Tải bản đầy đủ (.docx) (16 trang)

5 học thuyết về giá trị thặng dư

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (93.65 KB, 16 trang )

5 Học thuyết về giá trị thặng dư
Học thuyết giá trị thặng dư là phát minh quan trọng thứ hai sau biện luận duy
vật lịch sử của Marx. Nội dung chính của học thuyết phát biểu rằng sản xuất và
chiếm hữu giá trị thặng dư là hình thức đặc biệt trong chủ nghĩa tư bản về sản
xuất và chiếm hữu sản phẩm thặng dư, nghĩa là hình thức cao nhất của sự tha
hóa con người đối với hoạt động của mình, đối với sản phẩm từ hoạt động đó,
đối với chính mình, đối với người khác.
Trong học thuyết này Marx đưa ra công thức T-H-T’ (tiền-hàng hóa-tiền) để
minh họa cho sự biến đổi của vốn (tư bản) dạng tiền sang dạng hàng hóa và cuối
cùng quay trở lại dạng tiền ở mức cao hơn mức ban đầu một lượng ΔT (nghĩa là
T’=T+ ΔT). Bởi tất cả giá trị được tạo thành trong quá trình biến đổi thông qua
sản xuất hàng hóa là do lao động (theo Thuyết giá trị về lao động), mà chủ yếu
là lao động của người làm thuê, nên giá trị thặng dư ΔT cũng là giá trị do lao
động kết tinh. Tuy nhiên, giá trị này không được chia đều cho những người trực
tiếp làm ra nó, mà thuộc quyền sở hữu của chủ tư bản.
Khác với công thức H-T-H (hàng hóa-tiền-hàng hóa) phản ánh chức năng trung
gian của tiền trong trao đổi, công thức T-H-T’ phản ánh sự luân chuyển và tự
phát triển của tư bản. Tư bản dưới dạng tiền trở thành một chủ thể tự thân, đối
lập với sức lao động, bóc lột sức lao động để nuôi lớn mình lên. Marx chỉ ra
rằng đó là quy luật vận động của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa.
Theo công thức đã dẫn thì tư bản có khả năng lớn lên vô giới hạn. Tuy nhiên
Marx cũng chỉ ra giới hạn nhất định của phát triển tư bản do chi phối của quy
luật lợi nhuận trung bình. Lợi nhuận trung bình xảy ra do sự cạnh tranh tư bản
giữa các ngành kinh tế khác nhau. Mặc khác, do khả năng chi trả trong thị
trường cho nhu cầu tiêu dùng là có hạn, nên điều đó cũng kìm hãm tốc độ vận
động của tư bản.
Hình thức cao nhất của sự phát triển tư bản là cho vay lãi. Chủ nhân của tư bản
vay lãi có cảm giác rằng tiền đẻ ra tiền và công thức vận động của tư bản biến
thành T-T’.
Định nghĩa giá trị thặng dư
Giá trị thặng dư được Marx xem là phần chênh lệch giữa giá trị hàng hóa và số


tiền nhà tư bản bỏ ra. Trong quá trình kinh doanh, nhà tư bản bỏ ra tư bản dưới
hình thức tư liệu sản xuất gọi là tư bản bất biến và bỏ ra tư bản để thuê mướn
lao động gọi là tư bản khả biến. Tuy nhiên, người lao động đã đưa vào hàng hóa
một lượng giá trị lớn hơn số tư bản khả biến mà nhà tư bản trả cho người lao
động. Phần dư ra đó gọi là giá trị thặng dư.


Có thể lấy một ví dụ như sau để giải thích: Giả sử một người lao động trong một
giờ làm ra được giá trị sản phẩm là 1000 đồng. Đến giờ thứ hai trở đi, trên cơ sở
sức lao động đã bỏ ra ở giờ thứ nhất, người lao động đó sẽ làm ra được 1100
đồng. Số tiền chênh lệch đó chính là giá trị thặng dư sức lao động.
Các nhân tố ảnh hưởng đến giá trị thặng dư
* Năng suất lao động
* Thời gian lao động
* Cường độ lao động
* Công nghệ sản xuất
* Thiết bị, máy móc
* Vốn
Ý nghĩa
* Xét thuần túy trong lĩnh vực kinh tế, công thức trên cho thấy bất kỳ cá nhân
hay tổ chức nào có tiền (vốn) được đưa vào trong quá trình sản xuất và kinh
doanh trực tiếp hay gián tiếp như thông qua đầu tư chứng khoán, thậm chí gửi
ngân hàng sẽ sinh lời. Đồng tiền chỉ trở thành công cụ sinh lời nếu đầu tư vào
sản xuất hay kinh doanh. Mỗi cá nhân đều có thể trở thành nhà tư bản nếu biết
sử dụng hợp lý tiền của mình trong đầu tư kinh doanh. Nếu chỉ để tích lũy thuần
túy thì đó là đồng tiền chết, không những không có lợi cho cá nhân đó mà còn
không có lợi cho những người khác cần vốn để sản xuất.
* Trong bất kì xã hội nào cũng cần phải tìm cách tăng giá trị thặng dư, nếu áp
dụng được các công nghệ sản xuất tiên tiến, sử dụng được tri thức, trí tuệ vào
trong quá trình sản xuất sẽ làm tăng giá trị thặng dư mà không cần phải kéo dài

thời gian lao động hay cường độ lao động ảnh hưởng đến những người sản xuất.
* Công thức cũng chỉ ra cách thức tích lũy làm tăng số tiền, là cơ sở để tái sản
xuất mở rộng, phát triển quy mô sản xuất, tăng trưởng kinh tế.
Giá trị thặng dư tương đối và tuyệt đối
phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối: Là phương pháp sản xuất giá trị
thặng dư bằng cách kéo dài thời gian lao động thặng dư trong khi năng suất lao
động, giá tri sức lao động và thời gian lao động tất yếu không đổi. Phương pháp
sản xuất giá tri thặng dư tương đối: Là phương pháp sản suất giá tri thăng dư do
rút ngắn thời gian lao động tất yếu bằng cách hạ thấp giá trị sức lao động nhờ đó
tăng thời gian lao động thặng dư lên trong điều kiện ngày lao động, cường độ
lao động không đổi.


Phương pháp đo lường giá trị thặng dư
Chưa có phương pháp
Các quan niệm khác về giá trị thặng dư
Có một số người cho rằng giá trị thặng dư là của người làm thuê tạo ra mà
không phải của nhà tư bản. Để tránh được sự hiểu lầm như trên ta nên đi sâu tìm
hiểu phân tích thêm về cả một guồng máy nào đã tạo nên giá trị thặng dư:
Ta gọi toàn bộ số tiền dôi ra trong quá trình kinh doanh sản xuất nói chung là
giá trị thặng dư: ΔT=m thì ta nên phân tách m thành nhiều phần nhỏ là các thành
tố trong toàn bộ bộ máy (doanh nghiệp) đã tạo ra m như sau:
m= m1 + m2 + m3 +m4 + m5 + m6 + m7 + m8 + m9 + m10 + m11 +...
Trong đó:
* m1: là phần tiền bù đắp cho tỉ lệ lạm phát để đảm bảo giá trị của đồng tiền
theo thời gian |Tt|=|Ts+m1| (chẳng hạn là năm sau thì 11 đồng mới có giá trị
bằng 10 đồng năm trước)
* m2: giá trị thặng dư của lao động quá khứ tích lũy trong tư bản (được hiểu là
tiền đẻ ra tiền mà không phải làm gì cả ví dụ được tính tương đương với lãi suất
trái phiếu chính phủ hoặc lãi suất ngân hàng trừ đi tỉ lệ lạm phát. Do đó

LSNH=m1+m2;
* m3: công của nhà tư bản đã có ý tưởng và có công xây dựng nên bộ máy
(công ty chẳng hạn) sản xuất ra giá trị thặng dư này
* m4: Chi phí trả cho sự mạo hiểm do nhà tư bản đã đầu tư vốn
* m5: Trả cho nhà tư bản đã có công quản lý vận hành đào tạo công nhân.
* m6: Trả cho các lao động đặc biệt của nhà tư bản mà các lao động này người
công nhận không thể làm thay được.
* m7: trả lại tiền ăn học cho nhà tư bản.
* m8: trả cho gien di truyền đã tạo nên đức tính thông minh cần cù của nhà tư
bản.
* m9: trả cho công của nhà tư bản đã tạo công ăn việc làm cho người lao động,
tạo đà phát triển cho xã hội giảm tỷ lệ thất nghiệp đỡ tránh các tệ nạn do bần
cùng hóa xã hội như: ăn xin, trộm cắp,thất học, buôn gian bán lậu...
* m10: thuế. Tại sao phải đóng thuế? Các sắc thuế ngoài việc thu về các phần
đóng góp của quốc gia trong hoạt động của doanh nghiệp còn có ý nghĩa điều
tiết lại giá trị thặng dư nhà tư bản đã bóc lột nhân công (nếu có)


* m11: của người lao động
Ý nghĩa ngày nay của Học thuyết về giá trị thặng dư đối với nước ta
Trong Học thuyết về giá trị thặng dư, C. Mác đã có một nhận định có tính chất
dự báo khoa học trong xã hội hiện nay, đó là: "Mục đích thường xuyên của nền
sản xuất tư bản chủ nghĩa là làm thế nào để với một tư bản ứng trước tối thiểu,
sản xuất ra một giá trị thặng dư hay sản phẩm thặng dư tối đa; và trong chừng
mực mà kết quả ấy không phải đạt được bằng lao động quá sức của những
người công nhân, thì đó là một khuynh hướng của tư bản, thể hiện ra trong cái
nguyện vọng muốn sản xuất ra một sản phẩm nhất định với những chi phí ít
nhất về sức lực và tư liệu, tức là một khuynh hướng kinh tế của tư bản dạy cho
loài người biết chi phí sức lực của mình một cách tiết kiệm và đạt tới mục đích
sản xuất với một chi phí ít nhất về tư liệu" (2).

Từ việc nghiên cứu Học thuyết giá trị thặng dư của C. Mác, chúng ta thấy rõ ít
nhất ba vấn đề lớn trong giai đoạn phát triển hiện nay của đất nước.
Một là, trong thời kỳ quá độ nền kinh tế ở nước ta, trong một chừng mực nào
đó, quan hệ bóc lột chưa thể bị xóa bỏ ngay, sạch trơn theo cách tiếp cận giáo
điều và xơ cứng cũ. Càng phát triển nền kinh tế nhiều thành phần chúng ta càng
thấy rõ, chừng nào quan hệ bóc lột còn có tác dụng giải phóng sức sản xuất và
thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển, thì chừng đó chúng ta còn phải chấp
nhận sự hiện diện của nó.
Hai là, trong thực tế nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước
ta hiện nay, mọi phương án tìm cách định lượng rành mạch, máy móc và xơ
cứng về mức độ bóc lột trong việc hoạch định các chủ trương chính sách, cũng
như có thái độ phân biệt đối xử với tầng lớp doanh nhân mới đều xa rời thực tế
và không thể thực hiện được. Điều có sức thuyết phục hơn cả hiện nay là quan
hệ phân phối phải được thể chế hóa bằng luật. Đường lối chủ trương chính sách
của Đảng và Nhà nước mỗi khi được thể chế hóa thành luật và các bộ luật thì
chẳng những góp phần xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, lấy
luật làm công cụ và cơ sở để điều chỉnh các hành vi xã hội nói chung, mà còn cả
hành vi bóc lột nói riêng. Ai chấp hành đúng pháp luật thì được xã hội thừa
nhận và tôn vinh theo phương châm: dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng,
dân chủ, văn minh. Trong nhận thức, quan điểm chung nên coi đó cũng chính là
mức độ bóc lột được xã hội chấp nhận, tức là làm giàu hợp pháp. Trong quản lý
xã hội thì phải kiểm soát chặt chẽ thu nhập cá nhân, thu nhập doanh nghiệp để,
một mặt, chống thất thu thuế, mặt khác, bảo đảm sự công bằng trong phân phối
thông qua Nhà nước và bằng các "kênh" phân phối lại và điều tiết thu nhập xã
hội. Thiết nghĩ, đây là một hướng tiếp cận vấn đề bóc lột giúp chúng ta tránh
được những nhận thức giáo điều, phi biện chứng về quan hệ bóc lột, cũng như


việc vận dụng nó trong một giai đoạn lịch sử cụ thể của việc giải phóng sức sản
xuất, tạo động lực phát triển kinh tế và chủ động hội nhập thành công với nền

kinh tế quốc tế.
Ba là, mặt khác, cũng phải bảo vệ những quyền chính đáng của cả người lao
động lẫn giới chủ sử dụng lao động bằng luật và bằng các chế tài thật cụ thể mới
bảo đảm công khai, minh bạch và bền vững. Những mâu thuẫn về lợi ích trong
quá trình sử dụng lao động là một thực tế, việc phân xử các mâu thuẫn ấy như
thế nào để tránh những xung đột không cần thiết cũng lại là một yêu cầu cấp
thiết hiện nay, thể hiện trong bản chất của chế độ mới. Bảo vệ được những
quyền lợi chính đáng, những quyền lợi được luật pháp bảo vệ, của tất cả các bên
trong quan hệ lao động là một bảo đảm cho việc vận dụng một cách hợp lý quan
hệ bóc lột trong điều kiện hiện nay, đồng thời cũng là những đóng góp cơ bản
nhất cho cả quá trình hoàn thiện và xây dựng mô hình kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
4 Biểu hiện hoạt động của quy luật giá trị và quy luật giá trị thặng dư trong
chủ nghĩa tư bản độc quyền?
– Các tổ chức độc quyền hình thành do chính sự vận động nội tại của chủ
nghĩa tư bản sinh ra. Độc quyền là biểu hiện mới, mang những quan hệ mới
nhưng nó không vượt ra khỏi các quy luật của chủ nghĩa tư bản, mà chỉ là sự
tiếp tục mở rộng, phát triển những xu thế sâu sắc nhất của chủ nghĩa tư bản và
của nền sản xuất hàng hoá nói chung, làm cho các quy luật kinh tế của nền sản
xuất hàng hoá và của chủ nghĩa tư bản có những biểu hiện mới.
– Do chiếm được vị trí độc quyền nên các tổ chức độc quyền đã áp đặt giá cả
độc quyền; giá cả độc quyền thấp khi mua, giá cả độc quyền cao khi bán. Tuy
nhiên, điều đó không có nghĩa là trong giai đoạn chủ nghĩa tư bản độc quyền
quy luật giá trị không còn hoạt động.
Về thực chất, giá cả độc quyền vẫn không thoát ly và không phủ định cơ sở của
nó là giá trị. Các tổ chức độc quyền thi hành chính sách giá cả độc quyền chẳng
qua là chiếm đoạt một phần giá trị và giá trị thặng dư của những người khác.
Nếu xem xét trong toàn bộ hệ thống kinh tế tư bản chủ nghĩa thì tổng số giá cả
vẫn bằng tổng số giá trị.
Như vậy, nếu như trong giai đoạn chủ nghĩa tư bản tự do cạnh tranh quy luật giá

trị biểu hiện thành quy luật giả cả sán xuất, thì trong giai đoạn chủ nghĩa tư bản
độc quyền quy luật giá trị biểu hiện thành quy luật giá cả độc quyền.
– Trong giai đoạn chủ nghĩa tư bản cạnh tranh tự do, quy luật giá trị thặng dư
biểu hiệu thành quy luật tỷ suất lợi nhuận bình quân. Bước sang giai đoạn chủ
nghĩa tư bản độc quyền, các tổ chức độc quyền thao túng nền kinh tế bằng giá


cả độc quyền và thu được lợi nhuận độc quyền cao. Do dó quy luật lợi nhuận
độc quyền cao là hình thức biểu hiện của quy luật giá trị thặng dư trong giai
đoạn chủ nghĩa tư bản độc quyền.
Nguồn gốc của lợi nhuận độc quyền cao là: lao động không công của công nhân
ở các xí nghiệp độc quyền; một phần lao dộng không công của nhân công ở các
xí nghiệp không độc quyền; một phần giá trị thặng dư của các nhà tư bản vừa và
nhỏ bị mất di do thua thiệt trong cuộc cạnh tranh; lao động thặng dư và đôi khi
cả một phần lao động tất yếu của những người sản xuất nhỏ, nhân dân lao động
ở các nước tư bản và các nước thuộc địa, phụ thuộc.
Như vậy, trong giai đoạn chủ nghĩa tư bản độc quyền quy luật giá trị thặng dư
biểu hiện thành quy luật lợi nhuận độc quyền cao. Quy luật này phản ánh quan
hệ thống trị và bóc lột của tư bản độc quyền trong tất cả các ngành kinh tế của
xã hội tư bản và trên toàn thế giới.
2. Phương pháp trừu tượng hoá khoa học
Đây là phương pháp quan trọng, được sử dụng phổ biến trong nghiên cứu kinh
tế chính trị và một số môn khoa học xã hội khác, bởi vì nghiên cứu các khoa
họcnày không thể tiến hành trong các phòng thí nghiệm, không sử dụng
được cácthiết bị kỹ thuật như kính hiển vi, các thiết bị máy móc như
các khoa học tự nhiên và kỹ thuật. Mặt khác, bản thân các hiện tượng và quá
trình kinh tế cũng phức tạp có nhiều nhân tố tác động đến chúng, cho nên
sử dụng phương
pháp trừu tượng hoá khoa học làm cho việc nghiên cứu
trở nên đơn giản hơn, nhanh chóng đi đến kết quả hơn. Trừu tượng hoá khoa

học là phương pháp gạt bỏ khỏi quá trình nghiên cứu các hiện tượng được
nghiên cứu những cái đơn giản, ngẫu nhiên, tạm thời, hoặc tạm gác lại một số
nhân tố nào đó nhằm tách ra những cái điển hình, ổn định, vững chắc, từ đó tìm
ra bản chất các hiện tượng và quá trình kinh tế, hình thành các phạm trù và
phát hiện ra quy luật phản ánh những bản chất đó.
Ngoài ra, kinh tế chính trị còn sử dụng nhiều phương pháp khác như lôgíc và
lịch sử, phân tích và tổng hợp, các phương pháp toán học, thống kê, mô hình
hoá các quá trình kinh tế được nghiên cứu, v.v..
Một là, PP trừu tượng hóa KH được sử dụng để nâng từ nhận thức kinh nghiệm
lên thành nhận thức KH, từ trực quan sinh động lên tư duy trừu tượng. Để sử
dụng PP này, người ta thường tìm các biện pháp để loại bỏ những yếu tố, những
QH không bản chất để tập trung vào những yếu tố và QH bản chất hơn của các
sự vật và hiện tượng, hình thành các phạm trù, QL, rồi sau đó vạch rõ mối liên
hệ giữa bản chất và hiện tượng. Trong KH tự nhiên, để phát hiện các QL, chứng
minh các giả thiết, có thể thực hiện trong phòng thí nghiệm. Nhưng trong


KTCT, không thể thực hiện được như vậy. Để chứng minh cho một tư tưởng KT
chỉ có thể thông qua cuộc sống thực tế với tất cả mối QHXH hiện thực.
Trong KTCT cũng như trong các KHXH nói chung, PP trừu tượng hóa có ý
nghĩa nhận thức lớn lao, nó đòi hỏi gạt bỏ những yếu tố ngẫu nhiên, tách ra
những cái điển hình, bền vững ổn định, trên cơ sở ấy nắm được bản chất của các
hiện tượng, từ bản chất cấp một tiến tới bản chất ở trình độ sâu hơn hình thành
những phạm trù và những QL phản ánh những bản chất đó.
Phương pháp nghiên cứu của kinh tế chính trị Mác - Lênin
Để nhận thức hiện thực khách quan và tái hiện đối tượng nghiên cứu vào tư duy,
cấu thành một hệ thống những phạm trù và quy luật, khoa học kinh tế chính trị
cũng sử dụng phép biện chứng duy vật và những phương pháp khoa học chung
như mô hình hoá các quá trình và hiện tượng nghiên cứu, xây dựng các giả
thuyết, tiến hành thử nghiệm, quan sát thống kê, trừu tượng hoá, phân tích và

tổng hợp, phương pháp hệ thống... Đó là những phương pháp được sử dụng cả
trong khoa học tự nhiên và khoa học xã hội. Tuy nhiên, khác với các môn khoa
học tự nhiên, kinh tế chính trị không thể tiến hành các phương pháp thực
nghiệm trong phòng thí nghiệm mà chỉ có thể thử nghiệm trong đời sống hiện
thực, trong các quan hệ xã hội hiện thực. Các thử nghiệm về kinh tế đụng chạm
đến lợi ích của con người, vì vậy kiểm tra những giải pháp, thử nghiệm cụ thể
chỉ được tiến hành trong những phạm vi rất hạn chế. Do vậy, phương pháp quan
trọng của kinh tế chính trị là trừu tượng hoá khoa học. Phương pháp trừu tượng
hoá khoa học đòi hỏi gạt bỏ những yếu tố ngẫu nhiên xảy ra trong những quá
trình và những hiện tượng được nghiên cứu, tách ra những cái điển hình, bền
vững, ổn định trong những hiện tượng và quá trình đó, trên cơ sở ấy nắm được
bản chất của các hiện tượng, từ bản chất cấp một tiến đến bản chất ở trình độ
sâu hơn, hình thành những phạm trù và những quy luật phản ánh những bản
chất đó. Vấn đề quan trọng hàng đầu trong phương pháp này là giới hạn của sự
trừu tượng hoá. Việc loại bỏ những cái cụ thể nằm trên bề mặt của cuộc sống
phải bảo đảm tìm ra được mối quan hệ bản chất giữa các hiện tượng dưới dạng
thuần tuý nhất của nó; đồng thời phải bảo đảm không làm mất nội dung hiện
thực của các quan hệ được nghiên cứu; không được tuỳ tiện, loại bỏ cái không
được phép loại bỏ, hoặc ngược lại, giữ lại cái đáng loại bỏ. Giới hạn trừu tượng
hoá cần thiết và đầy đủ này được quy định bởi chính đối tượng nghiên cứu. Thí
dụ, để vạch ra bản chất của chủ nghĩa tư bản hoàn toàn có thể và cần phải trừu
tượng hoá sản xuất hàng hoá nhỏ, mặc dù nó thực sự tồn tại với mức độ ít hoặc
nhiều ở tất cả các nước tư bản chủ nghĩa, nhưng không được trừu tượng hoá bản
thân quan hệ hàng hoá - tiền tệ, bởi vì tư bản lấy quan hệ hàng hoá - tiền tệ làm
hình thái tồn tại của mình; hơn nữa, càng không được trừu tượng hoá việc


chuyển hoá sức lao động thành hàng hoá, bởi vì không có hàng hoá - sức lao
động thì chủ nghĩa tư bản không còn là chủ nghĩa tư bản nữa.
Trừu tượng hoá khoa học gắn liền với quá trình nghiên cứu đi từ cụ thể đến trừu

tượng, nhờ đó nêu lên những khái niệm, phạm trù và vạch ra những mối quan hệ
giữa chúng, phải được bổ sung bằng một quá trình ngược lại - đi từ trừu tượng
đến cụ thể. Cái cụ thể này không còn là những hiện tượng hỗn độn, ngẫu nhiên
mà là bức tranh có tính quy luật của đời sống xã hội.
Phương pháp trừu tượng hoá khoa học cũng đòi hỏi gắn liền với phương pháp
kết hợp lôgíc với lịch sử.
Bởi lẽ, lịch sử bắt đầu từ đâu thì quá trình tư duy lôgíc cũng phải bắt đầu từ đó.
Theo cách nói của Ph. Ăngghen, sự vận động tiếp tục của nó chẳng qua là sự
phản ánh quá trình lịch sử dưới một hình thái trừu tượng và nhất quán về lý
luận. Nó là sự phản ánh đã được uốn nắn, nhưng uốn nắn theo những quy luật
mà bản thân quá trình lịch sử hiện thực đã cung cấp.
1 Toàn bộ học thuyết kinh tế của Mac lenin
Một trong những nội dung trọng tâm của học thuyết kinh tế của chủ nghĩa
Mác – Lênin là chỉ rõ các quy luật kinh tế của quá trình ra đời, phát triển
và tất yếu diệt vong của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa trong tiến
trình phát triển của lịch sử nhân loại, trên cơ ...
Một trong những nội dung trọng tâm của học thuyết kinh tế của chủ nghĩa Mác
– Lênin là chỉ rõ các quy luật kinh tế của quá trình ra đời, phát triển và tất yếu
diệt vong của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa trong tiến trình phát triển
của lịch sử nhân loại, trên cơ sở đó chỉ ra tính tất yếu của cách mạng xã hội chủ
nghĩa. Để làm rõ điều đó, kinh tế chính trị học Mác – Lênin bắt đầu từ việc xây
dựng học thuyết giá trị, học thuyết giá trị thặng dư.
a) Học thuyết giá trị
– Nội dung cơ bản của học thuyết giá trị:
Học thuyết giá trị là xuất phát điểm trong toàn bộ lý luận kinh tế của c. Mác.
Bằng việc phân tích hàng hoá, Mác vạch ra quan hệ giữa người với người thông
qua quan hệ trao đổi hàng hoá, đó chính là lao động, cơ sở của giá trị hàng hoá.
Hàng hoá là sản phẩm của lao động, dùng để thoả mãn những nhu cầu của con
người thông qua trao đổi mua bán.
Hàng hoá có hai thuộc tính cơ bản là giá trị và giá trị sử dụng.

Gíá trị sử dụng của hàng hoá là công dụng của hàng hoá để thoả mãn nhu cầu
nào đó của con người. Giá trị sử dụng đó do thuộc tính tự nhiên của vật thể hàng


hoá và lao động của người sản xuất ra nó quyết định. Trong kinh tế hàng hoá,
giá trị sử dụng là cái mang giá trị trao đổi.
Giá trị trao đổi là một tỷ lệ theo đó những giá trị sử dụng loại này được trao đổi
với những giá trị sử dụng loại khác. Ví dụ: 1 mét vải đổi được 10kg thóc.
Giá trị của hàng hoá là lượng lao động xã hội cần thiết của người sản xuất hàng
hoá kết tinh trong hàng hoá. Giá trị trao đổi chỉ là hình thái biểu hiện của giá trị
hàng hoá. Giá trị của hàng hoá được đo bằng thời gian lao động xã hội cần thiết,
vì một loại hàng hoá đưa ra thị trường là do nhiều người sản suất ra nhưng mỗi
người sản xuất do điều kiện sản xuất, trình độ tay nghề là không giống nhau,
nên thời gian lao động cá biệt để sản xuất ra hàng hoá của họ khác nhau, do đó
lượng giá trị cá biệt của hàng hoá mà từng người sản xuất ra là khác nhau. Để
trao đổi hàng hoá đó với nhau, không thể căn cứ vào giá trị cá biệt của hàng hoá
mà phải căn cứ vào giá trị xã hội của nó, vào lượng lao động xã hội cần thiết
hay thời gian lao động xã hội cần thiết để sản xuất ra hàng hoá đó.
Thời gian lao động xã hội cần thiết là thời gian cần thiết để sản xuất ra một hàng
hoá trong điều kiện bình thường của xã hội, tức là với một trình độ kỹ thuật
trung bình và cường độ lao động trung bình so với hoàn cảnh xã hội nhất định.
Thời gian lao động xã hội cần thiết không phải cố định, nó phụ thuộc vào năng
suất lao động xã hội và chất lượng của lao động. Năng suất lao động xã hội là
năng lực sản xuất của lao động được tính bằng số lượng sản phẩm được sản
xuất ra trong một đơn vị thời gian, hoặc lượng thời gian cần thiết để sản xuất ra
một đơn vị sản phẩm. Năng suất lao động tỷ lệ nghịch với thời gian lao động xã
hội để sản xuất ra hàng hoá hay tỷ lệ nghịch với giá trị của hàng hoá. Chất
lượng của lao động hay mức độ phức tạp của lao động tỷ lệ thuận với giá trị của
hàng hoá. Theo mức độ phức tạp của lao động có thể chia lao động thành lao
động giản đơn và lao động phức tạp. Lao động giản đơn là lao động của bất kỳ

một người bình thường nào có khả năng lao động cũng có thể thực hiện được.
Lao động phức tạp là lao động đòi hỏi phải được huấn luyện, đào tạo thành lao
động lành nghề.
Việc sản xuất và trao đổi hàng hoá thể hiện sự liên hệ giữa những người sản
xuất riêng lẻ với nhau, do thị trường làm trung gian. Sự phát triển của sản xuất
và trao đổi hàng hoá tất yếu sẽ dẫn đến sự xuất hiện của tiền tệ. Tiền là sản
phẩm của lưu thông hàng hoá, bắt đầu từ những hành vi trao đổi riêng lẻ ngẫu
nhiên, qua nhiều bước, cuối cùng đến hình thái tiền tệ. Giá trị của hàng hóa biểu
hiện ra bên ngoài dưới hình thức tiền tệ là giá cả của hàng hóa đó.
Quy luật giá trị là quy luật kinh tế căn bản của sản xuất và trao đổi hàng hoá. Ở
đâu có sản xuất hàng hoá thì ở đó có sự tồn tại và phát huy tác dụng của quy


luật giá trị. Theo quy luật giá trị sản xuất và trao đổi hàng hoá phải theo nguyên
tắc ngang giá, dựa trên cơ sở hao phí lao động xã hội cần thiết.
Giá trị là cơ sở của giá cả, còn giá cả là sự biểu hiện bằng tiền của giá trị nên
trước hết giá cả phụ thuộc vào giá trị. Hàng hoá nào nhiều giá trị thì _giá cả của
nó sẽ cao và ngược lại.
Tuy nhiên trên thị trường, ngoài giá trị, giá cả còn phụ thuộc vào các yếu tố
khác như cạnh tranh, cung cầu, sức mua của người tiêu dùng… Tuy nhiên, nó
hoàn toàn nằm trong cơ chế hoạt động của quy luật giá trị.
– Ý nghĩa của học thuyết giá trị:
Nắm vững học thuyết giá trị là tiền đề lý luận để nghiên cứu học thuyết giá trị
thặng dư, đồng thời cũng cho chúng ta hiểu đúng quy luật cơ bản của mọi nền
sản xuất hàng hóa và có thể vận dụng quy luật ấy vào việc xây dựng nền kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay.
b) Học thuyết giá trị thặng dư
– Nội dung cơ bản của học thuyết giá trị thặng dư:
Học thuyết giá trị thặng dư là học thuyết giữ vị trí “hòn đá tàng” trong toàn bộ
học thuyết kinh tế của Mác, là một phát kiến vĩ đại của ông trong lịch sử tư

tưởng nhân loại trên lĩnh vực nghiên cứu kinh tế chính trị về phương thức sản
xuất tư bản chủ nghĩa – tức là một phương thức sản xuất hàng hóa ở trình độ
phát triển.
Trước khi có sự ra đời của phương thức sản xuất tư bản, công thức chung của
lưu thông hàng hóa là H (hàng hóa) – T (tiền) – H (hàng hóa), nghĩa là bán một
hàng hóa đi để mua một hàng hóa khác, tiền (T) chỉ đóng vai trò là môi giới
trung gian trong quá trình lưu thông hàng hóa. Trái lại, trong phương thức sản
xuất tư bản, công thức chung của tư bản là T – H – T nghĩa là mua để bán nhằm
có thêm lợi nhuận (T’ > T). Phần tăng thêm đó của giá trị lúc đầu của số tiền bỏ
vào lưu thông được gọi là giá trị thặng dư mà hình thái biểu hiện của nó chính là
lợi nhuận. Vậy, giá trị thặng dư do đâu mà có?
Theo quy luật giá trị trong nền sản xuất hàng hóa thì giá trị thặng dư không thể
do lưu thông mà có, vì lưu thông hàng hóa chỉ là việc trao đổi ngang giá, do đó
nó không có khả năng làm tăng thêm giá trị mới trong quá trình trao đổi. Muốn
có giá trị thặng dư, người có tiền phải tìm ra được trên thị trường một loại hàng
hóa đặc biệt, đó là loại hàng hóa mà khi sử dụng nó thì nó có thể tạo ra một giá
trị lớn hơn nó – đó là hàng hóa sức lao động. Trong lịch sử phát triển kinh tế của
các nước phương Tây, loại hàng hóa đặc biệt này bắt đầu phát triển từ thế kỷ
XV – XVI.


Sức lao động là toàn bộ những năng lực (thể lực và trí lực) tồn tại trong một con
người lao động và được người đó sử dụng vào sản xuất hàng hoá. Sức lao động
chỉ trở thành hàng hoá khi có hai điều kiện: người có sức lao động hoàn toàn tự
do về thân thể có toàn quyền bán sức lao động của mình trong một thời gian
nhất định; khi họ bị tước đoạt mọi tư liệu sản xuất, để sống họ buộc phải bán
sức lao động của mình cho nhà tư bản. Cũng như mọi hàng hoá khác, hàng hoá
sức lao động cũng có hai thuộc tính giá trị và giá trị sứ dụng.
Giá trị hàng hoá sức lao động là toàn bộ những tư liệu sinh hoạt cần thiết để sản
xuất và tái sản xuất ra sức lao động. Giá trị hàng hoá sức lao động bao gồm: giá

trị tư liệu sinh hoạt cần thiết đủ để duy trì sức khoẻ của người lao động ở trạng
thái bình thường; chi phí đào tạo tuỳ theo tính chất phức tạp của lao động; giá trị
tư liệu sinh hoạt cho những người thay thế, tức con cái của công nhân. Trên thực
tế, giá trị của hàng hóa sức lao động được thể hiện bằng tiền công, tiền lương.
Tiền công hay tiền lương chỉ là sự biểu thị bằng tiền giá trị sức lao động, hay là
giá cả của sức lao động.
Giá trị sử dụng của hàng hoá sức lao động thể hiện ra trong quá trình tiêu dùng
sức lao động để sản xuất ra một loại hàng hoá nào đó. Trong quá trình lao động,
người công nhân có thể tạo ra một lượng giá trị mới lớn hơn giá trị của bản thân
nó, phần giá trị dôi ra so với giá trị sức lao động là giá trị thặng dư. Như vậy, giá
trị thặng dư chính là phần giá trị dôi ra ngoài giá trị sức lao động do người công
nhân sáng tạo ra trong quá trình lao động của họ nhưng trong phạm vi phương
thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, nó không thuộc về người công nhân mà thuộc
về nhà tư bản, tức bị nhà tư bản chiếm không. Bởi vì, trên thực tế nhà tư bản trả
cho người bán sức lao động (tức người công nhân làm thuê) một lượng tiền
công (hay tiền lương) để người công nhân đó làm việc cho nhà tư bản trong một
khoảng thời gian nhất định, sản phẩm lao động của người công nhân làm thuê
ấy đương nhiên thuộc về nhà tư bản. Khi nhà tư bản đem bán các sản phẩm do
người công nhân làm ra họ thu về một lượng tiền (giá trị) lớn hơn tiền công đã
trả cho người công nhân. Nói cách khác, khi sử dụng hàng hóa sức lao động thì
lại tạo ra một lượng giá trị mới lớn hơn giá trị của bản thân nó, đó chính là quá
trình sản xuất ra giá trị thặng dư; đó cũng chính là nguồn gốc của lợi nhuận,
nguồn gốc giàu có của chủ tư bản, của toàn bộ giai cấp những nhà tư bản.
Mục đích của các nhà tư bản là sản xuất ra giá trị thặng dư tối đa. Để đạt được
mục đích đó họ thường sử dụng hai phương pháp chủ yếu là phương pháp sản
xuất giá trị thặng dư tuyệt đối và phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tương
đối.
Phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tuyệt đối được thực hiện bằng cách kéo
dài thời gian lao động vượt quá thời gian lao động tất yếu, trong khi năng suất



lao động, giá trị sức lao động và thời gian lao động tất yếu không thay đổi. Ví
dụ, các nhà tư bản thường sử dụng các biện pháp như kéo dài ngày lao động,
tăng cường độ lao động, giảm tiền công…
Phương pháp sản xuất giá trị thặng dư tương đối được thực hiện do rút ngắn
thời gian lao động tất yếu bằng cách nâng cao năng suất lao động xã hội, nhờ đó
tăng thời gian lao động thặng dư lên ngay trong điều kiện độ dài ngày lao động
vẫn như cũ. Biện pháp mà các nhà tư bản thường dùng là áp dụng các thành tựu
khoa học công nghệ, cải tiến kỹ thuật nâng cao năng suất lao động xã hội để thu
nhiều giá trị thặng dư. Sản xuất ra giá trị thặng dư là quy luật tuyệt đối, là cơ sở
tồn tại và phát triển của chủ nghĩa tư bản. Nội dung của nó là sản xuất ra giá trị
thặng dư tối đa bằng cách tăng cường bóc lột công nhân làm thuê.
Do ưu thế của sản xuất đại công nghiệp, do khoa học và công nghệ ngày càng
hiện đại, năng suất lao động ngày càng cao đã làm phá sản hàng loạt những
người sản xuất hàng hoá nhỏ, buộc họ phải tham gia vào đội ngũ những người
làm thuê cho nhà tư bản. Từ đó quy mô giá trị thặng dư tăng lên, tích luỹ tư bản
càng lớn, thủ tiêu sản xuất nhỏ càng nhanh, sản xuất lớn phát triển và thu giá trị
thặng dư ngày càng lớn hơn.
Sự cạnh tranh trong sản xuất, tìm thị trường tiêu thụ hàng hoá, thị trường
nguyên liệu… là nguyên nhân của nhũng cuộc khủng hoảng kinh tế với quy mô
ngày càng lớn. Giai cấp công nhân và nhân dân lao động bị bóc lột càng nhiều
hơn. Tính chất xã hội hoá của sản xuất ngày càng cao mâu thuẫn gay gắt với
quan hệ chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa. Các hoạt động đấu tranh chống
giai cấp tư sản, chống chế độ chiếm hữu tư nhân tư liệu sản xuất tất yếu sẽ bùng
nổ.
Ý nghĩa của học thuyết giá trị thặng dư:
Học thuyết giá trị thặng dư đã bóc trần bản chất của phương thức sản xuất tư
bản chủ nghĩa là phương thức bóc lột của giai cấp tư sản đối với
Những người lao động làm thuê, từ đó tiến hành luận chứng một cách khoa học
về những mâu thuẫn nội tại của chủ nghĩa tư bản – đó là mâu thuẫn đối kháng

giữa giai cấp vô sản và giai cấp tư sản.
Học thuyết giá trị thặng dư còn trang bị cho giai cấp công nhân và nhân dân lao
động công cụ nhận thức các quy luật kinh tế, thúc đẩy cải tiến kỹ thuật, phát
triển lực lượng sản xuất, nâng cao năng suất lao động, tạo ra nhiều hàng hoá…
phục vụ cho sự nghiệp xây dựng xã hội mới, xã hội xã hội chủ nghĩa.
Học thuyết giá trị thặng dư là biểu hiện mẫu mực của việc nghiên cứu và vận
dụng quan điểm duy vật biện chứng và quan điểm duy vật lịch sử vào sự phân


tích các quá trình kinh tế trong xã hội tư bản. Nó cung cấp tri thức về lịch sử
phát triển của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, xác lập cơ sở khoa học để
phân tích nguyên nhân cũng như đưa ra những dự báo về chiều hướng phát triển
và tất yếu diệt vong của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa.
c)Về chủ nghĩa tư bản độc quyền
– Đặc điểm kinh tế cơ bản của chủ nghĩa tư bản độc quyền:
Đầu thế kỷ XX, khoa học, kỹ thuật phát triển dẫn đến sự phát triển nhanh của
lực lượng sản xuất. Chủ nghĩa tư bản từ tự do cạnh tranh chuyển sang giai đoạn
chủ nghĩa tư bản độc quyền với 5 đặc điểm kinh tế cơ bản:
Một là, sự lập trung sản xuất và tích tụ tư bản đã làm hình thành các tố chức độc
quyền. Quá trình thay thế các xí nghiệp nhỏ, phân tán bằng các xí nghiệp lớn có
vốn tư bản lớn, đông công nhân và làm ra một khối lượng sản phẩm lớn. Sự tích
tụ và tập trung tư bản đã dẫn tới sự tích tụ và tập trung sản xuất, đến một mức
độ nhất định sẽ hình thành các tổ chức độc quyền. Tổ chức độc quyền là liên
minh giữa các nhà tư bản để nắm trong tay phần lớn việc sản xuất và tiêu thụ
một số loại hàng hoá nào đó nhằm thu lợi nhuận cao. Do nắm giữ việc sản xuất
phần lớn một số hàng hóa nào đó, tư bản độc quyền quyết định được giá rẻ khi
mua nguyên nhiên liệu và giá cao khi bán.
Hai là, hình thành tư bản tài chính và đầu sỏ tài chính. Đồng thời với sự tích tụ
và tập trung sản xuất công nghiệp, trong ngân hàng cũng có tích tụ và tập trung
tư bản, hình thành nên các ngân hàng lớn cạnh tranh với nhau, ra đời các tổ

chức độc quyền ngân hàng. Do nắm được lượng tư bản tiền tệ lớn, các ngân
hàng có khả năng chi phối nhiều hoạt động kinh tế – xã hội.
Tư bản tài chính là loại tư bản được hình thành trên cơ sở xâm nhập lẫn nhau
giữa tư bản công nghiệp và tư bản ngân hàng. Tư bản ngân hàng tham gia vào
các tổ chức độc quyền sản xuất công nghiệp để theo dõi việc sử dụng vốn vay.
Để hạn chế sự chi phối của ngân hàng, các nhà tư bản công nghiệp cũng can
thiệp vào hoạt động của tư bản ngân hàng bằng cách mua cổ phiếu, hoặc thành
lập ngân hàng cho riêng mình. Hai quá trình thâm nhập ấy gắn kết với nhau, làm
cho tư bản công nghiệp và tư bản ngân hàng dần trở nên thống nhất, hình thành
nên nhóm tư bản tài chính. Các nhóm tư bản tài chính có tiềm lực đủ mạnh trở
thành các đầu sỏ tài chính, thao túng đời sống kinh tế – chính trị ở các nước.
Ba là, xuất khấu tư bản là thủ đoạn để các nhà tư bản ở các nước phát triển tiến
hành bóc lột sức lao động, tài nguyên thiên nhiên,… ở các nước chậm phát triển
dưới hình thức đầu tư nhà máy, xí nghiệp tổ chức sản xuất hoặc cho vay, bóc lột
giá trị thặng dư và một số nguồn lợi khác ở các nước nhập khẩu tư bản.


Bốn là, sự phân chia thế giới về kinh tế giữa các tổ chức độc quyền. Khi lượng
hàng hoá sản xuất tăng, nảy sinh nhu cầu thị trường và nguyên liệu ngoài nước.
Mặt khác, hàng hoá bán ở nước ngoài cũng như đầu tư tư bản ở ngoài thu được
lợi nhuận lớn hơn so với bán hàng hoá và đầu tư trong nước nên giữa các nước
tư bản diễn ra cuộc cạnh tranh gay gắt giành thị trường thế giới. Những thoả
thuận có tính chất lũng đoạn giữa các tổ chức độc quyền trong việc sản xuất và
tiêu thụ một số loại hàng hoá, tạo nên những tổ chức độc quyền quốc tế. Liên
minh giữa các tổ chức độc quyền lớn của các nước để phân chia thị trường thế
giới, độc chiếm nguồn nguyên liệu, quy định quy mô sản xuất, định ra giá cả
độc quyền nhằm thu lợi nhuận độc quyền cao.
Năm là, sự phân chia thế giới về lãnh thổ giữa các cường quốc là hệ quả tất yếu
của sự phân chia thế giới về kinh tế, biểu hiện ở việc các nước đế quốc xâm
chiếm và thuộc địa hoá những nước chậm phát triển hòng độc chiếm nguồn

nguyên liệu, thị trường tiêu thụ hàng hoá và địa điểm lập căn cứ quân sự. Quá
trình phát triển kinh tế của chủ nghĩa tư bản ở các nước diễn ra không đều, diễn
ra sự tranh chấp thị trường. Phương pháp phổ biến là tổ chức chiến tranh để
phân chia lại thị trường thế giới.
Sự xuất hiện chủ nghĩa tư bản độc quyền không làm thay đổi bản chất của chủ
nghĩa tư bản. Đây chỉ là một giai đoạn phát triển của chủ nghĩa tư bản, nó vẫn
dựa trên chế độ sở hữu tư nhân tư liệu sản xuất, bóc lột sức lao động của người
công nhân, thu lợi nhuận độc quyền cao.
Quá trình phát triển của chủ nghĩa tư bản đã làm cho lực lượng sản xuất phát
triển mạnh mẽ với trình độ từ kỹ thuật thủ công, kỹ thuật cơ khí sang tự động
hoá, tin học hoá, công nghệ hóa và công nghệ ngày càng hiện đại. Cùng với quá
trình đó là quá trình giải phóng sức lao động, nâng cao hiệu quả khám phá và
chinh phục thiên nhiên của con người.
– Ý nghĩa của việc nghiên cứu về chủ nghĩa tư bản độc quyền:
Chủ nghĩa tư bản độc quyền thúc đẩy nền sản xuất hàng hoá phát triển đạt tới
mức điển hình trong lịch sử sản xuất của nhân loại. Sự phát triển cả về chiều
rộng, chiều sâu đã dẫn đến phân công lao động xã hội, sản xuất tập trưng với
quy mô hợp lý. Quá trình sản xuất được liên kết và phụ thuộc lẫn nhau thành hệ
thống. Trình độ chuyên môn hoá sản xuất và hợp tác lao động, mối liên hệ kinh
tế giữa các ngành, các lĩnh vực ngày càng chặt chẽ. Sản xuất độc quyền góp
phần xây dựng tác phong công nghiệp, thay đổi thói quen của người sản xuất
nhỏ, hoàn thiện hơn một bước nền dân chủ tư sản so với trước.
Tuy nhiên, chủ nghĩa tư bản độc quyền gắn với quá trình bóc lột chiếm lợi
nhuận cao; bản chất bóc lột thể hiện rõ dưới nhiều hình thức. Các mâu thuẫn xã


hội vốn có trong xã hội tư bản không những không khắc phục nổi mà càng gay
gắt hơn. Mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất phát triển mang tính xã hội hóa cao
với chế độ chiếm hữu tư nhân về tư liệu sản xuất ngày càng lớn lên về quy mô
và phạm vi, thể hiện trong xã hội tư bản là các cuộc khủng hoảng kinh tế ngày

càng kéo dài, trầm trọng, mâu thuẫn giữa giai cấp công nhân và các tầng lớp
nhân dân lao động với giai cấp tư sản ngày càng sâu sắc. Sự cạnh tranh kinh tế
quyết liệt giữa các nước tư bản với nhau, các nước tư bản với các nước đang
phát triển là nguy cơ tiềm ẩn dẫn đến xung đột và chiến tranh đe dọa hòa bình
và ổn định của nhân dân toàn thế giới.
VẬN DỤNG VÀO VIỆT NAM
Ở nước ta hiện nay, đẩy mạnh xã hội hoá sản xuất theo định hướng XHCN từ
một nền sản xuất nhỏ lên nền sản xuất lớn để sản xuất ra ngày càng nhiều giá trị
thặng dư, cần phải:
+ Làm cho kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo và cùng với kinh tế tập thể trở
thành nền tảng của nền kinh tế quốc dân.
+ Khuyến khích và tạo điều kiện để các thành phần kinh tế khai thác tối đa các
nguồn lực để nâng cao hiệu quả kinh tế và xã hội, cải thiện và nâng cao đời
sống cho nhân dân.
+ Thực hiện nhiều hình thức phân phối, lấy phân phối theo lao động và hiệu
quả kinh tế là chủ yếu.
+ Giữ vững vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, tăng cường hiệu lực
quản lý vĩ mô của Nhà nước; phát huy mặt tích cực và hạn chế mặt tiêu cực của
cơ chế thị trường.
Từ việc nghiên cứu học thuyết giá trị thặng dư của C.Mác và vận dụng lý luận
này trong việc phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam
có thể rút ra một số kết luận sau đây:
Một là, học thuyết giá trị thặng dư - học thuyết về bản chất bóc lột và địa vị lịch
sử của chủ nghĩa tư bản vẫn là cơ sở phương pháp luận để nhận thức đúng chủ
nghĩa tư bản hiện đại. Học thuyết đó có ý nghĩa lý luận và thực tiễn quan trọng
trong quá trình xây dựng nền kinh tế trong thời kỳ quá độ ở Việt Nam.
Hai là, thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội nền kinh tế nước ta trong một chừng
mực nào đó, quan hệ bóc lột chưa thể xóa bỏ ngay. Chừng nào quan hệ bóc lột
còn có tác dụng giải phóng sức sản xuất và thúc đẩy lực lượng sản xuất phát
triển, thì chừng đó nước ta còn phải chấp nhận sự hiện diện của nó.



Ba là, đường lối chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước phải được thể
chế hóa thành luật để đảm bảo cho nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa phát triển, góp phần xây dựng một xã hội dân giàu, nước mạnh, dân chủ,
công bằng, văn minh.
Bốn là, phát triển kinh tế thị trường nhưng phải bảo vệ được quyền lợi chính
đáng của cả người lao động và các chủ doanh nghiệp bằng luật và bằng chế tài
cụ thể phù hợp với từng giai đoạn phát triển của nền kinh tế.



×