Tải bản đầy đủ (.docx) (17 trang)

Đề cương triết cao học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (153.32 KB, 17 trang )

ĐỀ CƯƠNG TRIẾT HỌC
NỘI DUNG:
1. Trình bày tư tưởng triết học Phật giáo và ảnh hưởng đến tư tưởng triết học Việt Nam
2. Trình bày tư tưởng triết học Democrit
3. Trình bày nhận thức luận và vấn đề phương pháp trong triết học của F. Bê cơn
4. Tại sao nói phép biện chứng duy vật là đỉnh cao nhất trong sự phát triển của phép biện
chứng
5. Học thuyết hình thái kinh tế xã hội là gì? Tại sao lại nói kinh tế xã hội là tất yếu khách
quan
6. Điều kiện, tiền đề ra đời triết học Mác

Chú ý:
Câu 3: Tính chất của P.B.C: Đối lập với phương pháp tư duy siêu hình, biện chứng, BĐ và phát
triển
Câu 4: Nội dung của pp biện chứng duy vật: 2 nguyên lý – phải trình bày cụ thể. 3 quy luật cơ
bản – phải trình bày cụ thể, 6 cặp phạm trù cơ bản cần trình bày cụ thể.
Câu 5: PPBC Duy vật là sự tổng hợp giữa chủ nghĩa duy vật khoa học và phép biện chứng là sự
tổng hợp giữa thể giới quan và phương pháp luận.
Câu 6: Phép biện chứng duy vật không chỉ giải thích thế giới mà còn là công cụ cải tạo thế giới


Câu 1: Tư tưởng triết học trong Phật giáo nguyên thủy và ảnh hưởng của nó tới tư
tưởng triết học Việt Nam
I.
1.

2.
-

Triết học Ấn Độ và sự ra đời của Phật giáo nguyên thủy
Điều điện lịch sử ảnh hưởng đến sự ra đời của Triết học Ấn Độ cổ đại


Ấn Độ là một bán đảo thuộc Nam Á. Lịch sử Ấn Độ cổ đại có thể chia thành 3 thời kỳ:
Thời kỳ văn minh sông Ấn: Khoảng 2.500 năm tr.CN, nền văn minh có nhà nước, có chữ viết
và là nền văn minh thành thị.
Thời kỳ Veda: Khoảng 1.500 năm tr.CN xuất hiện bộ kinh Veda ghi lại toàn bộ đời sống vật
chất, tinh thần của người Ấn.
Thế kỷ VI – IV tr.CN đây là thời kỳ phát triển sôi động nhất cả về kinh tế, khoa học, xuất
hiện các tư tưởng, hệ phái triết học khác nhau, nơi nảy sinh những hệ phái triết học đồ sộ.
Hệ thống Triết học Ấn Độ cổ đại
Căn cứ vào kinh Veda có thể chia hệ thống triết học ở Ấn Độ cổ đại thành 2 trường phái:
Chính thống: Tuân thủ kinh Veda gồm Mimànsà, Vedànta, Sàmkhuya, Yoga, Nyàya,
Vaisesika
Phi chính thống (tà giáo): phát triển kinh Veda gồm Lokayata, Jaina, Phật giáo (phật giáo là
một tà giáo, nhưng vẫn chữa nhưng học thuyết truyết học sâu sắc).
3.Nội dung tư tưởng triết học Phật giáo nguyên thủy
a) Thế giới quan
Quan điểm Phập giáo về thế giới có tính chất duy vật vô thần và biện chứng sơ khai.
Duy vật vô thần ở chỗ Phật giáo quan niệm thế giới là thế giới vật chất tồn tại vô số các sự
vật, hiện tượng mà sách Phật gọi là các pháp, vũ trụ là vô số các pháp, bản thể là hạt vật chất
nhỏ bé cấu tạo nên các pháp. Thế giới không phải da thần linh tạo ra.
Biện chứng sơ khai ở chỗ chỉ ra các quy luật vận động của thế giới. Thế giới các pháp luôn
vận động biến đổi tuân theo các quy luật nhất định:
- Quy luật vô thường vô ngã
Thế giới sự vật hiện tượng luôn luôn vận động không ngừng, biến đổi, không đứng im,
không dừng lại, không có bắt đầu, không có kết thúc theo chu trình: sinh, trụ, dị, diệt tức sinh
ra, tồn tại, phát triển, mất đi. Không phải cứ sinh ra mới gọi là sinh, mất đi là diệt mà trong
sinh có diệt, trong diệt có sinh, sinh và diệt là hai quá trình xảy ra đồng thời trong một sự vật,
hiện tượng cũng như toàn vũ trụ. Sự sinh ra của pháp này là hư hoại của pháp khác.
- Quy luật nhân quả
Thế giới sự vật, hiện tượng biến thiên theo chu trình sinh trụ dị diệt theo quy luật nhân quả.
Giữa nhân và quả phải có duyên, nhân duyên hòa hợp thì vạn vật sinh ra, nhân duyên không

hòa hợp thì vạn vật tan rã.
- Quy luật sắc không
Sắc là danh từ Phật học chỉ sự tồn tại của các sự vật, hiện tượng có hình tướng. Không là
những sự vật hiện tượng không có hình tướng nhưng vẫn tồn tại. Sắc tức thị không, không
tức thị sắc. Sắc tức là không, không tức là sắc. Sắc bất dị không, không bất dị sắc. Sắc không
khác không, không không khác sắc. Bản chất sự tồn tại thế giới là một dòng chuyển liên tục
(Vô thường), không thể tìm ra nguyên nhân đầu tiên, không có ai sáng tạo ra thế giới, không
có cái gì là vĩnh hằng. Có mà như không, không mà lại như có.
b) Nhân sinh quan


II.
1.

Quan điểm Phật giáo về con người cũng có tính duy vật vô thần và biện chứng sơ khai.
Con người là một pháp đặc biệt của vũ trụ là sự thống nhất giữa 2 mặt tâm lý và sinh lý. Con
người sinh ra và mất đi luân hồi do nghiệp chi phối theo quy luật nhân quả.
Mục đích cuối cùng của Phật ra tìm ra con đường thoát khổ, đưa chúng sinh ra khỏi vòng
luân hồi bất tận. Để đi tới giải thoát, Phật đưa ra tứ diệu đế:
1.Khổ đế: đời là bể khổ “ Bát khổ” sinh, lão, bệnh, tử khổ, thụ biệt ly khổ, oán tăng hội khổ,
ngũ thụ uẩn khổ, sở cầu bất đắc khổ.
2.Nhân đế: mọi nỗi khổ đều có nguyên nhân “ Thập nhị nhân duyên”:
- Vô minh: là trạng thái mê hoặc, tối tăm, nhẫm lẫn, ngu dốt, không minh mẫn, sáng suốt
đúng đắn. Không nhận thức được thế giới là ảo, là giả mà cứ cho là thực. Đề cao cái tôi. Mọi
vật do các duyên hòa hợp mà thành.
- Hành: hoạt động của ý thức, dao động của tâm của khuynh hướng, đã có manh nha của
nghiệp.
- Thức: tâm từ chỗ trong sáng, cân bằng (minh) trở nên ô nhiễm, mất cân bằng. Cái tâm thức
đó tùy theo nghiệp lực tìm ra các nhân duyên khác nhau để hiện hình.
- Danh – sắc: Sự hội họp của các yếu tố vật chất và tinh thần. Đối với loài hữu hình thì sinh

ra Lục căn (mắt, mũi, tai, lưỡi, thân thể và ý thức)
- Lục nhập: là quá trình tiếp xúc với thế giới xung quanh. Lục căn tiếp xúc với Lục trần (sắc,
thanh, hương, vị, xúc, pháp)
- Xúc: Sự tiếp xúc, phối hợp giữa Lục căn, Lục trần với Thức.
- Thụ: Là cảm giác, do tiếp xúc mà nảy sinh ra yêu, ghét, buồn, vui
- Ái: là yêu thích chỉ sự nảy sinh dục vọng
- Thủ: có yêu thích thì muốn giữ lấy, muốn sở hữu
- Hữu: xác định chủ thể chiếm hữu (cái ta) thì phải tồn tại (hữu) tức đã có hành động tạo
nghiệp.
- Sinh: đã có tạo nghiệp (hữu) tức là có nghiệp nhân thì ắt có nghiệp quả, tức là phải sinh ra
ta.
- Lão-tử: đã có sinh tất có già và chết đi.
12 nguyên nhân này có liên quan đến nhau suy cho cùng thì đều do “vô minh” mà ra.
3.Diệt đế Khẳng định cái khổ có thể tiêu diệt được, loại trừ được luân hồi.
4. Đạo đế: “Bát chính đạo” con đường tiêu diệt vô minh:
Chính kiến, chính tư duy, chính ngữ, chính nghiệp, chính mệnh, chính tinh tiến, chính niệm,
chính định.
Theo con đường “ Bát chính đạo” con người có thể diệt trừ được “vô minh”, giải thoát và
nhập vào niết bàn.
Kết luận: Mặc dù có những đóng góp tích cực về mặt tu dưỡng đạo đức của con người, Phật
giáo không tránh khỏi các mặt hạn chế như thủ tiêu tính đấu tranh, chí tiến thủ của con
người, xa rời thực tế. Các lĩnh vực làm kinh doanh, buôn bán sinh lợi nhuận đi ngược với
giáo lý nhà Phật. Tôn giáo là công cụ cho một số kẻ lợi dụng cho các hoạt động mê tín, bói
toán, xem tướng, giải hạn…
Ảnh hưởng của Phật giáo nguyên thủy đến triết học Việt Nam
Quá trình du nhập Phật giáo vào Việt Nam
- Phật giáo du nhập vào Việt Nam theo 2 con đường:
+ Tự phát: theo con đường tơ lụa (buôn bán), Phật giáo du nhập vào Trung Quốc sau đó sang
Việt Nam



2.

+ Chính thống: ở thế kỉ III TrCN, vua Ấn Asoka phái nhiều tăng đoàn truyền bá đạo Phật ra
nước ngoài (sang TQ sau đó vào Việt Nam)
Ảnh hưởng của Phật giáo tới triết học Việt Nam
- Đạo Phật du nhập vào Việt Nam từ rất sớm, tồn tại, phát triển và chan hòa với dân tộc cho
tới ngày nay
- Đạo phật do sự tác động của các yếu tố phong tục tập quán, tín ngưỡng dân tộc mà dung
hòa tạo thành Phật giáo Việt Nam và có ảnh hưởng lớn tới việc hình thành nhân sinh quan
của người Việt.
- Đạo phật cùng với giáo lý từ bi, tinh thần hiếu hòa, hiếu sinh đã ảnh hưởng và thấm nhuần
sâu sắc trong tâm hồn người Việt. Ngoài đạo lý từ bi, người Việt cũng chịu ảnh hưởng một
đạo lý khác của đạo Phật là đạo lý Tứ ân gồm ân cha mẹ, ân sư trưởng, ân quốc gia và ân
chúng sinh.
- Đạo Phật ảnh hưởng rõ nét đến đời sống của hầu hết các tầng lớp trong xã hội, thể hiện
qua: ngôn ngữ hàng ngày, trong ca dao, trong tác phẩm thơ ca, văn học và các loại hình văn
hóa nghệ thuật khác như điêu khắc, hội họa và kiến trúc….
- Trong phong tục tập quán người Việt cũng bị ảnh hưởng sâu đậm thể hiện qua: ăn chay, thờ
phật, phóng sinh, bố thí…. Thể hiện rõ qua tập tục đi lễ chùa, cúng ngày rằm mùng một, qua
lễ nghi ma chay, cưới hỏi….
- Khi vào Việt Nam, đạo Phật bị khúc xạ thể hiện qua: các nhà chùa Việt Nam có ruộng có
vườn, nhập thế cùng thế gian làm việc; tư tưởng Phật giáo Việt Nam là gắn con người với
trời đất, thần thánh đạo giáo để giáo dục đạo đức xã hội, ổn định gia đình, gắn gia đình với
cộng đồng…
Tóm lại: Phật giáo nguyên thủy đã tính đến việc hình thành nhân sinh quan của người Việt.
Người Việt chỉ tiếp thu những gì phù hợp với đạo lý có sẵn ở Việt Nam và những học thuyết,
tôn giáo ở nước ngoài được khai thác vận dụng kết hợp với lương tri nhân dân để trở thành
triết lý đạo đức dân gian.


Câu 2: Triết học duy vật của Democrit
I.

Điều kiện hình thành và đặc điểm
1. Triết học Hy Lạp cổ đại:
- Xuất hiện khoảng thế kỷ VII đến đầu thế kỷ VI TCN cùng với sự ra đời xã hội có giai cấp đầu
tiên trong lịch sử - chế độ chiếm hữu nô lệ.
- Sự phát triển kinh tế và khoa học cùng với sự phân công lao động diễn ra mạnh mẽ đã thúc đẩy
sự phát triển của TH Hy Lạp cổ đại.
- Cuộc đấu tranh giữa chủ nô dân chủ và chủ nô quý tộc tạo điều kiện chính trị cho cuộc đấu
tranh giữa Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm trong TH Hy Lạp cổ đại.
2. Đêmôcrít (460-370 tr.CN)
- Sinh trưởng trong một gia đình chủ nô dân chủ ở Ápđerơ (Hy Lạp). Ông am hiểu toán học, vật
lý học, sinh vật học cũng như mỹ học, ngôn ngữ học và âm nhạc v.v.
- Đemôcrit là đại biểu xuất sắc nhất của chủ nghĩa duy vật cổ đại.
- Bằng học thuyết nguyên tử, Democrit đã có sự đóng góp quý giá về lý luận nhận thức. Triết
học của ông thể hiện tinh thần của giới chủ nô dân chủ có tư tưởng cấp tiến trong triết học
Hy Lạp cổ đại.


II.

Nội dung triết học Đêmôcrit
1. Bản thể luận:
- Đêmôcrít đã kế thừa và phát triển học thuyết của Lơxip, phát triển thành học thuyết nguyên tử
luận. Theo ông khởi nguyên của thế giới là các nguyên tử, mọi sự vật trong thế giới chúng ta
đều được tạo thành từ các nguyên tử và khoảng không. Sự xuất hiện hay mất đi của vật này
hay vật khác là kết quả việc kết hợp hay phân tán của các nguyên tử. Mọi biến đổi của sự vật
thực chất là sự thay đổi trình tự sắp xếp của các nguyên tử tạo nên chúng. Còn bản thân mỗi
nguyên tử thì không thay đổi gì cả.

- Theo ông:

+ Nguyên tử (atoma) là hạt vật chất nhỏ nhất, tới mức không thể phân chia được, không nhìn
thấy được, không màu, không mùi, không vị, không âm thanh và tồn tại vĩnh viễn.
+ Nguyên tử đồng nhất về chất, chỉ khác nhau về lượng, hình thức (cấu tạo), về tư thế (xoay
trở) và về trật tự (kế tiếp).
+ Các nguyên tử có nhiều hình dạng khác nhau như hình cầu, hình tam giác, hình cong, hình
lõm,..
+ Nguyên tử luôn luôn vận động, tự thân vận động, không tự nhiên sinh ra cũng không tự
nhiên mất đi. Vận động là bản chất của các nguyên tử, diễn ra do sự va chạm giữa các
nguyên tử trong khoảng không. Ông cho rằng còn khoảng chân không là điều kiện vận động
của nguyên tử.
- Vũ trụ được cấu tạo từ các nguyên tử đồng chất, Đêmôcrit không thừa nhận có sự khác biệt về

chất giữa các nguyên tử.
- Nhìn chung ông có quan điểm duy vật khi giải quyết vấn đề cơ bản của triết học, theo trường

phái vô thần
Quan điểm của Democrit về không gian – thời gian
- Tuy Đêmôcrít chưa tìm ra nguyên nhân của sự vận động và ông còn tách không gian
(“không tồn tại”) ra khỏi sự vật, nhưng ông đã cố gắng giải thích sự vận động gắn với vật
chất, vận động có động cơ tự thân của nguyên tử, còn không gian là điều kiện của vận động.
- Dựa trên sự vận động của nguyên tử, Democrit đã lý giải về sự hình thành vũ trụ và quan
niệm về thời gian, không gian: Cũng do sự vận động của các nguyên tử trong chân không,
tuân theo quy luật khách quan, định hình nên một vũ trụ sinh động và biến hóa.
- Kết luận của ông cho rằng thế giới là sự thống nhất giữa tồn tại của nguyên tử với không
tồn tại (không gian) là một kết luận duy vật.


- Nhược điểm của ông là phủ nhận tính ngẫu nhiên. Theo ông mọi cái đều là tất yếu, đều

được quyết định sẵn theo nguyên nhân của nó. Đó là bản chất quyết định luận mang màu sắc
“định mệnh” của ông.
2. Về nhận thức luận: Lý luận của Đêmôcrit được xây dựng trên nền tảng của học thuyết
nguyên tử luận.
2.1. Đối tượng, mục tiêu của nhận thức
- Đêmôcrít: Đối tượng nhận thức là giới tự nhiên. Mục tiêu của nhận thức là đạt tới bản chất
của sự vật.
2.2. Mối quan hệ giữa hai giai đoạn của quá trình nhận thức (cảm tính và lý tính)
Ông chia nhận thực thành 2 giai đoạn: mờ tối và chân lý
+ Nhận thức mờ tối, nhận thức thông qua cảm giác. Nhờ sự vật tác động vào các giác quan
mà ta có cảm giác về chúng. Những cảm giác này có nội dung chân thật, nhưng không đầy
đủ, không sâu sắc, nó chỉ là sự phản ánh cái vỏ bên ngoài của sự vật, chưa phản ảnh được
bản chất của sự vật. Bởi vì, nó chỉ phản ánh được vẻ bề ngoài của sự vật (mùi vị, âm thanh,
mầu sắc, hình dáng,…), mà không phản ánh được bản chất của sự vật.
+ Nhận thức chân lý thông qua phán đoán đem lại tri thức. Theo ông, muốn nhận thức được
bản chất của sự vật, con người ta không được dừng lại ở cảm giác, mà phải biết quy nạp, so
sánh, phán đoán, tức là phải đẩy tới nhận thức lý tính => nhận thức được bản chất của sự vật
Theo ông, hai giai đoạn nhận thức có mối quan hệ biện chứng với nhau trong đó, nhận thức
chân lý chỉ hình thành trên cơ sở nhận thức mờ tối (Kim: có thể chuyển đoạn viết này thành:
Ông coi 2 dạng nhận thức như 2 con người tranh luận với nhau. Sự vật từ bên ngoài, có trước, tạo cho con
người cảm giác (nhận thức cảm tính). Mọi chân lý đều xuất phát từ cảm giác của con người. Nguồn gốc của
chân lý (nhận thức lý tính) là lý thuyết hình ảnh, từ Idolơ (hình ảnh bề ngoài của sự vật) đọng vào đáy mắt,
hình thành nên biểu tượng về sự vật. Nhận thức cảm tính là giai đoạn 1, nhận thức lý tính là giai đoạn 2.
Giai đoạn 2 có thể khác nhau tùy vào mỗi cá thể, sử dụng các phương pháp phân tích, tổng hợp, quy nạp, so
sánh, phán đoán… khái quát hóa hình thành nhận thức lý tính. Nhận thức ở gđ 2 là chủ yếu và đáng tin cậy
hơn.)

4. Về lôgic học:
Từ chỗ coi trọng vai trò của nhận thức lý tính, Đêmôcrít đã có một công lao to lớn nữa đối
với triết học, đó là lôgíc học. Theo đó thì ông đã nêu ra nhiều vấn đề về lôgíc học như định

nghĩa khái niệm, phương pháp so sánh, quy nạp, giả thiết…,trong đó phương pháp quy nạp
có vị trí nổi bật. Ông coi lôgic là công cụ của nhận thức, nhấn mạnh phương pháp quy nạp
nhằm vạch ra bản chất của giới tự nhiên.
5. Trong quan niệm về sự sống và con người:
- Sự sống và con người, theo ông, là kết quả tất yếu của tự nhiên phát triển từ thấp đến cao:
từ sự vật tới sinh vật, từ sinh vật tới con người.
- Cấu tạo linh hồn từ những nguyên tử hình cầu, mất đi cùng với sự chết đi của con người.


- Như vậy ông đã bác bỏ thuyết linh hồn bất tử của tôn giáo, chủ nghĩa duy tâm khách quan
của Platôn.
6. Về chính trị - xã hội và đạo đức
6.1. Về chính trị - xã hội
- Ông là nhà triết học bảo vệ chế độ chiếm hữu nô lệ, nhưng đứng trên lập trường của chủ nô
dân chủ, có tiến bộ.
- Nhà nước, theo ông:
+ Đóng vai trò duy trì trật tự và điều hành hoạt động của xã hội.
+ Nhà nước vì con người, nhà nước là trụ cột của xã hội, cần phải xử lý nghiêm khắc những
kẻ vi phạm pháp luật hay các chuẩn mực đạo đức
+ Đòi hỏi có luật thành văn để quản lý xã hội, kêu gọi đối xử tốt với nô lệ. + Đêmôcrit đứng
trên lập trường của chủ nô dân chủ, bảo vệ nền dân chủ Aten chống lại chế độ chuyên chính.
+ Thà nghèo còn hơn là giàu nhưng mất dân chủ và tự do
Tóm lại, những tư tưởng của ông về chính trị - xã hội là tiến bộ, duy vật so với các nhà tư
tưởng đương thời. Nhìn chung triết học của ông đã góp phần không nhỏ vào cuộc đấu tranh
chống chủ nghĩa duy tâm và tôn giáo.
6.2. Về đạo đức học
- Hướng đạo đức vào đời sống hiện thực.
- Hạt nhân của nó là lương tâm trong sáng, tinh thần lành mạnh của từng cá nhân. Tư tưởng
về đời sống kinh tế - xã hội là cơ sở của đời sống đạo đức. Đây là những tư tưởng có giá trị
của ông. Một người có đạo đức, theo ông, là một người sống đúng mực, không gây hại cho

người khác.
- Đề cao vai trò của giáo dục, học vấn trong việc hình thành đức hạnh. Giáo dục tốt nhất
trong môi trường gia đình, mà người cha là tấm gương. Giáo dục thống nhất với học vấn.
Trình độ học vấn là thứ trang sức cho người hạnh phúc, là chốn nương thân của kẻ bất hạnh.

Câu 3: Nhận thức luận và phương pháp luận trong Triết học Bacơn:
Phranxi Bêcơn (Francis Bacon, 1561-1626) được C.Mác coi là người đặt nền móng cho
chủ nghĩa duy vật biện chứng và khoa học thực nghiệm Anh. Ông đã có đóng góp to lớn
trong sự nghiệp phát triển khoa học và triết học của thời kỳ cận đại nói riêng, của nhân
loại nói chung.
1. Quan điểm của Becon về nhận thức luận:
Mặc dù không phải là người sáng lập ra ngành khoa học cụ thể nào, không phát minh ra
một quy luật mới nào của thế giới tự nhiên, nhưng những tư tưởng tiến bộ của Ph.Bêcơn,


nhất là học thuyết về phương pháp luận cải tiến của ông nhằm chống lại phương pháp của
triết học kinh viện, giáo điều, cho đến nay vẫn giữ nguyên ý nghĩa và tính thời sự cấp
bách.
Ông là người nhiệt tình ủng hộ sự phát triển của khoa học. Ông chỉ ra những hạn chế trong
khả năng nhận thức của con người, đó là những sai lầm nghiêm trọng, không tránh khỏi.
Ông gọi đó là những ngẫu tượng (hình ảnh bị xuyên tạc). Vì vậy quá trình con người đấu
tranh khắc phục những hạn chế khách quan đó cũng là quá trình con người hoàn thiện bản
thân mình.
2. Quan điểm của Becon về phương pháp luận
Ông chia các ngẫu tượng thành các dạng sau:
+ Ngẫu tượng loài: Sinh ra do sự nhầm lẫn bản chất trí tuệ của con người với bản chất
khách quan của sự vật.
+ Ngẫu tượng hang động: Thực chất là ngẫu tượng loài, nhưng biểu hiện ở mỗi người cụ
thể, ở những mức độ và hình thức khác nhau.
+ Ngẫu tượng thị trường: xuất hiện do mọi người thường hay sung bái, chạy theo quan

điểm của ai đó có uy tín, hoặc ủng hộ những quan điểm phổ biến, giáo điều những tập
quán truyền thống.
+ Ngẫu tượng nhà hát: Đề cập đến ảnh hưởng có hại của nhiều học thuyết, quan điểm
thống trị làm cản trở quá trình nhận thức chân lý.
Ý nghĩa:
+ Nhìn chung, trong việc xác định bản chất và nguyên nhân của các ngẫu tượng, Bêcơn
còn mang nặng tính trực quan, song công lao của ông trong học thuyết về ngẫu tượng là ở
chỗ, nó đặt vấn đề về cơ sở xã hội của quá trình nhận thức.
+ Mục đích xuyên suốt học thuyết ngẫu tượng của ông là khẳng định nhận thức sự vật
phải hoàn toàn khách quan, xem xét mọi cái trên tinh thần phê phán và cách mạng. Những
tư tưởng đó có ý nghĩa to lớn cho đến tận ngày nay.
Nhận thức luận và phương pháp luận của ông không dừng lại ở học thuyết về các ngẫu
tượng, ông là một trong những người đầu tiên nhận thấy hạn chế của tam đoạn luận và nói
chung của lôgíc hình thức của Arixtốt mà từ trước tới giờ vẫn được coi là phương pháp
nhận thức vạn năng. Bêcơn là một trong những người khởi xướng ra tư tưởng lôgíc mới.
Tiếp theo học thuyết về ngẫu tượng, phương pháp luận của Bêcơn bắt đầu triển khai từ
việc liệt kê những phương pháp nhận thức cơ bản được sử dụng một cách phổ biến, để từ
đó đưa ra một phương pháp nhận thức mới trên cơ sở kế thừa những mặt hợp lý của
chúng.
-

Theo Bêcơn từ trước đến nay người ta chủ yếu sử dụng hai phương pháp nhận thức sau:
+ "phương pháp con nhện": là phương pháp xuất phát từ một vài bằng chứng và cứ liệu
vụn vặt, người ta đã vội vã đưa ra các tiền đề và khẳng định một cách vô căn cứ về bản
chất sự vật. Phương pháp này chẳng khác gì con nhện chăng tơ chỉ trong khoảnh khắc đã
xong, nhưng không chắc chắn. Phê phán phương pháp này, Bêcơn khẳng định: "không cho
phép các tiền đề được suy diễn ra bằng sự suy nghĩ, tư duy, diễn giải..., vì quy mô, tầm cỡ


của giới tự nhiên đồ sộ và có ưu thế hơn tầm cỡ của mọi sự diễn giải".

+"phương pháp con kiến": là miêu tả, lượm nhặt, sưu tầm từng ít một các dữ kiện về sự
vật, nhưng rốt cuộc chẳng biết khái quát, rút ra những kết luận đúng đắn trên cơ sở các dữ
kiện đó. Như vậy, phương pháp này chỉ giúp ta hiểu được những gì bề ngoài, vụn vặt, chứ
không thể khám phá được bản chất đích thực của sự vật.
-

Trên cơ sở đó, Bêcơn đưa ra "phương pháp con ong" nhằm khắc phục những hạn chế cùa
hai phương pháp trên, đồng thời kế thừa những ưu điểm của chúng.
Thực chất của "phương pháp con ong" là hướng tư duy và trí tuệ không phải để tưởng
tượng ra những thuyết ảo tưởng chủ quan, mà để khái quát và diễn giải những tư liệu do
cảm tính đem lại, “chế biến'' lại chúng tựa như con ong biến mật hoa thành mật ong vậy.
Nó giúp ta kết hợp được những ưu điểm của cả "phương pháp con nhện” và "phương pháp
con kiến" đồng thời khắc phục được những hạn chế của cả chủ nghĩa duy cảm lẫn chủ
nghĩa duy lý cực đoan.
- Phương pháp nhận thức tối ưu, theo Bêcơn, là phương pháp quy nạp, và do đó "khoa học
là khoa học kinh nghiệm, và thực chất đó là áp dụng phương pháp hợp lý vào trong các tư
liệu cảm tính". Quá trình nhận thức, vì vậy, chia thành các bước sau:
(a) Lịch sử tự nhiên: hiểu biết giới tự nhiên thông qua các giác quan con người với sự đa
dạng và sinh động của nó.
(b) Lập bảng và so sánh các dữ kiện: trên cơ sở những gì mà các giác quan thu được, ta
lập bảng, so sánh, hệ thống lại và phân tích chúng.
(c) Quy nạp: đây là giai đoạn nhận thức quan trọng nhất giúp ta khám phá ra "hình dạng”
tức bản chất của sự vật.
Ông ví phương pháp quy nạp tựa như chiếc la bàn của khoa học, Bêcơn đều không thoả
mãn với các phương pháp quy nạp mà người ta vẫn sử dụng trước đó, như quy nạp đầy đủ
hoặc quy nạp không đầy đủ. Hơn nữa, ông còn phê phán nhiều tư tưởng trước đó chỉ
nghiên cứu các nguyên lý của giới tự nhiên như chúng đã hoàn toàn hoàn thiện, chứ không
phải là chúng đang hoạt động”.
Bêcơn là người đầu tiên khám phá ra phương pháp quy nạp lọai trừ, tức là thu thập mọi dữ
kiện mà ta biết về sự vật, sau đó phân tích, loại bỏ những dữ kiện phụ. Từ đó chúng ta đi

đến khẳng định bản chất của sự vật.
Nhìn chung, trong vấn đề phương pháp luận, Bêcơn là nhà tuy cảm (mặc dù không cực
đoan), thiên về sự phát triển khoa học tự nhiên thực nghiệm. Công lao của ông là ở chỗ
ông là người khởi xướng ra tư tưởng cần thiết phải xây dựng một hệ thống phương pháp


luận mới, phù hợp với sự phát triển của khoa học thời cận đại. Điều đó đóng vai trò rất
quan trọng đối với sự phát triển khoa học sau này.
Kết luận: Nhận thức luận và phương pháp luận của Becon như ngọn đèn dẫn đường cho
khoa học bấy giờ đi trong đêm tối.

CHỦ ĐỀ 4: PHÉP BIỆN CHỨNG DUY VẬT –ĐỈNH CAO NHẤT TRONG SỰ
PHÁT TRIỂN CỦA PHÉP BIỆN CHỨNG
1.

Khái niệm phép biện chứng và các giai đoạn cơ bản của PBC
Khái niệm Phép Biện Chứng
Biện chứng: Là khái niệm dùng để chỉ những mối liên hệ, tương tác, chuyển hóa và
vận động, phát triển theo quy luật của các sự vật, hiện tượng, quá trình trong giới tự nhiên,
xã hội và tư duy.
Biện chứng bao gồm: biện chứng khách quan (biện chứng của thế giới vật chất). Biện
chứng chủ quan là sự phản ánh biện chứng khách quan vào đời sống ý thức của con người.
Phép biện chứng: Theo Angghen, PBC là môn khoa học về những quy luật phổ biến
của sự vận động và phát triển của tự nhiên, của xã hội loài người và của tư duy.
PBC là hình thức cao nhất của tư duy khoa học.
PBC là học thuyết nghiên cứu, khái quát biện chứng của thế giới thành hệ thống các
nguyên lí, qui luật khoa học nhằm xây dựng hệ thống các nguyên tắc phương pháp luận
của nhận thức và thực tiễn.
PBC thuộc về biện chứng chủ quan, đối lập với phép siêu hình (phương pháp tư duy
về svht của thế giới trong trạng thái cô lập tĩnh tại và tách rời.


2.

Các giai đoạn cơ bản của PBC
Trong lịch sử triết học, PBC phát triển qua ba hình thức cơ bản: PBC chất phác thời cổ
đại, PBC duy tâm cổ điển Đức, PBC duy vật của chủ nghĩa Mác – Lênin.

II.1.1.


Các Phép biện chứng cơ bản trước Mác
Phép biện chứng tự phát thời kỳ cổ đại
Phương Đông
Triết học Ấn Độ cổ đại
Thể hiện những tư tưởng biện chứng sơ khai trong Phật giáo (cô yêu cầu tóm tắt lại
nhưng em chưa làm được)



Thế giới tồn tại khách quan do các yếu tố vât chất và tinh thần kết hợp với nhau tạo nên.



Thế giới biến đổi không ngừng theo chu kỳ sinh – trụ - dị - diệt hay thành – trụ - hoại –
không.



Vật chất gọi là sắc, tinh thần gọi là danh.





Thế giới vật chất do các bản thể tạo ra theo những quy luật nhất định.
Hạn chế



Chỉ thấy vận động tuyệt đối, không thấy đứng yên tương đối



Vận động tuần hoàn (điểm xuất phát cũng là điểm cuối, điểm cuối cũng là điểm xuất phát
của lần vận động sau) khôg có vận động theo khuynh hướng tiến lên để thể hiện sự kế
thừa, sự ra đời của cái mới.



Triết học Trung Hoa cổ đại (nên trình bày thêm 1 tí)
Tư tưởng biện chứng: thể hiện rõ nhất trong học thuyết âm dương và học thuyết ngũ
hành
Hạn chế



Phủ nhận sự phát triển biện chứng theo hướng đi lên, cho rằng sự vận động chỉ dừng lại
khi đạt được cân bằng âm dương
 Như vậy: Triết học phương đông đã xuất hiện những tư tưởng biện chứng sơ khải về
thế giới. Sự đóng góp và hạn chế của triêt học phương Đông nói lên sự vận động của
svht nhưng không chỉ ra được sự phát triển của nó. Triêt học thời kì này chỉ là những

tư tưởng, phỏng đoán mà chưa có khoa học chứng minh.

II.1.2.


Phương Tây
Triết học Hy Lạp cổ đại
Tư tưởng biện chứng



Là thời kỳ thuật ngữ “biện chứng” ra đời và một loạt các quan điểm mới: thế giới vật chất
luôn vận động, biến đổi, phát triển. Hạt nhân của sự vật là do sự đấu tranh giữa các mặt
đối lập trong sự vật hiện tượng. Thế giới vận động tuận theo những quy luật vốn có của
nó.



Điển hình là Heraclit: người đầu tiên xây dựng phép biện chứng trên lập trường duy vật.
Đó là PBCDV sơ khai thời cổ đại ở Hy Lạp:



Theo ông, vận động là vĩnh viễn, mọi sự vật hiện tượng đều trong trạng thái vận động,
biến đổi không ngừng: “Chúng ta không thể tắm hai lần trên cùng một dòng sông, vì nước
mới luôn chảy ở trên sông”.



Về nguyên nhân của vận động, theo ông đó là sự tác động qua lại của những mặt đối lập

nhau trong cùng một sự vật hiện tượng, là tính thống nhất và mâu thuẫn của vận động và
đứng im, sinh thành và hiện hữu,…



Về tính Logos (logic): Ông đã phỏng đoán về sự phân đôi của một thể thống nhất. Ông
cho nhận thức “Logos” là nhận thức tự nhiên và xã hội trong trạng thái đấu tranh và hài
hòa của những mâu thuẫn của chúng, tức là thế giới không vận động một cách hỗn loạn
Tóm lại, Ông đã có những phỏng đoán thiên tài nhất về PBC.


(Cô bảo bỏ phần hạn chế)
II.2.1.

II.2.2.

Phép Biện chứng Duy Tâm cổ điển Đức
Manuen Can tơ (1724- 1804)
Là nhà triết học quan trọng nhất, đặt nền móng cho triết học cổ điển Đức, đưa ra những
quan điểm biện chứng về thế giới, khởi xướng ra triết học phê phán.
Tư tưởng biện chứng của Heghen
Phát triển tư tưởng của Cantơ, xây dựng PBC thành hệ thống gồm 2 nguyên lí cơ bản, 3
qui luật cơ bản, các phạm trù
Tuy nhiên đây là phép biện chứng nhưng trong ý niệm, tư duy biện chứng mà không thấy
nó trong thế giới vật chất, là phép biện chứng lộn ngược
Hạn chế

 Là phép biện chứng duy tâm: Tất cả quy luật vận động và phạm trù là của tư duy biện

chứng chỉ là những khái niệm, ý niệm, bộc lộ rõ mâu thuẫn giữa tư tưởng biện chứng và

chủ nghĩa duy tâm trong Heghen.


Ông coi nước Phổ là nhà nước có hình thức phát triển nhà nước và pháp luật cao nhất và
triết học cổ điển Đức là triết học đỉnh cao nhất.
PHÉP BIỆN CHỨNG DUY VẬT - ĐỈNH CAO TRONG SỰ PHÁT TRIỂN CỦA
PBC
Khái niệm PBCDV
PBCDV là khoa học về sự vận động, phát triển của thế giới tự nhiên, lịch sử xã hội loài
người và tư duy.
Điều kiện ra đời của PBCDV (hình như cô bảo bỏ phần này, em không rõ lắm)

 Gắn liền với sự ra đời của CN Mác. Nó ra đời trong điều kiện phương thức SXTB đang

phát triển, dựa trên các tiền đề:
Tiền đề thực tiễn: Sự phát triển khoa học công nghệ và cuộc đấu tranh giai cấp giữa vô
sản và tư sản
Tiền đề lý luận: Phép Biện chứng duy tâm của Hêghen. Mác – Ănghen đã cải tạo một
cách duy vật phép biện chứng duy tâm của Hêghen
Nội dung chính
– Giải quyết vấn đề cơ bản của triết học: Biện chứng khách quan là cái có trước, biện chứng

chủ quan là cái có sau và là phản ánh của biện chứng khách quan, đây là sự khác nhau
giữa biện chứng duy vật với biện chứng duy tâm của Heghen.
– PBC đã đưa ra 3 mối liên hệ chủ yếu là:


Mối liên hệ cùng tồn tại và phát triển.




Mối liên hệ thâm nhập lẫn nhau tuy có sự khác nhau nhưng vẫn có sự giống nhau.



Mối liên hệ về sự chuyển hóa vận động và phát triển.
3.4 Nguyên lí


– Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến có ý nghĩa: Phải xem xét toàn diện các mối liên hệ.

Phải rút ra được những mối liên hệ bản chất, chủ yếu để thấu hiểu bản chất của sự vật.
– Nguyên lý về sự phát triển:

+ Phát triển là sự vận động theo hướng đi lên từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ
chưa hoàn thiện đến hoàn thiện. Mọi sự vật hiện tượng luôn vận động, biến đổi không
ngừng theo xu hướng phát triển. Phát triển được coi là khuynh hướng chung, chủ đạo của
thế giới.
+ Ý nghĩa PPL:
. Đòi hỏi phải xem xét sự vật trong sự phát triển, trong sự vận động và trong sự biến đổi
của nó.
. Luôn đặt svht theo khuynh hướng đi lên
. Xem xét svht trong quá trình phát triển cần phải đặt quá trình đó trong nhiều giai đoạn
khác nhau, trong mối liên hệ biện chứng giữa quá khứ và hiện tại, tương lai trên cơ sở
khuynh hướng phát triển, phát huy nhân tố chủ quan của con người để thúc đẩy quá trình
phát triển của svht theo đúng qui luật.
. Khắc phục tư tưởng bảo thủ, trì trệ, định kiến, đối lập với sự phát triển.
3 qui luật (cô yêu cầu nêu rõ vị trí, vai trò – cụ thể xem lại yêu cầu ở trang 1)
– Quy luật về mâu thuẫn: chỉ ra nguồn gốc sự phát triển



Quy luật về lượng chất: hình thức sự phát triển

– Quy luật phủ định của sự phủ định: khuynh hướng sự phát triển

6 cặp phạm trù
Cái riêng - cái chung - cái đơn nhất
-

Nguyên nhân - kết quả

-

Tất nhiên - ngẫu nhiên

-

Nội dung - hình thức;

-

Bản chất - hiện tượng - Khả năng - hiện thực.
PBC DUY VẬT – ĐỈNH CAO TRONG SỰ PHÁT TRIỂN CỦA PHÉP BC
Để xây dựng triết học duy vật biện chứng
Mác đã Cải tạo chủ nghĩa duy vật cũ, giải thoát chủ nghĩa duy vật khỏi tính hạn chế siêu
hình làm cho chủ nghĩa duy vật hoàn bị hơn.
Mở rộng học thuyết từ chỗ chỉ nhận thức giới tự nhiên đến chỗ nhận thức xã hội loài
người
Sử dụng kết quả khoa học để phát triển tư duy BC vượt khỏi tính tự phát của PBC cổ đại,
đồng thời thoát khỏi vỏ thần bí của PBC duy tâm

PBCDV Không chỉ giải thích thế giới mà còn cải tạo thế giới. Đây là sự khác nhau về chất
của PBCDV so với PBC trước kia.




Sự thống nhất giữa PBCvới CN duy vật khoa học, thống nhất giữa thế giới quan và
phương pháp luận khoa học
Có thể nói PBCDV là đỉnh cao của sự phát triển PBC
Đặc trưng của phép biện chứng duy vật: là sự thống nhất giữa phép biện chứng và chủ
nghĩa duy vật khoa học, giữa thế giới quan và phương pháp luận, giữa giải thích thế giới
và cải tạo thế giới. Sự ra đời của phép biện chứng duy vật là một tất yếu khách quan và có
kế thừa chọn lọc tư tưởng biện chứng của các phép biện chứng trước đó.
KẾT LUẬN
Phép biện chứng duy vật ra đời là một quá trình hợp với quy luật phát triển của nhận thức.
Là một triết học toàn diện nhất, sâu sắc nhất và triệt để nhất của sự vận động và phát triển
của thế giới vật chất với bản chất khoa học, cách mạng.
Phép Biện chứng duy vật - đỉnh cao trong lịch sử của phép biện chứng không chỉ đúng ở
thời Mac-Ăngghen- Lênin mà vẫn đúng trong thời đại ngày nay.

Câu 5: Hình thái KTXH là gì? Tại sao lại nói sự phát triển của hình thái KTXH là 1
quá trình lịch sử tự nhiên? (Cô ghi là viết tương tự như trong giáo trình)
Khái niệm: Hình thái kinh tế - xã hội là một phạm trù cơ bản của chủ nghĩa duy vật lịch
sử, dùng để chỉ xã hội ở từng giai đoạn lịch sử nhất định, với một kiểu quan hệ sản xuất
đặc trưng cho xã hội đó phù hợp với một trình độ nhất định của lực lượng sản xuất và với
một kiến trúc thượng tầng tương ứng được xây dựng trên những quan hệ sản xuất ấy.
Các yếu tố cấu thành một hình thái kinh tế - xã hội:
Lực lượng sản xuất của xã hội ở một trình độ phát triển nhất định, đóng vai trò là cơ sở vật
chất - kỹ thuật của xã hội đó.
Hệ thống quan hệ sản xuất được hình thành trên cơ sở thực trạng phát triển của lực lượng

sản xuất, đóng vai trò là hình thức kinh tế của các lực lượng sản xuất đó; những quan hệ
sản xuất này hợp thành một cơ cấu kinh tế của xã hội, đóng vai trò là cơ sở hạ tầng kinh tế
của việc xác lập trên đó một kiến trúc thượng tầng nhất định.
Hệ thống kiến trúc thượng tầng được xác lập trên cơ sở hạ tầng kinh tế, đóng vai trò là các
hình thức chính trị, pháp luật, đạo đức, văn hoá.... của các quan hệ sản xuất của xã hội.
(Cô yêu cầu viết cụ thể hơn, giải thích 3 yếu tố cấu thành
Như là: Lực lượng sản xuất luôn luôn có quan hệ mâu thuẫn và quyết định cơ sở hạ tầng
của xã hội. Cơ sở hạ tầng này sinh và quyết định kiến trúc thượng tầng phát triển)
Theo Mác: sự phát triển của các hình thái kinh tế - xã hội là một quá trình lịch sử tự nhiên. Luận điểm đó được phân tích ở các nội dung chủ yếu sau:
Một: sự vận động và phát triển của xã hội không tuân theo ý chí chủ quan của con người
mà tuân theo các quy luật khách quan, đó là các quy luật của chính bản thân cấu trúc hình
thái kinh tế - xã hội, là hệ thống các quy luật xã hội thuộc các lĩnh vực kinh tế, chính trị,
văn hóa, khoa học,... Trong đó, cơ bản nhất là quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình


độ phát triển của lực lượng sản xuất và quy luật kiến trúc thượng tầng phù hợp với cơ sở
hạ tầng.
Hai: nguồn gốc của mọi sự vận động, phát triển của xã hội, của lịch sử nhân loại, của mọi
lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa,... của xã hội, suy đến cùng đều có nguyên nhân trực
tiếp hay gián tiếp từ sự phát triển của lực lượng sản xuất của xã hội đó.
Ba: quá trình phát triển của các hình thái kinh tế - xã hội, tức là quá trình thay thế lẫn nhau
của các hình thái kinh tế - xã hội trong lịch sử nhân loại và đó là sự phát triển của lịch sử
xã hội loài người, có thể do sự tác động của nhiều nhân tố chủ quan, nhưng nhân tố giữ
vai trò quyết định chính là sự tác động của các quy luật khách quan. Dưới sự tác động của
quy luật khách quan mà lịch sử nhân loại, xét trong tính chất toàn bộ của nó, là quá trình
thay thế tuần tự của các hình thái kinh tế - xã hội: nguyên thủy, nô lệ, phong kiến, tư bản
chủ nghĩa và tương lai nhất định thuộc về hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa.
Câu 6: Điều kiện, tiền đề ra đời của triết học Mác Lê nin
1.


2.

Điều kiện kinh tế xã hội
Triết học Mác ra đời vào những năm 40 của thế kỷ XIX ở Tây Âu. Đó cũng là thời kỳ mà
CNTB phát triển mạnh mẽ. Với mức độ khác nhau, nhưng châu Âu, đặc biệt là Tây Âu đã trở
thành trung tâm của sự phát triển lực lượng sản xuất TBCN, làm cơ sở cho sự phát triển mọi
msặt trong đời sống XH, tạo điều kiện vật chất quan trọng để thực hiện những lý tưởng cao
đẹp của con người, trong đó có lý tưởng xã hội chủ nghĩa.
Mặt khác, Quá trình hình thành và phát triển của CNTB tất yếu tạo ra trong lòng nó một lực
lượng đối lập là GCVS hiện đại. Sự đối lập của GCVS và GCTS ngày càng gay gắt, biểu
hiện mâu thuẫn về mặt kinh tế giữa trình độ phát triển cao và tính chất xã hội hóa của LLSX
với sự chiếm hữu tư nhân TBCN về TLSX. Trong giai đoạn lịch sử này, phong trào đấu tranh
của GCVS đã phát triển mạnh mẽ và ngày càng rộng lớn: Cuộc khởi nghĩa của công nhân
Liong ở Pháp, của công nhân dệt Xiledi ở Đức, phong trào hiến chương của nước Anh…..
Thực tiễn đấu tranh cách mạng của giai cấp vô sản nảy sinh yêu cầu khách quan phải có lý
luận khoa học dẫn đường. Trong khi đó, những lý luận như chủ nghĩa xã hội không tưởng
của Xanh Ximong, Phurie oen về bản chất, không đáp ứng được yêu cầu, lợi ích và sứ mệnh
lịch sử của GCVS. Chính từ bối cảnh đó, một triết học mới ra đời, triết học Mác. Sự ra đời
của triết học Mác là sự giải đáp về mặt lý luận những vấn đề thời đại đặt ra trên lập trường
của giai cấp vô sản cách mạng.
Tiền đề lý luận và những tiền đề khoa học tự nhiên
2.1. Tiền đề lý luận
Triết học Mac là hình thức phát triển cao nhất của chủ nghĩa duy vật, là kết quả của sự phát
triển của triết học duy vật trong cuộc đấu tranh với chủ nghĩa duy tâm trong lịch sử triết học.
Triết học Mác ra đời kế thừa toàn bộ giá trị tư tưởng của nhân loại, trực tiếp nhất là từ TH cổ
điển Đức, CNXH không tưởng Pháp, và kinh tế chính trị học Anh.
a.Tiếp thu Triết học cổ điển Đức: Tiền đề lý luận trực tiếp nhất cho triết học Mác ra đời là
triết học cổ điển Đức mà tiêu biểu là triết học Heghen và Phoiobac. Mac tiếp thu có phê phán
phép biện chứng của Heghen và chủ nghĩa duy vật nhân bảncủa Phoiơbắc.



Hêghen là người đã trình bày một cách có hệ thống tư tưởng biện chứng duy tâm, đã triển
khai những quy luật và các phạm trù của phép biện chứng. Mác và Ăng ghen đã phê phán
tính chất duy tâm thần bí trong triết học Hê ghen nhưng đồng thời đánh giá cao tư tưởng biện
chứng của ông. Mác, Ăngghen đã cải tạo phép biện chứng duy tâm trở thành phép biện
chứng duy vật triệt để nhất.
Phoiơbắc là nhà triết học duy vật. Chủ nghĩa duy vật của ông là chủ nghĩa duy vật nhân bản.
Ông coi con người- với tư cách là thực thể của giới tự nhiên là đối tượng nghiên cứu của triết
học. Ông đối lập và phủ nhận Heghen ở cả 2 bình diện là: bản thể luận và nhận thức luận, đòi
vứt bỏ CN duy tâm và phép biện chứng duy tâm của Hêghen. Mác và Ăngghen phê phán tư
duy siêu hình và duy tâm về lịch sử của Phoiơbắc, đồng thời đánh giá cao chủ nghĩa duy vật
của ông và làm giàu chủ nghĩa duy vật này bằng phương pháp biện chứng.
Xét trong tiến trình phát triển, sự ra đời của CN Mác còn là kết quả của sự tiếp nhận trên tinh
thần phê phán tinh hoa của lịch sử triết học nhân loại, sự tiếp nhận đó trên 2 phương diện chủ
yếu là CN duy vật và phép BC.
b.Tiếp thu và kế thừa kinh tế chính trị Anh (đại biểu là 2 học giả tư sản: Xmít và
Ricácđô).
Mác và Ăngghen kế thừa những thành tựu khoa học của trường phái tư sản cổ điển về lý
luận giá trị, tiền tệ, tiền công, lợi nhuận, địa tô… vận dụng vào phân tích kinh tế TBCN, chỉ
ra nguồn gốc của giá trị thặng dư.
Đồng thời khắc phục những hạn chế của của các nhà chính trị tư sản cổ điển khi coi quy
luật kinh tế của CNTB là quy lật tự nhiên, tuyệt đối vĩnh viễn. Mác và Ăng ghen đã làm
cuộc cách mạng sâu sắc nhất trong kinh tế chính trị trên tất cả các phương diện về đối tượng
và phương pháp nghiên cứu, nội dung, tính chất giai cấp…của kinh tế chính trị.
c. Tiếp thu tư tưởng của CNXH không tưởng Pháp
Các nhà kinh tế theo chủ nghĩa XH không tưởng ở Tây âu đầu thế kỉ XIX đề có sự phê phán
CNTB một cách gay gắt, mạnh mẽ xuất phát từ lĩnh vực kinh tế. Họ vạch rõ tính chất tạm
thời trong lịch sử của CNTB và chống lại quan điểm cho rằng CNTB tồn tại vĩnh viễn. Họ
phỏng đoán về CNXH trong tương lai là hoàn toàn tốt đẹp. Để thiết lập được chế độ XH mới
đó, họ phát hiện cần phải xóa bỏ dần (Fourie), đi đến xóa bỏ hẳn (Owen) về chế độ tư hữu tư

nhân về TLSX.
Mác Ăng ghen đã kế thừa tư tưởng của họ, khắc phục tính không tưởng của là dựa vào nước
tư sản và lòng từ thiện của các nhà tư sản để xóa bỏ CNTB xây dựng chủ nghĩa XH mới,
vạch ra con đường đi lên của CNXH, đặc biệt với vai trò của GCCN và Quần chúng nhân
dân lao động,… từ đó đưa CHXH không tưởng thành khoa học
2.2.Tiền đề KHTN
Giữa thế kỉ XIX 19, con người đã đạt được những thành tựu nổi bật về KHTN:
- Học thuyết Tế bào: Học thuyết này đã chứng minh tế bào là cơ sở của kết cấu và phát triển
của thế giới động vật và thực vật.  Chứng minh tính thống nhất của thế giới tự nhiên hữu
cơ, của toàn bội quá trình lịch sử của sự sống. Học thuyết này ra đời đã chống lại chủ nghĩa
duy tâm tôn giáo.


- Định luật bảo toàn và chuyển hóa năng lượng: Định luật này là sự khẳng định và chứng
minh thế giới vật chất vận động và phát triển thông qua quá trình chuyển hóa năng lượng từ
thấp đến cao của các dạng năng lượng.
- Học thuyết tiến hóa của Đácuyn: Học thuyết này đã chứng minh có căn cứ về quá trình vận
động và biến đổi từ thấp đến cao của động vật và thực vật thông qua quá trình chọn lọc tự
nhiên và nhân tạo. Đây là cơ sở để khẳng định nguồn gốc duy vật về sự hình thành và phát
triển của sự sống, đối lập với sự sáng tạo ra thế giới mang tính chất thần thánh của chủ nghĩa
duy tâm, tôn giáo.
Sự phát triển mạnh mẽ của KHTN đã làm thay đổi quan niệm siêu hình về nhận thức thế
giới tự nhiên, khẳng định phép biện chứng khách quan của mọi quá trình trong sự vận động
và phát triển của thế giới. KHTN mang tính chất lý luận trong giai đoạn này là tiền đề cho sự
ra đời của trết học Mac. Cũng như những khái quát của triết học Mac đặt cơ sở về thế giới
quan và phương pháp luận cho các lĩnh vực khoa học cụ thể trong nhận thức thế giới khách
quan.
Kết luận: Sự ra đời của triết học mác và một tất yếu khách quan, là một học thuyết khoa học,
cách mạng và nhân văn nhất thời đại




Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×