Tải bản đầy đủ (.pdf) (96 trang)

Dịch vụ công tác xã hội với người tạm trú tại ngôi nhà bình yên hỗ trợ phụ nữ và trẻ em bị bạo lực gia đình

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.66 MB, 96 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

ĐỖ THỊ TRANG

DỊCH VỤ CÔNG TÁC XÃ HỘI VỚI NGƯỜI TẠM TRÚ
TẠI NGÔI NHÀ BÌNH YÊN HỖ TRỢ PHỤ NỮ VÀ TRẺ EM
BỊ BẠO LỰC GIA ĐÌNH

Chuyên ngành: Công tác xã hội
Mã số: 876 01 01

LUẬN VĂN THẠC SĨ CÔNG TÁC XÃ HỘI

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: GS.TS. LÊ THỊ QUÝ

HÀ NỘI, 2018


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan: Luận văn này là công trình nghiên cứu của cá nhân tôi, được
thực hiện dưới sự hướng dẫn khoa học của GS.TS. Lê Thị Quý.
Các số liệu, những kết luận nghiên cứu được trình bày trong luận văn này hoàn
toàn trung thực.
Tôi xin chịu trách nhiệm về nghiên cứu của mình.
HỌC VIÊN

Đỗ Thị Trang



DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
Chữ viết tắt

Chữ viết đủ

1

BLG

Bạo lực Giới

2

BLGĐ

Bạo lực gia đình

3

CTXH

Công tác xã hội

4

DVCTXH

Dịch vụ công tác xã hội

5


HLHPN VN

Hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam

6

NNNBY

Ngôi Nhà Bình yên

7

NTT

Người tạm trú

8

TC

Thân chủ

9

NVXH

Nhân viên xã hội

10


NVCTXH

Nhân viên công tác xã hội

STT


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 1
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ DỊCH VỤ CÔNG TÁC XÃ HỘI
VỚI THÂN CHỦ BỊ BẠO LỰC GIA ĐÌNH ........................................................... 9
1.1. Khái niệm, đặc điểm và nhu cầu của Người tạm trú bị bạo lực gia đình. .............. 9
1.2. Lý luận về dịch vụ công tác xã hội đối với người tạm trú bị bạo lực gia đình..... 12
1.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến dịch vụ công tác xã hội đối với Người tạm trú bị bạo
lực gia đình ................................................................................................................ 23
1.4. Cơ sở pháp lý về dịch vụ công tác xã hội đối với NTT bị BLGĐ ....................... 25
Chương 2: THỰC TRẠNG DỊCH VỤ CÔNG TÁC XÃ HỘI VỚI NGƯỜI TẠM
TRÚ TẠI NGÔI NHÀ BÌNH YÊN HỖ TRỢ PHỤ NỮ VÀ TRẺ EM BỊ BẠO
LỰC GIA ĐÌNH ...................................................................................................... 30
2.1. Một số đặc điểm về địa bàn nghiên cứu .............................................................. 30
2.2. Thực trạng về người tạm trú bị bạo lực gia đình tại Ngôi Nhà Bình yên ............ 36
2.3. Thực trạng hoạt động cung cấp dịch vụ công tác xã hội đối với Người tạm trú bị
bạo lực gia đình tại Ngôi Nhà Bình yên. .................................................................... 40
2.4. Các yếu tố ảnh hưởng đến thực trạng dịch vụ công tác xã hội đối với NTT bị
BLGĐ tại NNBY ....................................................................................................... 47
2.5. Đánh giá dịch vụ công tác xã hội đối với NTT bị BLGĐ từ thực tiễn NNBY .... 49
Chương 3: ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO CHẤT
LƯỢNG DỊCH VỤ CÔNG TÁC XÃ HỘI VỚI NGƯỜI TẠM TRÚ TẠI NGÔI
NHÀ BÌNH YÊN HỖ TRỢ PHỤ NỮ VÀ TRẺ EM BỊ BẠO LỰC GIA ĐÌNH . 60

3.1. Một số biện pháp trong việc sử dụng công cụ để làm việc với người tạm trú bị
bạo lực gia đình ............................................................................................................. 61
3.2. Thử nghiệm các biện pháp đề xuất ........................................................................ 67
3.3. Một số định hướng trong phát triển các dịch vụ công tác xã hội đối với NTT tại
NNBY........................................................................................................................ 73
3.4. Một số giải pháp cơ bản nhằm nâng cao chất lượng dịch vụ công tác xã hội đối
với người tạm trú tại NNBY ...................................................................................... 76
KẾT LUẬN .............................................................................................................. 80
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO................................................................ 81


DANH MỤC CÁC BẢNG
Số hiệu

Tên bảng

Trang

2.1

Sơ đồ tổ chức bộ máy Trung tâm Phụ nữ Phát triển

35

2.2

Đánh giá nhu cầu của Người tạm trú bị bạo lực gia đình

37


2.3

Dịch vụ công tác xã hội đã cung cấp đối với NTT bị BLGĐ

40

Đánh giá mức độ ảnh hưởng của các yếu tố đến thực trạng cung

47

2.4

cấp dịch vụ công tác xã hội đối với người tạm trú bị bạo lực gia
đinh của Cán bộ xã hội

2.5
2.6

Mạng lưới chuyển tuyến và cung cấp dịch vụ của Ngôi Nhà Bình

53

yên
Đánh giá kết quả sau khi tiến hành thử nghiệm

72

DANH MỤC CÁC SƠ ĐỒ, BIỂU ĐỒ
Tên biểu đồ


Số hiệu
2.1
2.2

Nhu cầu của người tạm trú bị bạo lực gia đình
Thực trạng về Người tạm trú bị bạo lực gia đình tại Ngôi Nhà Bình
yên

Trang
39
36

2.3

Mức độ phổ biến của các hình thức bạo lực đối với phụ nữ

36

2.4

Kết quả cung cấp dịch vụ tại NNBY

46

Thực trạng việc tuân thủ các nguyên tắc khi làm việc với NTT bị

46

2.5


BLGĐ


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Bạo lực gia đình (BLGĐ) hiện đang là tình trạng diễn ra ở mọi quốc gia, mọi nền
văn hóa. Hậu quả của BLGĐ gây ra là nỗi đau đặc biệt nghiêm trọng, không chỉ gây
tổn thương đến sức khỏe thể chất, tinh thần, danh dự của các thành viên trong gia đình
mà còn vi phạm pháp luật và các giá trị chuẩn mực xã hội. Nạn nhân chủ yếu của
BLGĐ là phụ nữ, theo thống kê của tổ chức y tế thế giới năm 2005 có khoảng 20-50%
phụ nữ chịu hậu quả nghiêm trọng do BLGĐ.
Tại Việt Nam phụ nữ đang phải giữ vai trò kép vừa có những đóng góp to lớn
trong quá trình xây dựng, phát triển đất nước lại vừa bị gán cho vai trò trung tâm trong
việc “giữ lửa”- chăm lo cuộc sống gia đình, nuôi dưỡng, giáo dục con cái, giữ gia đình
yên ấm. Chính sự bất bình đẳng trong sự phân công vai trò giới như vậy, nên dù phụ
nữ có nhiều đóng góp cho xã hội, gia đình nhưng họ đã và đang phải chấp nhận một
môi trường sống với rất nhiều đổ áp lực và chịu các hành vi bạo lực từ chính xã hội và
gia đình của mình: theo kết quả từ Nghiên cứu quốc gia về bạo lực gia đình đối với
phụ nữ ở Việt Nam có 58,3% phụ nữ đã từng kết hôn đã trải qua ít nhất một loại hình
bạo lực gia đình (BLGĐ) tại một thời điểm nào đó trong cuộc đời họ (có nghĩa là cứ 3
phụ nữ đã lấy chồng thì có 2 người đã từng bị bạo lực) và 34% đã chịu đựng bạo lực
thể xác và/ hoặc bạo lực tình dục; 73% phụ nữ cho rằng BLGĐ là điều bình thường;
trên 50% đã bị lạm dụng tình cảm trong suốt cuộc đời họ, 87% nạn nhân bị bạo lực gia
đình không tìm kiếm sự hỗ trợ từ các đoàn thể, chính quyền địa phương (GSO, 2010).
Theo thống kê của lực lượng Công an Hà Nội, các vụ trọng án do xung đột, mâu thuẫn
tức thời trong đời sống sinh hoạt, nhất là sát hại người cùng gia đình chiếm hơn 60%
số vụ giết người năm 2014. Và theo con số thống kê từ 679 nạn nhân bị BLGĐ đã đến
ở Ngôi Nhà Bình yên (NNBY) từ năm 2007, thì có tới hơn 75% phụ nữ bị từ 3 hình
thức bạo lực trở lên bởi chồng. Những con này cho thấy mức độ nghiêm trọng của nạn
BLGĐ và bạo vấn nạn bạo lực đối với phụ nữ ở Việt nam.

BLGĐ gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến nạn nhân, trẻ em, chính thủ phạm và
thành viên khác trong gia đình, cũng như tổn hại về kinh tế và an ninh xã hội. Các hậu
quả có thể diễn ra ngắn hạn hoặc dài hạn, và ảnh hưởng lên thể chất, tâm lý, xã hội.
Sức khỏe và năng lực sống của nạn nhân có thể chịu tác động trước mắt hoặc lâu dài,
nghiêm trọng, bao gồm cả tổn hại tới các trẻ em phải chứng kiến bạo lực hoặc bị bạo
lực cùng mẹ. Tuy nhiên, tại Việt Nam chưa có nghiên cứu, báo cáo nào liên quan đến
1


hậu quả toàn diện, mang tính chiều sâu do BLGĐ tác động đến phụ nữ, trẻ em, gia
đình, cộng đồng. Chính vì vậy, cộng đồng và đặc biệt là các nhà lập chính sách vẫn
chưa có cái nhìn thấu đáo về hậu quả của BLGĐ, chưa có chính sách nhạy cảm giới,
đảm bảo sự an toàn của phụ nữ, trẻ em và các quyền hợp pháp của họ.
Ngôi Nhà Bình yên là một mô hình công tác xã hội được hỗ trợ kỹ thuật từ các
chuyên gia Đan mạch, Úc, nơi đây cung cấp cho thân chủ gói hỗ trợ toàn diện tối thiểu
nhằm giúp họ hồi phục và tự vững để giải quyết câu chuyện bạo lực của mình. Trong
quá trình hỗ trợ phụ nữ, trẻ em, NNBY hiểu rất rõ bạo lực gia đình tác động đến mọi
khía cạnh thân chủ. Do vậy, việc cung cấp dịch vụ nhằm hỗ trợ người tạm trú (NTT)
đáp ứng nhu cầu và giải quyết vấn đề mà họ đang gặp phải là một vấn đề trọng tâm
nhằm góp phần đảm bảo an sinh xã hội, giảm thiểu vấn nạn do bạo lực gây ra. Vấn đề
đặt ra là làm thế nào để các hoạt động trợ giúp NTT mang tính chuyên nghiệp, toàn
diện, hiệu quả và đáp ứng được nhu cầu thực tiễn, giúp họ có được các kỹ năng cần
thiết, phát huy khả năng và hồi gia bền vững là lý do để tôi chọn đề tài: “Dịch vụ công
tác xã hội với Người tạm trú tại Ngôi Nhà Bình yên hỗ trợ phụ nữ và trẻ em bị bạo
lực gia đình” làm đề tài nghiên cứu luận văn thạc sỹ ngành công tác xã hội.
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài
2.1. Nghiên cứu của Quốc tế
Bạo lực gia đình không phải là vấn đề của một gia đình hay chỉ tồn tại ở một vài
nước mà BLGĐ, đặc biệt là bạo lực với phụ nữ đang trở thành vấn đề phổ biến trong
tất cả các nước trên toàn cầu. Do tính chất phức tạp và mức độ nghiêm trọng cũng như

ảnh hưởng của BLGĐ đến nền an sinh của mỗi cá nhân và toàn xã hội, nhiều quốc gia
trên thế giới (Trích từ "Bạo lực đối với Phụ nữ", WHO, FRH/ WHD/ 97.8,)
Các nghiên cứu quốc tế đã chứng minh mối liên hệ giữa bạo lực đối với sức khỏe
thể chất và tinh thần, với chi phí do bạo lực gia đình và bạo lực gây ra bởi bạn tình ở
gia đình và cộng đồng tại các nước công nghiệp hóa và các nước đang phát triển
(ICRW,2005; Duvvury, 2004).
Nhiều nghiên cứu khác cũng chứng minh tác động tiêu cực của BLGĐ đến quá
trình phát triển mục tiêu thiên niên kỷ (Duvvury, 2009).
Tại Thái Lan: 20% trong số 619 người đàn ông được hỏi cho rằng đã từng bạo lực vợ.
Tại Israel: nghiên cứu 1.826 phụ nữ được hỏi có tới 32% họ trả lời đã từng bị
BLGĐ bởi người chồng/người yêu 30% bị cưỡng ép tình dục.
Estonia: 29% trong số 2.315 phụ nữ được hỏi đã từng bị BLGĐ và 52% số họ là
2


người già cao hơn 65 tuổi.
Tajikistan: 23% trong số 550 phụ nữ được hỏi đã từng bị BLGĐ.
Trung Quốc: theo báo cáo của chính phủ có tới 305 gia đình có bạo lực; Hàn
Quốc 40-60% phụ nữ bị bạo lực, Nhật Bản 60% phụ nữ được hỏi cho là đã từng bị bạo
lực; Thái Lan 20%, Malaxia 39% (K.Soin, 2001).
Tại Mỹ: Theo điều tra năm 2001 ở Mỹ số người chết do BLGĐ là 691.710 người,
trong đó có 588.490 nạn nhân là phụ nữ (PN) chiếm 85%, chỉ có 103.220 nạn nhân là
nam giới chiếm 15%. (Family violence prevention Fund, 2004)
Kể từ năm 2011 tới nay, các nghiên cứu mới về bạo lực giới, gồm cả một nghiên
cứu về những tổn hại về mặt chi phí của BLGĐ (Duvvury, 2012) đã mở rộng thêm
hiểu biết về các hình thức, mức độ phổ biến và hậu quả của BLGĐ, cũng như các
khoảng trống trong chính sách và chương trình.
Báo cáo “Nghiên cứu sâu về bạo hành với phụ nữ” của Nguyên tổng thư ký Liên
hiệp quốc Kofi Annan được trình bày tại kỳ họp lần thứ 61 của Đại hội đồng LHQ thể
hiện rõ tình hình bạo lực với phụ nữ diễn ra ở 71 quốc gia. Trong báo cáo nghiên cứu,

tổng thư ký làm rõ các yếu tố nguy cơ gây ra bạo lực với phụ nữ và việc sử dụng bạo
lực để giải quyết xung đột, kể cả sự thờ ơ của nhà nước. Những hoạt động khả thỉ để
giải quyết vấn nạn này chú trọng vào luật pháp, cung cấp dịch vụ và phòng ngừa. Tuy
nhiên cũng vô số thách thức đặt ra như: thiếu hụt cách tiếp cận toàn diện và có lồng
ghép, thiếu ngân quỹ, chế tài xử phạt với người gây bạo lực.
Năm 1992, tác giả Margaret Schuler (chủ biên) và cộng sự có tác phẩm “Freedom
from Violence – Womens Strategies from Around the World” (Từ bạo lực đến chiến lược
toàn cầu của phụ nữ) đã phản ánh tình trạng bạo lực chống phụ nữ tồn tại ở các nước đang
phát triển thuộc Châu Á, Châu Phi, Châu Mỹ Latinh. Tính đa dạng của hoàn cảnh, văn
hóa, nguyên nhân, các hình thức bạo lực mà tác giả đề cập đã nói lên tính phổ biến của
các dạng bạo lực chống phụ nữ, trong đó có bạo lực gia đình. Từ đó giúp người đọc có cái
nhìn toàn cảnh về vấn đề và chiến lược liên quan đặc biệt là mở rộng hoạt động truyền
thông, cải cách luật pháp và chuỗi hành hành động chống bạo lực.
Tác phẩm “”Loving to Survive - Sexual Terro Men’s Violence and Women’s
Live” (Tình yêu và sự sống sót - sự khủng bố tình dục của đàn ông và cuộc sống của
phụ nữ) của Dee L.R. Graham và hai đồng nghiệp là Edna. Rawlings và Roberta
K.Rigsby đã phân tích các ảnh hưởng của bạo lực nam giới đối với phụ nữ và tâm lý
của họ. Tình trạng hiện tại của phụ nữ là ở dạng nô lệ, bị giam cầm, thậm chí liên tục
3


bị đánh sẽ làm mất khả năng xây dựng năng lực, xem mình đần độn, ngu dốt, không có
giá trị. Đây không phải là vấn đề mang tính tự nhiên mà là một vấn đề xã hội. Cũng
chính trong tác phẩm này các tác giả cũng cho rằng chỉ có thuyết nữ quyền cấp tiến là
thừa nhận bạo lực của Nam giới đã ảnh hưởng tới cuộc sống của người phụ nữ và con
cái họ [23]
2.2. Nghiên cứu của Việt Nam
Tại Việt Nam có nhiều tác giả nghiên cứu về BLGĐ, các dịch vụ công tác xã hội:
Tác giả Lê Thị Quý là người đầu tiên nghiên cứu về bạo lực gia đình (BLGĐ) ở
Việt Nam, bắt đầu từ năm 1989. Thời điểm đó, đây là vấn đề nhạy cảm vì “không ai

muốn nói đến cái xấu trong gia đình” năm 1994 đã công bố nghiên cứu đầu tiên
“BLGĐ ở Việt Nam” in trên tạp chí Khoa học và phụ nữ “trong đó đã xác định năm
nguyên nhân chính của BLGĐ là nguyên nhân kinh tế, nguyên nhân nhận thức, nguyên
nhân văn hóa – xã hội, nguyên nhân sức khỏe và nguyên nhân thuộc về phụ nữ”
Năm 1999 công trình nghiên cứu của Vũ Mạnh Lợi, Vũ Tuấn Huy, Nguyễn Hữu
Minh về “bạo lực trên cơ sở giới” được tiến hành tại 3 tỉnh: Hà Nội, Huế, TP Hồ Chí
Minh. Các tác giả đã đi sâu nghiên cứu “thái độ của cộng đồng và các cơ chế xã hội về
bạo lực trên cơ sở giới cũng như các phản ứng của cá nhân, luật pháp và các thể chế
đối với BLGĐ”
Năm 2001, Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam dã thực hiện đề tài “BLGĐ đối với
phụ nữ tại Việt Nam” nghiên cứu tại 3 tỉnh Lạng Sơn, Thái Bình và Tiền giang đề tài
đã tìm hiểu nhận thức, thái độ của người dân và cán bộ thi hành pháp luật của các tổ
chức đoàn thể xã hội. Đồng thời đề tài cũng chỉ ra những hậu quả nặng nề của BLGĐ
đối với phụ nữ
Theo kết quả điều tra về thực trạng bình đẳng giới năm 2004 – 2005 (Nguyễn Vân
Anh, 2005), có 21,2% phụ nữ cho biết đã từng bị chồng chửi trong 12 tháng trước khi
khảo sát.
Theo thống kê của Toà án nhân dân tối cao, nguyên nhân ly hôn do “mâu thuẫn
vợ chồng, đánh đập, ngược đãi” 8 tháng đầu năm 2003 là 22.997 vụ trong tổng số
41.326 vụ, chiếm 55,6% và trong năm 2005, tỷ lệ này chiếm 60,3% các vụ ly hôn.
Kết quả khảo sát của Uỷ Ban các vấn đề xã hội tại 8 tỉnh thành năm 2006 cho
thấy có 23% gia đình có bạo lực về thể chất, 25% về bạo lực tinh thần và 30% có hành
vi ép buộc quan hệ tình dục.
Trong hội thảo về biện pháp phòng chống bạo lực gia đình tổ chức tại Thành phố
4


Hồ Chí Minh, bác sĩ Nguyễn Minh Tiến – một chuyên gia trong lĩnh vực tâm lý trị liệu
có bài tham luận “Làm việc với thân chủ có vấn đề bị bạo hành trong gia đình” bài
tham luận đã phản ánh thực trạng bạo lực gia đình tại Việt Nam. Từ đó tác giả đưa ra

các dấu hiệu nhận biết, các biện pháp hỗ trợ nạn nhân lập tức cũng như lâu dài.
Tác giả, Nguyễn Hữu Minh, viện gia đình và giới có bài tham luận “vai trò của
các tổ chức trong phòng chống bạo lực gia đình” trình bày tại hội thảo về việc triển
khai thi hành luật BĐG và luật phòng chống bạo lực gia đình tổ chức ở thành phố Yên
Bái. Tham luận chỉ rõ vai trò và nhiệm vụ của các tổ chức, các cấp trước những yêu
cầu của luật phòng chống BLGĐ
Liên hợp quốc định nghĩa Dịch vụ xã hội cơ bản là các hoạt động dịch vụ cung
cấp những nhu cầu cho các đối tượng nhằm đáp ứng những nhu cầu tối thiểu của cuộc
sống (UN – Africa Spending Less on Basic Social Services). Các dịch vụ xã hội là các
hoạt động của nhân viên xã hội và những nhà chuyên nghiệp khác nhằm nâng cao sức
khỏe và chất lượng sống của con người và giúp đỡ con người không phụ thuộc; củng
cố các mối quan hệ gia đình; khôi phục chức năng xã hội đối với cá nhân, gia đình,
nhóm và cộng đồng (Whitaker anh Federico, 1990)
Theo Soer. Mary Trần Thị Kim Loan dịch vụ xã hội là các tổ chức cá nhân và xã
hội thực hiện các hoạt động xã hội đáp ứng các nhu cầu bình thường và đặc biệt của cá
nhân và gia đình đảm bảo các quyền cơ bản của con người nhằm đem lại sự phát triển
và cải thiện cuộc sống. Hệ thống dịch vụ xã hội bao gồm nhiều lĩnh vực như: y tế, giáo
dục, an sinh, nông nghiệp, hạ tầng cơ sở...
Theo tác giả Hà Thị Thư, dịch vụ công tác xã hội là việc cung cấp các hoạt động
mang tính chất phòng ngừa – khắc phục rủi ro và hòa nhập cộng đồng cho các nhóm
đối tượng yếu thế dựa trên các nhu cầu cơ bản của họ nhằm bảo đảm các giá trị và
chuẩn mực xã hội
Tại bài viết ”Một số kinh nghiệm quốc tế và những vấn đề đặt ra đối với việc
phát triển các dịch vụ trong công tác bảo vệ trẻ em” của tác giả Đỗ Ngọc Phương nêu
rõ sự cần thiết phải phát triển dịch vụ công tác xã hội với trẻ em và các mô hình dịch
vụ công tác xã hội mang tính liên tục
Tác giả Bùi Thị Xuân Mai (2015) trong bài “Thực trạng mạng lưới dịch vụ xã
hội ở Việt Nam – Những khuyến nghị” viết: Mạng lưới dịch vụ xã hội là một tập hợp
các dịch vụ trong hệ thống xét theo góc độ tính chất đó là dịch vụ việc làm; đào tạo
nghề; tư vấn; tham vấn, tư vấn tâm lý; sức khỏe; pháp lý; cung cấp thông tin chính

5


sách; hỗ trợ thu nhập dịch vụ hỗ trợ các đối tượng yếu thế hòa nhập xã hội, tái hòa
nhập gia đình, cộng đồng và dịch vụ hòa giải, biện hộ các vấn đề xã hội. Xét từ gốc độ
quản lý mạng lưới dịch vụ xã hội bao gồm dịch vụ công lập (do nhà nước), ngoài công
lập (phi chính phủ, ngoài nhà nước), dịch vụ tư nhân, mạng lưới dịch vụ của tôn giáo,
và của các tổ chức dân sự xã hội khác. Một cách phân loại khác dựa vào đối tượng
hưởng lợi đó là mạng lưới cung cấp dịch vụ cho trẻ em, trẻ em có hoàn cảnh khó
khăn, người cao tuổi, người có HIV/AIDS, người khuyết tật, phụ nữ bị bạo hành. Dịch
vụ công tác xã hội cho nhóm yếu thế là các hoạt động có chủ đích của con người
nhằm phòng ngừa - hạn chế và khắc phục rủi ro, đảm bảo đáp ứng được nhu cầu cơ
bản và thúc đẩy khả năng hòa nhập cộng đồng, xã hội cho nhóm đối tượng yếu thế
Như vậy BLGĐ là một trong những vấn đề xã hội xảy ra hầu hết ở các quốc gia
trên thế giới từ những nước nghèo ở khu vực châu phi đến những nước phát triển như
Mỹ, Nga, Trung quốc…đến cả những nước có nền an sinh xã hội và CTXH phát triển
như Canada, Philippin.
Với các công trình nghiên cứu về BLGĐ, các dịch vụ xã hội nêu trên đã phân tích
được thực trạng, nguyên nhân của nạn BLGĐ. Điều này cũng phản ánh được những lo
ngại, băn khoăn chung của các nhà nghiên cứu trước sự gia tăng của nạn BLGĐ.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Đề tài góp phần làm rõ thêm những vấn đề lý luận về DVCTXH đối với NTT,
chỉ ra thực trạng DVCTXH đối với NTT tại Ngôi Nhà Bình yên hiện nay. Từ đó đề
xuất một số khuyến nghị, giải pháp nâng cao chất lượng DVCTXH đối với NTT tại
Ngôi Nhà Bình yên hỗ trợ phụ nữ và trẻ em bị BLGĐ
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được các mục đích nghiên cứu đề ra, luận văn thực hiện các nhiệm vụ:
Một là: nghiên cứu cơ sở lý luận về DVCTXH đối với NTT bị BLGĐ thông qua
việc thu thập tài liệu thứ cấp.

Hai là: Điều tra xã hội học nhằm đánh giá thực trạng DVCTXH đối với NTT tại
NNBY. Các yếu tố ảnh hưởng đến việc cung cấp DVCTXH đối với NTT tại đây.
Ba là: đưa ra được một số định hướng và các giải pháp cơ bản để nâng cao chất
lượng DVCTXH đối với NTT tại NNBY hỗ trợ PN và TE bị BLGĐ
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
6


Đối tượng nghiên cứu của đề tài là các loại hình DVCTXH đối với NTT tại
NNBY hỗ trợ PN và TE bị BLGĐ.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Địa bàn: nghiên cứu được tiến hành tại NNBY hỗ trợ PN và TE bị BLGĐ thuộc
Trung tâm Phụ nữ và Phát triển- Hội liên Hiệp PNVN
- Thời gian: từ tháng 9 năm 2017 đến tháng 3 năm 2018.
- Phạm vi đối tượng nghiên cứu: đề tài tập trung nghiên cứu các DVCTXH đối với
NTT: dịch vụ cung cấp nơi ăn ở an toàn, dịch vụ chăm sóc – sức khỏe; dịch vụ hỗ trợ tâm lý;
dịch vụ hỗ trợ pháp lý; dịch vụ hỗ trợ nâng cao kỹ năng sống; dịch vụ vui chơi, giải trí; dịch
vụ học tập và đào tạo nghề; dịch vụ hỗ trợ đào tạo nghề; dịch vụ theo dõi hồi gia cho NTT.
4.3. Khách thể nghiên cứu
- 60 NTT (phụ nữ bị bạo lực) tại NNBY hỗ trợ PN và TE bị BLGĐ
- Phỏng vấn sâu 12 cán bộ, nhân viên đang cung cấp DVCTXH đối với NTT
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận
Luận văn sử dụng các nguyên tắc phương pháp luận cơ bản trong nghiên cứu
khoa học xã hội. Đặc biệt nghiên cứu, thu thập, xử lý, khái quát hóa những thông tin,
những nghiên cứu thuộc các vấn đề liên quan đến đề tài từ đó phân tích, tổng hợp
nhằm xây dựng cơ sở lý luận cho vấn đề nghiên cứu: “Dịch vụ công tác xã hội với
người tạm trú tại Ngôi Nhà Bình yên hỗ trợ phụ nữ và trẻ em bị bạo lực gia đình”.
5.2. Phương pháp nghiên cứu

Tìm hiểu thực trạng của DVCTXH hỗ trợ cho NTT tại NNBY hỗ trợ PN và TE
bị BLGĐ đã đáp ứng với nhu cầu thực tế hay chưa? Nhu cầu của NTT gồm những gì?
Những yếu tố nào tác động đến việc cung cấp DVCTXH tại NNBY hỗ trợ PN và TE
bị BLGĐ, nghiên cứu sử dụng các phương pháp sau đây:
Phương pháp CTXH cá nhân với NTT: được áp dụng để nghiên cứu về NTT tại
NNBY hỗ trợ PN và TE bị BLGĐ, dựa trên cách tiếp cận theo nhu cầu của Maslow,
tiếp cận dựa trên quyền, tiếp cận vì lợi ích tốt nhất, các kỹ năng phỏng vấn, lắng nghe,
tham vấn, đánh giá vấn đề,… trong suốt quá trình nghiên cứu và làm việc với NTT.
Phương pháp CTXH với gia đình: các kỹ năng thiết lập mối quan hệ, phỏng vấn,
tham vấn, thu thập thông tin, đánh giá vấn đề… trong quá trình nghiên cứu và làm việc
với gia đình NTT.
Phương pháp phỏng vấn sâu: tác giả xây dựng mẫu phiếu phỏng vấn sâu dành
7


cho 12 Cán bộ quản lý mô hình và điều phối hoạt động của NNBY nhằm thu thập các
thông tin từ người cung cấp dịch vụ và những người hỗ trợ TC về khả năng đáp ứng
cũng như tính hiệu quả của các dịch vụ, hoạt động trợ giúp cho NTT. Đồng thời cũng
nhằm kiểm tra lại mức độ tin cậy của các thông tin liên quan đến đề tài nghiên cứu thu
thập qua điều tra, quan sát.
Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi: Điều tra 60 thân chủ đang tạm trú tại Nhà
Bình yên để khảo sát về nhu cầu hỗ trợ cũng nhưchất lượng cung cấp dịch vụ
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
6.1. Ý nghĩa lý luận
Kết quả nghiên cứu của đề tài có thể làm rõ thêm những vấn đề lý luận trong
DVCTXH đối với nạn nhân bị BLGĐ, chỉ ra các yếu tố ảnh hưởng cũng như làm rõ
thêm các cơ sở pháp lý trong cung cấp DVCTXH đối với nạn nhân BLGĐ nói riêng và
nạn nhân bị BLG nói chung, góp phần tích cực vào công tác hỗ trợ PN và TE bị
BLGĐ và BL trên CS Giới.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn

Đề tài đề xuất một số định hướng và giải pháp có tính khả thi nhằm nâng cao hiệu
quả DVCTXH đối với NTT tại NNBY. Kết quả nghiên cứu có thể là nguồn tài liệu tham
khảo cho tổ chức và cá nhân nghiên cứu về DVCTXH đối với nạn nhân bị BLGĐ
Dưới góc độ tiếp cận của các lý thuyết, phương pháp công tác xã hội, nghiên cứu
góp phần nâng cao nhận thức của cán bộ quản lý mô hình, cán bộ nhân viên NNBY
đang cung cấp các DVCTXH tại các nhà tạm lánh hoặc các địa chỉ tin cậy. Nghiên cứu
giúp họ nhận thức đúng về hoạt động công tác xã hội chuyên nghiệp, ý thức được vai
trò của mình trong các hoạt động. Đây là nhân tố quyết định chất lượng các DVCTXH
đối với nạn nhân bị BLGĐ.
7. Cơ cấu của luận văn
Ngoài lời mở đầu, kết luận và phụ lục, nội dung chính gồm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về DVCTXH đối với NTT là nạn nhân của
BLGĐ.
Chương 2: Thực trạng DVCTXH đối với NTT tại NNBY hỗ trợ phụ nữ và trẻ em
bị BLGĐ tại NNBY.
Chương 3: Đề xuất một số định hướng và giải pháp nhằm nâng cao chất lượng
DVCTXH đối với NTT tại NNBY thuộc Trung tâm Phụ nữ và Phát triển.

8


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ DỊCH VỤ CÔNG TÁC XÃ HỘI
VỚI THÂN CHỦ BỊ BẠO LỰC GIA ĐÌNH
1.1. Khái niệm, đặc điểm và nhu cầu của Người tạm trú bị bạo lực gia đình.
1.1.1. Khái niệm người tạm trú và người tạm trú bị bạo lực gia đình
1.1.1.1 Người tạm trú là gì?
Theo quy định tại khoản 1 Điều 12 Luật cư trú. Nơi tạm trú là nơi công dân sinh
sống ngoài nơi đăng ký thường trú và đã đăng ký tạm trú. Vậy: Người tạm trú là
những người sinh sống tại 1 khu vực trong khoảng thời gian nhất định và có đăng ký

tạm trú theo thủ tục mà pháp luật Việt Nam quy định
Người tạm trú bị bạo lực gia đình tại Ngôi nhà Bình yên: là những người bị bạo
lực bởi các thành viên trong gia đình, bị mất an toàn hoặc gây nguy hiểm đến tính
mạng, phải đến tạm lánh tại Ngôi nhà Bình yên trong khoảng thời gian nhất định (Tối
thiểu là 3 tháng) và có đăng ký với chính quyền tại địa chỉ có Ngôi nhà Bình Yên
Khái niệm bạo lực
Từ các góc độ nghiên cứu khác nhau, gia đình được chia thành nhiều dạng thức:
gia đình hiện đại và gia đình truyền thống; gia đình hạt nhân và gia đình đa thế hệ; gia
đình khuyết thiếu và gia đình đầy đủ…
Trong tiếng Việt, bạo lực được hiểu là "sức mạnh dùng để cưỡng bức, trấn áp hoặc
lật đổ". Khái niệm này dễ làm người ta liên tưởng tới các hoạt động chính trị, nhưng trên
thực tế bạo lực được coi như một phương thức hành xử trong các quan hệ xã hội nói
chung. Các mối quan hệ xã hội vốn rất đa dạng và phức tạp nên hành vi bạo lực cũng rất
phong phú, được chia thành nhiều dạng khác nhau tùy theo từng góc độ nhìn nhận: bạo
lực nhìn thấy và bạo lực không nhìn thấy được; bạo lực với phụ nữ, với trẻ em…
1.1.1.2 Bạo lực gia đình là gì?
+ Theo Luật Phòng chống BLGĐ thì:
“BLGĐ là hành vi cố ý của thành viên gia đình gây tổn hại hoặc có khả năng
gây tổn hại về thể chất, tinh thần, kinh tế đối với thành viên khác trong gia đình
[Luật Phòng chống BLGĐ điều 1 mục 2].
+ Theo Liên Hiệp Quốc đã thông qua bản Tuyên ngôn về Xóa bỏ bạo lực đối với
phụ nữ thì:
9


Bạo lực đối với phụ nữ là “Bất kì một hành động bạo lực dựa trên cơ sở giới nào
dẫn đến hoặc có khả năng dẫn đến những tổn hại về thân thể, tình dục, tâm lý hay
những đau khổ của phụ nữ, bao gồm cả sự đe dọa có những hành động như vậy, sự
cưỡng bức hay tước đoạt một cách tùy tiện sự tự do, dù nó xảy ra ở nơi công cộng hay
trong cuộc sống riêng tư”. [24]

+ Theo Quĩ Dân số Liên Hiệp Quốc (UNFPA):
“Bạo lực trên cơ sở giới là bạo lực giữa nam giới và phụ nữ trong đó phụ nữ
thường là nạn nhân. Điều này bắt nguồn từ các mối quan hệ quyền lợi bất bình đẳng
giữa nam giới và phụ nữ. Bạo lực trên cơ sở giới bao gồm những tổn hại về thân thể,
tình dục và tâm lý (bao gồm cả sự đe dọa, gây đau khổ, cưỡng bức, hoặc tước đoạt sự tự
do xảy ra trong gia đình hoặc trong cộng đồng), nhưng nó không hạn chế chỉ ở những
dạng này. [23]
(Trong đề tài này chúng tôi sử dụng khái niệm Bạo lực gia đình của Luật Phòng
chống bạo lực gia đình).
1.1.1.3. Các hành vi bạo lực gia đình
Theo Luật Phòng chống BLGĐ ở điều 1 khoản 2 qui định BLGĐ gồm 9 nhóm
hành vi:
+ Hành hạ, ngược đãi, đánh đập hoặc hành vi cố ý khác xâm hại đến sức khỏe và
tính mạng.
+ Lăng mạ hoặc hành vi cố ý khác xúc phạm danh dự nhân phẩm
+ Cô lập, xua đuổi hoặc gây áp lực thường xuyên về tâm lý gây hậu quả nghiêm trọng.
+ Ngăn cản việc thực hiện quyền, nghĩa vụ trong quan hệ gia đình giữa ông, bà
và cháu; giữa cha, mẹ và con cái; giữa vợ và chồng; giữa anh, chị, em với nhau.
+ Cưỡng ép quan hệ tình dục.
+ Cưỡng ép tảo hôn, kết hôn, ly hôn hoặc cản trở hôn nhân tự nguyện, tiến bộ.
+ Chiếm đoạt, hủy hoại, đập phá hoặc có hành vi khác cố ý làm hư hỏng tài sản
riêng của thành viên khác trong gia đình hoặc tài sản chung của các thành viên gia đình.
+ Cưỡng ép thành viên gia đình lao động quá sức, đóng góp tài chính quá khả
năng lao động của họ, kiểm soát thu nhập của thành viên gia đình.
+ Có hành vi trái pháp luật buộc thành viên gia đình ra khỏi chỗ ở.
Theo đó, các loại hành vi kể trên có thể chia thành hai nhóm chính gồm: hành vi
BLGĐ về thể chất và hành vi BLGĐ về tinh thần:
* Hành vi BLGĐ về thể chất [24]:
10



- Dùng chân, tay để tát, đấm, đá, đạp, kéo tóc, bóp cổ.
- Dùng dây để trói.
- Dùng gậy, gộc để đánh.
- Dùng hung khí như dao, kéo, thanh sắt để đâm, chém.
- Dùng đồ vật ném vào người.
- Dùng than, vôi bột, ớt bộ… để hun khói cho ngạt thở.
- Và nhiều hành vi tương tự khác
* Hành vi BLGĐ về tinh thần [24]
- Dùng lời nói chửi bới, mắng nhiếc, đay nghiến nhằm hạ thấp hay xúc phạm
nhân phẩm.
- Có lời nói hay hành vi đe dọa, tống tiền, tống tình.
- Kiểm soát quan hệ xã hội, ngăn cản hoặc cấm không cho tự do giao tiếp xã hội,
giam lỏng trong nhà.
- Cố ý gây áp lực làm đối phương căng thẳng và phải chấp nhận điều gì đó mà họ
không muốn.
- Không cho hoặc dọa không cho gặp mặt, nuôi dưỡng con cái.
- Dùng lời nói hay hành động ngăn cản, đe dọa không cho ly hôn.
Như vậy: Hành vi BLGĐ được thể hiện rất đa dạng. Tuy nhiên, trên thực tế “nó
thường được che giấu hay ngấm ngầm tha thứ” (Phát biểu của Tổng thư kí Liên Hiệp
Quốc tại chiến dịch toàn cầu “Nói không với bạo hành phụ nữ” năm 2008). Để có thể
giúp mọi người nhận ra được hành vi BLGĐ và cùng nhau lên tiếng một cách đanh
thép, dõng dạc ở cấp cao nhất rằng bạo lực đối với phụ nữ và trẻ em ở bất kì hình thức
nào, vào bất kì tình huống nào và trong bất kì hoàn cảnh nào đều không thể dung tha
thì giải pháp chính là “Làm thay đổi thái độ, quan niệm của xã hội đối với hành vi
BLGĐ để hành vi đó không còn được coi là bình thường hay có thể chấp nhận trong
cuộc sống gia đình như vẫn thường diễn ra từ trước đến nay” [Phát biểu của Bà
Maniza Zaman – Phó đại diện Unicef tại Việt Nam năm 2008
1.1.1.4. Nguyên nhân bạo lực gia đình
Những yếu tố như rượu, ma tuý, cờ bạc, nghèo đói,… thường được xem là yếu tố

châm ngòi. Đây lại không phải là nguyên nhân gốc rễ của những hành vi bạo lực. Mọi
tầng lớp trong xã hội, trình độ văn hóa và bất kể giàu nghèo, tôn giáo, dân tộc, giới
tính, thành thị hay nông thôn đều có thể trở thành người sử dụng hành vi bạo lực hoặc
người bị bạo lực.
11


Nạn nhân của bạo lực gia đình gồm cả nam và nữ, nhưng trong phạm vi nghiên
cứu của đề tài, luận văn đề cập tới nạn nhân là phụ nữ vì 95% các trường hợp là phụ
nữ bị bạo lực.
Những nghiên cứu đã chỉ ra rằng nghèo đói, học thức, hay các chất kích thích
như bia, rượu, ma túy,...không phải là nguyên nhân dẫn đến bạo lực gia đình. Nguyên
nhân tiềm ẩn sâu xa xuất phát chính từ mối quan hệ bất bình đẳng về giới, về quyền
lực đã tồn tại trong xã hội với nhiều định kiến “đồng ý” người đàn ông thực hiện các
hành vi bạo lực và người phụ nữ cam chịu, chấp nhận xem đó như điều hiển nhiên.
Đây được xem là "xã hội gia trưởng".

Xã hội (Môi
trường rộng
lớn, chuẩn
mực văn
hóa)

- Cho phép nam giới
kiểm soát hành vi của
phụ nữ;
- Chấp nhận BL như
giải pháp.
- Quan niệm nam giới
là người có quyền.

- Duy trì chặt chẽ về
vai trò giới.

Cộng đồng
(hàng
xóm)

- Nghèo đói, đời
sống kinh tế thấp
- Tiếp xúc với
nhóm người vô
trách nhiệm
- Cô lập người
phụ nữ và gia
đình.

Gia đình (các
mối quan hệ
thân thiết)

- Xung đột
trong hôn nhân;
- Kiểm soát tài
sản gia đình;
- Lạm dụng
quyền lực trong
gia đình.

Cá nhân
(thủ phạm và

nạn nhân)

- Chứng kiến
bạo lực gia
đình khi còn
nhỏ;
- Sự vắng mặt
hay chối bỏ
của người cha;
- Đã từng bị
bạo lực khi còn
nhỏ.

Hình 1: Nguyên nhân của bạo lực gia đình xét theo các cấp độ: cá nhân, gia
đình, cộng đồng, xã hội [3]
1.2. Lý luận về dịch vụ công tác xã hội đối với người tạm trú bị bạo lực gia đình
1.2.1. Một số khái niệm:
1.2.1.1. Dịch vụ, dịch vụ xã hội
Dịch vụ là hoạt động có chủ đích nhằm đáp ứng nhu cầu nào đó của con người.
Đặc điểm của dịch vụ là không tồn tại ở dạng sản phẩm cụ thể hữu hình như hàng hoá
nhưng nó phục vụ trực tiếp nhu cầu nhất định của xã hội.
Dịch vụ xã hội là các hoạt động cụ thể được xây dựng trên cơ sở chính sách xã
hội được triển khai nhằm đáp ứng nhu cầu cá nhân, gia đình và cộng đồng, nhằm giải
12


quyết những vấn đề xã hội. Các dịch vụ xã hội là các hoạt động của nhân viên xã hội
và những nhà chuyên nghiệp khác nhằm nâng cao sức khỏe và chất lượng sống của
con người và giúp đỡ con người không phụ thuộc; củng cố các mối quan hệ gia đình;
khôi phục chức năng xã hội đối với cá nhân, gia đình, nhóm và cộng đồng (Whitaker

anh Federico, 1990) [17].
Theo tác giả Trần Hậu, Đoàn Minh Tuấn (2012) cho rằng: dịch vụ xã hội là dịch
vụ đáp ứng nhu cầu của cộng đồng cá nhân nhằm phát triển xã hội, có vai trò đảm bảo
phúc lợi xã hội, đề cao giá trị pháp lý, nhân văn, vì con người; là hoạt động mang bản
chất kinh tế - xã hội, do nhà nước, thị trường hoặc xã hội dân sự cung ứng, tùy theo
tính chất thuần công, không thuần công hay tư của từng loại hình dịch vụ, bao gồm các
lĩnh vực: giáo dục - đào tạo, y tế, khoa học - công nghệ, văn hóa - thông tin, thể dục thể thao và các trợ giúp xã hội khác.
Như vậy dịch vụ xã hội là hoạt động, đáp hỗ trợ nhằm đáp ứng nhu cầu cho các
cá nhân, nhóm người nhất định để bảo đảm các giá trị và chuẩn mực xã hội. Dịch vụ
công tác xã hội là các hoạt động có chủ đích của con người nhằm phòng ngừa - hạn
chế và khắc phục rủi ro, đảm bảo đáp ứng được nhu cầu cơ bản và thúc đẩy khả năng
hoà nhập cộng đồng, xã hội cho nạn nhân vị bạo lực gia đình.
1.2.1.2. Khái niệm Công tác xã hội
Theo IFSW và IASSW (2011): Công tác xã hội được xem như một là nghề nghiệp
tham gia vào giải quyết vấn đề liên quan tới mối quan hệ của con người và thúc đẩy sự
thay đổi xã hội, tăng cường sự trao quyền và giải phóng quyền lực nhằm nâng cao chất
lượng sống của con người. CTXH sử dụng các học thuyết về hành vi con người và lý
luận về hệ thống xã hội vào can thiệp sự tương tác của con người với với môi trường
sống [15, tr.7].
Theo tác giả Bùi Thị Xuân Mai (2010): Công tác xã hội được xem là một nghề,
hoạt động chuyên nghiệp nhằm trợ giúp các cá nhân, gia đình và cộng đồng nâng cao
năng lực đáp ứng nhu cầu và tăng cường chức năng xã hội, đồng thời thúc đẩy môi
trường xã hội về chính sách, nguồn lực và dịch vụ nhằm giúp cá nhân, gia đình và
cộng đồng giải quyết và phòng ngừa các vấn đề xã hội góp phần đảm bảo an sinh xã
hội [32].
Như vậy, từ các quan niệm trên có thể khẳng định: CTXH là một nghề, một hoạt
động chuyên nghiệp, một khoa học thực hiện nhiệm vụ chức năng xã hội giao phó và
được xã hội thừa nhận. Các chính sách, chương trình và dịch vụ CTXH được triển khai
13



bởi bộ máy tổ chức theo một ngành dọc và liên ngành. Bên cạnh đó, CTXH được thực
hiện trên một nền tảng hệ giá trị, nguyên tắc, yêu cầu nghề nghiệp theo quy định của
pháp luật. Đồng thời, CTXH còn là một ngành khoa học, bao gồm hệ thống kiến thức
lý thuyết và kỹ năng thực hành được đào tạo ở nhiều trình độ khác nhau.
1.2.1.3. Khái niệm dịch vụ công tác xã hội
Dịch vụ công tác xã hội có thể được coi là một loại hình dịch vụ xã hội được
cung cấp bởi nhân viên công tác xã hội [31].
DVCTXH là một hoạt động chuyên nghiệp của Công tác xã hội gồm hoạt động
của các nhân viên công tác xã hội hoặc những nhà hoạt động xã hội nhằm hỗ trợ, kết
nối các cho các đối tượng yếu thế trong xã hội được tiếp cận các dịch vụ xã hội phù
hợp để đáp ứng các nhu cầu cơ bản của các đối tượng này với mục tiêu khắc phục rủi
ro, giúp cho con người phát triển mà không bị phụ thuộc, góp phần đảm bảo an sinh xã
hội [35].
1.2.1.4. Khái niệm Dịch vụ công tác xã hội với NTT bị BLGĐ:
Dịch vụ công tác xã hội cho các nhóm yếu thế chính là việc cung cấp các hoạt
động mang tính chất phòng ngừa – khắc phục rủi ro và hòa nhập cộng đồng cho các
nhóm đối tượng yếu thế dựa trên các nhu cầu cơ bản của họ nhằm đảm bảo các giá trị
và chuẩn mực xã hội.
DVCTXH đối với NTT bị BLGĐ là hoạt động chuyên nghiệp của công tác xã hội
nhằm cung cấp các DVCTXH đầy đủ, phù hợp và đặc thù để đáp ứng, hỗ trợ các nhu
cầu của NTT bị BLGĐ với mục tiêu giúp các nạn nhân khắc phục những hậu quả do
BLGĐ gây ra và hỗ trợ giải quyết những khó khăn trong cuộc sống về thể chất, tinh
thần, nhằm đáp ứng nhu cầu của NTT để hỗ trợ họ chấm dứt bạo lực, giúp họ có cuộc
sống bình thường, được phát triển bình đẳng và hòa nhập với cộng đồng xã hội, mang
lại sự công bằng và bình đẳng cho NTT trong xã hội [16]
1.1.2. Đặc điểm và nhu cầu của người tạm trú bị bạo lực gia đình.
1.1.2.1 Đặc điểm của NTT bị BLGĐ
Trước tiên, khái niệm nạn nhân bị bạo lực gia đình theo Luật Phòng chống bạo
lực gia đình “là người phải chịu một trong các hành vi thuộc Điều 2 – các hành vi bạo

lực gia đình” nêu trên.
Người tạm trú là thuật ngữ Ngôi Nhà Bình yên (nhà tạm lánh) sử dụng để gọi
thân chủ (hoặc nạn nhân) bị BLGĐ là những người có các tiêu chí sau:
+ Là nạn nhân bị BLGĐ
14


+ Thiếu môi trường sống an toàn hoặc/và khó khăn về kỹ năng, sinh kế (sống
phụ thuộc, thiếu việc làm, ..)
+ Tự nguyện xin tạm lánh (viết đơn đề nghị tạm lánh tại NNBY bạo lực 3 tháng;
NNBY mua bán 6 tháng)
+ Có nhu cầu hỗ trợ giải quyết vấn đề bạo lực hoặc hậu quả của bạo lực hoặc/và
bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng...
+ Có năng lực hành vi dân sự (không mắc các bệnh tâm thần)
Phụ nữ bị bạo lực gia đình chịu ảnh hưởng nặng nề về thể chất lẫn tinh thần.
Về thể chất, sức khỏe thể chất của phụ nữ bị BLGĐ tuỳ thuộc vào tần xuất, mức
độ bạo lực, loại hình bạo lực mà họ đã trải qua; tuỳ thuộc vào nguồn lực hỗ trợ, điều
kiện chăm sóc y tế và sự quan tâm của gia đình... Nhiều phụ nữ bị bạo lực thể chất, sức
khỏe bị giảm sút nghiên trọng; mặt mũi và thân thể bầm tím bởi những lần bị huỷ hoại,
bị đánh đập, thậm chí có người bị tàn tật suốt đời hoặc bị tử vong.
Về tâm lý, đặc điểm tâm lý của mỗi phụ nữ trải qua BLGĐ không hoàn toàn
giống nhau vì nó cũng tuỳ thuộc tính cách cá nhân, tuổi tác, trình độ nhận thức và mức
độ bạo lực, loại hình bạo lực mà phụ nữ đó trải qua. Sau đây là một số đặc điểm nổi
bật thường thấy ở nhiều nạn nhân của BLGĐ. Tuy nhiên khi hỗ trợ, nhân viên xã hội
cần trực tiếp đánh giá với mỗi thân chủ của mình mà không mặc định trước:
Tâm lý lo lắng, căng thẳng, sợ hãi: Con người xuất hiện lo lắng, sợ hãi là khi họ
bị ở vào tình huống nguy hiểm đến sức khỏe, tính mạng, đến sự an toàn của bản thân.
Những người cần trợ giúp trong lĩnh vực phòng, chống BLGĐ, mua bán người, xâm
hại tình dục đều đã trải qua sự mất an toàn, mất hoặc khó có thể tự kiểm soát được
cuộc sống của mình. Do vậy, họ dễ rơi vào trạng thái bất an, hoặc cảnh giác quá mức.

Trạng thái này có chức năng giúp họ đảm bảo sự an toàn cho mình, nhưng ngược lại,
nếu nó kéo dài sẽ gây ra sự suy kiệt về sức khỏe thể chất, khó tập trung, khó tư duy và
có vấn đề trí nhớ.
Tâm trạng buồn rầu, chán nản hoặc nghĩ tới tự tử (hoặc đã từng tự tử): Cảm xúc
này thường đi kèm với suy nghĩ thất vọng về bản thân, về cuộc sống, về tương lai, mọi
việc không xảy ra như mình mong đợi. Nếu xét về mặt suy nghĩ, họ thấy bản thân thấp
kém và tự ti. Vì quan niệm của xã hội sự việc xảy ra là do lỗi của người phụ nữ "cô ta
phải thế nào mới bị đánh, mới bị xâm hại...", với phụ nữ bị BLGĐ, việc người chồng/
bạn tình thường dùng bạo lực tinh thần, xỉ nhục, chê bai, đổ lỗi càng khiến cho người
phụ nữ nhìn nhận mình thấp hơn thực tế những giá trị họ có.
15


Nuôi niềm hy vọng: Phụ nữ trải qua BLGĐ thường có niềm hy vọng rằng chồng
sẽ thay đổi, đây là một trong những lý do khiến họ khó từ bỏ người gcó HVBL.
Sang chấn tâm lý: Là một sự kiện gây ra sự kinh hãi hay hoảng sợ cực độ hay
cảm giác bất lực vô vọng. Trong quá trình sang chấn, nạn nhân trải qua cảm giác căng
thẳng cực độ vì cảm giác bị đe doạ đến tính mạng, hay sự tổn thương nghiêm trọng
đến thể chất và sự toàn vẹn thể chất, tinh thần của bản thân hay người khác. Sự kiện
sang chấn có thể phá huỷ niềm tin cơ bản của con người về: cảm giác an toàn, hình
ảnh bản thân và ý nghĩa của cuộc sống. Một số sự kiện sang chấn tiêu biểu như: hiếp
dâm, chiến tranh, động đất, tra tấn, đánh đập... Cá nhân có thể có dấu hiệu của sang
chấn như sống lại sự kiện sang chấn, cảm thấy tê liệt cảm xúc, tri giác sai lệch thực tại;
Né tránh đề cập, tiếp xúc sự kiện sang chấn; và trạng thái cảnh giác, đề phòng quá
mức...Ngoài ra, họ còn có những khó khăn khác như trí nhớ kém hoặc suy nghĩ sai
lệch; khả năng tư duy hạn chế, khó khăn trong gia quyết định và tự chủ cuộc sống...
Về các mối quan hệ xã hội và giao tiếp, do nhận thức hạn chế, hoàn cảnh sống
phụ thuộc, phụ nữ bị BLGĐ thường có mặc cảm với thân phận của mình; Họ thường
rụt rè, tự ti, ngại tiếp xúc với bên ngoài; phạm vi giao tiếp hẹp, ít tham gia các hoạt
động tập thể hoặc nếu phải tham gia thì họ cũng rất e ngại khi phải trình bày ý kiến,

quan điểm của mình; Đa số là không có chính kiến, không dám lên tiếng trong các
cuộc họp ở cộng đồng hoặc có ý kiến thì cũng ở mức độ rất khiêm tốn do không đủ tự
tin để tham gia tích cực; Họ không dám làm những việc lớn lao, quan trọng; Họ
thường nghĩ rằng mình không bao giờ làm được những việc như nam giới vẫn làm nên
không dám vươn lên học hỏi những kiến thức mới, hiện đại, từ đó dẫn đến hạn chế về
khả năng nhận thức và khả năng tạo thu nhập; Điều này khiến họ thu mình lại, ngại
giao tiếp và tiếp xúc; tự cô lập bản thân, tự tách mình ra khỏi gia đình và cộng đồng.
Hơn nữa trong xã hội, nạn nhân của BLGĐ vẫn còn bị kỳ thị nên họ cũng ít được tham
gia vào các hoạt động của cộng đồng với tư cách tham mưu, đóng góp ý kiến và tham
gia ra quyết định về các vấn đề của cộng đồng; Điều này ảnh hưởng tới hoạt động
phòng, chống BLGĐ. Nếu không thực sự quan tâm tới họ, tạo điều kiện cho họ thể
hiện mình và tham gia vào các hoạt động của cộng đồng thì chúng ta không thể biết họ
như thế nào, họ thiếu gì, cần gì ở xã hội, cần cái gì để thay đổi tâm lý, thay đổi cách
nghĩ, thay đổi quan điểm sống, thay đổi cuộc sống khó khăn của họ.
Ngoài những đặc điểm trên, phụ nữ bị BLGĐ luôn phải đối mặt với những rào
cản về giao tiếp, ngôn ngữ hay văn hoá. Họ không tin rằng công an hay hệ thống tư
16


pháp có thể ngăn chặn tình trạng bạo lực, rằng các cơ quan chức năng có thể giúp đỡ
hay bảo vệ cho họ; họ hy vọng vào sự thay đổi của chồng, bao biện cho hành động của
chồng, cho rằng cam chịu sống với chồng thì sẽ tốt hơn cho các con. Họ không tin
tưởng vào sự can thiệp, trợ giúp của chính quyền và cộng đồng. Nhiều phụ nữ bị bạo
lực gia đình chưa bao giờ tìm kiếm sự hỗ trợ từ các dịch vụ chính thống hoặc từ những
người có thẩm quyền. Nếu họ có tìm kiếm sự hỗ trợ thì cũng là khi bạo lực đã nghiêm
trọng và người họ thường tìm đến là lãnh đạo địa phương. Thường thì họ cảm thấy
không được hỗ trợ bởi lẽ chính những cán bộ này cho rằng bạo lực gia đình là một vấn
đề thuộc phạm vi gia đình. Hành vi cư xử của nạn nhân thường là cách bảo đảm sự
sống còn cho chính họ.
Phụ nữ bị BLGĐ còn bị lệ thuộc vào người gây bạo lực về tình cảm. Họ có niềm

tin mãnh liệt rằng cần phải giữ gìn quan hệ vợ chồng và các thành viên trong gia đình
cần ở chung với nhau. Họ tin rằng tự mình có thể giải quyết sự việc vào tương lai.
1.1.2.2. Nhu cầu của Người tạm trú bị bạo lực gia đình.
NTT bị BLGĐ cũng có tất cả những nhu cầu như người bình thường (Bậc thang
nhu cầu của Maslow) nhưng do hậu quả của BLGĐ, đặc điểm về thể chất và tâm lý
nên NTT bị BLGĐ có những nhu cầu nhu cầu đặc biệt sau đây (bên cạnh những nhu
cầu cơ bản của con người):
- Nhu cầu đảm bảo an toàn của NTT bị BLGĐ là ưu tiên hàng đầu bởi vì nạn
nhân đã bị bạo lực và mất an toàn ngay trong chính ngôi nhà của mình. Nhu cầu về an
toàn không chỉ về thể chất mà còn cả về tâm lí (nguy cơ tự tử) và được xác định trong
các môi trường khác nhau: ở nhà, nơi công cộng, đền phòng tham vấn, các cơ quan
chính quyền hoặc ngay cả khi đã dời bỏ khỏi người gây bạo lực. Hầu hết các NTT đều
phải trải qua những trạng thái tâm lý khiếp sợ người gây bạo lực.
- Nhu cầu hỗ trợ, trợ giúp pháp lý: Nghiên cứu cho thấy, hầu hết những người sống
trong bạo lực đều bị vi phạm quyền 1 cách nghiêm trọng. Do đó, họ cần được trợ giúp
pháp lý để chấm dứt tình trạng bạo lực và bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng cho NTT.
- Nhu cầu được tham vấn và trị liệu: NTT là nạn nhân của BLGĐ nên đã trải qua rất
nhiều sang chấn nặng nề đặc biệt là tinh thần nên họ có nhu cầu được lắng nghe, chia sẻ và
tăng cường các kỹ năng sống nhằm giúp họ ứng phó, đối diện với tình trạng bị bạo lực.
- Nhu cầu được thể hiện bản thân và được người khác tôn trọng: nhiều NTT có
lòng tự trọng cao. Tuy nhiên, một số người sau khi bị BLGĐ nghiêm trọng thường
không nhận ra giá trị và khả năng của chính mình nên không đánh giá đúng vai trò của
17


mình đối với các mối quan hệ trong xã hội. Vì vậy mong muốn của họ là được thể hiện
bản thân, được sự tôn trọng để xóa bỏ tình trạng đổ lỗi do NTT của cộng đồng.
1.2.2. Cách tiếp cận và yêu cầu đối với nhân viên công tác xã hội khi cung cấp
dịch vụ công tác xã hội cho người tạm trú bị bạo lực gia đình
1.2.2.1. Tiếp cận theo nhu cầu

Tiếp cận theo nhu cầu của NTT bị BLGĐ là cách tiếp cận dựa trên việc đáp ứng
tốt nhất các dịch vụ công tác xã hội đối với các nhu cầu của NTT.
Đây là cách tiếp cận mang tính nhân văn vì coi trọng NTT bị BLGĐ và nhu cầu
của họ. Tiếp cận theo nhu cầu đặt NTT bị BLGĐ và những đặc điểm riêng của họ vào
vị trí trung tâm. Mỗi đối tượng cụ thể và nhất là đối với từng cá nhân cụ thể lại có
những nhu cầu khác nhau. Tính nhân văn còn được thể hiện ở việc tin tưởng NTT bị
BLGĐ hoàn toàn có khả năng tự giải quyết vấn đề của chính mình bởi bị họ chính là
“chuyên gia” của cuộc đời mình. Đối với NTT bị BLGĐ điều này có ý nghĩa rất quan
trọng vì giúp họ thấy được mình có giá trị, được tôn trọng, xóa bớt tâm lý mặc cảm và
những ám ảnh tâm lý do hậu quả bạo lực gây nên.
Theo nhà tâm lý học người Mỹ Abraham Maslow - người được xem là “cha đẻ”
của lý thuyết nhu cầu cho rằng, hành vi của con người bắt đầu từ nhu cầu của họ. Nhu
cầu tự nhiên của con người được chia thành các bậc thang khác nhau và ông chia các
nhu cầu đó thành nhu cầu cơ bản và nhu cầu bậc cao. Nhu cầu cơ bản bao gồm các nhu
cầu về vật chất và nhu cầu an toàn. Nhu cầu bậc cao bao gồm các nhu cầu về xã hội và
nhu cầu về tôn trọng, nhu cầu về phát triển [16, tr.21].
Tiếp cận theo nhu cầu sẽ giúp nhân viên xã hội tránh được việc đánh đồng và chủ
quan khi cung cấp dịch vụ hỗ trợ. Thay vào đó NVXH cần phải biết lắng nghe để cảm
thông một cách sâu sắc với những mong muốn của NTT bị BLGĐ, họ sẽ tìm kiếm
những nhu cầu thực mà NTT bị BLGĐ đang mong muốn được thỏa mãn để cung cấp
đúng các dịch vụ cũng như các hỗ trợ cần thiết, hợp lý, đạt hiệu quả, tránh việc quyết
định thay, làm thay hoặc không cung cấp đúng nhu cầu sẽ làm cho NTT chán nản,
thiếu tin tưởng.
Việc tiếp cận theo nhu cầu phải theo hai hướng là nhu cầu cần và nhu cầu cảm.
Nhu cầu cần là những nhu cầu cơ bản của NTT bị BLGĐ, còn nhu cầu cảm là nhu cầu
mà NVXH thấy là cần NTT.
1.2.2.2. Tiếp cận Đáp ứng các nhu cầu giới thực tế và nhu cầu giới chiến lược.
Nhu cầu giới là các mong muốn và đòi hỏi đặc trưng, khác biệt giữa nữ và nam
18



trong một bối cảnh, điều kiện nhất định hay trong một hệ thống xã hội cụ thể.
Mọi người đóng vai trò khác nhau trong gia đình và xã hội (làm cha, làm mẹ với các
điều kiện xã hội, nguồn lực khác nhau), vì vậy mà nhu cầu của họ khác nhau.
Để có thể áp dụng phương pháp tiếp cận dựa trên quyền trong ứng phó với bạo lực
giới, chúng ta phải giải quyết cả nhu cầu giới thực tế và chiến lược của các bên liên
quan, đặc biệt là phụ nữ.
Nhu cầu giới thực tế
Nhu cầu giới thực tế là những nhu cầu có
liên quan đến cải thiện điều kiện sống
hiện tại nhưng vẫn duy trì mối quan hệ lệ
thuộc của phụ nữ vào nam giới (lệ thuộc
về kinh tế, trong việc ra quyết định…).
Tập trung vào việc cải thiện chất lượng
cuộc sống tạo điều kiện sống tốt hơn cho
phụ nữ và trẻ em gái để tránh cho họ đi
vào suy nghĩ hy sinh tất cả cho các thành
viên khác trong gia đình.
Những nhu cầu này thường liên quan đến
điều kiện sống sót hoặc thể chất: cung
cấp thức ăn, nhà tạm lánh, quần áo, hoặc
chăm sóc sức khỏe
Liên quan đến chức năng của phân công
lao động, tiếp cận và kiểm soát nguồn
lực, ra quyết định
Đáp ứng nhu cầu giới thực tiễn là giải
quyết được các bất cập và bất bình đẳng
giới trước mắt

Nhu cầu giới chiến lược

Nhu cầu giới chiến lược là những nhu cầu
giúp cho người phụ nữ thoát khỏi vị trí lệ
thuộc, yếu kém, làm thay đổi mối quan hệ
bất bình đẳng giữa nam và nữ.
Tập trung vào việc thay đổi vai trò và định
kiến giới đang tồn tại (đang duy trì địa vị
thấp kém của phụ nữ), từ đó giúp cho phụ
nữ và trẻ em gái được đảm bảo quyền bình
đẳng.
Thường liên quan đến việc tiếp cận với học
tập, độc lập về kinh tế, tự chủ, tự do cá
nhân, sự tham gia vào chính trị và xã hội.

Những thách thức của phân công lao động,
tiếp cận và kiểm soát nguồn lực, ra quyết
định
Đáp ứng nhu cầu giới chiến lược sẽ làm
thay đổi mối quan hệ quyền lực giữa nam
giới và phụ nữ, sẽ góp phần giải quyết được
những nguyên nhân của bất bình đẳng giới
1.2.2.3. Tiếp cận dựa trên quyền con người
Theo từ điển tiếng Việt: “Quyền con người là những quyền tự nhiên của con

người và không bị tước bỏ bởi bất cứ ai và bất cứ chính thể nào” [6].
Tiếp cận dựa trên quyền con người có chứa đựng các nguyên tắc, tiêu chuẩn và
mục tiêu của hệ thống quyền con người trong quá trình lập kế hoạch, cũng như tiến
trình thực hiện các hoạt động CTXH [16, tr.21].
Theo cách tiếp cận này, NTT bị BLGĐ cũng có các quyền như người bình
thường. Do đó, nhà nước phải có trách nhiệm thực thi, đảm bảo các quyền cho NTT bị
BLGĐ để họ trở thành những công dân có ích cho sự phát triển xã hội. Tuy nhiên,

cách tiếp cận này không tuyệt đối hóa quyền mà lãng quên đi nghĩa vụ mà quyền và
trách nhiệm phải đi đôi với nhau.
19


Tiếp cận dựa trên bảo đảm các quyền của NTT là cách tiếp cận các dịch vụ đảm bảo
NTT bị BLGĐ được thực hiện đầy đủ các nhóm quyền của con người. Ngoài ra, với cách
tiếp cận theo quyền có thể đánh giá DVCTXH đối với NTT bị BLGĐ tại NNBY đã đáp
ứng đầy đủ theo các quyền NTT bị BLGĐ được hưởng hay chưa? Những yếu tố nào ảnh
hưởng đến việc tiếp cận các quyền của NTT bị BLGĐ tại NNBY?
Phần lớn thân chủ tại NNBY thuộc mức độ bạo lực đặc biệt nghiêm trọng (chịu
nhiều dạng bạo lực khác nhau), NTT gặp nhiều khó khăn trong nhận thức về quyền
của mình. Vận dụng cách tiếp cận này trong quá trình nghiên cứu đề tài, tác giả sẽ làm
rõ vai trò của nhân viên CTXH với tư cách là người biện hộ cho đối tượng khi đối
tượng đã hoặc chưa nhận thức được về quyền của họ. Theo nghĩa đó, nhân viên CTXH
là người kết nối giữa chủ thể mang quyền và chủ thể nghĩa vụ, là người đại diện khi
chủ thể mang quyền chưa ý thức được về quyền của họ và chủ thể nghĩa vụ chưa đáp
ứng được quyền cho NTT.
1.2.3. Các dịch vụ công tác xã hội đối với Người tạm trú bị bạo lực gia đình
Dịch vụ hỗ trợ tại Ngôi Nhà Bình yên: Khi vào NNBY, phụ nữ, trẻ em được gọi
tên thân mật là NTT, được tiếp cận các dịch vụ hỗ trợ toàn diện theo phương pháp tiếp
cận dựa trên quyền, với phương châm lấy NTT làm trọng tâm.

Nơi ăn ở an
toàn
Dịch vụ đào
tạo nghề và
giới thiệu
việc làm


Dịch vụ tham
vấn tâm lý
Phụ nữ bị bạo
lực gia đình

Dịch vụ đào
tạo nâng cao
năng lực

Dịch vụ chăm
sóc sức khỏe
Dịch vụ hỗ
trợ pháp lý

1.2.3.1. Dịch vụ cung cấp nơi ăn ở an toàn
NNBY cung cấp chỗ ăn ở an toàn dài hạn cho phụ nữ và con cái họ, có nhân viên
bảo vệ 24/7 và địa điểm được giữ bí mật. Đối với phần lớn các phụ nữ đến với nhà tạm
lánh, thì đây là lần đầu tiên sau nhiều năm họ được sống trong một môi trường không
20


×