Tải bản đầy đủ (.docx) (15 trang)

KHÔNG GIAN NGHỆ THUẬT TRONG TRƯỜNG THƠ LOẠN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (224.63 KB, 15 trang )

KHÔNG GIAN NGHỆ THUẬT TRONG TRƯỜNG THƠ LOẠN (TS. Nguyễn Quốc
Khánh)

Cùng với thời gian, không gian là một phạm trù triết học phổ quát làm nên sự TỒN TẠI của mọi sự
vật, hiện tượng (tồn:còn, tại:ở đây), không có cái gì hiện hữu ngoài thời gian và không gian cả.
Bắt nguồn từ không gian vật lý,vật chất nhưng không gian nghệ thuật có đặc trưng riêng.Không
gian này là không gian tồn tại trong các tác phẩm nghệ thuật, là hình tượng nghệ thuật do người
nghệ sĩ tạo ra. Nếu mỗi hiện tượng văn học (tác phẩm, trào lưu, giai đoạn, thời đại) là một thế giới
nghệ thuật vừa phong phú, đa dạng vừa có tính thống nhất, có đặc điểm và quy luật riêng thì không
gian nghệ thuật là yếu tố chứa đựng sự tồn tại của những thế giới nghệ thuật ấy. Không có tác phẩm
văn học nào, không có nhân vật nào lại không tồn tại và họat động trong một khoảng không gian
nhất định.
Khác hẳn với không gian vật chất, vật lý hoàn toàn khách quan không phụ thuộc vào cảm nhận chủ
quan của con người, không gian nghệ thuật lại luôn chịu sự qui định, chi phối của chủ quan nghệ sĩ.
“Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu/Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ.” (Nguyễn Du). Do đó, chúng ta
hiểu vì sao mỗi hiện tượng văn học lại có không gian đặc thù của nó. Đó là cái không gian gần gũi,
quen thuộc của làng quê xưa với sân đình,bến nước, cây đa, đồng cạn, đồng sâu…trong ca dao. Đó
là cái không gian vũ trụ bao la, tĩnh lặng, thanh tao trong thơ cổ điển. Đó là cái không gian mơ
mộng, đẹp đẽ nhưng bị chia cắt, cô lập trong Thơ Mới.v.v..
Tóm lại, không gian nghệ thuật trong văn học là không gian tinh thần, không gian tâm tưởng đặc
biệt thể hiện quan niệm riêng về cuộc đời và con người của mỗi nhà văn. Không gian ấy là những cái
“mã”thẩm mỹ, “mã”thông tin về quan niệm nghệ thuật của các nhà văn. Không gian nghệ thuật
bao giờ cũng gắn liền với thời gian nghệ thuật và phối hợp với nhau để phản ánh hiện thực đời sống
trong tính vận động của nó.
Vậy không gian nghệ thuật của Trường thơ loạn có gì là riêng, đặc sắc,ấn tượng trong không gian
nghệ thuật chung của phong trào Thơ Mới?
Nhìn tổng quát, không gian nghệ thuật của Trường thơ loạn rất khác thường, kỳ lạ so với không gian
nghệ thuật chung của Thơ Mới.
2.1 Từ một không gian thực vừa tươi sáng, vừa u buồn…
Nếu nhìn tổng quát và xuyên suốt sự nghiệp thi ca của Hàn-Chế-Bích trong Trường thơ loạn, chúng
ta sẽ thấy rất rõ: không gian nghệ thuật của họ có đủ các cõi không gian, không gian trần thế bên


cạnh không gian siêu thực tôn giáo, không gian thực bên cạnh không gian mộng, không gian dưới


thấp quen thuộc, gần gũi bên cạnh không gian ở chốn tít mù “thượng thanh khí”, bên cạnh không
gian vui tươi yêu đời là không gian buồn chán, tuyệt vọng, đau thương…
Tập thơ “Gái quê” là tập thơ mới đầu tiên của Hàn Mặc Tử được in năm 1936 đủ xếp tác giả của nó
vào những nhà thơ mới đi tiên phong hồi ấy. “Gái quê” không chỉ xác định hình tượng trung tâm
của tập thơ là những rung động đầy thi vị lãng mạn của những “nàng thôn nữ” với những “chàng trai
quê” mà còn xác định không gian nghệ thuật chủ yếu là chốn thôn quê thanh bình, tươi sáng, là nơi
ươm mầm cho những mối lương duyên, nơi nảy nở những ước mơ luyến ái của “những chàng”,
“những nàng” nhà quê nhưng đầy mơ mộng.
- Ánh trăng lao xao trên đọt tre
Tiếng ca lanh lảnh trong vườn me
Tiếng ca im bặt.Rồi thấp thoáng
Vạt áo màu nâu hiện trước hè.
(Quả dưa)
- Từ khi đôi má đỏ hây hây
Em tập thêu thùa, tập vá may
Chim sáo trước sân bay tới đậu
Em mừng:sắp được lấy chồng đây.
(Duyên muộn)
-Em có ngờ đâu trong những đêm
Trăng ngà dãi bóng mặt hồ êm
Anh đi thơ thẩn trong ngây dại
Hứng lấy hương nồng trong áo em.
(Âm thầm)
Từ địa hạt Đường thi cổ điển, Hàn Mặc Tử bước tới chân trời Thơ Mới hòa nhập vào điệu cảm xúc mới
của cả một thế hệ thi sĩ đang đắm say với “trời tình”, “bể ái” như Thế Lữ, Lưu Trọng Lư, Xuân Diệu,
Nguyễn Bính…Với Xuân Diệu, điểm hẹn ái tình là “khu vườn tình ái”, với Nguyễn Bính là “vườn quê”,
“đất khách” thì với Hàn Mặc Tử cũng lại là “Vườn tình” (phải chăng đó là ám ảnh bởi vườn Địa Đàng

với Adam và Eva trong kinh thánh?). Vẻ đẹp của khu vườn “xanh mướt như ngọc” của Thôn Vỹ Dạ là
vẻ đẹp tinh khiết, trắng trong như ánh mai hồng buổi bình minh. Đó còn là “vườn mơ, bến sông
trăng, bến mộng, bến tình và nguồn trong trẻo mà xung quanh người là mơn trớn yêu đương vây
phủ bởi trăm dây quyến luyến” (Tựa “Thơ điên”).
Thật ra, vườn vốn là một cõi không gian rất phổ biến trong tâm thế của người Việt. Đó là hoài niệm
về nơi canh tác khởi thủy xa xưa và muôn đời của người nông dân. Đó cũng là nơi gắn bó với thiên
nhiên thân thiết nhất. Trong “Gái quê” chúng ta bắt gặp rất nhiều địa danh quen thuộc với làng quê


Việt Nam ngoài “Vườn cam, vườn dâu, vườn me, vườn dừa” ngoài ra còn có “vườn mơ” “vườn mộng”
“vườn tình” “vườn thơ”…
Đó là bờ ao “Ta thích đứng lặng trên bờ ao”, là trước sân “Trước sân anh thơ thẩn”, là lũy tre “Tiếng
hờn trong lũy tre”, là gốc đa “Ta thích ngồi mơ dưới gốc đa”, là đám lau “Ta thích len vào trong
đám lau”, là bên đường “Gặp gỡ bên đường cũng thản nhiên”, là dưới cầu “Nhắc chuyện yêu đương ở
dưới cầu”, là bãi sông “Đêm trước ta ngồi dưới bãi sông”, là đồi quê “Lang thang trên đồi
quê”,là..v.v…Tóm lại, đó là cái không gian làng quê, thôn quê hết sức gần gũi với người đọc, dễ gợi
lại tâm thức nhà quê trong mỗi người dân Việt Nam. Do đó, ta hiểu vì sao cũng như Nguyễn Bính,
Hàn Mặc Tử đã có, đang có và sẽ có rất nhiều tri âm, tri kỷ từ cái tâm thức ám ảnh nhà quê này.
Với Chế Lan Viên, nếu không đọc kỹ tập “Điêu tàn” thì chúng ta dễ lầm tưởng: không gian nghệ
thuật ở đây chỉ có “điêu tàn, chết chóc, tuyệt vọng”. Nhưng nếu đọc kỹ, ta vẫn nhận thấy có một cõi
trần gian trong thực tại tươi đẹp tràn trề sức sống. Chẳng hạn như ở bài “Xuân về”, phong cảnh thiên
nhiên hiện lên ở câu thơ nào cũng thật đẹp, thật nên thơ.
Hàng cây cao say sưa ôm bóng ngủ
Vài quả xanh khảm bạc hớ hênh phô
Xoan vươn cành khều mặt trời rực rỡ
Bên bóng râm lơi lả nhẹ nhàng đu
Đây tàn lá chuối non bay phấp phới
Đây hoa đào mở miệng đón xuân tươi.
Hoặc:
Nắng hồng choàng ấp dãy bàng cao

Cũng mới độ nào trong gió lộng
Nền lau bừng sáng núi lau xanh
Bướm vàng nhè nhẹ bay ngang bóng
Những khóm tre cao rủ trước thành.
(Thu)
Nếu ở không gian siêu thực-trên cao, vực sâu, thơ Hàn Mặc Tử và Chế Lan Viên đầy ắp các biểu
tượng ám thị, tượng trưng thì ở không gian thực-trần thế, các thi sĩ của Trường thơ loạn lại tạo hình
bằng các hình ảnh đầy tính trực quan, cụ thể, sinh động.
Trong làn nắng ửng khói mơ tan
Bên mái nhà tranh lấm tấm vàng
Xột xoạt gió trêu tà áo biếc
Bên dàn thiên lý bóng xuân sang.


(Hàn Mặc Tử -Mùa xuân chín)
Với Bích Khê cũng thế. Bên cạnh cái không gian tượng trưng đầy nhạc-hương-hoa trong cõi ảo mộng
là một cõi trần thế với bao hình ảnh trực quan tươi sáng:
-Vẳng thay núi thấp nức danh đồn
Tuyệt nhất năm hòn ngọc thủy sơn
Chẳng suối Phong Nha nghe róc rách
Chẳng mây Hồng Lĩnh thấp chờn vờn
Giữa trời bóng nguyệt lồng vô động
Trên biển mù sương thổi lại non.
(Ngũ Hành Sơn)
- Lam nhung ô! Màu lưng chừng trời
Xanh nhung ô!Màu phơi nơi nơi
Vàng phai nằm im ôm hoa gầy
Chim yên neo mình nương xương cây.
(Hoàng hoa)
Nhưng bên cạnh cái không gian trần thế tươi sáng ấy các thi sĩ Trường thơ loạn lại chuyển hướng,

chuyển kênh chìm đắm vào những vào những không gian u buồn, tăm tối, đau thương. Đó là sản
phẩm tương ứng của những cái tôi trữ tình có tâm trạng chán nản trước hiện thực, phủ nhận hiện
thực mà họ cho là cõi “trời sâu” “chốn lãnh cung” “nơi huyệt mộ” chỉ toàn những khổ đau, chán
chường, tuyệt vọng. “Trời hỡi trời, hôm nay ta chán hết/ Những sắc màu, hình ảnh của trần gian.”
(Chế Lan Viên).
Với Hàn Mặc Tử, từ khi nhận ra mình bị mắc bệnh nan y, ông vừa đôn đáo tìm thầy chạy thuốc lại
vừa chủ động cách ly và tuyệt dao với mọi người. Thi sĩ đã sống biệt lập, cô đơn ở xóm Động- Gò Bồi,
xóm Tấn-Gềnh Ráng cách xa với người thân và cuộc sống bên ngoài. Do đó, ta hiểu vì sao ở tập thơ
“Đau thương”, mặc cảm cô đơn, chia lìa tràn ngập thơ ông mà biểu tượng ám ảnh của nó là sự ngăn
cách chốn “ngoài kia” và chốn “trong này”. Ngoài kia là tươi sáng,ấm áp trong này là chốn u tối,
lạnh lẽo. Ngòai kia là hạnh phúc còn trong này chỉ toàn đau thương, tuyệt vọng: Đó cũng là những
hình ảnh biểu tượng như chốn “trời sâu”, “nơi đáy giếng”, “chốn lãnh cung”:
- Ngoài kia xuân đã thắm hay chưa
Xuân ở trong đây chẳng có mùa
Không có vườn trăng và ý nhạc
Có nàng cung nữ nhớ thương vua.


- Lòng giếng lạnh, lòng giếng lạnh
Sao chẳng một ai hay!
Nghe nói mùa thu náu ở chỗ này
Tất cả âm dương đều tụ họp.
Khoảng cách giữa “trong này”và “ngoài kia” không chỉ là cái số đo không gian bằng nỗi niềm tương
tư của những đôi lứa yêu nhau như trong thơ Nguyễn Bính (Thôn Đoài, thôn Đông, làng trên, xóm
dưới, đường thẳng, đường vòng…)mà là khoảng cách của hai cõi trời, hai thế giới muôn trùng xa
thẳm:
- Ở xa xôi, lạnh nhìn anh khô héo
Bên kia trời hãy chụp cả hồn anh.
- Anh đứng cách xa hàng thế giới
Lặng nhìn trong mộng miệng em cười.

Có lúc thi sĩ bàng hoàng tự hỏi:
Tôi đang ở đây hay ở đâu?
Ai đem tôi bỏ dưới trời sâu?
Sao bông phượng nở trong màu huyết!
Nhỏ xuống lòng tôi những giọt châu.
(Những giọt lệ).

“Trời sâu” “phượng nở trong màu huyết” không còn là hình ảnh trực cảm nữa mà là hình ảnh tượng
trưng cho nỗi đau lưu đày của những “trích tiên bị đày xuống trần gian”.
Nếu ở thơ Hàn Mặc Tử, hai cõi không gian trần thế “trong này” và “ngoài kia” như là hai thế giới
tương phản nhau gay gắt thì đến với “Điêu tàn” của Chế Lan Viên, chúng ta cũng có cảm nhận tương
tự. Chỉ có điều hai thế giới tương phản ấy của thơ Chế là: quá khứ với hiện tại. Hơn bất cứ nhà Thơ Mới
nào, Chế là thi sĩ phủ nhận hiện tại, thực tại một cách công khai và quyết liệt nhất:
-Trời hỡi trời! Hôm nay ta chán hết
Những sắc màu, hình ảnh của trần gian.
(Tạo lập).
-Tạo hóa hỡi hãy trả tôi về Chiêm Quốc
Hãy đem tôi xa lánh cõi trần gian
Muôn cảnh đời chỉ làm tôi chướng mắt


Muôn vui tươi nhắc mãi vẻ điêu tàn.
(Những sợi tơ lòng).
Chán ghét trần gian, chán ghét hiện tại, dòng tâm tưởng của Chế Lan Viên đã trở ngược về quá khứ
và từ đó thi sĩ đã dựng lại cảnh oai hùng, oanh liệt của một thời quá khứ xa xăm:
- Đây những tháp gầy mòn vì mong đợi
Những đền xưa đổ nát dưới trần gian
Những sông vắng lê mình trong bóng tối
Những tượng Chàm lở lói rỉ rên than.
(Trên đường về).

- Nơi, một tối máu gào vang chiến địa
Nơi,loa vang,ngựa hí với đầu rơi
Bầy voi Chàm hung hăng như sóng bể
Hung hăng theo ánh lửa của dân Hồi.
(Chiến tượng).
Không gian trong “Điêu tàn” không chỉ có những cảnh huy hoàng, hoành tráng của lịch sử dân Hời
mà còn có “không gian huyệt lạnh kinh dị”. “Điêu tàn” là biểu tượng cho “quá khứ”, cho “âm phủ”,
nơi thi sĩ có thể tự tình với những hồn ma của dân Hời:
- Ta đã nghe trong mồ sâu lạnh lẽo
Tiếng thịt người nảy nở, tiếng xương rên
Ta hãy nghe, mơ màng trong cỏ héo
Tiếng cô hồn lặng thở bóng trời đêm.
(Bóng tối)
- Hãy tìm cho ta một nấm mộ hoang tàn
Đào đất lên, cậy cả nắp hòm xăng
Hãy chôn chặt thân ta vào chốn ấy
Ta sẽ uống máu tan cùng tủy chảy
Ta sẽ nhai thịt nát với xương khô
Lấy hơi Ma nuôi sống tấm hồn thơ
Luyện âm khí chuyển rung bao giọt máu.”


(Máu xương)
Là thi sĩ ham mê cái “khác thường” “phi thường” nên Chế Lan Viên đã chìm đắm vào quá khứ, lấy
quá khứ để chống lại, phủ nhận lại cái hiện tại đầy chán nản, đầy đau thương tuyệt vọng của xã hội
đương thời. Thi nhân đã cùng nhịp bước với đoàn quân Chiêm Thành khi ca khúc khải hoàn thắng
trận hay mải mê chiêm ngưỡng vẻ đẹp thướt tha của những nàng Chiêm nữ trong khúc nhạc quay
cuồng. Rồi ánh mắt của Chế Lan Viên lại chuyển sang một thế giới hoang tàn, chết chóc để cảm
thương và khóc than cho niềm đau thương, uất hận của cả một dân tộc đã bị diệt vong. Cái còn lại ở
trần gian hiện tại chỉ là những Tháp Chàm hoang phế và những huyền thoại về mộ Hời, ma Hời rùng

rợn. Nhưng với Chế, dân tộc ấy không chết mà vẫn đang hiện lên trước mắt chàng với tất cả những
cảnh huy hoàng và niềm bi hận muôn đời:
Trong thơ ta dân Chàm luôn sống mãi
Trong thơ ta xương máu khóc không thôi.
Đến với thơ Bích Khê cũng vậy. Bên cạnh những bức tranh quê tươi sáng là những bức tranh với
gam màu u tối nhuốm tâm trạng buồn đau:
Đêm nay hồn lạnh làm sao
Cảnh thu ôm cả chiêm bao vào lòng
Sao xanh lợt phím tơ đồng
Gió ơi là gió! Buồn đông thổi về
Không gian mưa lệ đầm đìa
Đầy sân trắng toát hoa lê đầu mùa.
(Cuối thu)
Nếu không gian trần thế trong thơ Hàn Mặc Tử và Chế Lan Viên hầu như không có mưa (chỉ có
“nắng chói”, “nắng chang chang”, “nắng hoa” “nắng buồn”…và ánh trăng tràn ngập “trăng ngà”
“trăng ngọc”, “trăng giãi bóng”, “trăng nằm nghiêng ngả”, “trăng quỳ”, “trăng tự tử”…) thì trong
thơ Bích Khê, không gian trần thế lại thường có mưa. Ở đây, mưa là biểu tượng cho nỗi buồn, niềm
đau, sự u ám của cuộc đời:
- Nơi đây làng cũ buồn hiu quạnh
Anh có khi nào trở lại chưa?
Ngày đi chậm lắm. Dòng sông biếc
Cùng sáng trong trời sợi sợi mưa
(Làng em)
- Mây trắng bay về núi Thạch Chua
Chùa Ông chim hót ở ngoài mưa
(Chùa Ông xà)


- Không gian mưa lệ đầm đìa
Đầy xuân trắng toát hoa lê đầu mùa.

(Cuối thu).
Tóm lại, không gian nghệ thuật của các thi nhân Trường thơ loạn trước hết là cõi trần thế, cõi thực tại
của cuộc đời. Đó là những bức tranh quê vừa tươi sáng thể hiện sự gắn bó của các nhà thơ với cuộc
sống. Nhưng liền ngay đó lại là những bức tranh quê u tối, đau buồn. Muốn thoát ly khỏi không gian
thực tại ngột ngạt, bế tắc, buồn đau như những “chốn trời sâu”, “đáy giếng”, “lãnh cung”, “huyệt
mộ”, “mưa xám”…ấy, các thi nhân của Trường thơ loạn đã đi tìm một thế giới mới- thế giới của những
khát vọng, ước mơ, ám ảnh của cõi mộng và cõi âm linh sâu thẳm. Đó là không gian siêu thực giải
thoát…
2.2 Đến không gian siêu thực - giải thóat…
Khi đã chán ghét thực tại tầm thường, giả dối, bế tắc…thì đa phần các thi sĩ của phong trào Thơ Mới
đều tìm cách thoát ly khỏi hiện thực như một cách để giải thóat nỗi buồn, sầu, bế tắc: “Ta thóat lên
tiên cùng Thế Lữ, ta phiêu lưu trong trường tình cùng Lư Trọng Lư, ta đắm say cùng Xuân Diệu
nhưng động tiên đã khép, tình yêu không bền, điên cuồng rồi tỉnh, say đắm vẫn bơ vơ. Ta ngơ ngẩn
buồn trở về hồn ta cùng Huy Cận.” (Hoài Thanh)
V.Hugo, vị chủ soái của chủ nghĩa lãng mạn Pháp vào cuối thế kỷ XVIII đầu thế kỷ XIX đã tuyên
ngôn “Bức tranh hiện thực của nhân loại có được là nhờ vào phóng đại con người, nghĩa là nhờ vào
điển hình hóa hiện thực bằng tưởng tượng, bằng lý tưởng…cái bình thường là cái chết của nghệ
thuật” (Tựa “Cromoen”). Còn Hàn Mặc Tử thì tuyên bố hướng đi của Trường thơ loạn bằng thơ:
Đi, đi, đi mãi nơi vô định
Tìm cái phi thường, cái ước mơ.
Cũng là mơ mộng, cũng lấy mộng để thay cho thực nhưng các nhà thơ Trường thơ loạn lại tiến xa
hơn hẳn cái mộng “nhẹ nhàng” “tươi đẹp” thấm đẫm ái tình của các nhà Thơ Mới đương thời. Đó là
thế giới của tượng trưng, của siêu thực tâm linh, tôn giáo. Đó cũng là một thế giới “rộng rinh không
bờ bến”: thế giới của cõi “huyền mơ”, “cõi thinh không”, “cõi xuất thế gian”, “cõi âm phủ”, “cõi
huyền diệu”, “cõi thần linh”…với bao hình ảnh khác thường, phi thường đầy huyền ảo và kinh dị.
Trong công trình công phu “Thế giới nghệ thuật thơ Hàn Mặc Tử”, Tiến sĩ Chu Văn Sơn đã khái quát
rất xứng đáng rằng: “Từ tập thơ “Đau thương trở đi, trong thơ Hàn đã xuất hiện một cõi trời mới, một
thế giới mới, có lúc ông gọi là “cõi trời mơ”: “Đây phút thiêng liêng đã khởi đầu/ Trời mơ trong cảnh
thực huyền mơ”, có lúc ông gọi là “xứ mộng”: “Hương khói ở đâu ngoài xứ mộng/ Cứ là mỗi lúc mỗi
nên thơ”, có lúc ông gọi là “xứ say mơ”: “Đấy là tất cả người anh tiêu tán/ Cùng trăng sao bàng bạc

xứ Say mơ”. Ngoài ra nó còn được định danh bằng nhiều cái tên khác nữa như “cõi thiên không”,
“cõi triều thiên”, “cõi siêu hình”, “nước Thiên Đông”, “nước Huyền Vi”, “chốn Phượng Trì”, “cõi vô
vi”, “cõi xuất thế gian”. Chính vì những trời thơ ấy trong thơ Hàn gắn liền với địa danh tôn giáo (cả
Phật giáo, Lão giáo và Thiên Chúa giáo) như “cõi xuất thế gian” và “cõi âm phủ” của nhà Phật, cõi
“vô vi” của Lão Trang, “cõi nước Thiên đàng” của Công giáo…mà có rất nhiều công trình nghiên cứu
đã khẳng định “Thơ Hàn Mặc Tử rất đậm chất Đạo”. Có thể nói, thế giới huyền diệu siêu thực ấy vừa là
khát vọng vượt thóat vào khung trời của “cõi ước mơ hoàn toàn”-nghĩa là đi đến “cái tột cùng” của
trí tưởng tượng thi ca lại vừa là con đường giải thoát khổ đau của các thi sĩ Trường thơ loạn.


Cái không gian thơ huyền diệu ở tít mù cao chốn thinh không này chịu sự qui định của 2 nguyên
nhân chính. Thứ nhất, đó là quan niệm nghệ thuật (về nhà thơ và về thơ) của Hàn rất khác thường
(Thi sĩ là “người điên”, làm thơ là làm sự phi thường…) Thứ hai, là hệ quả của cái thứ nhất, đó là khi
làm thơ, tất cả cảm xúc, trí tuệ, tưởng tượng của nhà thơ đều được đẩy đến “tột cùng” khiến cho thơ
ông có thể vượt qua mọi rào cản của nhà thơ lãng mạn thông thường để vươn tới những khung trời
kỳ ảo. Trong dòng cảm xúc ngất ngây như lên đồng ấy, ông đã nhìn thấy một thế giới hoàn toàn lạ
lùng, “một thế giới đầy ánh sáng; đầy âm thanh đầy màu sắc của “lưu ly, ngọc ngà”như chốn Thiên
Đàng vĩnh cửu. Với sự thăng hoa ấy, hồn thơ của Hàn đã vút bay lên cao để hóa giải mọi nỗi thống
khổ tột cùng cả về thể xác và linh hồn ở cõi trần ai này:
- Ta ném mình đi theo gió trăng
Lòng ta tản mát bốn phương trời
Cửu trùng là chốn xa xôi lạ
Chim én làm sao bay đến nơi
(Ghen).
- Máu tim ta tuôn ra làm bể cả
Mà sóng lòng dồn dập như mây trôi
Sóng lòng ta tràn lan ngoài xứ lạ
Dâng cao lên, cao tột bậc trên trời.
(Biển hồn ta).
- Cả bầu trời bỗng nổi muôn điệu nhạc

Rất trọng vọng, rất thơm tho, man mác
Rất phương phi trên tất cả anh hoa.
(Ra đời).
“Trí người đã dâng cao và thơ người dâng cao hơn nữa. Thì ra người đang say sưa đi trong mơ ước,
trong huyền diệu, trong sáng láng và vượt hẳn ra ngoài hư linh.” (Tựa “Thơ điên”).
Cái khung trời thơ lung linh ấy được Hàn xây cất lên bằng toàn những vật liệu siêu phàm của ước lệ,
tượng trưng, siêu thực. Đó là ánh sáng khác thường: “Cho mau lên dồn ánh nguyệt vào đây…Lời thơ
ta sẽ sáng trưng như thất bảo”, “ánh hào quang chan chói ngất liu ly”, “Trên triều thiên ngời chói
vạn hào quang”, “Anh đã thoát hồn anh ngoài xác thịt/ để chập chờn trong ánh sáng mông lung”…
Đó là thứ âm nhạc “thơm tho lạ lùng”, là “hương gấm”, là “đàn li tao”, là “hoa trinh bạch”, là “Trái
cây ngọc vỏ bằng gấm/ còn mặt trời tợ khối vàng/…xuân gấm đầu tiên giữa cõi trời”.v.v…và thi sĩ vô
cùng sung sướng, mãn nguyện thốt lên:
Ta sống mãi trong trăng sao gấm vóc
Trong nắng thơm, trong tiếng nhạc thần bay


Bút kê lên nền sáng báu năm mây
Thơ chen lấn lên trong nguồn cảm giác.
Phải chăng chính đức tin Thiên chúa đã khiến cho thi sĩ- con chiên ngoan đạo Hàn Mặc Tử đã xây
dựng lên bằng thơ cả một Thiên đàng trong mơ ước, trong khát vọng tột cùng.
Không gian siêu thực- giải thoát trong “Điêu tàn” của Chế Lan Viên vừa giống lại vừa khác so với
Hàn Mặc Tử.
Điểm giống nhau: Nếu không gian nghệ thuật siêu thực- giải thoát của thơ Hàn có xu hướng vươn lên
trên cao trên “thượng tầng không khí” thì ở Chế Lan Viên cũng vậy. Thi sĩ Chế Lan Viên cũng ước ao:
Hãy cho tôi một tinh cầu giá lạnh
Một vì sao trơ trọi cuối trời xa
Ở nơi ấy tháng ngày tôi lẩn tránh
Những ưu phiền, đau khổ với buồn lo!
(Những sợi tơ lòng).
Và ở nơi “tinh cầu giá lạnh ấy”, Chế Lan Viên đắm chìm vào dòng sông toàn “máu thắm sông Linh”

và thi sĩ cũng vô cùng khoan khoái được sống trong cảnh sắc phi thường:
Ta để xiêm lên mây rồi nhẹ bước
Xuống dòng Ngân lòa chói ánh hào quang
Sao tán loạn đua bơi trên mặt nước
Tiếng lao xao dội thấu đến cung Hằng.
(Ngủ trong sao).
Không gian cõi trời cao của Chế cũng đầy ánh hào quang chói sáng, cũng tỏa ngát mùi hương,
cũng đầy âm thanh rộn rã. Thi sĩ khi thì “Vỗ lên đầu sao Đẩu, sao Khuê”, lúc lại “đuổi bắt trăng sao
đang tán loạn”, khi thì ngồi dưới “bến hư-không để tắm ánh trăng vàng mát rượi”, lúc lại “hát khúc
cuồng ca trên bến sông Ngân.”
Trong thơ Hàn, không gian tràn ngập ánh trăng. Trong cõi trời hư-không của Chế cũng “lai láng
trăng vàng, trăng điên”. Trong thơ Hàn, phương tiện vượt thóat không gian thực tại cũng là hồn,
trong thơ Chế cũng có hồn thoát ra khỏi xác để trôi nổi trong vũ trụ:
Đừng hát nữa! Tiếng ai trong trẻo quá
Khiến hồn tôi tê liệt khó bay cao
Này, im đi, nhìn xem trong khẽ lá
Một mặt trời giả dạng một vì sao”.
(Hồn trôi).


Điểm khác nhau: Nếu không gian của thơ Hàn chủ yếu là ở trời cao xa thẳm thì không gian của thơ
Chế còn có nơi rùng rợn, kinh hãi đó là âm phủ, là huyệt mộ. Chỉ với 36 bài thơ ngắn trong tập thơ
“Điêu tàn”, Chế Lan Viên đã 12 lần nhắc đến, nói đến và tả lại cảnh sắc nơi mồ sâu, huyệt lạnh đến
ghê người. (Trong đó có hai bài hoàn toàn chỉ tả lại cảnh này, đó là bài “Mồ không” và “những nấm
mồ”). Và hành động trữ tình của thi nhân cũng thật là khác thường, kinh dị.
Tìm cho ta một nấm mộ hoang tàn
Đào đất lên cậy cả nắo hòm săng
Hãy chôn chặt thân ta vào chốn ấy
Ta sẽ uống máu tan cùng tủy chảy
Ta sẽ nhai thịt nát với xương khô

Lấy hơi ma nuôi sống tấm hồn mơ
Luyện âm khí chuyển rung bao mạch máu.
(Máu xương).
Nếu ở cõi trời cao, vật liệu xây cất lên cái thế giới ấy toàn là những thứ cao sang, siêu phàm, quý giá
(ánh trăng, nhạc, hương, hoa, ngọc ngà lưu li, châu báu…)thì ở cõi huyệt mộ này, Chế toàn dùng
những thứ tanh hôi ghê rợn như máu, tủy, sọ người, xương khô, quan tài…và tương ứng với những
vật liệu ấy là biểu tượng “đêm mờ” được láy lại tới 29 lần.Chỉ có trong cõi “đêm mờ” này thì thi nhân
mới thóat được hồn ra khỏi xác để nhập vào “Hồn ma Hời và đi vào những nấm mồ hoang lạnh để “tự
tình, tâm sự”. Cũng chỉ dưới bóng “đêm mờ” này, các ma Hời mới sống dậy và tâm tình với thi nhân
để làm sống lại thời dĩ vãng oanh liệt của giống dân Hời:
Ta hãy nghe trong mồ sâu lạnh lẽo
Tiếng thịt người nảy nở, tiếng xương rên
Ta hãy nghe mơ màng trong cỏ héo
Tiếng cô hồn lặng thở khí trời đêm
……
Nước non Chàm chẳng bao giờ tiêu diệt
Tháng ngày qua vẫn sống với đêm mờ.
(Bóng tối).
Tóm lại, trong “Điêu tàn” của Chế Lan Viên, các biểu tượng của không gian siêu thực- giải thóat là
“tinh cầu giá lạnh”, là “Sông Ngân” “sông Linh”, là “cõi trời”, “cung Hằng”, “Thất tinh”, là “Tháp
Chàm” “huyệt mộ”, “đêm mờ”, là “ cõi hư- vô”…Đó cũng chỉ là những địa danh khác nhau của một
cõi: không gian mộng ảo, siêu thực- tâm linh nhằm phủ nhận cõi trần gian, thực tại chán chường,
đau khổ và tuyệt vọng. Và đó cũng chính là con đường vượt thoát: vượt thoát khỏi ranh giới của thơ
lãng mạn, vượt thoát cho những đau khổ, bế tắc của thi nhân trước cuộc đời nhỏ bé, tầm thường, đau
khổ:


Với tôi tất cả như vô nghĩa
Tất cả không ngoài nghĩa khổ đau.
Đến với thơ Bích Khê, chúng ta lại không thể không liên tưởng đến Hàn Mặc Tử. Hàn có cả một tập

thơ mang tên là “đau thương” để thăng hoa hết, thăng hoa đến “tột cùng” nỗi đau thương của đời
mình thành thơ thì Bích Khê cũng vậy. Một thi sĩ trẻ trung đang đầy tài năng và khát vọng bỗng lại
vướng vào án tử của căn bệnh lao “tứ chứng nan y” thời ấy. Cho nên Bích Khê đã thốt lên: “thơ tôi
đời mô mới hết đau.” Căn bệnh quái ác cứ hành hạ thi nhân khiến chàng đau khắp người “cả linh
hồn, óc, não, phổi, tim, gan”. Nỗi đau ấy khiến thi nhân phải bật khóc đến độ “đứt tươm hơi.” Phải
sống những ngày cận kề cái chết, có nhiều lúc giống Hàn Mặc Tử, Bích Khê đã rơi vào hoảng loạn,
mê sảng, gào rú, điên cuồng “Hú ma điên- kinh động Vạn hồn đau”, “Tôi lạy trời! Tôi lạy cả vô biên”,
“Ai bảo tôi là tôi chửa chết rồi!”, “hơn một bận ta đi vào cõi chết”…Nhưng rồi Bích Khê cũng như Hàn
“ Lòng chết đi nhưng máu vẫn cuồng say”. Chàng đã thăng hoa nỗi đau ấy thành thơ. Và cũng như
Hàn, Bích Khê đã tìm ra cho mình một chốn giải thoát nỗi đau: đó là thi nhân đã xây dựng cho
mình một khung trời siêu thực- giải thoát: khung trời trượng trưng đầy Nhạc- Hương- Hoa: “ Hồn ta
say trong nhạc vằng kể lể/ và hồn hé nhạc thắm như hoa”.
Ấn tượng đậm nhất trong không gian thơ Bích Khê đó là một thế giới đầy âm nhạc. Âm nhạc đắm
say, âm nhạc du dương, âm nhạc vui, âm nhạc buồn…được Bích Khê gọi bằng những cái tên khác
nhau như: “ Khúc Mộng cầm ca”, “ Khúc Lạc Mai hoa”, “ Điệu Tỳ Bà”, “ Khúc Phượng cầu”, “ Điệu
tương tư”, “ Điệu sầu hận”…Tất cả đều lôi cuốn hồn thi sĩ, làm cho thi sĩ ngất ngây,say đắm, thậm
chí con người tan ra thành nhạc:
- Nường tan ra nhạc, tan ra nhạc
Khung trắng trời mây, trắng lạ thường
Nường hé môi ra bay điệu nhạc
Mát như xuân mà ngọt tợ hương
(Hiện hình)
- Không gian tơ, không gian tơ gợn sóng
Âm thanh gì sắp sửa Ngọc Kiều ơi!
Hay hơi thở của hoa hồng mơ mộng
Hay buồn đêm rào rạt trải muôn nơi
Không gian tơ, không gian tơ gợn sóng
Ngọc Kiều ơi! Hồn đến bến xa khơi
(Mộng cầm ca)
- Thơ bay, thơ bay vô bàn tay ngà

Thơ ngà ngà say, thơ ngà ngà say
Nàng ơi đừng động! có nhạc trong giây


Nhạc gây hoa mộng, nhạc ngát trời mây
(Nhạc)
Bích Khê là thi sĩ đặc biệt nhạy cảm với nhạc. Và đó không chỉ là âm nhạc thông thường của âm
thanh nhạc cụ hay giọng ca của con người mà là một thứ “ nhạc tượng trưng” tổng hợp tất cả mọi
âm vang của cuộc đời, vũ trụ và tâm trạng nhà thơ. Đó là âm vang, là giai điệu của mây, của gió,
của lá rụng, của nước chảy, của tiếng chuông chùa…là nhạc của nỗi buồn, niềm đau, của khát khao
vô tận về dục tình. Do đó mà thi sĩ đã cảm nhận được “ làn da trắng tinh của người con gái, thân thể
thơm tho của người thiếu nữ cũng “ tỏa ngát hương và nảy ra điệu nhạc”. Dù có cố “ Tôi run run
hãm lại cánh hồn si” thì vẫn cứ “ Hồn theo với nhạc hồn ơi là hồn!”. Không chỉ ngửi được mùa thơm
của tiếng cười Ngọc Nữ, thi sĩ còn ví von như có vẻ phi lý “ Khóc gì nghe như phả điệu đàn”. Đó là
tiếng khóc của giai nhân , trong giấc mộng,khóc cũng là nhạc, là hương,là niềm an ủi, là con đường
giải thoát khổ đau.
Ngoài nhạc, khung trời thơ của Bích Khê còn đầy hương và màu sắc. Nhà thi sĩ “ thần linh” này
có thể ngửi thấy, cảm thấy mùi hương thơm của mọi vật: hương của lúa, hương của cỏ, hương của
hoa, hương của da thịt giai nhân, hương của mây trời, hương của “cung điệu chốn Nghê Thường”,
hương của “ điệu Mai hoa” của “ Khúc Phượng Cầu”…
- Nàng hé môi ra bay điệu nhạc
Mát như xuân mà ngọt tựa hương
Ôi sao là lúc ba sinh lụy
Rào rạt như đầy nỗi cảm thương
(Hiện hình)
- Vầng sao nằm im trên hoa gầy
Tương tư người xưa thôi qua đây
Ôi nàng năm xưa quên lời thề
Hoa vừa đưa hương gây đê mê.
(Tỳ bà)

Tiếp theo thuyết “tương giao giữa các giác quan” của thi sĩ tượng trưngPháp Baudelaire (Màu sắc và
âm thanh có thể tương hợp với nhau).
Hương sắc âm thanh trong không gian tương ứng
Có những mùi hương mát như da thịt trẻ con
Và êm nhẹ như tiếng sáo, xanh mướt như cỏ non.
(Baudelaire-Tương ứng).
Bích Khê cũng tạo ra thế giới tương giao bằng các giác quan của mình.


Thế giới thơ Bích Khê là thế giới “Linh diệu của muôn trời”. Như các thi sĩ của chủ nghĩa tượng
trưng, Bích Khê đã dựa vào tất cả cảm quan mở rộng, vào trực giác tinh tế, vào tưởng tượng phi
thường, vào cái thâm sâu bí ẩn của tâm linh vô thức…Tất cả được nhà thơ huy động với “công suất”
cao nhất để tạo nên một thế giới linh diệu. Ở trong thế giới ấy, âm thanh, hương vị, màu sắc có thể
tương thông với nhau, chuyển dịch và hòa thấu vào nhau. Trong 76 bài thơ của hai tập “Tinh hoa”
và “Tinh huyết”, Bích Khê đã 82 lần nhắc đến, tả lại âm thanh, 96 lần gợi về màu sắc và 71 lần nhắc
gợi hương thơm.
Nếu các thi sĩ của chủ nghĩa lãng mạn nhìn thế giới chủ yếu ở mặt hữu hình và coi trọng cảm xúc
(“Hãy đập vào trái tim, thiên tài là ở đó”- A.Musset) thì các thi sĩ của trường phái tượng trưng lại làm
ngược lại: đặt thơ vào cõi vô hình và xuất phát từ cảm giác. Vì thế, thơ tượng trưng không chỉ truyền
cảm mà chủ yếu là gợi cảm, gợi ý và do đó thơ tượng trưng thường để lại những “khấp khểnh”, “lệch
pha”, “mông lung” trong trí tưởng tượng của người đọc. Nó khó hiểu hơn nhưng lại tinh vi hơn, phức
tạp hơn, đa nghĩa hơn thơ lãng mạn. Phát hiện ra cái đặc sắc, độc đáo này của Bích Khê, Chế Lan
Viên đã chỉ rõ cách tiếp cận thơ của thi sĩ này: “Với kỹ thuật tượng trưng khi miêu tả chiếc lá rụng thì
người thơ không nói về chiếc lá lìa cành mà nói đến cái trống vắng của cây khi lá rơi”. Chẳng hạn,
đây là một trời “mông lung”, lung linh rất gợi cảm nhưng vô hình của “cõi Nghê thường”:
Ôi trời hôm nay sao mà xanh
Ngọc trăng xây vàng trên muôn cành
Nhung mây tê ngời sao kim cương
Dạ lan tê ngời say men hương
Lầu ai ánh gì như lưu ly?

Nụ cười ai trắng như pha lê?
Thủy tinh ai để lòng gương hồ?
Không gian xà cừ hay san hô?
(Nghê thường).
Hoặc nhà thơ chỉ gợi ra một không gian tương hợp của các giác quan:
Ta những muốn sầu thương thôi biểu lộ
Sắc trong màu, màu trong sắc hân hoan
Ta những muốn mùa đông nhường lại chỗ
Nhạc gầy hương, hương gầy nhạc lan man
Cả không gian là bể sóng tràn lan.
(Đồ mi hoa).
Do đó ta mới hiểu, vì sao thế giới thơ của Bích Khê toàn được xây cất lên bằng các vật liệu kỳ lạ: âm
thanh kỳ lạ, đường nét, màu sắc kỳ lạ, hương thơm kỳ lạ, chất liệu kỳ lạ (“ánh sáng lưu ly”, “ánh dạ
quang”, “ánh trăng hường”, “lòng trăng mật”, “da thịt tuyết”, “mùi tô hợp”, “hương trầm”, “hương


xạ”, “hương tô hợp”, “hương hân hoan”…). Và ta cũng hiểu vì sao Bích Khê lại gọi khung trời thơ của
mình bằng những cái tên cũng kỳ lạ nốt: “chốn vô biên”, chốn phương phi, chốn Diên Trì, chốn Kim
Sa”, “nơi Ngọc Nữ”, “nơi hoan lạc”, “nơi Kim Đồng”, “nơi thanh khí”, “bến sông Ngân”, “bến sông
Tương”, “hội đào Tiên”, “đỉnh Nga My”…
Tóm lại, không gian nghệ thuật của các thi nhân Trường thơ loạn không chỉ có một cõi trần thế vừa
tươi sáng vừa u buồn mà còn có một cõi siêu thực huyền diệu, kỳ ảo và kinh dị. Nhờ đó, thế giới thơ
của Trường thơ loạn không chỉ có thế giới hữu hình mà còn có cả thế giới vô hình đầy ám ảnh: ám
ảnh của dục vọng, ám ảnh về cái chết, ám ảnh về cõi Thiên Đàng, cõi Niết Bàn, cõi Âm Phủ. Nói cách
khác, đó không chỉ là sản phẩm của trí tưởng tượng phi thường, kỳ lạ mà còn là sản phẩm của những
vô thức sâu thẳm đầy bí ẩn. Cũng nhờ đó, các thi nhân của Trường thơ loạn đã làm “lạ hóa” vườn thơ
lãng mạn, mở rộng biên giới thơ lãng mạn đến độ “rộng rinh không bờ bến” như lời khẳng định của
Hàn Mặc Tử.
Và qua đó, các nhà thơ độc đáo này đã đổi mới cách nhìn, cách cảm, cách nghĩ về vũ trụ, về cuộc
đời, về con người cho những kẻ yêu thơ.


Trích công trình :
Không gian và thời gian nghệ thuật của Trường thơ Loạn Bình Định
Đề tài NCKH cấp Trường năm 2014 của TS. Nguyễn Quốc Khánh
Dẫn theo : Wsite Khoa Ngữ văn



×