Tải bản đầy đủ (.docx) (7 trang)

KHÔNG GIAN THỜI GIAN NGHỆ THUẬT TRONG NGÂM KHÚC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (232.37 KB, 7 trang )

KHÔNG GIAN NGHỆ THUẬT TRONG NGÂM KHÚC

1. Những vấn đề chung
1.1. Thể loại ngâm khúc
Ngâm khúc là một thể loại cơ bản có vị trí quan trọng trong văn học trung đại Việt Nam. Ngâm khúc là
những ca khúc trữ tình dài hơi thể phản ánh những bi kịch trong đời sống nội tâm của con người khi đối diện với
hiện thực cuộc sống trong một giai đoạn lịch sử nhất định, được viết bằng thể Song thất lục bát và bằng ngôn
ngữ dân tộc (chữ Nôm).
Ngoài ra còn có rất nhiều định nghĩa khác nhau vể thể loại này:

Theo từ điển thuật ngữ văn học: “ Ngâm khúc là thể thơ trữ tình, dài hơi, thường được làm theo thể Song
thất lục bát để ngâm nga, than vãn nhằm bộc lộ những tâm trạng, tình cảm buồn phiền đau xót triền miên day
dứt”. Vì thế ngâm khúc còn được gọi là khúc vãn hay thán.
Theo từ điển văn học (bộ mới): “Khúc còn gọi là tản khúc, một hình thức thơ cả cổ của Trung Quốc, gắn
chặt với âm nhạc, có nội dung trữ tình, ra đời trên cơ sở những lời ca điệu hát dân gian đời Kim (1115 - 1234) và
phát triển mạnh mẽ ở đời Nguyên (1280 - 1368) . Khúc gồm hai loại tiểu lệnh và sáo số. Tiểu lệnh là những khúc
hát lẻ có màu sắc địa phương và phong cách dân gian khá đậm. Sáo số là những tổ khúc bao gồm từ hai khúc
hát trở lên có cùng cung điệu….”Ở Việt Nam chữ khúc được dùng để chỉ những tác phẩm bằng thơ dài theo thể
lục bát hoặc song thất lục bát, có nội dung trữ tình…
Trần Đình Sử trong “Mấy vấn đề thi pháp văn học trung đại Việt Nam” xác định ngâm khúc “là một thể loại
văn học trung đại Việt Nam, tinh thần bi kịch thể hiện ở chỗ tìm lại giá trị nhân sinh mà không được, không cam
chịu mất mát giá trị mà đành bất lực và do bất lực mà mà lòng bất lực ngày càng mạnh thêm, day dứt hơn và
nhấn mạnh chức năng của thể loại này như sau: “Có thể nói khúc ngâm có nhiệm vụ phơi trải lòng đau xót, sầu
tủi, tiếc hận của mình” .
Về mặt nội dung: ngâm khúc thể hiện cảm hứng trữ tình, bi thương, qua tâm trạng nhân vật trữ tình, với
những trạng thái tình cảm khác nhau như đau xót, sầu tủi, tiếc hận,… với nội dung phong phú, đa dạng: tuổi trẻ
tàn phai, tình yêu chia lìa, hanh phúc tan vỡ, người thân qua đời,…Nhân vật trữ tình bộc lộ tâm trạng qua sự hồi
tưởng, bằng hình thức kể, thuật, tả, vì vậy nỗi đau buồn, thương tiếc cứ tiếp nối, triền miên, tạo thành một dòng
tình cảm bi kịch. Từ tình cảm bi kịch toát lên khát vọng sống, khát vọng hạnh phúc của con người.
Về mặt nghệ thuật: ngâm khúc bao gồm một số đặc điểm về kết cấu, hình tượng con người, ngôn ngữ, lời thơ,
không gian, thời gian… Trong phạm vi bài làm này chúng tôi đi vào tìm hiều không gian nghệ thuật trong


ngâm khúc.
1.2. Không gian nghệ thuật


Mỗi hiện tượng văn học là một thế giới nghệ thuật rộng lớn, phức tạp nhưng thống nhất với nhau trong một
chỉnh thể. Nó phải tồn tại trong một không gian nhất định cho nên không gian nghệ thuật là một yếu tố tất yếu
của thế giới nghệ thuật.
Trần Đình Sử cũng đã lí giải: không gian nghệ thuật là hình thức tồn tại cùng thế giới nghệ thuật. Ông còn khẳng
định một cách hết sức chắc chắn:không có hình tượng nghệ thuật nào không có không gian, không có một
nhân vật nào không nào không có một nền cảnh nào đó, và không gian nghệ thuật là sản phẩm sáng tạo của
nghệ sĩ nhằm biểu hiện con người và thể hiện một quan niệm nhất định về cuộc sống.Như vậy không gian nghệ
thuật là một phạm trù của hình thức nghệ thuật, nó vừa là phương thức tồn tại, triển khai của thế giới nghệ thuật
vừa là cách thức cảm thụ chủ quan của nhà văn về cuộc đời, về con người. Vì vậy tìm hiểu về không gian nghệ
thuật trong văn học cũng là một trong những chìa khóa để giải mã được những bí ẩn của tác phẩm cũng như giải
mã được những bí ẩn của phong cách nhà văn.
Không gian được miêu tả chỉ trở thành không gian nghệ thuật khi nó gắn liền với chủ quan của con người.
Và do phụ thuộc vào cảm giác chủ quan của nhà văn, phụ thuộc vào cảm giác riêng của mỗi người cho nên
chúng ta có thể gọi không gian nghệ thuật là không gian tâm tưởng.
Trong tác phẩm văn học không gian nghệ thuật được chia thành các hình thức sau:
+ Không gian vũ trụ
+ Không gian sinh hoạt đời thường
+ Không gian lịch sử- xã hội
+ Không gian đời tư….
Có thể nói không gian nghệ thuật được xây dựng hết sức đa dạng qua các tác phẩm khác nhau. Với mỗi ý đồ
riêng biệt của từng tác giả mà không gian nghệ thuật có một ý nghĩa nhất định. Ý nghĩa đó gắn liền với cách
cảm thụ và quan niệm về thế giới của người trung đại.
2. Không gian nghệ thuật trong ngâm khúc
Trong Ngâm khúc nhà thơ sử dụng không gian như một biện pháp nghệ thuật hữu hiệu để thể hiện tâm
trạng nhân vật và để khai thác một cách triệt để, toàn bộ không gian trong Ngâm khúc đều được lọc qua lăng
kính chủ quan của nhân vật. Nói một cách khác không gian trong Ngâm khúc bao giờ cũng xuất phát từ điểm

nhìn và diễn ra trongtrường nhìn của chủ thể trữ tình.Điểm nhìn là nơi nhân vật ngồi để tự bạch tâm trạng của
mình. Ví như người chinh phụ trong Chinh phụ ngâm là trong căn phòng:
Bóng cờ tiếng trống xa xa
Sầu lên ngọn ải oán ra cửa phòng
Còn trường nhìn là nhân vật nghĩ đến đâu thì trường nhìn tới đó. Do đó toàn bộ không gian trong Ngâm khúc
là không gian nghệ thuật. Nó có một chức năng duy nhất là giúp cho chủ thể trữ tình tự bạch tâm trạng của
mình hay nói cách khác không gian trong Ngâm khúc mang tâm trạng của chủ thể trữ tình. Không gian nghệ
thuật trong Ngâm khúc được biểu hiện như sau:
2.1. Không gian mơ hồ mang tính ước lệ tượng trưng
Đây không phải là không gian đặc thù của ngâm khúc mà là của chung thơ cổ phương Đông. Là loại
không gian không có thật mà nó chỉ là cái cớ để nhân vật trữ tình bộc lộ cảm xúc của mình.
Ở đây không gian mơ hồ được hiểu là không gian không rõ ràng, không cụ thể, chân thực. Đó là một
lũng Tây, cầu Hán Dương, bến Tiêu Tương…có thực ở Trung Hoa nhưng đi vào Ngâm khúc chỉ mang ý nghĩa
tượng trưng mà thôi.
Hẹn cùng nhau lũng Tây nham ấy
Sớm đã trông nào thấy hơi tăm


Ngập ngừng lá rụng cành trâm
Buổi hôm nghe dậy tiếng cầm xôn xao
Hẹn nơi nao Hán Dương cầu nọ
…Bến Tiêu Tương thiếp hãy còn trông
Khói Tiêu Tương cách Hàm Dương
Cây Hàm Dương cách Tiêu Tương mấy trùng…
Tất cả cái gì là vật chất, là thực thể, bao nhiêu màu sắc, âm thanh dường như đã bị tác giả xóa nhòa đi trong
những nét bút mơ hồ mênh mông. Một con sông, một đoạn đường, một nhịp cầu,…. được gói ghém trong một
không gian ước lệ.
Trong Chinh phụ ngâm cũng có dành một đoạn để mô tả giờ xuất phát của bộ đội. Tuy nhiên bức tranh vẫn
chỉ có những nét thông thường như nhạc ngựa, trống hành quân, hàng cờ bay….chứ không hề có một sự chính
xác về số lượng, về trang bị bộ đội, bộ mặt của những người lính cũng mơ hồ, không được nói đến. Ngay cả bộ

mặt người chồng cũng không được rõ ràng, hình ảnh của chàng được hiện lên qua hai màu sắc:
Aó chàng đỏ tựa ráng pha
Ngựa chàng sắc trắng như là tuyết in.
Ngay cả cảnh tiễn đưa của đôi vợ chồng cũng không hề có nửa lời than thở, an ủi hay căn dặn nơi cửa miệng
mà chỉ còn lại mỗi một cử chỉ:
Nhủ rồi tay lại cầm tay
Bước đi một bước dây dây lại dừng
Cảnh chiến trường chết chóc cũng chỉ còn lại một chi tiết:
Hồn tử sĩ gió ù ù thổi
Mặt chinh phu trăng dõi dõi soi
Qua những phân tích trên ta thấy được tính chất mơ hồ, mênh mông, ước lê của không gian trong khúc ngâm
này. Không gian này đã giúp người chinh phu bày tỏ tất cả những tình cảm nhớ nhung, mong đợi, hy vọng triền
miên. Có thể nói nhân vật trữ tình đã bộc lộ tất cả những cung bậc cảm xúc của mình. Đánh giá hiệu quả nghệ
thuật của kiểu không gian ước lệ tượng trong Chinh phụ ngâm, Trần Đình Sử cho rằng Những thời gian, địa điểm
mơ hồ, vô định như chỉ nhằm gợi lên những cảm xúc thất vọng, mịt mù trĩu nặng trong tâm hồn người chinh
phụ mà thôi.
2. 2. Ý thức đối lập giữa không gian tù túng, ngột ngạt, tăm tối( không gian thực) với không gian
phóng khoáng, cao rộng( không gian giả tưởng)
Sự đối lập này nhằm diễn tả tâm trạng đau buồn, ngột ngạt của nhân vật trữ tình trong hiện tại, niềm hối tiếc
quá khứ và hoài vọng về tương lai.
Không gian thực là không gian nơi mà chủ thể trữ tình đang tự bạch tâm trạng của mình với những nỗi
đau, trăn trở. Trong Chinh phụ ngâm, qua ý nghĩ nhân vật ta xác định được không gian thực của chinh phụ ngồi
chỉ từ trong phòng ra ngoài sân
Dạo hiên vắng thầm gieo từng bước
Ngồi rèm thưa rủ thác đòi phen
Ngoài rèm thước chẳng mách tin
Trong rèm dường đã có đèn biết chăng?
Trong Cung oán ngâm khúc không gian thực đó chính là tiêu phòng – căn phòng dành riêng cho người
cung nữ
Phòng tiêu lạnh ngắt như đồng

Giang tay muốn bứt tơ hồng


Bực mình muốn đạp tiêu phòng mà ra…
Không gian giả tưởng: Trong không gian chật hẹp, tù túng, gắn bó đó con người luôn cảm thấy bức bối,
ngột ngạt và muốn vượt thoát ra ngoài . Trong thực tế họ không thể thoát ra khỏi không gian ấy cho nên họn tự
giải thoát bằng cách tưởng tượng nên mới sinh ra không gian giả tưởng.Trong Chinh phụ ngâm người chinh phụ
thả hồn mình để đến với cảnh chiến trường nơi có người chồng đang chiến đấu, bản thân người vợ không thể ra
nơi chiến địa đó được Nghìn vàng xin gửi tới non yên. Chinh phụ cũng nhận thức được điều đó cho nên không
gặp được chồng như thế nàng lại quay về tìm chồng trong giấc mơ xưa:
Tìm chàng thuở Dương Đài lối cũ
Gặp chàng nơi Tương Phố bến xưa
Những Dương Đài, Tương Phố chỉ là những điển tích mang tính ước lệ, tượng trưng chỉ giấc mộng Vu Sơn trong
văn học xưa. Chinh phụ đã mơ mộng, khát khao cảnh ái ân với chồng nhưng tất cả đều là cái hư và khi tỉnh lại
người chinh phụ nhận thức cái tính chất vô nghĩa của nó
Sum vầy mấy lúc tình cờ
Chẳng qua trên gối một giờ mộng xuân
Mộng không thành, nàng lại lên cao trông ngóng nhưng vẫn không tìm thấy bóng dáng của người chinh phu.
Điều đó khiến người chinh phụ hóa đá
Lòng này hóa đá cũng nên
E không lệ ngọc mà lên trông lầu
Tóm lại, trong không gian chật hẹp con người cảm thấy tù túng, ngột ngạt tuy nhiên khi vươn mình ra
ngoài không gian cao rộng thì họ lại cảm thấy bơ vơ, choáng ngợp, sợ hãi. Sự tương phản giữa hai loại không
gian này xét cho cùng cũng mang một ý nghĩa tượng trưng, một mặt nó gợi lên sự liên tưởng về cuộc sống ngột
ngạt tăm tối của thực tại.Mặt khác, nó thể hiện khát vọng của con người muốn thoát khỏi cuộc sống ấy. Nhưng
thoát ra để rồi đi về đâu , bầu trời hạnh phúc chỉ còn đọng lại trong hoài niệm còn bầu trời tương lai trong dự
cảm lại u ám, não nề đầy khí âm huyền. Đó chính là cái không gian được cảm nhận qua cái tôi trữ tình mang
tâm trạng bi quan bế tắc về cuộc đời. Đặng Thai Mai cho đó là một không gian đã thấm nhuần trong màu sắc
của tình cảm để mà đúc thành một khối tâm trạng của con người.
3. KẾT LUẬN

Không gian nghệ thuật là hình thức tồn tại của tác phẩm , tác phẩm nào cũng cần có không gian. Vì vậy không
gian nghệ thuật có vai trò rất quan trọng, được tác giả sử dụng như một phương tiện đắc lực nhằm phục vụ cho ý
đồ nghệ thuật của mình.Nhìn chung không gian nghệ thuật trong ngâm khúc là không gian được cảm nhận qua
cái tôi trữ tình mang cảm quan buồn chán, đau xót, hoài nghi về cuộc đời.
Nhóm học viên
Lê Thị Bích Vân - Trần Thị Yến

THỜI GIAN NGHỆ THUẬT TRONG NGÂM KHÚC


Là thể loại ra đời, phát triển trong thời trung đại, ngâm khúc mang những đặc trưng thi pháp chung của văn học
trung đại, trong đó có những các kiểu thời gian nghệ thuật phổ biến như thời gian chu kì, thời gian ước lệ, thời
gian sinh hoạt,… Thế nhưng, ngâm khúc là một trong những thể loại sớm ổn định và đạt trình độ phát triển cao,
là thể trữ tình trường thiên với nội dung chủ yếu là thể hiện tình cảm buồn sầu của con người trong những hoàn
cảnh bi kịch. Do đó, thi pháp thể loại của ngâm khúc, trong đó có phương diện thời gian nghệ thuật có những
đặc trưng riêng. So với các thể loại trữ tình khác như thơ Đường luật, vịnh khúc,… thời gian nghệ thuật trong
ngâm khúc phong phú hơn. Có những kiểu thời gian nghệ thuật chính của thể loại này như sau.
1. Thời gian mở
Khác với thời gian trong truyện thơ là thời gian khép kín (thời gian phong bế), thời gian trong ngâm khúc là thời
gian mở. Ở loại hình tự sự, thời gian gắn liền với cốt truyện (thường là thời gian tuyến tính), tác phẩm kết thúc,
mọi việc đã được giải quyết xong cũng là lúc thời gian kết thúc. Bởi tự sự hướng về quá khứ, sự việc được kể lại
nghĩa là đã diễn ra trong quá khứ. Câu chuyện kết thúc đồng nghĩa với việc thời gian truyện kết thúc trong quá
khứ.
Ngâm khúc là thể loại trữ tình, nó hướng vào hiện tại của chủ thể trữ tình đang triền miên trong tâm trạng đau
khổ. Do đó, kết thúc tác phẩm ngâm khúc, câu chuyện tâm tình của nhân vật vẫn chưa kết thúc. Tác phẩm dừng
lại, nhưng tương lai của nhân vật như thế nào không ai biết, vì thế, thời gian tương lai vẫn chưa được xác định.
Trong Chinh phụ ngâm, tác phẩm kết thúc nhưng chinh phu chưa về, tương lai chinh phu chinh phụ có được
đoàn viên hay không vẫn còn là một câu hỏi. Kết thúc Cung oán, liệu rằng nhà vua có hồi tâm chuyển ý quay lại
sủng ái cung nữ hay không, ta không thể biết. Tự tình khúc, Thu dạ lữ hoài ngâm kết thúc nhưng số phận có
được minh oan trong tương lai hay không của Cao Bá Nhạ và Đinh Nhật Thận vẫn là điều còn bỏ ngõ. Rõ ràng,

số phận của nhân vật chưa được làm rõ, tác phẩm kết thúc nhưng câu chuyện của nhân vật vẫn chưa được kết
thúc. Thì tương lai chưa được xác định, cho nên thời gian chưa kết thúc và mang tính chất mở.
2. Thời gian mơ hồ, mang tính ước lệ, tượng trưng
Trong tác phẩm ngâm khúc, không có kiểu thời gian lịch sử, sự kiện như trong tiểu thuyết lịch sử. Ở thể loại này,
thời gian chính xác không được quan tâm đến, cho nên không hề có những mốc thời gian chính xác kiểu như
tháng giêng năm Minh Mệnh thứ hai, mùa thu năm Canh Dần… Tất cả thời gian trong ngâm khúc đều mang
tính chất phiếm chỉ, do đó rất mơ hồ, tượng trưng.
Chẳng hạn, mở đầu Chinh phụ, tác giả viết “Thuở trời đất nổi cơn gió bụi”, ta không thể xác định thời gian có
biến cố to lớn ấy là khi nào. Thậm chí khi tác giả cho biết chính xác thời đoạn như trong câu “Nước thanh bình
ba trăm năm cũ” thì ta cũng không thể biết ba trăm năm đó là ba trăm năm nào, bắt đầu từ thế kỉ nào và kết
thúc ở thế kỉ bao nhiêu. Hay như trong Văn chiêu hồn, Nguyễn Du mở đầu bằng một thông tin về thời gian “Tiết
tháng bảy mưa dầm sùi sụt” thì đó cũng là thời gian rất mơ hồ. Tháng bảy đó là tháng bảy của năm nào, ta
không xác định được.
Thời gian trong ngâm khúc không phải để mang chức năng thông tin chính xác mà đó chỉ là cái cớ để tác giả
phát triển tác phẩm của mình. Mặt khác, để đặc tả tâm trạng của chủ thể trữ tình, tác giả cần phải làm cho thời
gian mờ nhòe đi, bởi thời gian chung chung, ước lệ tượng trưng có sức khái quát tâm trạng cao hơn thời gian cụ
thể, chính xác rất nhiều. Thời gian trong thể ngâm khúc luôn mơ hồ, mang tính ước lệ có nguyên nhân từ yêu
cầu đặc tả tâm trạng của nhân vật, phù hợp với yêu cầu nội tại của thể loại.
3. Thời gian tâm lí và thời gian ba chiều mang tính đồng hiện
Thời gian theo dòng tâm trạng triên miên của chủ thể trữ tình là đặc trưng của thời gian trong ngâm khúc. Ở đó,
nhân vật luôn hồi tưởng về quá khứ, tưởng tượng đến tương lai để nhìn lại hoàn cảnh hiện tại trong ý thức đối
chiếu, so sánh. Trong đó, chủ yếu là hai chiều đi về giữa quá khứ và hiện tại. Quá khứ hạnh phúc bao nhiêu thì
hiện tại đau khổ bấy nhiêu. Càng hồi tưởng về quá khứ rực rỡ, nhân vật càng rơi vào bi kịch trong hoàn cảnh


hiện tại bế tắc. Đó là lí do để các nhà nghiên cứu cho rằng, chủ yếu và đặc trưng trong ngâm khúc là kết cấu hồi
cố bi ai, hồi tưởng lại quá khứ để đau khổ trong hiện tại.
Tác phẩm ngâm khúc tập trung khắc họa tâm trạng của chủ thể trữ tình trong thời hiện tại là thời điểm nhân vật
đang sống và đang tự giãi bày tâm trạng của mình. Tâm trạng ấy bao giờ cũng là kết quả được dồn nén trong
một thời gian khá dài sau biến cố lớn nào đó trong đời sống nhân vật để rồi bật lên thành những lời than vãn,

những tiếng kêu thương trong một khoảnh khắc nhất định. Trong Chinh phụ, biến cố là chiến tranh nổ ra, tâm
trạng cô đơn, đau khổ của chinh phu được dồn nén trong ba, bốn năm (Kể năm đã ba tư cách diễn) để rồi bùng
nổ trong một ngày đêm (Dạo hiên vắng thầm gieo từng bước / Ngoài rèm thưa thước chẳng mách tin). Trong
Cung oán, biến cố là việc quân vương bở rơi. Cung nữ sống trong cảnh lẻ loi, dồn nén tình cảm trong vài năm
trời để rồi trút mọi nỗi niềm trong một đêm (Đêm năm canh lần vương vách quế). Trong Thu dạ, biến cố là sự kiện
bị bắt giam một cách oan uổng, nhân vật dồn nén tâm trạng trong mấy tháng ở tù để rồi tự giãi bày tất cả trong
một ngày một đêm (Khi ngày mong bức xá thư / Khi đêm than bóng, khi trưa mỏi lòng).
Theo đó, thời gian để nhân vật tự mở lòng bộc bạch tâm sự là hiện tại, một hiện tại bi kịch không tìm ra lối thoát.
Bế tắc trong thực tại, chủ thể trữ tình tìm đến những ngã đường khác nhau để giải thoát. Nhân vật hồi tưởng về
quá khứ, gặm nhấm hạnh phúc của ngày xưa; liên tưởng về tương lai tốt đẹp để tìm cho mình ánh sáng hi vọng.
Thế nhưng quá khứ đã lùi xa, tương lai thế nào chưa biết, tất cả đều không có lối thoát, chủ thể lại trở về với hiện
tại và càng khắc sâu hơn nỗi đau trong hoàn cảnh bi đát của mình. Trong Cung oán, cung nữ hồi tưởng lại những
ngày hạnh phúc tột đỉnh khi mới vào cung được quân vương yêu chiều (Khi ấp mận ôm đào gác nguyệt / Lúc
cười sương cợt tuyết đền phong) để thấm thía hơn bi kịch bị bỏ rơi trong hiện tại (Trong cung quế âm thầm chiếc
bóng / Đêm năm canh trông ngóng lần lần). Trong Khóc Dương Khuê, chủ thể trữ tình nhớ lại những kỉ niệm đẹp
bên bạn hiền ngày trước (Nhớ từ thuở đăng khoa khi trước / Vẫn sớm hôm tôi bác cùng nhau… Cũng có lúc chơi
nơi dặm khách / Tiếng suối nghe róc rách lưng đèo / Có khi từng gác cheo leo / Thú vui con hát lựa chiều cầm
xoang) để xót xa, thương nhớ trong thực tại khi bạn không còn (Tuổi già hạt lệ như sương). Trong Ai tư vãn, Lê
Ngọc Hân tưởng nhớ lại được Nguyễn Huệ yêu thương, chăm sóc để càng thấy mình cô đơn, lạc lõng khi chồng
không còn trong thực tại nữa.
Quá khứ không thể níu kéo, hiện tại không tìm thấy lối ra, nhân vật hướng về tương lai. Người thì mong được ân
xá như Ca Bá Nhạ và Đinh Nhật Thận trong Tự tình và Thu dạ, kẻ thì mong đến ngày chinh phu trở về như trong
Chinh phụ, người thì hi vọng một ngày nhà vua đổi ý trở lại với mình như trong Cung oán. Tuy ở trong những
cảnh ngộ và nỗi đau khác nhau nhưng các nhân vật trong ngâm khúc đều có chung một cách tri giác về thời
gian là đối chiếu, so sánh giữa ba chiều thời gian. Đó là cách để chủ thể trữ tình bộc bạch tâm trạng của mình.
Qua đây, nhà văn đi sâu hơn vào việc khám phá ý nghĩa cuộc đời. Đó là câu hỏi lớn muôn đời của con người,
hạnh phúc có thật hay không, làm sao để tìm được hạnh phúc. Trong ngâm khúc, hạnh phúc là có thật nhưng
nó chỉ có trông quá khứ, hiện tại đã đổ vỡ và tương lai chỉ là niềm mơ ước mong manh.
Có thể nói, dòng thời gian ba chiều mang tính đồng hiện được đặt trong quan hệ đối sánh quá khứ - hiện tại, hiện
tại - tương lai là một trong những kiểu thời gian độc đáo, chủ đạo và mang giá trị thẩm mĩ đặc biệt của thể loại

ngâm khúc. Kiểu thời gian này thật ra vẫn có biểu hiện trong truyện thơ ở những đoạn nhân vật độc thoại nội
tâm (chẳng hạn những đoạn độc thoại của Thúy Kiều [Khi sao phong gấm rũ rà / Giờ sao tan tác như hoa giữa
đường], Từ Hải [Một tay gây dựng cơ đồ / Bấy lâu bể Sở sông Ngô tung hoành / Bó thân về với triều đình / Hàng
thần lơ láo phận mình ra đâu]). Thế nhưng, biểu hiện đậm đà nhất, mang lại những giá trị sâu sắc nhất, có vai trò
quan trọng nhất trong việc khắc họa nhân vật và thể hiện nội dung tác phẩm phải kể đến kiểu thời gian này trong
thể loại ngâm khúc.
4. Thời gian mùa thu
Mùa thu là kiểu thời gian xuất hiện trong nhiều thể loại văn học trung đại (trong Truyện Kiều có 7 lần nhắc tới
mùa thu, trong thơ chữ Hán có nhiều bài viết về mùa thu như trong sáng tác chữ Hán của Nguyễn Du, trong thơ
Nôm Đường luật, mùa thu lại càng được viết nhiều hơn). Thế nhưng, mùa thu với vai trò là một kiểu thời gian
quan trọng, có giá trị đặc biệt trong việc phản ảnh tâm trạng nhân vật và phát triển mạch cảm xúc trong tác
phẩm phải chờ đến thể loại ngâm khúc. Điều đó lí giải tại sao trong ngâm khúc, thời gian mùa thu xuất hiện với
tần số rất cao. Cung oán dài 356 câu có tới 7 lần thời gian mùa thu. Chinh phụ dài 108 câu mùa thu xuất hiện 4


lần. Trong Văn chiêu hồn thời gian xuyên suốt là mùa thu (Tiết tháng bảy mưa dầm sùi sụt / Toát hơi thu lạnh
buốt như đồng).
Mùa thu trong quan niệm của người phương Đông thường gắn với nỗi u buồn. Thu hành kim, thuộc về phía tây,
gắn liền với sự khô tàn, héo úa, chết chóc, hoang vu. Cảm xúc của con người thường gắn với nỗi buồn. Ta nhớ lại
chữ Sầu trong tiếng Hán được tạo thành theo phương thức hội ý trên chữ Thu dưới chữ Tâm, tâm trạng của người
ta trong mùa thu là buồn sầu.
Mùa thu gắn liền với tâm trạng buồn sầu của con người, phù hợp với tâm trạng triền miên đau khổ của chủ thể
trữ tình cho nên phù hợp với ngâm khúc, được ưu tiên sử dụng và tỏ ra đắc lực trong việc phục vụ ý đồ nghệ
thuật của tác giả trong thể loại này.
Tóm lại, thời gian nghệ thuật là một phương diện quan trọng trong thi pháp thể loại ngâm khúc. Với đặc trưng nội
dung tập trung vào việc khắc họa tâm trạng triền miên trong buồn sầu, đau khổ của nhân vật, thời gian nghệ
thuật trong ngâm khúc gắn với tâm thức thẩm mĩ buồn sầu. Bốn kiểu thời gian trên là bốn kiểu đặc trưng của
thời gian nghệ thuật trong ngâm khúc.
TÀI LIỆU THAM KHẢO CHÍNH
Thầy Nguyễn Ngọc Quang, Bài giảng Chuyên đề ngâm khúc. Đại học Quy Nhơn

Học viên
Phạm Tuấn Vũ



×