TRỞ LAI VẤN ĐỀ QUAN NIỆM VĂN HỌC DÂN GIAN, GÓP THÊM Ý KIẾN VỂ
MỐI QUAN HỆ VĂN HỌC DÂN GIAN-VĂN HỌC VIẾT VIỆT NAM
THỜI KÌ TRUNG ĐAI
( Bản tóm tắt )
PGS.TS.Vũ Anh Tuấn
Tường Đại học sư phạm Hà Nội
Những quan niệm và theo đó là những kiến giải sâu sắc về nội hàm “Văn học dân
gian”(VHDG) trong những năm từ 1945 đến 1975 về cơ bản chính giới không có sự khác
biệt đáng kể. Tham luận lược điểm những quan niệm được học giới chú ý hơn cả là của
các nhà nghiên cứu: Nguyễn Khánh Toàn, Vũ Ngọc Phan, Bùi Văn Nguyên, Đinh Gia
Khánh, Cao Huy Đỉnh, Nguyễn Đình Chú.Tuy nhiên,chúng tôi cũng có lược điểm về hai
tranh luận thiên về lí luận( Văn hoc viết quần chúng,không chuyên nghiệp có phải là
VHDG? Trong xã hội mới,VHDG tự phát có lí do tồn tại hay không tồn tại,có tính sáng
tạo hay không sáng tạo) và một tranh luận có tính thực tiễn( Về truyện Mị Châu Trọng
Thủy)… Và nhìn chung,đương nhiên ở Việt Nam,VHDG cổ truyền thật sự có vai trò
quan trọng và là một bộ phận hợp thành toàn bộ nền văn học dân tộc.Phương pháp luận
giải VHDG thời kì này chủ yếu được giải quyết dưới góc độ văn học thành văn.
Từ sau 1975, trong khoảng thập kỷ đến 1985,trong học giới đã diễn ra “những sự
vận động mạnh mẽ” với mong muốn chuẩn hóa nội hàm khái niệm và quan niệm văn học
dân gian. Có nhà folklore học tài danh tại Hội nghị khoa học Ban văn hóa dân gian năm
1980 còn phát biểu: Cho đến tận ngày hôm nay VHDG vẫn là một người lạ đã từ lâu
quen biết (!). Năm 1979, thành lập Ban văn hóa dân gian. Năm 1983, Viện Nghiên cứu
Văn hóa dân gian thành lập.Năm 1989, Hội Văn nghệ DG VN được tổ chức Đại hội II
được gọi là Đại hội “hồi sinh”. Thế là từ đó có một chủ đề được thảo luận hết sức sôi nổi
trong suốt thập kỷ 80 của thế kỷ XX: Folklore là gì? Folklore là Văn hóa dân gian, văn
nghệ dân gian, văn học dân gian. Giáo trình Văn học dân gian tập I trong toàn bộ hệ
thống Đại học Sư phạm do PGS. Đỗ Bình Trị biên soạn đã bổ sung vào quan niệm
VHDG những ý kiến mới. Liên tiếp trong hai năm 1989, 1990 Viện Văn hóa dân gian
biên soạn xuất bản 3 công trình khai mở khoa học Văn hóa dân gian Việt Nam trong thời
kỳ mới. Ở đây các quan niệm về folklore trên thế giới đã được trích giới thiệu khá hệ
thống – một cách bổ sung vào quan niệm Văn học dân gian trước nay. Quan niệm vê
VHDG đầu những năm 90 tưởng đã khá thống nhất đã có những nhận thức mới. Từ năm
1986,1987 sách giáo khoa phổ thông THCS và THPT được viết lại. Học giới kêu gọi từng
bước đưa folklore vào trong nhà trường.
Tham luận tập trung phân tích cho rằng về nguyên tắc thì những quan niệm
VHDG cuối thập kỉ 90 của thế kỉ 20 là khá nhất trí. Song trên thực tế: trước những
chuyển biến mạnh mẽ của đời sống kinh tế xã hội trong nước và xu thế ngày càng hội
nhập Việt Nam vào cái “làng toàn cầu”, VHDG thời kỳ trung đại (tạm gọi như thế) không
ngừng được khảo cứu trong các mối quan hệ với văn học viết trung đại và ngược lại. Mặt
khác Văn học truyền miệng trong các hình thức sinh hoạt của xã hội hiện đại đã có những
biến đổi tự nhiên. Học giới ngày càng tri nhận ra những vấn đề cần thiết phải tiếp tục đổi
mới quan niệmVHDG, đổi mới không chỉ ngoài xã hội mà ngay cả trong nhà trường ,nơi
mà VHDG có thời lượng và biên độ tăng cao mở rộng. Hơn nữa trong xu thế hội nhập thế
giới về học thuật folklore, các nhà nghiên cứu lại đặt ra những vấn đề nên tiếp tục giải
quyết. Trong đó có hai câu hỏi chính: Tác giả của VHDG là những ai? Và thế nào là một
tác phẩm VHDG?. Hệ luận của nó là vấn đề Mối quan hệ VHDG – Văn học viết trong
những cách thức tiếp cận mới, lẽ tự nhiên cũng phải tiếp tục được nghiên cứu. Đây không
phải là vấn đề “xưa như trái đất” như một số người quan niệm.
Bản tham luận tiếp tục lược điểm lại một số các hiện tượng: Có những tác phẩm
trước nay đều nằm trong hệ thống VHDG, đột nhiên bây giờ được khảo cứu, xác minh,
chứng minh tác giả của nó là một nho sĩ, một văn nhân nổi tiếng, hoặc là một bản dịch từ
một sáng tác trong thư tịch cổ (!?). Trong kho tàng truyền thuyết (kể miệng, thần phả, gia
phả…), truyện cổ tích…không ít mẫu kể dường như không thể áp đặt những thuộc tính
và phẩm chất đặc trưng VHDG thường quan niệm. Trong kho tàng ca dao cổ truyền,
không ít câu, bài mà nếu cho là sáng tác truyền miệng của nông dân, ra đời trong sinh
hoạt văn nghệ tổng hợp của quần chúng thấy rõ có phần đáng ngờ (!?). Và trong đời sống
văn hóa xã hội đương đại có không ít những truyện hài, giai thoại, vè, thơ ca vô danh, vô
định danh nói chung đang có phương thức tồn tại truyền miệng…chúng có phải là
VHDG? Chúng tôi không bàn về giá trị tư tưởng cũng như chất lượng thẩm mỹ của bộ
phận truyền miệng đương đại nói trên, chỉ có ý muốn đặt ra vấn đề xác định nó là văn học
hay văn học dân gian. Mặt khác trong văn học viết từ thập niên cuối của thế kỉ 19 đến
nay đã xuất hiện ngày càng nhiều tác phẩm ở đủ mọi thể loại tràn đầy “chất dân gian”,
thậm chí có những truyện ngắn, tiểu thuyết chứa đựng trong nó những câu chuyện dân
gian gần như trọn vẹn. Đã có những nhà nghiên cứu gọi đó là “chuyện cũ viết lại”, “nhại
cổ tích”, “nhại thần thoại”… Vậy đó là “nhại” hay là sự sáng tạo ở một bậc thang phát
triển mới về chất. Liệu rồi có sự hòa tan VHDG – Văn học viết trong văn học đương đại?.
Liệu VHDG vốn có điểm xuất phát từ trong sâu thẳm nguồn mạch văn hóa dân tộc sẽ tan
vào vô tận đến một ngày nào đó? vân vân và vân vân… Đã có những nhà nghiên cứu gần
đây khăng khăng khẳng định đó là xu thế tất yếu. Lại có nhà nghiên cứu nhắc lại một
quan điểm tiếp thu một hệ thống quan niệm từ nước ngoài cho rằng, VHDG là tiền văn
học, không phải là văn học. Tất nhiên đây là một quan niệm có cái lý từ thực tiễn đời
sống văn học phương Tây. Nghe ý kiến đó, chúng tôi lại liên hệ đến quan niệm của
Hêghen về “cái nôm na”, “cái nên thơ”, và “cái nên thơ nguyên sơ”. Ở Đại học Sư phạm
chúng tôi còn liên tưởng đến ý kiến của PGS Đỗ Bình Trị đã từng nói: VHDG đến nay đã
không còn “lép vế” như trước nữa…(1990).
Tham luận trở lại vấn đề đặt ra và giải quyết bằng: Một là, sự tiếp thu từ những ý
kiến, kiến giải mới hết sức nghiêm túc và sâu sắc của một số học giả đương đại có cùng
mối quan tâm; Hai là bằng kiến thức và kinh nghiệm điền dã của chúng tôi liên tục trong
khoảng từ 1970 đến nay trên đường khảo cứu VHDG giữa đời sống; Ba là bằng sự chọn
lọc ý kiến từ những tác phẩm lý luận chuyên ngành và đa ngành mà chúng tôi có thể tiếp
cận được trong quá trình trao đổi văn hóa với nước ngoài. Từ đó chúng tôi góp bàn về
mối quan hệ giữa VHDG và VH viết với những kết luận chính như sau:
1.Đại lượng đo giá trị lịch sử và số phận một hiện tượng VHDG là
rấtdài,chúng tôi chưa thể đánh giá được từ thời điểm hiện nay về VHDG đương đại.
2.VHDG cổ truyền được thừa nhận trước thời kỳ trung đại có lẽ hoàn toàn “ứng”
với các quan niệm VHDG trước đây về thuộc tính, phẩm chất và đặc trưng nói chung.
3.VHDG thời kỳ trung đại nên có một sự đổi mới về quan niệm: ở vấn đề tác giả
VHDG, tham luận này khẳng định và chứng minh bao gồm tất cả các thành phần, tầng
lớp trong cộng đồng xã hội. Ở vấn đề thế nào là tác phẩm VHDG tham luận này nhấn
mạnh tính vô danh, tính diễn xướng, tính vô định danh ở phương diện VHDG đang vận
động biến đổi trong ý thức dân gian; còn vì đời sống của nó luôn luôn và mãi mãi là như
thế, vô luận nó bắt nguồn từ điểm xuất phát như thế nào.
4.Vấn đề là ở điểm nhìn, chức năng quyết định kiểu sáng tạo (tích hợp, ổn định, có
quy luật). Hệ luận của vấn đề: Dấu nối giữa VHDG và VH trung đại chính là kiểu sáng
tác, sáng tác theo kiểu nào. Chúng tôi cho rằng đây là vấn đề cốt lõi cơ bản để từ đó xem
xét mọi vấn đề khác. Có ý kiến đề nghị với chúng tôi: Hay là lại gọi VHDG về cái tên cũ:
Văn học truyền miệng. Ý kiến này đúng một nửa!
5.Trên thực tế có những tác phẩm dường như vừa là VHDG vừa văn học viết( khi
xem xét từ một văn bản cụ thể - “lát cắt đồng đại”- trong một tác phẩm chuỗi liên văn
bản,cùng tồn tại ở cả ba hình thức: ẩn,hiện và cố định hóa) . Xét về phương diện tác giả
và kĩ thuật sáng tác như là văn học viết. Xét về điểm nhìn, chức năng và phong cách sáng
tạo thì như là VHDG. Điểm nhìn kép, chức năng kép thì giá trị tăng theo cấp số nhân. Đó
là trường hợp những sản phẩm được sáng tạo bởi những tài năng lớn, tâm hồn lớn có khả
năng hội tụ và lan tỏa từ ngọn nguồn tinh hoa Văn hóa dân gian và dân tộc.
Tham luận này(bản tóm tắt) của chúng tôi mới chỉ là những ý kiến phác thảo. Lời
giãi bày vẫn hoàn toàn chưa vượt ra khỏi “cái nôm na”. Do đó xin được sự góp ý của các
nhà nghiên cứu cùng quan tâm./.
-------------0-o-o---------------