Tải bản đầy đủ (.doc) (15 trang)

Đó là sự hình thành nhân cách con người trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam,

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (201.99 KB, 15 trang )

LỜI NÓI ĐẦU
Lịch sử phát triển của xã hội loài người trải qua nhiều giai đoạn nối tiếp từ
thấp lên cao. Ứng với mỗi giai đoạn là một hình thái kinh tế phù hợp với nó. Sự
phát triển của các hình thái kinh tế nối tiếp nhau là một quá trình lịch sử tự nhiên.
Thực tiễn phát triển của nền kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay đang đặt ra nhiều
vấn đề phải giải quyết. Trong đó , việc làm rõ vị trí của nhân cách & sự ảnh hưởng
của cơ chế thị trường trong quá trình hình thành & phát triển nhân cách của con
người là đòi hỏi cấp thiết cả về mặt lý luận, thực tiễn quản lý đất nước cũng như
công cuộc cải cách nền hành chính quốc gia.
Về bản chất, con người muốn tồn tại với tư cách là thành viên của xã hội thì
tất yếu con người phải tuân theo một cơ chế xã hội mà họ đang sống. Nói cách
khác, chính con người tạo ra cơ chế hoạt động xã hội, nhưng không phải tuỳ tiện
theo ý muốn chủ quan mà bị quy định bởi những quy luật phát triển khách quan
của xã hội, và sự biểu hiện về thái độ, hành vi, cách ứng xử … đối với những vấn
đề của xã hội chính là nhân cách của con người. Và kinh nghiệm thực tế của Việt
Nam và của thế giới cho rằng : Kinh tế không thể phát triển lành mạnh & lâu dài
nếu thiếu nền tảng nhân cách-đạo đức. Và con người không phải là sản phẩm thụ
động của kinh tế mà có một sức mạnh tinh thần lớn lao tác động ngược lại với kinh
tế. Trong những trang viết này, em xin được đề cập đến một trong những vấn đề
đang được quan tâm : Đó là sự hình thành nhân cách con người trong nền kinh
tế thị trường ở Việt Nam, em xin chân thành cảm ơn thầy Trần Thành đã tận tình
giúp đỡ em hoàn thành bài viết này.
1
PHẦN A: GIỚI THIỆU ĐỀ TÀI
Trong các tác phẩm kinh điển của mình, C.Mac & Anghen cho rằng : Con
người phải được đặc biệt chú trọng vì con người là sản phẩm cao nhất của quá
trình phát triển lâu dài trong tự nhiên & xã hội. Con người có sự quan hệ thống
nhất với tự nhiên & xã hội. Trong sự thống nhất biện chứng ấy, con người vừa là
điểm xuất phát, vừa là khâu trung gian, là tổng hoà của các mối quan hệ xã hội nên
con người luôn đóng vai trò chủ thể của sự vận động & phát triển trong lịch sử.
Chính vì vậy, Đảng & Nhà Nước ta luôn xác định con người vừa là mục tiêu vừa là


động lực cho sự phát triển kinh tế-xã hội của đất nước. Ngay từ đại hội Đảng lần
thứ III năm 1960 Đảng ta đã khẳng định : “Con người là vốn quý nhất”. Nhưng
việc hình thành một con người, một nhân cách bao giờ cũng trải qua một quá trình
hình thành & phát triển cả về mặt sinh học-xã hội. Và mỗi bước tiến của nhân loại
là một bước tiến của nhân cách con người. Đặc biệt ở Việt Nam, khi nền kinh tế
chuyển đổi từ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp sang cơ chế thị trường có sự quản
lý của nhà nước thì nó đã làm thay đổi mọi mặt đời sống kinh tế-xã hội, tức là sự
thay đổi hệ thống giá trị xã hội, đồng thời tạo ra những chuẩn mực xã hội mới.
Điều đó đã tác động không nhỏ đến cách suy nghĩ & lối sống của người dân. Con
người Việt Nam dần hình thành những hướng giá trị mới : Mẫu người cũ đã thay
đổi, thay vào đó hình thành nên con người mới năng động, sáng tạo & hoàn thiện
hơn. Do đó để xã hội của chúng ta phát triển theo kịp các nước tiên tiến trên thế
giới mà không đánh mất bản sắc của con người Việt Nam là mục tiêu & ý nguyện
thiêng liêng, cao đẹp mà Đảng & nhà nước đã chỉ ra. Vì vậy theo em, nhân cách
con người đặc biệt là nhân cách con người trong nền kinh tế thị trường là vấn đề
cần được nghiên cứu để có những giải pháp hợp lý nhằm tạo nên những con người
của cơ chế mới có đầy đủ đức lẫn tài, và có nhân cách tốt.
2
PHẦN B : NỘI DUNG NGHIÊN CỨU
I. LÝ LUẬN CHUNG VỀ NHÂN CÁCH CON NGƯỜI TRONG CƠ CHẾ THỊ TRƯỜNG
1. Cơ sở lý luận
a. Nhân cách là gì ?
Ngày nay, chúng ta có thể nhận thấy có rất nhiều khái niệm khác nhau về
nhân cách, cũng như bất cứ lĩnh vực nào khác, một vấn đề có thể nhìn nhận từ
nhiều góc độ khác nhau. Vì vậy nghiên cứu về nhân cách và tính quy luật của sự
hình thành nhân cách, chúng ta thấy rằng con người khi mới sinh ra thì chưa phải
là một nhân cách, nó chỉ mang tiềm năng của một con người, một cá thể hình thành
nên nhân cách. Nhân cách chỉ được hình thành & phát triển trong quá trình hoạt
động xã hội, trong mối quan hệ nhiều chiều giữa cá nhân với gia đình, xã hội. Vậy
nhân cách là gì?

Nhân cách là toàn bộ những đặc tính và phẩm chất xã hội, tâm-sinh lý của cá
nhân tạo thành chỉnh thể đóng vai trò chủ thể tự ý thức, tự đánh giá, tự khẳng định,
tự điều chỉnh mọi hoạt động của mình là thế giới quan riêng biệt của mỗi cá nhân.
Nói cách khác nhân cách là những giá trị làm người của mỗi cá nhân.
b. Cơ chế thị trường là gì ?
Thị trường là sản phẩm của sự phát triển kinh tế-xã hội. Vậy cơ chế thị trường
là cơ cấu, chế độ, hình thức xã hội của các tổ chức và hoạt động kinh tế, trong đó
mối quan hệ giữa con người với con người được biểu hiện thông qua việc mua bán
trao đổi bằng tiền, quá trình đó là do thị trường điều tiết.
Nói một cách tổng quát hơn : cơ chế thị trường chính là “bộ máy” kinh tế điều
tiết toàn bộ sự vận động của kinh tế thị trường, điều tiết quá trình sản xuất & lưu
thông hàng hoá thông qua sự tác động của các quy luật kinh tế đặc biệt là quy luật
giá trị-quy luật kinh tế căn bản của sản xuất & lưu thông hàng hoá.
3
2. Cơ sở thực tiễn
a. Cơ chế thị trường trong xã hội tư bản và trong xã hội chủ nghĩa
Đến đại hội toàn quốc lần thứ VIII, Đảng ta đã xác định rõ hơn vai trò của
kinh tế thị trường : “kinh tế thị trường đã phát huy tác dụng tích cực to lớn đến sự
phát triển kinh tế xã hội. Nó chẳng những không độc lập mà còn là một nhân tố
khách quan cần thiết của việc xây dựng & phát triển đất nước theo con đường xã
hội chủ nghĩa.” kinh tế thị trường không đồng nhất với kinh tế tư bản chủ nghĩa,
không phải là thành quả riêng của chủ nghĩa tư bản. Kinh tế thị trường đã từng
xuất hiện khá sớm trước chủ nghĩa tư bản & là thành quả chung của văn minh nhân
loại. Việc chuyển nền kinh tế đất nước sang vận hành theo kinh tế thị trường không
đơn thuần chỉ là quá trình thay đổi lại cấu trúc nền sản xuất xã hội với sự đổi mới
cơ cấu sở hữu tư liệu sản xuất, cơ cấu sử dụng nhân lực, lao động … mà còn đổi
mới nhiều mặt, nhiều lĩnh vực của nền kinh tế-xã hội như cơ chế quản lý kinh tế và
quản lý xã hội. Thị trường tư bản chủ nghĩa chịu tác động tất yếu của chính trị tư
sản và gắn với nó là kiểu quản lý kinh doanh tư bản chủ nghĩa, dẫn đến sự khác
nhau căn bản từ điểm xuất phát đến mục tiêu cuối cùng của nền sản xuất. Thị

trường xã hộichủ nghĩa chịu sự tác động tất yếu của nền chính trị vô sản & gắn với
nó là kiểu tổ chức sản xuất - kinh doanh nhằm phát triển sản xuất, tiến tới một xã
hội không có đối cực giàu nghèo - tiền đề của sự đối cực giai cấp & xã hội.
b. Kinh tế thị trường là một yếu tố khách quan trong quá trình vận động &
phát triển kinh tế ở Việt Nam.
Trong lịch sử phát triển kinh tế ở các nước xã hộichủ nghĩa đã xuất hiện mô
hình “kinh tế chỉ huy” hay mô hình kế hoạch hoá tập trung quan liêu bao cấp. Mô
hình này xét về mặt thực chất là xoá bỏ các thành phần kinh tế với tư cách là cơ sở
của sự tồn tại & phát triển kinh tế hàng hoá, và trong mô hình đó quan hệ hàng hoá
- tiền tệ hầu như bị hình thức hoá nếu không muốn nói là bị phủ nhận. Cùng với sự
kém hiệu quả của mô hình kinh tế đó thì chúng ta phải thừa nhận vai trò to lớn của
kinh tế hàng hoá hay kinh tế thị trường. Kinh tế thị trường bản thân nó có những
mặt tích cực là tạo ra những động lực mới để phát huy năng lực sáng tạo, khai thác
mọi nguồn lực xã hội. Đó là nguồn lực tổng hợp to lớn về nhiều mặt có khả năng
4
đưa nền kinh tế vượt khỏi thực trạng thấp kém, đưa nền kinh tế hàng hoá phát triển
kể cả trong điều kiện vốn ngân sách nhà nước còn hạn hẹp. Hơn nữa chiến lược
phát triển kinh tế hàng hoá vận động theo cơ chế thị trường là tiền đề mở đường
cho sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước nhằm xây dựng nền tảng cơ
sở vật chất kỹ thuât đi lên chủ nghĩaxã hội. Tuy nhiên, Đảng ta không coi cơ chế
thị trường là liều thuốc vạn năng vì vậy không khuyến khích phát triển nó về mọi
phương diện. Bởi lẽ tuyệt đối hoá vai trò của kinh tế thị trường sẽ rơi vào một sai
lầm nguy hiểm từ phía khác. kinh tế thị trường bản thân nó vốn có những giới hạn,
những khuyết tật mang tính tự phát như : Thất nghiệp, lạm phát, khủng hoảng kinh
tế, phân hoá giàu-nghèo … Hơn thế nữa, cơ chế thị trường còn là môi trường thuận
lợi để phát sinh nhiều tiêu cực & tệ nạn xã hội. Thực tế những năm qua cho thấy
tuy mới áp dụng cơ chế thị trường chưa được bao lâu mà bên cạnh những thành tựu
còn có những tiêu cực như : Lừa đảo, hối lộ, trốn thuế, nợ lần khó trả, thương mại
hoá một cách tràn lan …làm giá trị đạo đức tinh thần bị băng hoại & xuống cấp,
đồng tiền đã chi phối quan hệ giữa người với người, sự phân hoá giàu nghèo & bất

công xã hội có chiều hướng tăng lên, lối sống ích kỷ, thực dụng có nguy cơ ngày
càng tăng. Sự đổi mới cơ cấu kinh tế đã làm cho hệ thống giá trị xã hội có nhiều
thay đổi & chuẩn mực mới đã phần nào chi phối đến đời sống của từng cá nhân
trong xã hội, từ đó hình thành những con người mới. Vì vậy việc hình thành nhân
cách con người trong nền kinh tế thị trường đang là vấn đề được sự quan tâm nhiều
của các nhà nghiên cứu kinh tế xã hội.
c. Việc hình thành nhân cách con người trong cơ chế thị trường.
Sự chuyển biến nền kinh tế từ tập trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị
trường dẫn đến những tác động lớn bao trùm lên mọi lĩnh vực của đời sống văn
hoá trong đó có lĩnh vực đạo đức, nhân cách con người. Có nhiều ý kiến khác nhau
về sự ảnh hưởng của nền kinh tế thị trường đến nhân cách con người :
- Thứ nhất: Quan niệm đạo đức của xã hội đã bị mất định hướng hoặc là đang
khủng hoảng.
- Thứ hai: Có biến động thái quá, có suy thoái, có tha hoá, có bi kịch.
5
- Thứ ba: Có xu hướng tiến bộ, tích cực.
Loại ý kiến thứ nhất xuất phát từ thực tế khách quan là các hiện tượng tiêu
cực xuất hiện ngày càng nhiều trong đời sống xã hội như : tham nhũng, hối lộ, lãng
phí của công & các tệ nạn xã hội khác. Nhiều giá trị truyền thống bị xói mòn, một
số tư tưởng mới chưa được kiểm nghiệm đã được đề cao. Bên cạnh đó, nhiều giá
trị cũ đã tỏ ra lạc hậu vẫn được duy trì như thước đo “phẩm chất “ của con người.
Trong cuộc sống đời thường người ta vẫn đòi hỏi một sự hy sinh vô điều kiện, một
sự tận tuỵ quên mình như trong cuộc chiến tranh trước đây. Tất cả các yếu tố ấy
tạo nên một thực trạng phức tạp của các giá trị đạo đức, dẫn đến một cái nhìn rất
tiêu cực ở một bộ phận cán bộ & nhân dân ta.
Loại ý kiến thứ hai chỉ ra xu hướng biến động thái quá của các giá trị đạo đức
hiện nay. Từ chỗ lấy con người tập thể, con người xã hộichủ nghĩa làm mẫu mực
sang coi trọng con người cá nhân, thậm chí là cá nhân ích kỷ, từ chỗ lấy lý tưởng,
đạo đức làm mẫu chuyển sang coi nhẹ đạo đức phẩm giá, coi trọng giá trị thực
dụng, tôn sùng đồng tiền, coi đồng tiền là trên hết, lấy đồng tiền làm thước đo giá

trị con người thay cho giá trị đạo đức truyền thống. Tiền thâm nhập vào nhiều mối
quan hệ của đạo đức xã hội, thậm chí trở thành nguyên tắc xử thế và tiêu chuẩn
hành vi của không ít người.
Loại ý kiến thứ ba chỉ ra một xu hướng biến động có giá trị tích cực trong đời
sống xã hội hiện nay. Người ta thừa nhận có sự thay đổi các giá trị con người, từ
dũng cảm, hy sinh trong chiến đấu sang năng động, sáng tạo & nhạy bén trong sản
xuất kinh doanh. Tiêu biểu là những con người biết làm giàu cho mình & cho đất
nước. Điều đó được thể hiện trong chính sách của đảng và nhà nước là khuyến
khích làm giàu cho cá nhân và xã hội, nhưng không quên xoá đói giảm nghèo và
không quên quan tâm đến những đối tượng được hưởng chính sách xã hội.
d. Sự thống nhất biện chứng giữa lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội trong cơ
chế thị trường xã hộichủ nghĩa.
Sự thống nhất biện chứng giữa lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội là nhân tố qui
định nhân cách đạo đức sâu sắc nhất. Trong quan hệ đó, yếu tố xã hội giữ vai trò
6

×