Tải bản đầy đủ (.docx) (15 trang)

Tư tưởng phật giáo trần nhân tông

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (80.71 KB, 15 trang )

Tư tưởng Phật giáo Trần Nhân Tông – con đường Thiền tâm đi vào cuộc sống
[ 30-10-2011 09:05:39 am ] - View: 165

Cái mà tôn giáo nói chung và Phật giáo nói riêng quy tụ về là sự li tán của
lòng người. Lòng người không quy tụ, tôn giáo không còn đất sống nữa. Vậy nên
mỗi tôn giáo luôn có cách riêng để thực thi sự quy tụ ấy, thông qua việc tạo ra một
sức hấp dẫn để mọi người hướng tới. Đó có thể là Thiên Chúa, là Thiên đường, là
Đức tin, là Phật, là Niết Bàn, là Cực Lạc…, tựu chung vẫn là nhắm thẳng vào cái
“tham”, cái ham muốn rất đời thường của con người để tôn giáo có thể tồn tại
trong cuộc sống thường nhật.
Phật giáo đã từng dùng Thiền tâm để quy tụ lòng người như thế.

1. Phật giáo trên con đường đi tìm một điểm quy tụ nhân tâm
Phật giáo là tôn giáo chủ trương “nhất thiết giai không” (tất thảy đều là
không). “Không” không có nghĩa là hư vô, mà là sự biến hóa vô cùng, vô tận. Kinh
A-hàm giải thích rằng tất thảy các sự vật, sự việc đều không vĩnh hằng, đều luôn
biến đổi, cho nên có sống chết, có sinh ra và mất đi, ấy là “khổ”. Bởi “khổ” mà cả
sự việc, sự vật, mọi người cho đến bản thân ta (“ngã”) đều trong sự biến đổi, luôn
biến thành cái khác cái hiện có, nên cơ bản không có cái tồn tại nào là người khác,
không có cái tồn tại nào là bản thân ta cả (“vô ngã”). “Vô ngã” cũng là “không”.


Quan niệm “tất thảy đều là không” đương nhiên dẫn đến một vấn đề: điểm
quy tụ lòng người của Phật giáo cũng là “không”, nó biến đổi không cùng thì làm
sao người ta có thể nắm bắt, có thể hướng tới? Thậm chí, quan niệm “tất thảy đều
là không” còn dẫn tới nhận thức không có gì là hằng thường, mọi thứ đều biến mất,
việc biến mất, vật biến mất, người biến mất, ta biến mất, tôn giáo biến mất, lí
tưởng cần đạt tới biến mất, chân lí biến mất, và lẽ đương nhiên điểm quy tụ lòng
người cũng biến mất, không tồn tại.
Trước thực tế lí luận ấy, ở Trung Quốc, Phật giáo phát triển đến thời nhà
Đường đã có những bước đi quan trọng nhằm khẳng định điểm quy tụ nhân tâm,


ngõ hầu tránh sự sụp đổ của tôn giáo này từ chính lí luận của mình, gạt sang bên
những biểu tượng tôn giáo, chỉ lưu lại một chữ “tâm” làm điểm tựa. Đại Châu Tuệ
Hải Thiền sư (người đời Đường) trong cuốn Đốn ngộ nhập đạo yếu môn luận đã
phát biểu: “Thánh nhân cầu tâm bất cầu Phật, ngu nhân cầu Phật bất cầu tâm; trí
nhân điều tâm bất điều thân, ngu nhân điều thân bất điều tâm” (Bậc thánh cầu tâm
không cầu Phật, kẻ ngu cầu Phật không cầu tâm; người trí điều hòa tâm không điều
hòa thân, kẻ ngu điều hòa thân không điều hòa tâm). Ấy là Thiền sư đã xác tín tư
tưởng của Mã Tổ Đạo Nhất “tức tâm tức Phật”, nghĩa là không phải hướng ngoại
cầu Phật, mà Phật ở ngay trong tâm mình.
Nhưng cái “tâm” ấy là cái tâm thanh tịnh không chút tạp niệm của đời
thường hay cái tâm tự nhiên của con người thế tục? Nếu là cái tâm thanh tịnh
không chút tạp niệm của đời thường thì con người ta phải tu hành răn giới rất vất
vả, tốn nhiều thời gian công sức mới có thể đạt được, điều mà về cơ bản người
phàm chẳng ai muốn. Nếu đó là cái tâm tự nhiên của con người thế tục vấy bụi trần
thì còn đâu là Phật pháp, còn đâu là điểm quy tụ lòng người về một mối, ai cũng
chạy theo cái tâm của riêng mình.


Nên sau đó, Mã Tổ Đạo Nhất đã lại đề xướng “Phi tâm phi Phật” (chẳng tâm
cũng chẳng Phật). Đây không phải là một sự phủ định mà chính là một cảnh giới
mới, cảnh giới “vô chấp”, là chẳng chấp vào đâu cả, không khư khư lấy cái tâm,
cũng không khư khư lấy Phật, chẳng bám víu vào bất cứ nơi nào, người nào hay
điều gì. Nhờ đó con người ta có thể tự do tiêu dao mà đạt Đạo. Nhờ đó, người tu
hành không cần vứt bỏ cuộc sống đời thường của mình vẫn có thể “tu Đạo giữa
đời”.
Khi ấy, điểm mấu chốt quy tụ nhân tâm chính là cái tâm Thiền (Thiền tâm).
Thiền tâm là trạng thái tinh thần có được trên nền tảng trí tuệ, là cảnh giới thanh
tĩnh bình yên tiêu dao tự tại của lòng người khi nhận thức được đúng đắn bản ý
chân thực của vũ trụ, quy luật của tự nhiên. Cảnh giới ấy là khao khát của không ít
con người khi họ đang bị thực tại hàng ngày hàng giờ bủa vây, làm cho khốn đốn.

Ham muốn đạt được cảnh giới là “tham cái không tham”, cũng chính là một trong
những lí tưởng mà Phật giáo mong muốn tín đồ đạt tới.

2. Thiền tâm qua tư tưởng và sự thực thi của Phật Hoàng Trần Nhân Tông
Là một vị vua thấu hiểu Phật lý với đầy đủ tinh thần Bi –Trí – Dũng, lên
ngôi trong lúc đất nước có giặc ngoại xâm, chứng kiến bao cảnh thương tâm của
cuộc sống nhân gian, Phật Hoàng Trần Nhân Tông đã chủ trương xây dựng một
phái Thiền thuần Việt – Thiền phái Trúc Lâm, nhằm tìm một con đường giải thoát
cho chính mình, đồng thời giải thoát cho những người khác, quy tụ nhân tâm về
một mối, vừa giúp cho phong hóa được thuần hậu, người dân sống tốt đời đẹp đạo,
đồng thời tăng cường sợi dây liên kết lòng người trong một thời buổi đất nước có
chiến tranh, rất cần sự đoàn kết, tập trung sức mạnh.


Trước tiên phải nói rằng, Ngài ý thức rất rõ về Thiền, tâm Thiền. Mở đầu bài
phú Cư trần lạc đạo, Ngài đã sớm chỉ rõ:
命命命命
命命命命
命命命命命命命
命命命命命命命
命命命命,命命命命命命命
命命命命,命命命命命命命

Mình ngồi thành thị
Nết dụng sơn lâm
Muôn nghiệp lặng an nhàn thể tính
Nửa ngày rồi tự tại thân tâm
Tham ái nguồn dừng , chẳng còn nhớ châu yêu ngọc quý
Thị phi tiếng lặng , được dầu nghe yến thốt oanh ngâm
Chẳng khó để phát hiện những nét tương đồng giữa tư tưởng “Mình ngồi

thành thị, nết dụng sơn lâm ” của Ngài với quan điểm người tu hành không cần vứt
bỏ cuộc sống đời thường của mình vẫn có thể “tu Đạo giữa đời” mà Mã Tổ Đạo
Nhất đã khởi sướng. Ngài cũng không giấu giếm sự kế thừa này khi nói:
命命命命命命命
命命命命命命命
命命命命命命命命命命
命命命命命命命命命命命


Gìn tính sáng mựa lạc tà đạo
Sửa mình học cho phải chính tông
Chỉn Bụt là lòng sá ướm hỏi đòi cơ Mã Tổ
Vong tài đổi sắc ắt tìm cho phải thói Bàng Công
Trong sự kế thừa ấy, ngài một mực nhấn mạnh chữ “tâm”, cái chữ “tâm” mà
Ngài gọi bằng những tên gọi khác như “lòng”, “tính sáng”.... Ngài khẳng định rõ:
命命
命命命命
命命命命
命命命命命命命
命命命命命命命
命命命命命命命命命命
命命命命命命命命命命

Biết vậy !
Miễn được lòng rồi
Chẳng còn phép khác
Gìn tính sáng tính mới hầu an
Nén niềm vọng niềm dừng chẳng thác
Dứt trừ nhân ngã thời ra tướng báu kim cương
Dừng hết tham sân mới lảu lòng mầu viên giác



Về chữ “tâm”, cũng chính là cái tâm Thiền mà bao người khát khao đạt tới,
Ngài không ít lần nhắc tới và giải thích nó một cách giản dị, vô cùng gần gũi với
đời thường. Trong bài Đắc thú lâm tuyền thành đạo ca, Trần Nhân Tông viết:
命命命命命命命
命命命命命命命
命命命命命命命
命命命命命命命

Cảnh tịch an cư tự tại tâm
Lương phong suy đệ nhập tòng lâm
Thiền sàng thụ hạ nhất kinh quyển
Lưỡng tự thanh nhàn thắng vạn câm
(Nghĩa là: Cảnh vắng sống yên tâm tự tại/ Bóng tùng gió mát thổi từng cơn/
Giường thiền một quyển kinh bên gốc/ Hai chữ thanh nhàn vạn nén hơn).
Còn trong lời kết bài Cư trần lạc đạo, Ngài cũng có kết luận:
命命命命命命命
命命命命命命命
命命命命命命命
命命命命命命命.

Cư trần lạc đạo thả tùy duyên
Cơ tắc xan hề khốn tắc miên
Gia trung hữu bảo hưu tầm mịch
Đối kính vô tâm mạc vấn Thiền


(Nghĩa là: Ở đời vui đạo, hãy tùy duyên/ Đói cứ ăn đi mệt ngủ liền/ Trong
nhà có báu thôi tìm kiếm/ Đối cảnh vô tâm chớ hỏi Thiền)

Thế là một biểu tượng Phật giáo cao siêu, là Phật, tưởng như con người
không bao giờ với tới được bỗng nhiên trở nên rất gần gũi. Gần gũi như mỗi lúc
lòng ta được thảnh thơi, gần gũi như những lúc lòng ta được thanh sạch, gần gũi
như mỗi khi ta không bị câu thúc, cứ tự do tiêu dao “đói cứ ăn đi mệt ngủ liền”...
Nói cách khác, tâm là Phật, cái tâm Thiền ấy rất giản dị, ở ngay trong ta thì cần
phải đi đâu mà cầu nữa. Thế nên Ngài mới khuyên “cư trần lạc đạo”, khuyên:
命命命命命命命命命命命命命
命命命命命命命命命命命命命

Tịnh độ là lòng trong sạch chớ còn ngờ hỏi đến Tây phương
Di Đà là tính sáng soi mựa phải nhọc tìm về Cực lạc
Với tư tưởng ấy, Thiền tâm của Phật giáo đi vào cuộc sống đời thường, hòa
nhập vào cuộc sống đời thường một cách dễ dàng, bởi nó vốn cũng chính là một
phần của cuộc sống đời thường. Không nghi ngờ gì nữa, tư tưởng của Ngài đã thể
hiện chủ trương “phi tôn giáo hóa” tôn giáo, khẳng định nó chính là cuộc sống,
cuộc sống thường nhật rất đỗi bình dị.
Với tư cách là một vị vua, Ngài có một nhiệm vụ lớn nữa là phải lo cho dân,
cho nước, chứ không chỉ lo cho chính mình. Vì thế, để giải quyết nỗi “lo” ấy, Ngài
đã tranh thủ vị thế của một ông vua, gây dựng một Thiền phái để thu hút mọi
người, đồng thời tự mình cũng trở thành một tấm gương mẫu mực về tu tập cho
thần dân noi theo. Gây dựng một phái tôn giáo nhưng lại không vì tôn giáo ấy, mà
chính vì cuộc sống. Đó cũng là một biểu hiện nữa của “phi tôn giáo hóa tôn giáo”,
là đưa tôn giáo đến với cuộc đời chứ không phải đưa cuộc đời vào tôn giáo.


Nhờ đó, Thiền tâm càng có sức lan tỏa ảnh hưởng trong xã hội, nó giúp nhà
vua làm một công cụ giáo hóa thần dân, giúp đất nước có một đầu mối để lòng
người quy tụ về, từ đó tạo ra sức mạnh đoàn kết cho cả dân tộc, giúp phần nào định
hình những tính cách như yêu tự do, yêu sự trong sạch, yêu sự yên bình, coi trọng
đạo đức... cho con người Việt Nam.

Từ một ý niệm tôn giáo, Thiền tâm của Phật giáo trong sự sáng tạo của Trần
Nhân Tông đã thấm vào cuộc sống, phục vụ cuộc sống rất đỗi đời thường của mỗi
người dân, phục vụ đời sống chính trị, văn hóa, giáo dục... của cả một quốc gia như
vậy.

Hà Nội, 20/11/2010

TS Dương Tuấn Anh – ĐH Sư phạm Hà Nội

Cái mà tôn giáo nói chung và Phật giáo nói riêng quy tụ về là sự li tán của
lòng người. Lòng người không quy tụ, tôn giáo không còn đất sống nữa. Vậy nên
mỗi tôn giáo luôn có cách riêng để thực thi sự quy tụ ấy, thông qua việc tạo ra một
sức hấp dẫn để mọi người hướng tới. Đó có thể là Thiên Chúa, là Thiên đường, là
Đức tin, là Phật, là Niết Bàn, là Cực Lạc…, tựu chung vẫn là nhắm thẳng vào cái
“tham”, cái ham muốn rất đời thường của con người để tôn giáo có thể tồn tại
trong cuộc sống thường nhật.
Phật giáo đã từng dùng Thiền tâm để quy tụ lòng người như thế.


1. Phật giáo trên con đường đi tìm một điểm quy tụ nhân tâm
Phật giáo là tôn giáo chủ trương “nhất thiết giai không” (tất thảy đều là
không). “Không” không có nghĩa là hư vô, mà là sự biến hóa vô cùng, vô tận. Kinh
A-hàm giải thích rằng tất thảy các sự vật, sự việc đều không vĩnh hằng, đều luôn
biến đổi, cho nên có sống chết, có sinh ra và mất đi, ấy là “khổ”. Bởi “khổ” mà cả
sự việc, sự vật, mọi người cho đến bản thân ta (“ngã”) đều trong sự biến đổi, luôn
biến thành cái khác cái hiện có, nên cơ bản không có cái tồn tại nào là người khác,
không có cái tồn tại nào là bản thân ta cả (“vô ngã”). “Vô ngã” cũng là “không”.
Quan niệm “tất thảy đều là không” đương nhiên dẫn đến một vấn đề: điểm
quy tụ lòng người của Phật giáo cũng là “không”, nó biến đổi không cùng thì làm
sao người ta có thể nắm bắt, có thể hướng tới? Thậm chí, quan niệm “tất thảy đều

là không” còn dẫn tới nhận thức không có gì là hằng thường, mọi thứ đều biến mất,
việc biến mất, vật biến mất, người biến mất, ta biến mất, tôn giáo biến mất, lí
tưởng cần đạt tới biến mất, chân lí biến mất, và lẽ đương nhiên điểm quy tụ lòng
người cũng biến mất, không tồn tại.
Trước thực tế lí luận ấy, ở Trung Quốc, Phật giáo phát triển đến thời nhà
Đường đã có những bước đi quan trọng nhằm khẳng định điểm quy tụ nhân tâm,
ngõ hầu tránh sự sụp đổ của tôn giáo này từ chính lí luận của mình, gạt sang bên
những biểu tượng tôn giáo, chỉ lưu lại một chữ “tâm” làm điểm tựa. Đại Châu Tuệ
Hải Thiền sư (người đời Đường) trong cuốn Đốn ngộ nhập đạo yếu môn luận đã
phát biểu: “Thánh nhân cầu tâm bất cầu Phật, ngu nhân cầu Phật bất cầu tâm; trí
nhân điều tâm bất điều thân, ngu nhân điều thân bất điều tâm” (Bậc thánh cầu tâm
không cầu Phật, kẻ ngu cầu Phật không cầu tâm; người trí điều hòa tâm không điều


hòa thân, kẻ ngu điều hòa thân không điều hòa tâm). Ấy là Thiền sư đã xác tín tư
tưởng của Mã Tổ Đạo Nhất “tức tâm tức Phật”, nghĩa là không phải hướng ngoại
cầu Phật, mà Phật ở ngay trong tâm mình.
Nhưng cái “tâm” ấy là cái tâm thanh tịnh không chút tạp niệm của đời
thường hay cái tâm tự nhiên của con người thế tục? Nếu là cái tâm thanh tịnh
không chút tạp niệm của đời thường thì con người ta phải tu hành răn giới rất vất
vả, tốn nhiều thời gian công sức mới có thể đạt được, điều mà về cơ bản người
phàm chẳng ai muốn. Nếu đó là cái tâm tự nhiên của con người thế tục vấy bụi trần
thì còn đâu là Phật pháp, còn đâu là điểm quy tụ lòng người về một mối, ai cũng
chạy theo cái tâm của riêng mình.
Nên sau đó, Mã Tổ Đạo Nhất đã lại đề xướng “Phi tâm phi Phật” (chẳng tâm
cũng chẳng Phật). Đây không phải là một sự phủ định mà chính là một cảnh giới
mới, cảnh giới “vô chấp”, là chẳng chấp vào đâu cả, không khư khư lấy cái tâm,
cũng không khư khư lấy Phật, chẳng bám víu vào bất cứ nơi nào, người nào hay
điều gì. Nhờ đó con người ta có thể tự do tiêu dao mà đạt Đạo. Nhờ đó, người tu
hành không cần vứt bỏ cuộc sống đời thường của mình vẫn có thể “tu Đạo giữa

đời”.
Khi ấy, điểm mấu chốt quy tụ nhân tâm chính là cái tâm Thiền (Thiền tâm).
Thiền tâm là trạng thái tinh thần có được trên nền tảng trí tuệ, là cảnh giới thanh
tĩnh bình yên tiêu dao tự tại của lòng người khi nhận thức được đúng đắn bản ý
chân thực của vũ trụ, quy luật của tự nhiên. Cảnh giới ấy là khao khát của không ít
con người khi họ đang bị thực tại hàng ngày hàng giờ bủa vây, làm cho khốn đốn.
Ham muốn đạt được cảnh giới là “tham cái không tham”, cũng chính là một trong
những lí tưởng mà Phật giáo mong muốn tín đồ đạt tới.


2. Thiền tâm qua tư tưởng và sự thực thi của Phật Hoàng Trần Nhân Tông
Là một vị vua thấu hiểu Phật lý với đầy đủ tinh thần Bi –Trí – Dũng, lên
ngôi trong lúc đất nước có giặc ngoại xâm, chứng kiến bao cảnh thương tâm của
cuộc sống nhân gian, Phật Hoàng Trần Nhân Tông đã chủ trương xây dựng một
phái Thiền thuần Việt – Thiền phái Trúc Lâm, nhằm tìm một con đường giải thoát
cho chính mình, đồng thời giải thoát cho những người khác, quy tụ nhân tâm về
một mối, vừa giúp cho phong hóa được thuần hậu, người dân sống tốt đời đẹp đạo,
đồng thời tăng cường sợi dây liên kết lòng người trong một thời buổi đất nước có
chiến tranh, rất cần sự đoàn kết, tập trung sức mạnh.
Trước tiên phải nói rằng, Ngài ý thức rất rõ về Thiền, tâm Thiền. Mở đầu bài
phú Cư trần lạc đạo, Ngài đã sớm chỉ rõ:
命命命命
命命命命
命命命命命命命
命命命命命命命
命命命命,命命命命命命命
命命命命,命命命命命命命

Mình ngồi thành thị
Nết dụng sơn lâm

Muôn nghiệp lặng an nhàn thể tính
Nửa ngày rồi tự tại thân tâm


Tham ái nguồn dừng , chẳng còn nhớ châu yêu ngọc quý
Thị phi tiếng lặng , được dầu nghe yến thốt oanh ngâm
Chẳng khó để phát hiện những nét tương đồng giữa tư tưởng “Mình ngồi
thành thị, nết dụng sơn lâm ” của Ngài với quan điểm người tu hành không cần vứt
bỏ cuộc sống đời thường của mình vẫn có thể “tu Đạo giữa đời” mà Mã Tổ Đạo
Nhất đã khởi sướng. Ngài cũng không giấu giếm sự kế thừa này khi nói:
命命命命命命命
命命命命命命命
命命命命命命命命命命
命命命命命命命命命命命

Gìn tính sáng mựa lạc tà đạo
Sửa mình học cho phải chính tông
Chỉn Bụt là lòng sá ướm hỏi đòi cơ Mã Tổ
Vong tài đổi sắc ắt tìm cho phải thói Bàng Công
Trong sự kế thừa ấy, ngài một mực nhấn mạnh chữ “tâm”, cái chữ “tâm” mà
Ngài gọi bằng những tên gọi khác như “lòng”, “tính sáng”.... Ngài khẳng định rõ:
命命
命命命命
命命命命
命命命命命命命
命命命命命命命
命命命命命命命命命命


命命命命命命命命命命


Biết vậy !
Miễn được lòng rồi
Chẳng còn phép khác
Gìn tính sáng tính mới hầu an
Nén niềm vọng niềm dừng chẳng thác
Dứt trừ nhân ngã thời ra tướng báu kim cương
Dừng hết tham sân mới lảu lòng mầu viên giác
Về chữ “tâm”, cũng chính là cái tâm Thiền mà bao người khát khao đạt tới,
Ngài không ít lần nhắc tới và giải thích nó một cách giản dị, vô cùng gần gũi với
đời thường. Trong bài Đắc thú lâm tuyền thành đạo ca, Trần Nhân Tông viết:
命命命命命命命
命命命命命命命
命命命命命命命
命命命命命命命

Cảnh tịch an cư tự tại tâm
Lương phong suy đệ nhập tòng lâm
Thiền sàng thụ hạ nhất kinh quyển
Lưỡng tự thanh nhàn thắng vạn câm
(Nghĩa là: Cảnh vắng sống yên tâm tự tại/ Bóng tùng gió mát thổi từng cơn/
Giường thiền một quyển kinh bên gốc/ Hai chữ thanh nhàn vạn nén hơn).
Còn trong lời kết bài Cư trần lạc đạo, Ngài cũng có kết luận:


命命命命命命命
命命命命命命命
命命命命命命命
命命命命命命命.


Cư trần lạc đạo thả tùy duyên
Cơ tắc xan hề khốn tắc miên
Gia trung hữu bảo hưu tầm mịch
Đối kính vô tâm mạc vấn Thiền
(Nghĩa là: Ở đời vui đạo, hãy tùy duyên/ Đói cứ ăn đi mệt ngủ liền/ Trong
nhà có báu thôi tìm kiếm/ Đối cảnh vô tâm chớ hỏi Thiền)
Thế là một biểu tượng Phật giáo cao siêu, là Phật, tưởng như con người
không bao giờ với tới được bỗng nhiên trở nên rất gần gũi. Gần gũi như mỗi lúc
lòng ta được thảnh thơi, gần gũi như những lúc lòng ta được thanh sạch, gần gũi
như mỗi khi ta không bị câu thúc, cứ tự do tiêu dao “đói cứ ăn đi mệt ngủ liền”...
Nói cách khác, tâm là Phật, cái tâm Thiền ấy rất giản dị, ở ngay trong ta thì cần
phải đi đâu mà cầu nữa. Thế nên Ngài mới khuyên “cư trần lạc đạo”, khuyên:
命命命命命命命命命命命命命
命命命命命命命命命命命命命

Tịnh độ là lòng trong sạch chớ còn ngờ hỏi đến Tây phương
Di Đà là tính sáng soi mựa phải nhọc tìm về Cực lạc
Với tư tưởng ấy, Thiền tâm của Phật giáo đi vào cuộc sống đời thường, hòa
nhập vào cuộc sống đời thường một cách dễ dàng, bởi nó vốn cũng chính là một
phần của cuộc sống đời thường. Không nghi ngờ gì nữa, tư tưởng của Ngài đã thể


hiện chủ trương “phi tôn giáo hóa” tôn giáo, khẳng định nó chính là cuộc sống,
cuộc sống thường nhật rất đỗi bình dị.
Với tư cách là một vị vua, Ngài có một nhiệm vụ lớn nữa là phải lo cho dân,
cho nước, chứ không chỉ lo cho chính mình. Vì thế, để giải quyết nỗi “lo” ấy, Ngài
đã tranh thủ vị thế của một ông vua, gây dựng một Thiền phái để thu hút mọi
người, đồng thời tự mình cũng trở thành một tấm gương mẫu mực về tu tập cho
thần dân noi theo. Gây dựng một phái tôn giáo nhưng lại không vì tôn giáo ấy, mà
chính vì cuộc sống. Đó cũng là một biểu hiện nữa của “phi tôn giáo hóa tôn giáo”,

là đưa tôn giáo đến với cuộc đời chứ không phải đưa cuộc đời vào tôn giáo.
Nhờ đó, Thiền tâm càng có sức lan tỏa ảnh hưởng trong xã hội, nó giúp nhà
vua làm một công cụ giáo hóa thần dân, giúp đất nước có một đầu mối để lòng
người quy tụ về, từ đó tạo ra sức mạnh đoàn kết cho cả dân tộc, giúp phần nào định
hình những tính cách như yêu tự do, yêu sự trong sạch, yêu sự yên bình, coi trọng
đạo đức... cho con người Việt Nam.
Từ một ý niệm tôn giáo, Thiền tâm của Phật giáo trong sự sáng tạo của Trần
Nhân Tông đã thấm vào cuộc sống, phục vụ cuộc sống rất đỗi đời thường của mỗi
người dân, phục vụ đời sống chính trị, văn hóa, giáo dục... của cả một quốc gia như
vậy.
TS Dương Tuấn Anh – ĐH Sư phạm Hà Nội



×