạm Ngũ Lão,...quyết một lòng gìn giữ xã tắc. Một thời đại Phật
giáo Việt Nam chuyển sang bước ngoặt mới mà đỉnh cao là sự khai sáng dòng thiền Trúc Lâm
Yên Tử đứng đầu là Điều Ngự Giác Hoàng Trần Nhân Tông đắc đạo nhờ vị thầy lãnh đạo tinh
thần phong cách siêu phóng Tuệ Trung Thượng Sĩ và các đệ tử kế thừa xuất sắc: Pháp Loa,
Huyền Quang, Kim Sơn,...Không những thế, chính tinh thần nhập thế của Phật Giáo thời trần
cũng đã làm cho bộ mặt xã hội Việt Nam rực rỡ cả về văn hóa mỹ thuật lẫn quân sự chính trị.
Phải nói rằng Phật giáo thời Trần với tinh thần nhập thế đã gây nên âm hưởng vang dội không
chỉ một thời mà còn vọng mãi đến bây giờ và tới ngàn sau.
Chính vì ray rức với quan điểm sai lệch của những người chưa hiểu tường tận về đạo Phật, cụ thể
là hai ý kiến nêu trên; người viết chỉ muốn nhấn mạnh rằng đạo Phật chưa bao giờ là đạo yếm thế
mà là đạo nhập thế tích cực. Người tu Phật đúng nghĩa không thể là kẻ chán đời mà trái lại chính
họ phải là những người can đảm, yêu đời, đầy đủ nghị lực, ý chí để dấn thân, giáp mặt và chuyển
hóa cuộc đời. Tuy nhiên, khi chọn đề tài Tinh thần Nhập thế của Phật giaó thời Trần này, người
viết hoàn toàn không chủ quan ca ngợi đạo Phật mà chỉ làm sáng tỏ tinh thần nhập thế của Đạo
Phật dựa vào sự thật lịch sử. Bởi vì cho dù người viết có muốn ca ngợi đạo Phật hay không thì
lịch sử luôn là một bằng chứng sống động hùng hồn mà không ai có thể xóa mờ hay bác bỏ
được. Vì phạm vi của một bài tiểu luận, người viết không thể làm nổi bậc hết tinh thần nhập thế
của đạo Phật mà chỉ giới hạn trong giai đoạn Phật giáo thời Trần – thời vàng son sáng ngời trong
sử sách.
Để hoàn thành đề tài tiểu luận này, người viết rất may mắn được sự hướng dẫn tận tâm của Giáo
Sư tiến sĩ Lê Mạnh Thát, người dày công nghiên cứu sử và đã đang được xem như ngôi sao sáng
của Phật học đương thời. Đặc biệt, người viết còn được sự hỗ trợ của Thầy tổ, cha mẹ và các chị
em; nhất là vị thầy ân nhân luôn luôn khích lệ, động viên người viết về mọi phương diện. Dù
người viết cố gắng hết sức để trình bày đề tài tiểu luận song vẫn không thể tránh khỏi những sai

lầm ngoài ý muốn. Kính mong các bậc cao minh niệm tình tha thứ và chỉ giáo.


Thời Trần được khai sáng nhờ vị vua đầu triều là Trần Thái Tông. Thế nhưng, người khai thông
tư tưởng cho Thái Tông và trao cho nhà vua chiếc chìa khóa tinh thần vững chãi lại là Quốc sư
Viên Chứng – một nhà sư “ăn rau răm, nhai hạt dẻ, uống nước suối, vui cảnh núi rừng” trên núi
Yên Tử. Cho nên có thể nói chính Quốc sư là nhân tố gầy dựng nên vị vua mẫu mực, khơi nguồn
dòng chảy “đức độ vẹn toàn, miệt mài sống đạo giúp đời” liên tục suốt gần hai thế kỷ triều đại.
Và nghĩa là chính Quốc sư là động lực tất yếu thiết lập phong thái ưu việt của Phật giáo thời
Trần. Bằng lời dạy bình dị, chân chất của tâm hồn sáng đạo, Quốc sư đã gởi gắm trọn vẹn tinh
hoa tư tưởng đạo Phật chỉ trong một câu nói mở lối cho vua Thái Tông bước vào đạo:
“Trong núi vốn không có Phật, Phật ở ngay trong lòng. Lòng lặng lẽ mà hiểu, đó chính là chân
Phật. Nay nếu bệ hạ giác ngộ điều đó thì lập tức thành Phật, không cần khổ công tìm kiếm bên
ngoài”
Và cũng bằng nhận thức thực tế, Quốc sư đã đề ra cho nhà vua một phương kế lãnh đạo thiết
thực: “Phàm là bậc nhân quân phải lấy ý muốn của thiên hạ làm ý muốn của mình, lấy tấm lòng
của thiên hạ làm tấm lòng của mình”. Rõ ràng cốt tủy của đạo Phật cô đọng trong ba chữ “Phật
tại tâm”, và để nhận ra được “Phật tại tâm” ấy thì phải “quay về với tâm mình”. Nói cốt tủy đạo
Phật là vì đây không phải là điều mới mẻ của Phật giáo đời Trần mà thật ra chỉ là một sự kế thừa
có sáng tạo của Quốc sư Viên Chứng trong trong quá trình dụng công tu tập và sáng đạo để trao
truyền lại cho thế hệ sau. Yếu chỉ Phật tại tâm đã được đức Thế Tôn nhắc đến rất nhiều lần thưở
tại thế: “Tất cả chúng sanh đều có Phật tánh”. Và phận sự quay lại với chính mình là điều Đức
Phật không ngừng khích lệ môn đồ, thậm chí ngay cả khi trước lúc xả báo thân vẫn căn dặn rành
rọt: “Các người hãy là nơi nương tựa của chính mình, đừng tìm kiếm một nơi nương tựa nào
khác”, hay “ngươi là hòn đảo là nơi nương tựa của chính ngươi”. Và nếu đi vào kho tàng giáo lý
Đức Phật thì chúng ta chắc chắn sẽ nhận ra một điều là trong tám vạn bốn ngàn pháp môn ấy tuy
nhiều nhưng tựu trung vẫn chỉ là xoay quanh một con đường chính. Đó là con đường hướng nội
hay con đường quay về với tự thân chính mình. Cho nên có thể nói: Nếu mục tiêu của một người
tu Phật là thấy đạo thành Phật thì con đường hướng nội là con đường thành tựu duy nhất mà
người ấy phải miên mật trải qua.

Hướng nội được xem là tiền đề của chặng đường tu tập chính vì đây là con đường đấu tranh đầy
cam go, gian khổ ở bản thân mỗi con người. Dù biết rằng mỗi người đều có sẵn hạt nhân Phật, ấy
là Phật tánh nhưng bên cạnh đó con người còn mang cả những yếu tố bất toàn là tham, sân, si.
Hướng nội vì thế là cuộc đấu tranh thầm lặng hết sức gay gắt trong mỗi giờ mỗi phút đối với tự
thân mỗi người để tự hoàn thiện chính mình ngày một tốt hơn. Nếu không hướng nội, con người
sẽ mãi say sưa sống trong vọng tưởng đảo điên, chạy theo trần cảnh miên man không dứt. Và rồi
mang tâm tư của người bám vọng tưởng để đi vào đạo, nếu không thức tỉnh để tìm về tự thân thì
khó tránh việc tìm cầu chân hạnh phúc ở tận phương trời xa xôi nào khác. Như vậy, điều kiện cấp
thiết đối với một người học Phật chính là phải có một phen quyết áp dụng phương pháp hướng
nội cho lộ trình chuyển hóa nội tâm mới mong lần hồi tỏ rõ chân tâm, thể hội Phật tánh.
Sự việc các vị vua – thiền sư thời Trần nhờ khéo hướng nội cho mỗi khoảnh khắc dụng công đã
khiến cho ánh sáng Phật giáo tỏa rạng khắp bầu trời Đại Việt. Và hiển nhiên, hàng loạt phẩm
cách cao đẹp như: tự chủ, tự lực, tự cường, tự nắm lấy và tự lèo lái vận mệnh quốc gia của người
dân Việt cũng nhờ vậy càng thể hiện mạnh mẽ hơn, như câu nói khẳng khái của Trần Thủ Độ:
“Đầu tôi chưa rơi xuống đất, xin bệ hạ đừng lo(9)”, và lời tâm huyết của Trần Hưng Đạo “Nếu
bệ hạ muốn hàng xin chém đầu tôi đi đã(10)”, cũng như hình ảnh Phạm Ngũ Lão vẫn ngồi yên
bất động dù bị quân hầu của Trần Hưng Đạo thọc giáo vào bắp vế,...
Men theo dòng chủ lưu hướng nội vua Trần Thái Tông đã thực tu, thực chứng và khuyên nhủ
mọi người hãy: Quay đầu tìm biết, quang minh ngay đó tự nhiên sanh(11)


Chớ mải mê làm khách, quay về sớm chiếu soi
Lang thang làm khách phong trần mãi
Ngày cách quê xa muôn dặm trình
Với Thượng Sĩ, ngoài việc bừng tỉnh con đường phải đi cho Vua Trần Nhân Tông: “Soi sáng lại
mình là phận sự gốc, chẳng từ nơi khác mà được” ra, mục tiêu “hướng nội” được Ngài thức tỉnh
rất nhiều trong các lời dạy:
Phật tức tâm, tâm tức Phật;
Diệu chỉ sáng ngời suốt cổ kim
Còn vua Trần Nhân Tông thì chỉ ra một kết quả cụ thể hơn: Khi ta đã thực sự nỗ lực quay về và

thực sự nếm được pháp vị cũng chính là lúc Phật Di Đà, Phật Thích Ca, Phật Di Lặc, thể tánh
kim cương và tâm viên giác nhiệm mầu đang ngự trị trong ta:
Tịnh độ là lòng trong sạch, chớ còn ngờ hỏi đến Tây Phương
Di Đà là tính sáng soi, mựa phải nhọc tìm về Cực Lạc
Tích nhân nghĩa tu đạo đức, ai hay này chẳng Thích Ca
Cầm giới hạnh đoạn ghen tham, chỉn thực ấy là Di Lặc
Dứt trừ nhân ngã thì ra tướng thực kim cương
Dừng hết tham sân mới tỏ lòng mầu viên giác
Vậy mới hay:
Bụt ở trong nhà chẳng phải tìm xa
Nhân khuẩy bổn nên ta tìm Bụt
Đến cốc hay chỉn Bụt là ta
Tuy nhiên, nếu con người là cơ hội hạn hữu để quả Phật hiển lộ thì cuộc đời sẽ là điểm hẹn tối
quan trọng mà con người cần có để rèn luyện tự tâm. Nói cách khác, không thể có quả Phật ngoài
con người huyễn hóa tạm bợ cũng như không thể có đạo tràng thực nghiệm nào ưu thế hơn đạo
tràng cuộc đời. Đây là điều mà Lục Tổ Huệ Năng ngày trước đã vạch rõ:
Phật pháp ở tại thế gian
Không lìa thế gian mà có
Lìa thế gian tìm Bồ Đề
Giống như đi tìm sừng thỏ
Kế thừa và phát huy truyền thống “Đạo Phật không rời cuộc sống” này, các vị vua thiền sư thời
Trần đã “đem đạo Phật đi vào cuộc đời” một cách hữu hiệu từ phương châm hành động: “Lấy ý
muốn của thiên hạ làm ý muốn của mình, lấy tấm lòng của thiên hạ làm tấm lòng của mình”, và
đã hình thành “Tinh thần nhập thế tích cực” nổi bậc của lịch sử phật giáo Việt Nam. Tuy nhập thế
không phải là tính chất riêng có của phật Giáo thời Trần nhưng ảnh hưởng từ vai trò của nhà
nhập thế đã đưa Phật giáo thời Trần vươn tới đỉnh cao của lịch sử tư tưởng nhân loại, cũng như
lịch sử Việt Nam vươn tới đỉnh cao trên vũ đài chính trị. Nếu vai trò nhập thế của nhà chính trị là
chăm sóc dân tình, giữ gìn yên bình cho xã tắc thì vai trò nhập thế của người tu Phật là đem ánh
sáng đạo Phật vào đời để giúp đời. Những nhà nhập thế tiêu biểu thời Trần như: Trần Thái Tông,
Trần Nhân Tông,...nhờ có sự kết hợp hài hòa đủ cả hai yếu tố nhập thế này nên mới tạo được thế

đứng hiên ngang của lịch sử Việt Nam thế kỷ XIII về những cuộc chiến thắng thần thánh. Bởi vì
nếu cả hai vai trò nhập thế trên không cùng được thể hiện thì không dễ gì các vị vua - thiền sư
Đại Việt xứng đáng được lưu truyền. Về điểm này, so với vị vua Phật tử Lương Võ Đế đời
Đường ở Trung Hoa cho thấy: Cũng là vua, cũng là Phật tử thuần thành, thuyết pháp tuyệt hay;
thế nhưng, khi đất nước Trung Hoa lâm cơn khói lửa, thay vì xông pha trận mạc nhà vua lại đóng
cốc tĩnh tu đã đưa đến thảm họa đau thương cho đất nước. Đối với các vị vua- thiền sư thời Trần,
dù phải tận dụng mọi lúc rảnh rang để nghiên tầm kinh điển vẫn sẵn sàng “cởi áo cà sa, khoát


chiến bào” khi bờ cõi tổ quốc lâm nguy.
Phong cách của các nhà nhập thế thời Trần là sống “hòa quang đồng trần”, tức sống hoà lẫn
trong thế tục. Các thiền sư thời Trần sống cùng mọi người nhưng không hề làm ra vẻ khác người,
vẫn chia xẻ buồn vui một cách tự nhiên cùng nhân tình thế thái:
Đói thì ăn chừ cơm góp mười phương
Mệt thì ngủ chừ nơi chẳng quê hương
Đó là mô hình “sống ở đời mà vui với đạo” của vua Nhân Tông:
Ở trần vui đạo cứ tùy duyên
Hễ đói thì ăn, mệt ngủ liền
Báu sẵn trong nhà thôi tìm kiếm
Lặng lòng đối cảnh hỏi chi thiền
Sống rất đạm bạc, không quan trọng hóa những thiếu thốn vật chất tầm thường:
Áo miễn chăn đầm ấm qua mùa hoặc chằm hoặc xể
Cơm cùng cháo đói no đòi bữa dầu bạc dầu thoa
Như hoa sen tinh khiết vươn lên từ chốn bùn lầy, các vị sống trà trộn giữa dòng đời nhưng mọi
cám dỗ cuộc đời không làm vấy bẩn được tâm thái an tường tĩnh lặng. Chỉ có sự giác tỉnh triệt để
ở tự tâm, vua Thái Tông mới có thể biểu hiện thái độ “xem ngai vàng như một chiếc giày cũ”. Rõ
ràng trong đời sống của các Ngài tuy bận rộn trăm việc nhưng không hề thiếu vắng thiền định.
Không phải chỉ đơn giản với việc “Mình ngồi thành thị, nết dùng sơn lâm” mà là lúc nào các
Ngài cũng an trụ trong định: “Đi cũng thiền, ngồi cũng thiền” chứng tỏ ngay cả khi lâm triều họp
bàn chính sự hay lúc lâm trận điều binh khiển tướng các Ngài cũng không rời thiền định. Trước

mắt các Ngài do vậy các pháp đều thành vi diệu nhiệm mầu: “Trong ảo sắc cũng là chân sắc; nơi
phàm thân cũng thực pháp thân” Và khi tâm đã lắng mọi vọng niệm lăng xăng thì nơi nào cũng
là đạo tràng và chốn nào cũng tiện bề “hồi quang phản chiếu”:
Nguyệt bạc vừng xanh, soi mọi chỗ thiền hà lai láng
Liễu mềm hoa tốt ngất quần sanh tuệ nhật sâm lâm
Áng tư tài tánh sáng chẳng tham há vì ở cánh diều Yên Tử
Răn thanh sắc niềm dừng chẳng chuyển lọ chi ngồi am sạn non đông
Nghĩa là không gian, thời gian cũng không chi phối được những con tim đầy nhiệt huyết tu tập:
Nhận biết làu làu lòng vốn, chẳng ngại bề thời tiết nhân duyên
Chùi cho vằng vặc tính gương, nào có nhuốm căn trần huyên náo
Chỉ với phong thái nhập thế như vậy mới thật xứng đáng làm niềm tin cho Phật Pháp, làm gương
cho đời:
Trần tục mà nên, phúc ấy càng yêu hết tấc
Sơn lâm chẳng cốc, họa kia thực cả đồ công
Tóm lại, Phật giáo thời Lý-Trần lấy “hướng nội” làm nền tảng, lấy “nhập thế” làm hướng đi đã
hình thành phong cách Phật giáo Việt Nam đặc biệt: không cầu kỳ, không mê hoặc, không giáo
điều cứng nhắc. Đó chính là ánh sáng thực thụ Phật giáo thời Lý-Trần đủ lung linh uyển chuyển,
đủ soi rọi vào tận ngõ ngách của tâm hồn mọi người. Và như vậy, tư tưởng Phật giáo trở thành tư
tưởng chủ đạo và là dòng sống lưu thông trong lòng dân tộc. Để từ đó, thiền Phật giáo không còn
là thứ đặc quyền của Tăng sĩ hay chùa chiền: “chẳng kể là tại gia hay xuất gia, chẳng nề tăng hay
tục, điều cốt yếu là biện tâm” Thiền Phật giáo đích thực đã trở thành linh hồn cuộc sống, linh hồn
quốc gia. Mặt khác, xã hội thời Lý-Trần với sự khiếm khuyết của Nho, Lão trong bối cảnh người
người học Phật, thử hỏi còn tư tưởng chủ đạo nào đáng tin cậy, đáng làm nòng cốt để bảo tồn đạo
đức quốc gia hơn tư tưởng đạo Phật? Và có tinh thần nào của Phật giáo huyền diệu hơn, có khả
năng tự khẳng định mình hơn tinh thần nhập thế tích cực? Do vậy, có thể nói tinh thần nhập thế


của Phật giáo thời Lý-Trần nhờ vậy đã góp phần tô điểm và nâng cao bản sắc một Phật giáo Đại
Việt hoàn toàn, không lệ thuộc, không ảnh hưởng nặng nề các nền văn hóa Phật giáo Ấn Độ và
Trung Hoa.

2.2 Tinh thần Phật giáo
2.2.1 Phật- Nho phân công hợp tác
Các nhà nghiên cứu đã thừa nhận dân tộc ta vốn có tinh thần dân chủ và sống phóng khoáng nên
từ khi Tam giáo vào Việt Nam, cha ông ta đã biết tự mở cửa đón nhận những tinh hoa của hệ tư
tưởng ấy, chọn lọc, dung hợp và biến chúng thành cái của mình, phù hợp với điều hiện và hoàn
cảnh sống của mình, phục vụ cho mình.
Đọc kỹ các tác phẩm văn học Phật giáo Lý – Trần, chúng ta sẽ dễ nhận thấy tinh thần điều hoà,
dung hợp này. Có khi là sự phân công hợp tác giữa Phật và Thánh (Nho); có khi là sự kết hợp rất
uyển chuyển giữa Phật với Lão – Trang để đi đến sự thống nhất: Tam giáo đồng nguyên. Tư
tưởng Phật giáo không phải là hệ tư tưởng đóng kín trong khuôn khổ, trong quy tắc giáo điều mà
là tư tưởng mở, đầy khai phóng. Nhờ thế mà các nhà tu hành có cái nhìn thông thoáng, có thái độ
sống cởi mở, phá chấp. Người tu hành không bắt buộc phải cạo đầu xuất gia, phải từ giã gia đình
vào chùa mà họ có thể tụ tập trong gia đình, giữa cuộc đời và cũng có thể chứng ngộ, giải thoát.
Điều này thực tế lịch sử đã chứng minh: Một Trần Thái Tông, một Trần Tung (Tuệ Tung), một
Trần Nhân Tông… Đó là chưa kể các Thiền sư vào đời giúp vua trị nước an dân mà vẫn làm tròn
bổn phận của người tu hành. Chất rộng mở phóng khoáng này còn thể hiện qua hệ thống kiến
trúc nhà chùa. Nhà chùa không chỉ là chốn thâm nghiêm huyền diệu mà ngược lại cửa từ bi luôn
rộng mở đón nhận khách thập phương, sẵn sàng cứu vớt kẻ trầm luân. Cảnh Bụt bao giờ cũng
hữu tình kỳ thú, luôn là chốn đi về của những ai muốn quên đi bao nỗi phiền muộn, bao điều trắc
trở nhọc nhằn của cuộc đời. Họ đến viếng cảnh già lam để tìm sự thư thái, sự thanh thản của tâm
hồn. Chất dân chủ rộng mở ấy còn biểu hiện qua hệ thống triết lý kinh điển với chủ trương tâm
không phân biệt.
Qua các tác phẩm, các Thiền sư Lý – Trần đã thừa nhận tư tưởng của đất Thánh cần thiết cho sự
duy trì trật tự của xã hội cũng như giáo lý của Đức Phật cần thiết cho sự giải thoát tâm linh con
người. Lời sư Trí Thiền sau đây có thể nói lên tinh thần vừa phân biệt lại vừa hoà đồng giữa Phật
và Nho:
“Như Lai lục ngữ cái bất hư thiết. Thế gian chư pháp hư huyễn bất thực, duy đạo vi thực, ngã
phục hà cầu. Thả Nho gia khả thuyết quân thần phụ tử chi đạo, Phật pháp khả ngôn Bồ tát, Thanh
văn chi công. Nhị giáo tuy thủ, kỳ quy tắc nhất. Nhiêm, xuất sinh tử, nhược đoạn hữu vô kế phi
Thích tắc bất năng dã”.

(Mấy lời nói kia của Như Lai chẳng phải là lời nói suông. Các phép ở trên thế gian này đều là hư
ảo, không thực, chỉ có đạo mới là thực, ta còn cần gì nữa; vả lại, Nho gia thì nói đạo vua tôi, cha
con. Phật pháp thì nói về công đức của các bậc Thánh văn, Bồ tát. Hai giáo tuy có khác nhưng
quy về chỉ một mối mà thôi. Nhưng muốn vượt qua nỗi khổ sinh tử, dứt khỏi sự cố chấp hữu vô,
ngoài Phật giáo thì không thể đạt được) (Thiền uyển tập anh, bản Vĩnh Thịnh, ký hiệu A3144).
Nho và Phật tuy khác nhau ở thực hiện giáo lý nhưng cũng cần thiết như nhau. Sự phân biệt
chẳng qua là một sự phân công để cùng giúp ích cho đời. Bàn về sự khác nhau ấy, Viên Chiếu đã
cho rằng Phật và Thánh như ánh sáng rực rỡ của trời soi tỏ khắp nơi, đem lại sự sống cho vạn
vật; như bóng trăng êm dịu mang đến sự thanh tĩnh cho con người; như mùa xuân ấm áp thì chim
oanh hót líu lo; như mùa thu về thì cúc vàng rực rỡ:
Ly hạ trùng dương cúc
Chi đầu thục khí oanh
Đệ tử vẫn chưa hiểu, sư đáp tiếp:


Trúc tắc kim ô chiếu,
Dạ lai ngọc thố minh.
Trên bình diện tư tưởng, các Thiền sư thường kết hợp vũ trụ quan biến động của Dịch, tư tưởng
nhất quán của Khổng Tử với tư tưởng “Nhất như” cùng chủ trương tất cả quy về tâm của Phật để
phát biểu một vấn đề hiện thực. Đoạn mở đầu của bài bia chùa Linh Xứng núi Ngưỡng Sơn
Thanh Hoá của Pháp Bảo (Giác Tính Hải Chiếu) là một minh chứng cho khuynh hướng kết hợp
này.
(Phật tổ soi tỏ cái thực mà chỉ thẳng chữ tâm; Thánh nhân thích ứng theo thời mà thông suốt
muôn biến. “Muôn” là sự phân tán của “một”. “Một” là cội gốc của “muôn”. Đến như các bậc
hiển Thánh thỉnh thoảng ra đời, khuôn phép thay nhau dấy lên. Nhóm cái đã phân tán để đưa nó
về cội gốc, ôm cái “một” để thâu tóm cái “muôn”. Tạc nên hình tượng để biểu thị sự thâu tóm;
dựng lên đền tháp để có sự hướng về).
Cuối bài bia có bài minh ca tụng chân như với đức tính “hoá dục vạn vật” của Thái cực:
“Chí tai chân như,
Thể thưởng Thái hư.

Thần như bất trắc,
Hoá nhi hữu dư.
Nhất vũ bái nhuận,
Tam thảo tam thư.
Pháp chàng đại thụ,
Tà võng đốn trừ.
Một bên là đạo, một bên là đời. Một đằng là thoả mãn giải thoát tâm linh của cá nhân, một đằng
là đáp ứng yêu cầu tổ chức của đời sống xã hội. Sự phân công hợp tác giữa Phật và Nho kể trên
đã đưa tới kết quả tốt đẹp trong đời sống của một dân tộc vừa phục hưng, đó là sự tương trợ giữa
tôn giáo và chính trị. Điều đó rất cần thiết cho đất nước vừa độc lập đang trên đà phát triển như
nước ta.
Mặt khác, lớp văn hoá Phật giáo sau này từ đường bộ Trung Quốc truyền xuống với hệ kinh sách
đã dịch sang Hán văn, nên các nhà sư muốn học kinh Phật phải có chữ Hán của nhà Nho và thực
tế các vị đều uyên thâm Hán học. Đều đó có nghĩa là giáo lý từ bi của nhà Phật phải nhờ đến Hán
tự của Nho gia làm phương tiện truyền bá. Câu nói của Trần Thái Tông đã giải thích thêm lời của
Lục tổ Huệ Năng là Phật và Thánh không khác gì nhau:
“Cố Lục tổ hữu vân: Tiên đại thánh nhân dữ đại sư vô biệt. Tắc tri ngã Phật chi giáo, hữu giả tiên
thánh dĩ truyền ư thế dã” (cho nên Lục tổ có nói: bậc đại thánh và đại sư đời trước không khác gì
nhau. Như thế là đại giáo của Đức Phật ta phải nhờ tiên thánh mà truyền lại cho đời)
Mặt khác, chúng ta không lấy làm lạ nhiều người xuất thân từ Nho học nhưng đến khi về già
lòng lại hướng về Phật về Thiền. Nhiều sáng tác thơ văn ca ngợi cảnh già lam với lời thơ đầy ý vị
Thiền đạo mà có nhà nghiên cứu gọi đó là “dòng thơ Thiền thế sự”.
Từ giữa đời Trần về sau, Nho giáo thịnh dần, Phật giáo suy yếu; nhiều nhà Nho trước đây đã
từng lên án chỉ trích giáo hội Phật giáo, tăng đồ gay gắt như lợi dụng tôn giáo để gieo rắc điều
mê tín dị đoan, không chịu giữ gìn giới răn… vậy mà cuối đời chính họ lại vào chùa sống đời
tương dưa thanh đạm, làm thơ như Trương Hán Siêu, Phạm Sư Mạnh với Cam Lộ tự, Đăng Dục
Thuý sơn lưu đề, Du Phật Tích sơn ngẫu đề ca ngợi cảnh đẹp già lam, ca ngợi đức độ danh tăng
và trong bài văn viết về việc chùa Sùng Nghiêm núi Vân Lỗi thờ Đại Bi, ông đã ca ngợi công
đức nhà sư xây chùa, tạo danh thắng cho đất nước và chùa thờ Phật để cầu nguyện cho quốc thái
dân an; Trần Nguyên Đán với Sơn trung khiển hứng, Ngẫu đề; Chu Văn An đã làm thơ ca ngợi vị

sư đạo cao đức trọng, tán dương tư cách thanh cao của các nhà sư như tư cách của một nhà Nho


quân tử sống ẩn dật chịu ảnh hưởng Lão – Trang trong bài Đề Dương công Thuỷ Hoa đình(*);
Phạm Nhân Khanh thì ca ngợi đức độ cùng tài thơ của Thiền sư Lãm Sơn trong bài Tống Lãm
Sơn Quốc Sư hoàn sơn
Nhìn chung, sự kết hợp vừa dung hợp vừa điều hoà có phân biệt giữa tư tưởng Nho, Phật vào
thời Lý – Trần đã tạo nên một lý tưởng cao đẹp với cuộc đời từ lý tưởng của con người cá nhân
vừa lập công giúp nước để sau đó khi xong nhiệm vụ về nghỉ ngơi vui với thiên nhiên, tâm
hướng về Phật. Sự kết hợp ấy còn biểu tượng cho nếp sống của dân tộc. Hình ảnh chùa tháp nguy
nga tráng lệ chứng tỏ quốc gia ấy thanh bình, xã hội ấy thịnh vượng và con người trong xã hội đã
biết tôn trọng, giữ gìn những giá trị văn hoá tinh thần, do vậy mới có những tác phẩm ca ngợi
đạo lý cao thâm huyền diệu.
2.2.2 Phật- Lão kết hợp tịnh hành.
Văn học Phật giáo Lý – Trần đã có nhiều tác phẩm mang tư tưởng siêu thoát nửa Phật, nửa Lão –
Trang như thơ của Tuệ Trung Thượng sĩ Trần Tung. Bài Phóng cuồng ngâm của ông là sự kết
hợp của hai luồng tư tưởng Phật giáo và Lão – Trang, có pha chút ngông nghênh, ngang tàng của
nhà Nho trong một con ngời vừa là Thiền sư, vừa là quý tộc:
“Thiên địa điếu vọng hề hà mang mang,
Trượng sách ưu du hề phương ngoại phương…
Quy sơn tác lân hề mục thuỷ cổ
Tạ Tam đồng chu hề ca Thương Lương.
Chất phiêu diêu này còn gặp nhiều trong bài thơ của ông như Phỏng Tăng Điền đại sư, Xuất trần,
Tự tại, Giang hồ tự thích, Phúc đường cảnh vật, Thoái cư…
Sự ưa thích cảnh sống phóng khoáng, phiêu diêu thoát tục dường như là cái chất của trí thức thời
Lý Trần thơ văn các vị thiền sư Lý Trần cũng mang chất phiêu diêu lãng đãng này. Chẳng hạn,
hai câu thơ của Thiền Lão trả lời Lý Thái Tông mà luận án đã dẫn ở trên lại man mác phong vị
tiêu dao thoát tục kiểu Lão – Trang của một thiền sư ẩn mình tu luyện nơi thiên nhiên u tịch,
thoát khỏi hồng trần.
Những bài thơ của nhóm Bích Động thi xã chủ yếu là những dòng thơ ca ngợi thú vui nhàn tản,

ca ngợi thiên nhiên, xem thường danh lợi, vừa mang ý vị Thiền đạo, vừa mang chất phóng nhiệm
của Lão Trang. Trần Quang Triều với những bài thơ “thanh thoát, đáng ưa”([4]); “giàu tình cảm,
tinh tế, phóng khoáng tài hoa([5])” như Ngư điếu, Mai thôn phế tự, Hoàng châu đạo thượng tác,
Đề gia lâm tự([6]). Những bài thơ như Xuân nhật thôn cư, Nguyên nhật yết kiến Diên Quang tự,
Nguyệt Đàm thượng nhân của Nguyễn Ức([7]), Nguyễn Sưởng với bài thơ ca ngợi cảnh già lam
Phả lại sơn tự, Tiên Du Vạn Phúc tự, Túc Thứu thượng nhân Thiền phòng, Trùng đáo Quỳnh
Lâm Bích Động am lưu đề(*). Tất cả đều mang đậm nội dung vừa nêu. Nhà Nho Chu Văn An
khi lui về quê cũng đã viết những vần thơ ca ngợi thiên nhiên, bộc lộ tâm tình tiêu dao, phóng
khoáng tự tại, mang cốt cách của thiền sư, của đạo sĩ:
“Nhàn thân nam bắc phiến vân khinh,
Bán chẩm thanh phong thế ngoại tình.
Phật giới thanh u, trần giới viễn,
Đình tiền phún huyết nhất oanh minh”.
Truyện Thông Huyền, Giác Hải, Không Lộ cho thấy bấy giờ nhà nước coi Phật và Đạo ngang
nhau. Chính vua Lý đã có thơ ca ngợi:
Giác Hải tâm như hải
Thông Huyền đạo hựu huyền.
Thần thông kiêm biến hoá,
Nhất Phật nhất thần tiên.


Truyện về Từ Đạo Hạnh, Nguyên Minh Không với pháp thuật phù chú giải quyết tranh chấp, trả
thù; dùng pháp thuật để trị bệnh, để hoá kiếp đầu thai, thể hiện đức tin của quần chúng, chứng tỏ
sức mạnh của uy linh huyền bí. Tất cả là sự kết hợp tịnh hành giữ Phật với Lão – Trang và Đạo
giáo.
2.3 Thiên nhiên và con người trong thơ thiền Lý- Trần.
2.3.1 Thiên nhiên trong thơ Thiền Lý- Trần
Hình ảnh thiên nhiên trong thơ ca đời Lý đa phần xuất hiện với tư cách là những biểu tượng, là
phương tiện để thi nhân biểu đạt nội dung triết lý hay cảm quan Thiền đạo. Đấy là hình ảnh biểu
trưng cho những thực tế siêu nhiên, trừu tượng của triết lý nhà Phật. Thiên nhiên trong thơ ca đời

Trần có khác.
Đầu đời Trần trong thơ Trần Thái Tông, Tuệ Trung, hình ảnh thiên nhiên vẫn còn mang ý nghĩa
biểu trưng cho triết lí Thiền. Từ giữa đời Trần về sau, thiên nhiên đã trở thành đối tượng thẩm mĩ
đích thực.
Thi nhân tiếp xúc thiên nhiên ngoại cảnh với nhiều cảm xúc, phong phú, đa dạng từ tâm trạng
bình lắng trước cảnh thiên nhiên cô tịch, xa vắng, đến những cảm khái nhẹ nhàng rồi bất mãn với
thời cuộc.
Thơ giai đoạn này vừa thể hiện sự rung động của thi nhân trước thiên nhiên bằng cảm quan
Thiền học vừa có phản ánh phóng khoáng của tư tưởng Nho gia và cái nhàn dật của Lão Trang.
Khác với thời Lý, những hình ảnh thiên nhiên xuất hiện trong thơ như là những biểu tượng của lẽ
Thiền, chất lí trí còn đậm. Đến thời Trần thì đa phần trong sáng tác của các thi nhân, thiền sư,
thiên nhiên đã thực sự trở thành đối tượng thẩm mĩ thật sự.
Các thi nhân, Thiền sư đã thật sự trải lòng với cảnh núi cao sông dài, với ánh trăng trên đoá mộc
tê, trải tầm mắt với cánh bạch âu lưng trời, theo đàn cò liệng xuống cánh đồng chiều vãn, rồi
ngắm cảnh bướm xuân phơi phới trên những đóa hoa thắm tươi đầy hương sắc.
Con người Thiền sống giữa thiên nhiên để thấy tâm hồn mình về với Chân Như, với những cảm
xúc hồn nhiên không gợn niềm trần tục.
Thiền gia cảm nhận thiên nhiên bằng tâm hồn tĩnh tại, an nhiên, bởi họ cho rằng Bản thể của vũ
trụ là trống không khi tâm đạt tới độ tĩnh tại tuyệt đối, tâm trong suốt vắng lặng thì có thể hòa
nhập vào bản thể của vũ trụ vạn vật.
Thiên nhiên qua cái nhìn của Thiền gia mặc dù bình dị nhưng lại thấm đẫm hơi hướng mỹ cảm
Thiền. Đọc bài thơ Nguyệt của Trần Nhân Tông chúng ta có thể dể dàng nhận ra điều đó:
Bán song đăng ảnh mãn sàng thư,
Lộ trích thu đình dạ khí hư.
Thụy khởi châm thanh vô mịch xứ,
Mộc tê hoa thượng nguyệt lai sơ.
Ngược lại cái động nhờ cái tĩnh mà hiện hữu, không gian tĩnh mịch vắng lặng được nhận thức
bởi tiếng sương rơi ngoài sân thu. Đây chẳng phải là thủ pháp dựng dậy những mối quan hệ đối
lập gợi liên tưởng được dùng phổ biến trong Đường thi đó sao?
Có thể nói không gian của bài thơ là không gian đặc trưng của thơ Thiền, một không gian bao la,

khoáng đạt, trong trẽo và tĩnh lặng. Tất cả điều đó càng làm tăng cảm giác về sự bao la vô hạn
của không gian. Đặc biệt là cái cảm giác về sự trống không, hư không. Nó biểu trưng cho cái
"Không" của Thiền.
Tâm Thiền là cái trống không, bình đạm, trong trẻo và lặng lẽ. Đây là không gian được lọc qua
con mắt Thiền, là ngoại cảnh nhưng cũng là tâm cảnh. Ta có thể bắt gặp cái không gian này ở
nhiều câu thơ khác Dạ khí phân lương nhập họa bình ([1]) (Khí đêm chia hơi mát vào bức rèm
vẽ); Tâm kỳ phong cảnh cộng thê thanh ([2]) (Lòng thẹn với phong cảnh cùng trong trẻo, lạnh


lẽo). Khách khứ tăng vô ngữ - Tùng hoa mãn địa hương[3] (Mưa tạnh trời một màu biếc - Mặt ao
lặng ánh trăng tỏa hơi mát).
Trước thiên nhiên tươi đẹp, Thiền nhân chỉ "cảm" mà không trực tiếp "giãi bày" bằng lời. Con
người Thiền thường "vô ngôn" trước cảnh sắc ngoại giới. Lời nói hữu hạn không thể nào diễn tả
được hết cái biến thiên, cái hằng thường. Cái Hữu của lời nói không thể nào chiếm lĩnh cái Vô,
cái Không tuyệt đối mang tính vĩnh hằng của Bản thể.
Một trong những đặc trưng thẩm mĩ cơ bản của thơ ca phương Đông là nghệ thuật biểu diễn cái
không lời "Thư bất tận ngôn, ngôn bất tận ý" (Kinh Dịch), "ngôn vô ngôn" (Đạo đức kinh - Lão
Tử), "Thính hồ vô thanh" (Nam hoa kinh - Trang Tử). Trong quy luật tâm lý cái không lời, vô
ngôn bao giờ cũng dễ tác động đến chiều sâu tâm thức, cảm xúc con người hơn là cái phô bày,
cái có lời.
Cho nên tiếng đàn của người ca kĩ trên bến Tầm Dương đã đạt đến chỗ vi diệu "Thử thời vô
thanh thắng hữu thanh" (Tỳ bà hành - Bạch Cư Dị). Ta còn bắt gặp hình ảnh "con người vô
ngôn" trước thiên nhiên ở những bài thơ khác.
Khách khứ tăng vô ngữ,
Tùng hoa mãn địa hương .
(Khách [chỉ ta] ra về, sư ở chùa trầm ngâm không nói - Hoa thông đầy đất ngát mùi hương).
Cảnh ấy tình ấy, còn cần gì phải nói nhiều hơn nữa. Vả lại, không gian đang hết sức trong sáng,
yên tĩnh mát mẻ - một sự thanh khiết đến vô cùng vô tận. Trước không gian tuyệt diệu đó của đất
trời con người tự nhiên lọc sạch hết mọi nghĩ ngợi ưu phiền, tự nhiên quên hết những lời cần tâm
sự.

日日日日日
Thơ thiên nhiên mang cảm hứng Thiền còn bộc lộ cái xao xuyến của tâm hồn trước cảnh sắc
thiên nhiên lung linh, huyền ảo, mơ hồ. Cái đẹp của thiên nhiên được tạo dựng bởi cái mơ hồ
giữa Thực và Hư, giữa Sắc và Không, giữa Hữu và Vô, giữa động và tĩnh. Đăng Bảo Đài sơn của
Trần Nhân Tông là một bức tranh thiên nhiên được khắc họa bởi những yếu tố đối lập đó:
Địa tịch đài du cổ,
Thơ thiên nhiên đời Trần có những vần thơ sự kết hợp giữa những rung cảm cá nhân và tư tưởng
Thiền học. Đó là những lời tâm sự, một nỗi xao động giữa cảnh đời cảnh đạo, tâm hồn đơn côi
và hoang lạnh giữa mịt mờ trời đất rộng lớn.
Ý vị Thiền toát ra từ cảm giác không hư của cuộc đời con người. Tiêu biểu cho đặc điểm này
trong thơ thiên nhiên mang cảm hứng Thiền là phong cách thơ của Huyền Quang, vị tổ thứ ba
của Thiền phái Trúc Lâm.
Thơ ca ông có cái "bay bướm, phóng khoáng" ( và thể hiện cái tôi đầy say đắm trước cảnh sắc
thiên nhiên. Đến nỗi có lời dị nghị về ông và Lê Quý Đôn cũng nhận định: "
Tựa hồ chẳng phải lời nói của nhà tu hành" (Thi tuy giai phi tăng gia ngữ). Tuy nhiên dù gì đi
nữa thì cội Thiền trong ông vẫn còn bền chặt do đó thơ ca của ông dù đậm dù nhạt vẫn phảng
phất Thiền vị. Bài Phiếm chu là một trong những bài đặc sắc, tiểu biểu cho phong cách thơ của
ông:
Tiểu đỉnh thừa phong phiếm diễu mang,
Sơn thanh, thủy lục, hựu thu quang.
Sổ thanh ngư địch lô hoa ngoại,
Nguyệt lạc ba tâm giang mãn sương.
Bài thơ là cả một không gian rộng lớn bao trùm, con thuyền như trở nên lẻ loi giữa cái không
gian rộng lớn ấy. Núi xanh nước biếc như đang tô điểm thêm cho sắc thu, hay nó tạo thành sắc
thu? Mấy tiếng sáo chài trong đám lau thưa, là thứ âm thanh duy nhất đánh động không gian,


đánh động vào tâm hồn của cô nhân.
Mãng thơ thiên nhiên đời Trần đã để lại nhiều áng thơ vào hàng tuyệt tác trong nền thơ ca cổ
điển dân tộc. Đằng sau những bài thơ ấy là những tâm tình với khát khao hoà nhập vào thiên

nhiên, vào cuộc sống.
Đồng thời các thi nhân cũng đã gửi gắm vào đó những chiêm nghiệm về lẽ vô thường của con
người trước cái hằng thường của vũ trụ. Đó là chẳng phải là cái nhìn mang cảm hứng Thiền, tâm
trạng Thiền, ý vị Thiền nhưng cũng thấm đẫm chất thế sự với những cung bậc tình cảm hết sức
phong phú của con người đời thường
“Hoa xuân trong thơ thiền là hoa xuân biểu tượng bản chất và qui luật vận động của vũ trụ cùng
nét đại hòa điệu của vạn vật trong đó có con người, thảo mộc, động vật; chúng trải qua sự nảy nở
tốt tươi để rồi sẽ tàn tạ khô héo. Hoa vàng, hoa xuân, hoa thơm đều là hình ảnh của chân như
ngay trước cặp mắt thiền. Qua hình ảnh chân như hiện thực đó, ý tứ thơ thiền Lý Trần hướng dẫn
tâm hồn đồng điệu đến chốn tam muội chân như, đến cõi tịch diệt nhất như, đến bến bờ viên giác
Xuân khứ bách hoa lạc
Xuân đáo bách hoa khai
Hay:
Xuân lai xuân khứ nghi xuân tận,
Hoa lạc hoa khai chỉ thị xuân.
Hay:
Thân như điện ảnh hữu hoàn vô
Vạn mộc xuân vinh thu hựu khô.
Thị đệ tử - Vạn Hạnh thiền sư
Hoa sen là xưng tán công đức của Phật, nói các hạnh cao quý của Phật tử. Hình thể, màu sắc
hương vị hoa sen nhất nhất đều phải ý niệm qua nghĩa thanh khiết, cao quý của đạo giải thoát,
nhất nhất k thể lấy vật chất mà đàm thoại, lấy sự tướng mà quan niệm được.
Lý tưởng thiết tha của thiền tông là nở đóa sen vàng trong lò lửa. Đời đối với họ chỉ là cái lò lửa
thiêu đốt con người, là địa ngục trần gian của con người. Nếu giác ngộ thì sẽ là đóa hoa tươi
trong cái lò ấy, là đóa sen vàng, lửa không làm hủy hoại được.
Yểu điệu hoa đường trú ảnh trường,
Hà hoa xuy khởi bắc song lương.
(Nhà hoa thăm thẳm bóng ngày rũ dài,
Hoa sen đưa hương mát đến cửa sổ phía bắc).
Hạ cảnh - Trần Thánh Tông

Cúc mang vẻ đẹp hồn nhiên và thuần phác của bản thể chân thật.
Mai đẹp với cái vốn cốt cách cao khiết của nó. Khi vào thế giới thiền học, cốt cách đó trở thành
biểu tượng cho tính “kim cương” của tâm.
-Đào mặc nhiên được coi là sự hiện hữu của khoảnh khắc giác ngộ…
Tùng thanh Tưởng Hủ tiên sinh kính,
Mai cảnh Tây hồ xử sĩ gia.
Nghĩa khí bất đồng nan cẩu hợp,
Cố viên tùy xứ thổ hoàng hoa.
Cúc hoa kỳ 1 – Huyền Quang
2.3.2 Con người trong thơ Thiền Lý- Trần
Con người - đối tượng chủ yếu của sáng tạo văn học, bao giờ cũng được người nghệ sĩ nhìn


nhận, khai thác bằng quan niệm nghệ thuật. Quan niệm về con người trong nghệ thuật tuy không
đồng nhất với con người trong triết học nhưng lại có những ảnh hưởng nhất định. Vì thế, tính ổn
định về nghệ thuật luôn chịu sự quy định của các quan điểm chính trị, xã hội và tư tưởng triết
học đương thời.
Con người trong văn học tôn giáo thường có hai đặc tính: con người với đức tin tôn giáo, hành
trình tôn giáo và con người trong vẻ đẹp muôn màu của văn học. Văn học Phật giáo là một kho
tàng lớn lao có lịch sử từ hàng nghìn năm, nếu kể cả các kinh điển, kinh luan nói chung. Con
người trong văn học Phật giáo được mô tả và khơi gợi ở nhiều góc độ phong phú, bao gồm chính
hình ảnh Đức Phật với những tiền thân, các vị Phật, các kiếp người, với nhiều trạng thái và cơ
duyên Phật phap khác nhau.
Thơ thiền quả là sự bộc lộ một cách kiên nhẫn và thuyết phục cho sức sống, cho khả năng sống,
cho niềm vui sống của con người.
Hình ảnh con người trong thơ Thiền đời Lý là một ví dụ điển hình. “Dấu ấn cái “tôi” mang giá trị
thẩm mỹ trong nền văn học ấy chưa biểu hiện ra bằng sự khắc họa ngoại hình nhân vật cũng như
tô điểm cá tính nhân vật, tuy vậy, nó đã thấp thoáng ẩn hiện đằng sau cảm hứng rạo rực của
những bài thơ dùng thiên nhiên để nói lên tâm trạng của người viết”.
Đời Lý được xem là thời đại thuần từ nhất trong lịch sử dân tộc Việt Nam (Hoàng Xuân Hãn)

chính là do sự ảnh hưởng của Phật giáo lúc bấy giờ. Phật giáo thời kỳ này phát triển sâu rộng
trong xã hội. Từ vua quan đến thứ dân, ảnh hưởng đến tất cả các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn
hóa, xã hội. Có thể nói, đó là một đạo Phật với tất cả những yếu tố phù hợp với tâm lý, tập quán
và đạo lý truyền thống của dân tộc, là đường lối đúng đắn có ích cho sự phát triển, hưng thịnh
của đất nước. Đó là Phật giáo Thiền tông, một Phật giáo Việt Nam vô ngã, vị tha, bình dị và thiết
thực, đi thẳng vào lòng xã hội với tinh thần thực tiễn, tích cực nhập thế: “Người ta không chú
tâm đi tìm một Niết bàn xa xôi mà đi tìm chân lý, hạnh phúc ngay chính trong lòng cuộc sống.
Công quả của Thiền sư không ở tu trì giới hạnh mà bằng những đóng góp hữu ích cho con người,
cho dân tộc”
Với tư cách là một dòng văn học, thơ Thiền đời Lý không thể không bàn về vấn đề con người.
Có thể nói, nổi bật trong thơ Thiền đời Lý là sự thể hiện giáo lý khá đậm nét, với tinh thần điều
hòa, dung hợp quân bình giữa tâm và trí. Thông thường nói đến tâm và trí là nói đến hai phạm
trù đối lập nhau. Trí là trí tuệ, lý trí tức là nói đến sự rạch ròi, khúc chiết với tư duy logic, đó là
nhận thức lý tính mang tính nghiêm khắc, khô khan. Tâm không chỉ là tình cảm, là tấm lòng mà
còn phải hiểu theo nghĩa triết học là làm chủ thể cả tư tưởng cùng hành vi của con người. Tâm có
tĩnh thì trực giác mới mẫn nhuệ. Thiền học là tâm học, phương pháp tu tập của Thiền là trực cảm
tâm linh, thấy rõ chỗ không tâm mới đạt đạo. Người ta có hành đạo, sống đạo mới biết đạo là gì.
Đó chính là một nét đặc thù của thơ Thiền đời Lý. Chính từ khả năng trực cảm ấy, con người trực
ngộ được lẽ nhiệm mầu của Đạo, thấy được bản chất của các pháp. Vấn đề bản thể thường xuyên
được đặt ra.
Danh từ “bản thể” theo từ điển Phật học nói “là căn nguyên tự thể của các pháp”. Cao Xuân Huy
nói “Bản thể là bản thể của vũ rụ, vạn pháp, là các hiện tượng trong thế giới khách quan”. Kinh
Hoa Nghiêm nói “Thế giới bản thể gọi là Lý pháp giới, thế giới hiện tượng gọi là Sự pháp giới”,
bản thể ví như nước, hiện tượng ví như sóng. Sóng dù có muôn hình, vạn trạng nhưng bản chất
tối sơ, nguyên thủy nước vẫn không thay đổi. Quan niệm đồng nhất , trong sai biệt này được thơ
Thiền phản ánh khá đầy đủ, chủ yếu dưới hình ảnh hiện tượng vô thường, vô ngã của thế giới:
“Bát nhã chân vô tông
Nhân không ngã diệc không
Quá hiện vị lai Phật



Pháp tánh bản lai đồng.
(Lý Thái Tông)
Con người cũng là một pháp, một pháp đặc biệt, hiện lên trong thơ Thiền đời Lý là con người
bản thể: vô ngã, duyên sinh.
Thân như điện ảnh hữu hoàn vô
Vạn mộc xuân vinh thu hựu khô
Nhậm vận thịnh suy vô bố úy
Thịnh suy như lộ thảo đầu phô.
(Vạn Hạnh)
Giáo lý đạo Phật thậm thâm vi diệu, khó hiểu khó nhận. Giúp người dễ dàng nắm bắt không gì
bằng ví dụ. Thông qua “ánh chớp, hạt sương, ngọn cỏ” tính vô thường, giả tạm của nhân sinh,
trần thế hiện lên rõ nét.
Cây cối xuân tươi thu não nùng.
(Thân như bóng chớp có rồi không
Ngô Tất Tố dịch)
Thiền sư Bản Tịch cũng nói:
“Huyễn thân bản tự không tịch sinh
Do như khính trung xuất hình tượng”.
Không phải các Thiền sư là người đầu tiên nhận ra vô thường. Từ xưa, Khổng Tử đã từng than
“quân bất kiến Hoàng hà chi thủy thiên thượng lai, bôn lưu đáo hải bất phục hồi”. Các nhà thơ,
văn, nghệ sĩ thỉnh thoảng cũng nhận ra điều đó, để rồi than thân trách phận:
“Lòng tôi rộng nhưng lượng trời cứ chật
Không cho dài thời trẻ của nhân gian
Nói làm chi rằng xuân cứ tuần hoàn
Nếu tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại
Còn trời đất nhưng chẳng còn tôi mãi
Nên bâng khuâng tôi tiếc cả đất trời”.
(Xuân Diệu)
Dòng thời gian vẫn mãi vô tình trôi. Bạn chấp nhận hay không nó vẫn vậy. Nếu nhận chân được

bản chất con người là vô ngã, thế sự vô thường, bạn sẽ bớt đi sự khổ đau, bi lụy. Hãy nghe Thiền
sư nói:
“Mặc cuộc thịnh suy đừng sợ hãi
Kìa kìa ngọn cỏ giọt sương đông”.
Mở đầu bài thơ tưởng như tâm trạng bi ai của tác giả luyến tiếc vô thường chóng vánh nhưng kết
thúc là sự minh triết đầy vẻ thư thái của một con người bản lĩnh. Con người đã vượt lên những
được-mất, vinh-nhục, hơn-thua, tốt-xấu. Đi giữa dòng đời mà không lụy thế, đó là tinh thần “tùy
duyên bất biến” của Thiền tông, của Phật giáo.
Hình ảnh “hạt sương treo đầu ngọn cỏ” chuyển đạt trọn vẹn tính vô thường tạm bợ của kiếp
người, cuộc đời, đồng thời cũng hàm súc diệu nghĩa chơn thường trong lòng thực tại. Điều đó
càng được thể hiện rõ nét qua hình ảnh đẹp lung linh của cành mai trong “Cáo tật thị chúng” của
Thiền sư Mãn Giác:
“Xuân khứ bách hoa lạc
Xuân đáo bách hoa khai
Sự trục nhãn tiền quá
Lão tòng đầu thượng lai
Mạc vị xuân tàn hoa lạc tận


Đình tiền tạc dạ nhất chi mai”.
(Mãn Giác)
Lối tư duy mới mẻ bắt nguồn từ vị trí đang là của bản thân,tác giả dẫn ta đến một thực tại không
ai phủ nhận được. Năm tháng trôi nhanh, cuộc đời chóng vánh, loay hoay đã hết kiếp người. Nói
như Trương Văn Quang rằng nếu con người có niềm tự hào không-giống-cỏ-cây thì con người
cũng có đau đi-không-trở-lại.
“Sự trục nhãn tiền quá
Lão tòng đầu thượng lai”.
Một nhà thơ đã từng tham vọng trở lại mùa thu trước nhặt lá vàng:
đây đem chắn nẻo xuân sang”
“Chắn” được không? Âu chỉ là tham vọng! Dòng đời vẫn vậy! Phảng phất đâu đây cái buồn

“mang mác sầu thiên cổ”. Ta đã già rồi, cuộc đời không còn bao nhiêu nữa. Người đọc như muốn
xuôi theo tác giả trong nỗi niềm gần như tuyệt vọng. Thế là hết kiếp người, nuối tiếc, xót xa!
Nhưng không:
“Mạc vị xuân tàn hoa lạc tận
Đình tiền tạc dạ nhất chi mai”
Theo ý người viết “nhất” ở đây không phải lượng từ, là danh từ bởi nó không còn là một cành
mai cụ thể, đơn điệu mà là cành mai hình tượng. Chặn đứng mạch tư duy đang tuôn trào của
chúng ta không là vách núi đá cũng không phải bức tường cứng nhắc vô tri mà là “nhất chi mai”,
“mai” chứ không phải một loại hoa khác. Tâm thức vỡ òa, mọi suy nghĩ, tính toan phút chốc tan
biến.
Văn thơ thiền không dụng ý nghệ thuật, nhưng chổ độc đáo, thâm diệu của Thiền tông lại lồ lộ
hiện lên trong mớ ngôn từ không dụng ý đó.
Trên tàn lụi kiếp người, trên mong manh hư ảo, cành mai ấy tích tụ nguyên khí để hồi sinh, nảy
lộc, đơm hoa kết trái và không cần đợi ánh dương lên, một đêm, bừng nở! Một sự sinh tồn với
sức sống mãnh liệt tự do tự tại. Câu kết sững lại. Cành mai hay chiếc cọc neo giữa dòng thời gian
cuồn cuộn. Chính nơi đây thể hiện rõ bản lĩnh trác việt của thiền giả ngộ đạo. “Chắn nẻo xuân
sang” không còn là ảo vọng, nhưng không phải bằng những lá vàng khô.
Là Thiền sư, chắc hẳn tác giả không cố tình làm thi sĩ. “Thị đệ tử” là một bài kệ trước lúc thị
tịch, nhưng đồng thời cũng là một bài thơ đích thực, thấm đẫm tính nghệ thuật. Có cái gì như
một khúc ca mãi du dương, như một dòng sông êm lẫn trong tâm thức chảy về phía chúng ta và
mãi mãi về sau. Sóng vẫn xô giữa hai bờ sinh - tử. Gần 1000 năm, cành mai ấy vẫn luôn luôn
tươi thắm. Vô thường là gì giữa cuộc nhân sinh.
Thực chất, “vô thường không làm nên đau khổ” duyên sinh đã vén màn cho những chân trời xa.
Cũng vậy, quan niệm con người duyên sinh vô ngã ở đây không phải là một quan niệm hư vô,
phủ định sạch trơn mọi hiện hữu của con người mà chính là cái nhìn đúng như thật. Ngay khởi
điểm đó, thơ Thiền chắp cánh cho con người bay cao, bay xa vô tận trên lộ trình hướng thượng.
Vô ngã nên con người là một thực thể sống động có khả năng chuyển nghiệp để cải thiện vị trí
của mình trên bản đồ sanh tử, đập tan ranh giới rạch ròi giữa chủng tộc thượng đẳng và thấp hèn.
Đồng thời, vì vô ngã nên một lần nữa khẳng định tất cả chúng sanh đều có Phật tánh, có khả
năng thành Phật, là con người mang tính nhân văn cao cả.

Vô ngã là bản thể, là nguồn gốc mà từ đó con người có cái nhìn sáng suốt, chính xác đối với thế
giới vạn hữu, đối với hoàn cảnh, quốc độ cụ thể con người đang sống. Thế giới tồn tại trong một
tương quan hòa điệu vì mật không thể cắt xén bằng khái niệm. Con người phải đặt bản thân và
cuộc sống mình trong thế giới thực tại đó mới có thể cảm nhận được sự mầu nhiệm xung quanh:
con người vô trú. Nhờ sự tự do tự tại của con người vô ngã, vô trú mà khắc họa nên một con


người vô úy như một nhà phê bình đã nhận xét: “Đó là con người chưa chịu sự ràng buộc của
Nho giáo, còn đầy tinh thần tự chủ, tiến thủ tích cực kiểu Thiền tông. Con người vô ngôn, vô
ngã, tự do phá chấp theo giáo lý nhà Phật”.
Sinh lão bệnh tử
Tự cổ thường nhiên
Dục cầu xuất ly
Giải trọc thêm phiền
Mê chi cầu Phật
Hoặc chi cầu thiền
Thiền, Phật bất cầu
Uổng khẩu vô nghiên.
(Diệu Nhân)
Đả phá mạnh mẽ những lối mòn trong tư duy thường tình. Cầu Thiền, cầu Phật là một việc là
ngốc nghếch sai lầm như muốn đi ngược lại quy luật tự nhiên sinh lão bệnh tử. Điều đó có phản
bội lại lý tưởng tìm cầu giác ngộ giải thoát không?
Khi được hỏi “Đạo Phật nên nhập thế hay nên yếm thế”, rất tự nhiên chúng ta sẽ nhớ đến bài kệ:
“Phật pháp tại thế gian
Bất ly thế gian giác
Ly thế mích bồ đề
Do như cầu thố giác”.
Bỏ qua thực tế cuộc sống, không dám đối mặt với hiện thực mà lánh đời để cầu giác ngộ há
không phải vọng cầu sao? Đạo Phật không chỉ cho con người thấy khổ, vô thường để rời xa, than
oán: “Ngay trong lẽ thường tình sanh lão bệnh tử ấy, con người nhìn ra được lý chơn thường mới

là ngộ đạo”.
Nước Việt Nam trải qua gần 1000 năm bị phương Bắc đô hộ, hai triều vua Đinh, Tiền Lê vẫn
chưa có những đóng góp gì lớn cho sự nghiệp xây dựng và đổi mới đất nước. Trọng trách đặt lên
vai nhà Lý. Đứng trước hiện trạng ấy của đất nước, câc Thiền sư là những người trụ cột, có ảnh
hưởng rất lớn trong việc vạch ra phương hướng đúng dắn cho nước nhà. Không giáo điều như
Nho giáo, không bị đồng hóa bởi Trung Hoa, không để đất nước lại rơi vào tay giặc… âm hưởng
ấy ít nhiều phảng phất trong hơi thở Thiền gia.
“Ly tịch phương ngôn tịch diệt khứ
Sanh vô sanh hậu thuyết vô sanh
Nam nhi hữu chí xung thiên khí
Hưu hướng Như Lai hành xứ hành”.
(Quảng Nghiêm)
Tính khai phóng, phá chấp khoáng đạt của Thiền tông đã mở ra cho con người những chân trời
mới đầy hứa hẹn. Không cần cứng nhắc rập khuôn theo giới điều, phong cách cũ, đường đi
không còn quan trọng chỉ cần đích đến là giải thoát tối thượng. Mỗi một con người là một cuộc
sống riêng với rất nhiều duyên hòa hợp, trong trùng trùng duyên khởi ấy không ai giống ai.
Thiền sư Bảo Giám còn nhấn mạnh:
“Mấy ai thành Phật ở tu hành
Chỉ trói cùm thêm trí óc mình
Thấu lẽ huyền vi trong ngọc sáng
Là vầng dương hiện giữa trời xanh”
“Mặt trời soi tỏ giữa trời cao” là hình ảnh rất ấn tượng, biểu thị chân tính khi gạt hết mọi mây mờ
che lấp. Giá trị ở chổ mỗi người đều có ngọc ma ni của chính mình, chỉ cần nhận biết điều này


thì ai cũng đủ tự tin để “gạn đục khơi trong”, để vạch ra cho mình một hướng đi mới “chớ dẵm
Như Lai lối đã qua”, mãnh liệt hơn nhưng không trái bản nguyên của Phật pháp. Chính điều này
đã thay áo mới cho Phật giáo; vẫn mang màu sắc, hình thái như một tín ngưỡng truyền thống
nhưng không rơi vào lối mòn bảo thủ, cố chấp hay thụ động. Các Thiền sư dấn thân phụng sự
dân tộc nhân sinh mà vẫn không quên mục đích chính giải thoát, giác ngộ. Thiền sư nhập thế mà

không lụy tục, sẵn sàng “chống gậy trấn kinh kỳ” nhưng cũng sẵn sàng bỏ vinh hoa phú quý như
“trút bỏ chiếc giày rách”, bởi Thiền sư hiểu rõ:
“Sắc là không, không tức sắc
Không là sắc, sắc tức không”
(Diệu Nhân)
Con người trong thơ Thiền đời Lý, tựu trung là con người giác ngộ, mang tư tưởng tùy tục, hòa
hợp với đời một cách nhuần nhuyễn, hóa đạo, hành đạo trong tinh thần “phụng sự chúng sanh là
đền ân chư Phật”. “Con người” trong thơ Thiền đời Lý tuy vẫn mang thủ pháp tượng trưng ước
lệ cao, chưa thoát ra phương pháp phổ biến xây dựng những mẫu mực nghệ thuật trong quan
điểmTrung cổ khiến cho phần nào xa vời cái “tôi” bé nhỏ, gần gũi ở mỗi con người cá thể nhưng
ảnh hưởng sâu sắc của “con người” ấy đối với bao thế hệ người đọc là điều không thể phủ nhận.
Con người trong văn học giai đoạn này vừa yêu nước, thượng võ, lại vừa cảm nhận sâu sắc về sự
tàn phai, biến ảo của cuộc đời:
“Thân như tường bích dĩ đồi thì
Cử thể thông thông thục bất bi?”
(Thân xác con người ta thường như tường vách lúc hư nát,
Tất cả người đời đều vội vàng, ai mà không buồn)
(Viên Chiếu - Tâm không
Gắn liền với các trạng thái tâm hồn con người, thơ Thiền đời Trần tiếp tục mở rộng biên độ tới
các lĩnh vực khác của cuộc sống, khi vẫn mang trong mình tư tưởng “hòa quang đồng trần”, “cư
trần lạc đạo”. Nó giúp cho các Phật tử - thi sĩ bước ra khỏi những giáo điều khô khan, cứng nhắc
để nhập thế, giúp đời, tạo nên tinh thần khai phóng, cởi mở, vừa siêu thoát lại vừa gần gũi… mà
vẫn không hề đi ra ngoài giáo lý nhà Phật:
“Trần tục mà nên, phúc ấy càng yêu hết tấc
sơn lâm chẳng cốc, họa kia thực cả uổng công
…Phúc gặp tình cờ tri thức,
hoa ưu đàm mấy kiếp đơm bông”.
PH ẦN K ẾT LU ẬN
Mạch Thiền trong lịch sử văn học là một đặc điểm lớn của văn học Trung đại Việt nam. Sự độc
tôn, biến thể, phân hóa của thơ Nho và sự tồn tại thầm lặng nhưng có khuynh hướng phục hưng

của thơ Thiền là hai mạch quan trong trong lịch sử văn học. Nếu bỏ mảng thơ Thiền sẽ là thiếu
sót vì có nhiều bài, chính sự cộng hưởng giữa hai phái đã làm nên những tác phẩm giá trị.
Truyền thống của họ là mạch Phật kinh từ “Đại Bát nhã” đến “Kim Cang” đến “Pháp bảo Đàn”.
Đó là mạch tư tưởng Phật giáo, tư tưởng Thiền liên tục từ Lý - Trần đến thơ Thiền Lê Nguyễn.
Đó là mạch thơ dân tộc Việt, vừa trữ tình vừa chuyển tải đạo lý, chuyển tải những tư tưởng nhân
văn mang có giá trị vượt thời gian và vượt qua giới hạn của một dân tộc, một quốc gia để góp
vào những giá trị chung của văn hóa. Ta cũng có thể tìm thầy tuyền thống đó trong những thiền
sư thời Lê -Nguyển, kể cả Nguyễn Bỉnh Khiêm, Ngô Thì Nhậm...
Trên từng phương diện cụ thể, Phật giáo trong văn học trung đại đã đạt tới những thành tựu có
thể được coi là cấp số nhân, tổng thành những kết quả từ nhiều thế kỷ trước cộng lại. Trước hết


cần nhấn mạnh công việc sưu tập, hệ thống hóa và dịch thuật được một khối lượng phong phú
các nguồn thư tịch Phật giáo Hán Nôm qua các thời đại, kể từ nguồn sách giáo lý kinh điển,
trước tác của các thiền sư đến các cư sĩ và trí thức Nho sĩ qui về Phật giáo. Nhiều bộ sách tổng
tập, toàn tập, biệt tập, từ điển và công trình nghiên cứu Phật học đã đưa lại nguồn tri thức thực sự
chuyên sâu, chuyển giao và hòa nhập vào kho tàng văn hóa hiện đại, đương đại. Trên cơ sở đó đã
hình thành cả một đội ngũ các nhà Phật học mà những đóng góp của họ đã được ghi nhận cả
trong nước và thế giới. Đây thực sự là một gia tài văn hóa với định hướng khẳng định những giá
trị nhân văn cao cả, tạo nên nghiệp lực hướng tới những ý tưởng công bằng, bác ái, khuyến thiện.
Tăng ni chúng ta là những người kế thừa mạng mạch sanh tồn của đạo pháp, kế thừa sự nghiệp
Như Lai, tiếp nối con đường chư Tổ, đem đạo vào đời làm sáng đạo đẹp đời, thay Phật Tổ tuyên
dương giáo pháp. Với sứ mạng tối cao, hiến trọn đời mình cho lí tưởng lợi tha, muốn thành tựu
vẻ vang, chúng ta phải thiết thực áp dụng tinh thần vô ngã vị tha của các vị Thiền sư để cảm hóa
lòng người, hay nói cách khác, phải hòa nhập vào cuộc đời, hành Bồ Tát đạo để tiến đến quả vị
toàn giác. Từng bước thể hiện tinh thần nhập thế trong mọi sinh hoạt của cuộc đời, cho Phật pháp
mãi sáng ngời lợi lạc khắp muôn nơi. Được như vậy chính là chúng ta đã đóng góp một phần
trong sự nghiệp hòa bình an vui của nhân loại và cũng đã góp phần trong công cuộc xây dựng
một cõi niết bàn tịnh lạc ngay tại thế gian này.
Với những tài liệu có được, cùng với thời gian nghiên cứu của mình, tôi đã có một ý kiến của

mình về thơ Thiền trong văn học Lý Trần. Mặc dù chưa được thực sự xuất sắc, nhưng tôi hi vọng
nó sẽ góp phần vào việc phân tích và đánh giá yếu tố Phật giáo trong văn học trung đại Việt
Nam.. Đây cũng là một đề mở ra cho những ai đang trên đường tìm kiếm kiến thức cho mình.



×