VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
————————
NGUYỄN BÁ NGỌC
NHÂN THÂN NGƯỜI PHẠM TỘI XÂM PHẠM
SỞ HỮU CÓ TÍNH CHẤT CHIẾM ĐOẠT
TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH QUẢNG NAM
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
HÀ NỘI - 2018
VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
————————
NGUYỄN BÁ NGỌC
NHÂN THÂN NGƯỜI PHẠM TỘI XÂM PHẠM
SỞ HỮU CÓ TÍNH CHẤT CHIẾM ĐOẠT
TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH QUẢNG NAM
Chuyên ngành
: Tội phạm học và phòng ngừa tội phạm
Mã số
: 838.01.05
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
PGS. TS. TRẦN HỮU TRÁNG
HÀ NỘI - 2018
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan số liệu và kết quả nghiên cứu trong Luận văn Thạc sĩ
Tộiphạm học và phòng ngừa tội phạm về “Nhân thân người phạm tội xâm pham sở
hữu có tính chất chiếm đoạt trên địa bàn tỉnh Quảng Nam” là hoàn toàn trung thực và
không trùng lặp với các luận văn khác trong cùng lĩnh vực. Các thông tin, tài liệu trình
bày trong Luận văn đã được ghi rõ nguồn gốc. Luận văn này là công trình nghiên cứu
của cá nhân tôi dưới sự hướng dẫn khoa học của PGS.TS. Trần Hữu Tráng.
Tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm về lời cam đoan này.
Tác giả luận văn
Nguyễn Bá Ngọc
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1
Chương 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ NHÂN THÂN NGƯỜI PHẠM
TỘI XÂM PHẠM SỞ HỮU CÓ TÍNH CHẤT CHIẾM ĐOẠT .........................11
1.1. Khái niệm, ý nghĩa nhân thân người phạm tội xâm phạm sở hữu có tính chất
chiếm đoạt ............................................................................................................. 11
1.2. Các đặc điểm nhân thân của người phạm tội xâm phạm sở hữu có tính chất
chiếm đoạt ............................................................................................................. 18
1.3. Những yếu tố tác động đến quá trình hình thành nhân thân người phạm tội
xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt ............................................................ 26
Chương 2. THỰC TIỄN NHÂN THÂN NGƯỜI PHẠM TỘI XÂM PHẠM SỞ
HỮU CÓ TÍNH CHẤT CHIẾM ĐOẠT TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH QUẢNG NAM
...................................................................................................................................33
2.1. Khái quát tình hình tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt trên địa bàn tỉnh
Quảng Nam ............................................................................................................ 33
2.2. Cơ cấu theo đặc điểm nhân thân người phạm tội xâm phạm sở hữu có tính
chất chiếm đoạt trên địa bàn tỉnh Quảng Nam ...................................................... 37
2.3. Thực tiễn các yếu tố tác động đến quá trình hình thành nhân thân người phạm
tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt trên địa bàn tỉnh Quảng Nam ........ 41
Chương 3. CÁC GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG PHÒNG NGỪA CÁC TỘI
XÂM PHẠM SỞ HỮU CÓ TÍNH CHẤT CHIẾM ĐOẠT TỪ KHÍA CẠNH
NHÂN THÂN NGƯỜI PHẠM TỘI TẠI TỈNH QUẢNG NAM ........................53
3.1. Dự báo sự thay đổi của các yếu tố có tác động đến quá trình hình thành các
đặc điểm nhân thân người phạm tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt ở
Quảng Nam ........................................................................................................... 53
3.2. Các giải pháp tăng cường phòng ngừa các tội xâm phạm sở hữu có tính chất
chiếm đoạt từ khía cạnh nhân thân người phạm tội ............................................... 58
KẾT LUẬN ..............................................................................................................76
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
ANTT
: An ninh trật tự
BLHS
: Bộ luật hình sự
CLB
: Câu lạc bộ
CQTHTT
: Cơ quan tiến hành tố tụng
KCN
: Khu công nghiệp
TAND
: Tòa án nhân dân
TCCĐ
: TCCĐ
TTATXH
: Trật tự an toàn xã hội
VKSND
: Viện kiểm sát nhân dân
XPSH
: XPSH
DANH MỤC BẢNG BIỂU
Bảng 2.1
Tình hình tội XPSH có TCCĐ trên địa bàn tỉnh Quảng Nam
Tỉ lệ số vụ, số bị cáo phạm tội XPSH có TCCĐ so sánh với tổng số vụ,
Bảng 2.2
số bị cáo phạm tội nói chung trên địa bàn tỉnh Quảng Nam từ năm
2013 - 2017
Bảng 2.3
Bảng 2.4
Bảng 2.5
Bảng 2.6
Bảng 2.7
Bảng 2.8
Bảng 2.9
Bảng 2.10
Bảng 2.11
Cơ số tội phạm nói chung và tội XPSH có TCCĐ trên địa bàn tỉnh
Quảng Nam
Biểu đồ diễn biến tình hình tội XPSH có TCCĐ trên địa bàn tỉnh
Quảng Nam
Cơ cấu của từng loại tội XPSH có TCCĐ trong mối quan hệ với các
tội XPSH có TCCĐ trên địa bàn tỉnh Quảng Nam
Cơ cấu xét theo hình phạt ở cấp sơ thẩm áp dụng đối với các tội XPSH
có TCCĐ trên địa bàn tỉnh Quảng Nam giai đoạn từ năm 2013 – 2017
Cơ cấu độ tuổi, giới tính của nhân thân người phạm tội XPSH có
TCCĐ trên địa bàn tỉnh Quảng Nam giai đoạn 2013 - 2017
Cơ cấu trình độ học vấn của nhân thân người phạm tội XPSH có
TCCĐ trên địa bàn tỉnh Quảng Nam giai đoạn 2013 - 2017
Cơ cấu nghề nghiệp của nhân thân người phạm tội XPSH có TCCĐ
trên địa bàn tỉnh Quảng Nam giai đoạn 2013 - 2017
Cơ cấu nơi cư trú, hộ khẩu thường trú của nhân thân người phạm tội
XPSH có TCCĐ trên địa bàn tỉnh Quảng Nam giai đoạn 2013 - 2017
Phiếu điều tra xã hội học
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Quảng Nam là một tỉnh thuộc vùng duyên hải Nam Trung bộ, cách thành phố
Đà Nẵng 68 km về phía Nam và cách Thành phố Hồ Chí Minh 887 km về phía Bắc
theo đường quốc lộ 1A, phía Bắc giáp thành phố Đà Nẵng và tỉnh Thừa Thiên Huế,
phía Nam giáp tỉnh Quảng Ngãi và tỉnh Kon Tum, phía Tây giáp tỉnh Sekong (Cộng
hòa dân chủ nhân dân Lào), phía Đông giáp Biển Đông. Quảng Nam có 18 đơn vị
hành chính cấp huyện, gồm 2 thành phố, 1 thị xã và 15 huyện với 247 xã/ phường/
thị trấn. Trung tâm hành chính của tỉnh Quảng Nam đặt tại Thành phố Tam Kỳ. Với
diện tích tự nhiên 10.407,47km2, địa hình đa dạng phân thành 03 vùng rõ rệt: Đồng
bằng, trung du, miền núi; được phân bố thấp dần từ Tây sang Đông và một phần
diện tích đảo. Dân số là 1.480.000 người, với mật độ dân số trung bình là 140
người/km2 (2016), với 27 dân tộc sinh sống trong đó có 4 tộc người thiểu số cư trú
lâu đời là người Cơ Tu, người Co, người Gié Triêng, người Xê Đăng. Tỉnh có 142
km đường biên giới giáp với nước bạn Lào và 125 km bờ biển; có trục Quốc lộ 1A,
07 tuyến Quốc lộ khác và tuyến đường sắt Bắc - Nam qua địa phận; có cảng biển
Kỳ Hà, sân bay Chu Lai và nhiều tuyến sông phục vụ hoạt động vận tải. Toàn tỉnh
có 18 huyện, thị xã, thành phố; trên 4.200 doanh nghiệp các loại (trong đó, có 2.500
doanh nghiệp trong 35 Cụm công nghiệp và 08 Khu công nghiệp đang hoạt động).
Tỉnh Quảng Nam có những điều kiện thuận lợi để phát triển kinh tế - xã hội
như giao thông đường bộ (QL1A), đường sắt, đường thủy, đường hàng không, nền
kinh tế mũi nhọn của tỉnh là thủy sản, nông nghiệp và du lịch (Hội An, Thánh địa Mỹ
Sơn, Cù Lao Chàm). Chủ trương của tỉnh là chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng
công nghiệp hóa, hiện đại hóa, với chính sách mở cửa của Đảng và Nhà nước tỉnh
Quảng Nam dã thu hút nhiều các dự án đầu tư trong và ngoài nước, chủ động phát
triển các khu vực ngành nghề, vùng kinh tế tạo công ăn việc làm ổn định cho nhiều
lao động tại tỉnh cũng như các địa phương khác, góp phần cải thiện đời sống vật chất
và tinh thần cho nhân dân, nâng cao thu nhập bình quân đầu người hằng năm.
1
Bên cạnh những thuận lợi, cơ hội, tỉnh cũng gặp không ít những khó khăn,
thách thức, như: Điểm xuất phát của nền kinh tế, các nguồn lực cho tăng trưởng kinh
tế còn hạn chế, thường xuyên bị ảnh hưởng bởi thiên tai, lũ lụt, thời tiết khắc nghiệt,
tình trạng người từ nhiều nơi kéo về các khu công nghiệp trên địa bàn kéo theo những
tệ nạn xã hội và phát sinh những tiêu cực làm nảy sinh những mâu thuẫn, tranh chấp
trong cộng đồng dân cư. Theo số liệu thống kê của Tòa án nhân dân tỉnh từ năm
2013-2017, trên địa bàn tỉnh xảy ra 3821 vụ, với 6272 bị cáo phạm tội hình sự, số vụ
tăng từ 42,41% năm 2013 lên 45,25% trong năm 2017, số bị cáo tăng từ 42,97% năm
2013 lên 45,87% trong năm 2017. Qua đó cho thấy tình hình tội phạm có xu hướng
gia tăng hằng năm trong phạm vi toàn tỉnh với tính chất, mức độ nguy hiểm của hành
vi phạm tội ngày càng nghiêm trọng; phương thức, thủ đoạn tinh vi; hoạt động ngày
càng manh động và liều lĩnh. Trong đó, các tội XPSH có TCCĐ chiếm tỉ lệ cao (đã
phát hiện, xét xử 1729/3821 vụ án chiếm 45,25% tổng số vụ án với 2877/6272 bị
cáo phạm tội XPSH có TCCĐ chiếm 45,87% tổng số bị cáo mà Tòa án đã xét xử);
chủ yếu là các tội trộm cắp tài sản, cướp tài sản, lừa đảo chiếm đoạt tài sản…
Trước tình hình gia tăng của các tội phạm và đặc biệt là để triển khai có hiệu
quả Chỉ thị số 48/CT-TW của Bộ Chính trị về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối
với công tác phòng, chống tội phạm trong tình hình mới (2010), Quyết định 282 năm
2011 và Quyết định số 623/QĐ-TTg ngày 14 tháng 4 năm 2016 của Thủ tướng chính
phủ phê duyệt chiến lược quốc gia phòng, chống tội phạm giai đoạn 2016-2025 và
định hướng đến năm 2030, Tỉnh ủy đã ban hành Chương trình hành động số 09CTr/TU, ngày 15/3/2011 để chỉ đạo các tổ chức Đảng, các ban ngành, đoàn thể, địa
phương triển khai thực hiện Chỉ thị; Ủy ban nhân dân tỉnh ban hành Kế hoạch số
1440/KH-UBND, ngày 26/4/2011 phân công trách nhiệm, hướng dẫn các đơn vị, địa
phương triển khai thực hiện Chỉ thị 48-CT/TW của Bộ Chính trị và Chương trình
hành động số 09-CTr/TU của Tỉnh ủy gắn với việc triển khai kế hoạch thực hiện các
Chương trình mục tiêu Quốc gia về phòng, chống tội phạm; phòng, chống ma túy.
Song, do nhiều nguyên nhân khác nhau mà tình hình tội XPSH có TCCĐ trên địa bàn
vẫn không giảm, thậm chí có một số tội phạm tiếp tục gia tăng, gây ảnh hưởng đến
2
quyền sở hữu về tài sản của các cá nhân, cơ quan, tổ chức; làm cho tình hình
TTATXH hết sức phức tạp, tác động xấu đến khả năng thu hút đầu tư và phát triển
kinh tế. Bên cạnh đó, công tác đấu tranh phòng, chống loại tội phạm này của các cơ
quan chức năng còn có nhiều bất cập, chưa có sự phối hợp chặt chẽ, sự hỗ trợ của
quần chúng nhân dân còn chưa tích cực, nên hiệu quả công tác phòng, chống tội
XPSH có TCCĐ trên địa bàn tỉnh Quảng Nam còn nhiều hạn chế.
Để đấu tranh phòng, chống có hiệu quả với tình hình tội XPSH có TCCĐ cần
nhận thức một cách đúng đắn, sâu sắc, nghiên cứu làm rõ nhân thân người phạm tội
XPSH có TCCĐ nhằm xác định nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội phạm, từ
đó có thể xây dựng các biện pháp phòng ngừa hữu hiệu tình hình tội XPSH có TCCĐ
nói riêng và tình hình tội phạm nói chung; giúp cho việc định tội, định khung, quyết
định hình phạt một cách chính xác; đề ra các biện pháp giáo dục, cải tạo hiệu quả đối
với người phạm tội. Yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội XPSH có TCCĐ đòi hỏi
phải nghiên cứu làm rõ nhân thân người phạm tội XPSH có TCCĐ, bởi nghiên cứu
nhân thân người phạm tội không chỉ giúp nhận thức rõ tình hình tội phạm mà còn
giúp xác định rõ nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội phạm, từ đó có các biện
pháp hữu hiệu để phòng, chống tội phạm. Nhằm hoàn thiện hệ thống lý luận về nhân
thân người phạm tội XPSH có TCCĐ, cũng như phục vụ công tác đấu tranh phòng,
chống tội phạm này trên địa bàn tỉnh Quảng Nam, tác giả đã lựa chọn đề tài: “Nhân
thân người phạm tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt trên địa bàn tỉnh
Quảng Nam” làm đề tài luận văn thạc sỹ.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Việc nghiên cứu nhân thân người phạm tội XPSH có TCCĐ đã được đề cập
trong một số công trình nghiên cứu luật học về nhân thân người phạm tội tiêu biểu như:
2.1. Nhóm công trình nghiên cứu nhân thân người phạm tội từ cách tiếp cận
của khoa học Luật Hình sự
- Luận án Tiến sĩ luật học: Nhân thân người phạm tội trong trong luật hình
sự Việt Nam của Nguyễn Thị Thanh Thủy, năm 2005;
- Luận văn Thạc sĩ luật học: "Nhân thân người phạm tội theo pháp luật hình
3
sự Việt Nam từ thực tiễn quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng” của tác giả Lưu Thị
Hằng, Học viện Khoa học xã hội 2017;
- Bài viết: “Nhân thân người phạm tội: Một số vấn đề lý luận cơ bản” của tác
giả GS.TS. Lê Cảm, Tạp chí Toà án, số 10/2001, tr.7-11 và Số 11/2001, tr. 5-8;
- Bài viết: “Nhân thân bị can và một số khái niệm kề cận” của tác giả TS. Bùi
Kiên Điện, Tạp chí Luật học, số 6/2001, tr. 14-18;
- Bài viết: “Một số vấn đề về nhân thân người phạm tội” của tác giả Nguyễn
Thị Thanh Thuỷ, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 5/2001, tr. 46-53;
- Bài viết: “Nhân thân người phạm tội với việc quy trách nhiệm hình sự” của
tác giả Nguyễn Thị Thanh Thuỷ, Tạp chí Toà án, số 8/2001, tr. 2-7;
- Bài viết: “Nhân thân người phạm tội một căn cứ để quyết định hình phạt”
của tác giả Trần Văn Sơn, Tạp chí Luật học, số 1/1997, tr. 41-43;
- Bài viết: “Nhân thân người phạm tội một căn cứ cần cân nhắc khi quyết
định hình phạt” của tác giả Trịnh Tiến Việt, Tạp chí Kiểm sát, số 1/2003, tr. 21-23;
- Bài viết: “Cần có biện pháp để thống nhất khi áp dụng tình tiết đã bị xử
phạt hành chính trong Bộ luật hình sự” của tác giả Lê Đức Tùng, Tạp chí Kiểm sát,
số 5/2005, tr. 34-36;
- Bài viết: “Vấn đề nhân thân người phạm tội trong thực tiễn quyết định hình
phạt” của tác giả Nguyễn Thị Thanh Thuỷ, Tạp chí Toà án nhân dân, số 19/2005, tr. 3-9;
- Bài viết: “Vấn đề nhân thân người phạm tội trong thực tiễn truy cứu trách
nhiệm hình sự” của tác giả Nguyễn Thị Thanh Thuỷ, Tạp chí Kiểm sát, số 17/2005,
tr. 32-35;
- Bài viết: “Các tình tiết định khung tăng nặng trong tội giết người phản ánh
mức độ lỗi và các đặc điểm về nhân thân người phạm tội” của tác giả Đỗ Đức Hồng
Hà, Tạp chí Toà án nhân dân, số 18/2005, tr. 17- 20;
- Bài viết: “Các trường hợp loại trừ trách nhiệm hình sự liên quan đến nhân
thân người phạm tội” của tác giả Đinh Văn Quế, Tạp chí Toà án, số 13/2009, tr. 2327 và số 14,tr. 19-28;
2.2. Nhóm công trình nghiên cứu nhân thân người phạm tội từ cách tiếp
4
cận của Tội phạm học
Trong nhóm này, trước hết cần phải kể đến các công trình khoa học tạo nền
tảng nhận thức lí luận của Tội phạm học. Thuộc nhóm này có các công trình tiêu
biểu sau đây:
- Tội phạm học, Luật Hình sự và Luật Tố tụng Hình sự Việt Nam, Nxb.
Chính trị quốc gia, 1994;
- Giáo trình tội phạm học, do GS.TS Võ Khánh Vinh chủ biên, Đại học Huế
- Trung tâm đào tạo từ xa, năm 2011;
- Tội phạm học Việt Nam một số vấn đề lý luận và thực tiễn, của Tập thể tác
giả, Viện nghiên cứu nhà nước và pháp luật, năm 2000;
- Tội phạm học hiện đại và phòng ngừa tội phạm - Sách chuyên khảo của
GS.TS Nguyễn Xuân Yêm, Nxb. Công an nhân dân, năm 2001.
-
Giáo trình Tội phạm học Việt Nam do GS.TS. Trần Đại Quang chỉ đạo
biên soạn Nxb. Công an nhân dân, năm 2013.
- Giáo trình Luật hình sự Việt Nam (Phần các tội phạm) của GS.TS. Võ
Khánh Vinh, Chương – Các tội xâm phạm sở hữu có tính chiếm đoạt, Nxb Công an
nhân dân, Hà Nội 2010;
- Giáo trình Tội phạm học của trường Đại học Luật Hà Nội, Nxb. Công an
nhân dân, 2004…2010;
- Giáo trình Tội phạm học của Học viện Cảnh sát nhân dân, Nxb. Công an
nhân dân, 2002, 2013;
- Một số vấn đề lý luận về tình hình tội phạm ở Việt Nam của TS. Phạm Văn
Tỉnh, Nxb. Công an nhân dân, 2007;
Bên cạnh các công trình khoa học nêu trên, còn có nhiều công trình nghiên
cứu về nhân thân người phạm tội của một tội, một nhóm tội trên địa bàn một tỉnh,
thành hay cả nước. Thuộc nhóm này có các công trình sau:
- Luận văn Thạc sĩ luật học: Nhân thân người phạm tội hiếp dâm trẻ em trên
địa bàn tỉnh Bình Phước của Nguyễn Thanh Tuấn (2017), Học viện khoa học xã hội;
-Luận văn Thạc sĩ luật học: Nhân thân người phạm tội cướp giật tài sản trên
5
địa bàn thành phố Hồ Chí Minh của Lê Ngô Phương Thanh (2017), Học viện khoa
học xã hội;
-Luận văn Thạc sĩ luật học: Nhân thân người phạm tội cướp giật tài sản trên
địa bàn quận Bình Tân, thành phố Hồ Chí Minh của Phan Thị Phương Thảo (2017),
Học viện khoa học xã hội;
- Luận văn Thạc sĩ luật học: Nhân thân người phạm tội cố ý gây thương tích
hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh
của Nguyễn Xuân Bá (2017), Học viện khoa học xã hội;
- Luận văn Thạc sĩ luật học: Nhân thân người phạm tội cướp tài sản trên địa
bàn thành phố Hồ Chí Minh của Lê Đình Toàn (2017), Học viện khoa học xã hội;
- Luận văn Thạc sĩ luật học: Nhân thân người thực hiện các tội xâm phạm
tình dục trên địa bàn tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu của Bùi Ai Giôn (2017), Học viện
khoa học xã hội;
- Luận văn Thạc sĩ luật học: Nhân thân người phạm tội giết người trên địa
bàn thành phố Hồ Chí Minh của Phan Ái nhi (2016), Học viện khoa học xã hội;
- Luận văn Thạc sĩ luật học: Nhân thân người phạm tội XPSH trên địa bàn
tỉnh Kiên Giang của Hồ Thanh Lam (2016), Học viện khoa học xã hội;
- Luận văn Thạc sĩ luật học: Phòng ngừa tội phạm cướp tài sản trên địa bàn
tỉnh Vĩnh Long từ góc độ nhân thân người phạm tội của Nguyễn Chí Công (2013),
Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh;
- Luận văn Thạc sĩ luật học: Nhân thân người phạm tội trên địa bàn Quận 7,
thành phố Hồ Chí Minh của Phạm Uyên Thy (2015), Học viện khoa học xã hội;
- Luận văn Thạc sĩ luật học: Đặc điểm nhân thân người phạm tội hiếp dâm
trẻ em trên địa bàn tỉnh Đồng Nai dưới góc độ tội phạm học của Ngô Minh Hải
(2015), Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh;
- Bài viết: “Một số đặc điểm chú ý về nhân thân của người phạm tội về ma
tuý ở Việt Nam” của tác giả Nguyễn Tuyết Mai, Tạp chí Luật học, số 11/2006, tr.
32-37;
- Bài viết: “Một số vấn đề nhân thân người phạm tội” của tác giả Nguyễn
6
Quang Hạnh, Tạp chí Nghề luật, số 1/2013, tr. 52-57;
- Bài viết: “Đặc điểm nhân thân người phạm tội và phương thức thực hiện tội
trộm cắp tài sản trên địa bàn tỉnh Gia Lai” của tác giả Lê Văn Định, Tạp chí Kiểm
sát, số 6/2015, tr. 47-53
* Đánh giá chung:
Các công trình nghiên cứu nói trên đã phân tích làm rõ nhân thân người
phạm tội ở những góc độ khác nhau, dưới những cách tiếp cận khác nhau. Có những
công trình nghiên cứu làm rõ vai trò của nhân thân người phạm tội trong định tội
danh, quyết định hình phạt, trong áp dụng các quy định về loại trừ trách nhiệm hình
sự. Có công trình nghiên cứu đặc điểm nhân thân người phạm tội của một loại tội
phạm cụ thể hay của một nhóm tội như tội giết người, tội trộm cắp tài sản, nhóm tội
phạm về ma tuý… Có công trình nghiên cứu về nhân thân người phạm tội nói
chung hoặc có công trình nghiên cứu về nhân thân người phạm một tội, một nhóm
tội trên một địa bàn nhất định, như Thành phố Hồ Chí Minh, Tỉnh Bà Rịa-Vũng
Tàu, tỉnh Đồng Nai, tỉnh Kiên Giang…
Kết quả nghiên cứu của các công trình trên đây là những kiến thức nền tảng
quan trọng mà tác giả sẽ kế thừa có chọn lọc trong quá trình nghiên cứu đề tài của
mình. Tuy nhiên, cho đến nay vẫn chưa có công trình nghiên cứu nào nghiên cứu về
nhân thân người phạm tội XPSH có TCCĐ từ thực tiễn tỉnh Quảng Nam. Vì vậy,
trên cơ sở kế thừa những tri thức lý luận nền tảng, cũng như những tri thức về nhân
thân người phạm tội trong các công trình nghiên cứu mà mình tiếp cận được, tác giả
sẽ vận dụng để nghiên cứu về nhân thân người phạm tội XPSH có TCCĐ trên địa
bàn tỉnh Quảng Nam giai đoạn 2013 - 2017.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở làm rõ những đặc điểm nhân thân người phạm tội XPSH có TCCĐ
xảy ra trên địa bàn tỉnh Quảng Nam, nghiên cứu phân tích các yếu tố tác động đến sự
hình thành các đặc điểm nhân thân xấu ở người phạm tội, luận văn hướng đến mục
đích đề xuất các giải pháp tăng cường phòng ngừa tình hình tội XPSH có TCCĐ trên
7
địa bàn tỉnh Quảng Nam từ khía cạnh nhân thân người phạm tội.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục tiêu nêu trên, đề tài đi sâu giải quyết các nhiệm vụ cơ bản
sau đây:
- Thứ nhất, nghiên cứu làm rõ những vấn đề lý luận về nhân thân người
phạm tội XPSH có TCCĐ;
- Thứ hai, nghiên cứu phân tích làm rõ các đặc điểm nhân thân người phạm
tội XPSH có TCCĐ và các yếu tố tác động đến sự hình thành nhân thân người phạm
tội XPSH có TCCĐ trên địa bàn tỉnh Quảng Nam giai đoạn 2013- 2017;
- Thứ ba, kiến nghị các giải pháp tăng cường phòng ngừa các tội XPSH có
TCCĐ trên địa bàn tỉnh Quảng Nam từ khía cạnh nhân thân người phạm tội.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là những vấn đề lí luận và thực tiễn nhân
thân người phạm tội XPSH có TCCĐ trên địa bàn tỉnh Quảng Nam giai đoạn 20132017. Để nghiên cứu về nhân thân người phạm tội XPSH có TCCĐ trên địa bàn
tỉnh Quảng Nam, tác giả dựa trên các số liệu thống kê xét xử hình sự của Tòa án
nhân dân tỉnh Quảng Nam giai đoạn 2013 – 2017 được thu thập một cách ngẫu
nhiên và tiến hành thực hiện 300 phiếu điều tra xã hội học nhằm đánh giá mức độ
của môi trường giáo dục tại tỉnh Quảng Nam đối với sự hình thành nhân thân người
phạm tội XPSH có TCCĐ.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi về không gian: Đề tài nghiên cứu nhân thân người phạm tội XPSH
có TCCĐ dưới góc độ tội phạm học và phòng ngừa tội phạm trên địa bàn tỉnh
Quảng Nam.
- Phạm vi về thời gian: Từ năm 2013 đến năm 2017.
- Phạm vi về tội danh: Đề tài chỉ nghiên cứu các tội về XPSH có TCCĐ quy
định tại chương XIVcủa BLHS 1999, gồm Tội cướp tài sản (Điều 133), Tội bắt cóc
nhằm chiếm đoạt tài sản (Điều 134), Tội cưỡng đoạt tài sản (Điều 135), Tội cướp
8
giật tài sản (Điều 136), Tội công nhiên chiếm đoạt tài sản (Điều 137), Tội trộm cắp
tài sản (Điều 138), Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản (Điều 139), Tội lạm dụng tín
nhiệm chiếm đoạt tài sản (Điều 140).
Mặc dù BLHS 2015, sửa đổi năm 2017 đã có hiệu lực pháp luật, tuy nhiên,
trong luận văn, tác giả nghiên cứu nhân thân người phạm tội giai đoạn 2013—2017,
mà trong giai đoạn này, các hành vi phạm tội được giải quyết dựa trên các quy định
của BLHS 1999. Chính vì vậy, trong luận văn, tác giả chủ yếu dựa trên quy định
của BLHS 1999, có so sánh ở mức độ cần thiết với quy định của BLHS 2015.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận
Đề tài nghiên cứu dựa trên cơ sở phép biện chứng duy vật của chủ nghĩa
Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và các quan điểm của Đảng, pháp luật của Nhà
nước về đấu tranh phòng, chống tội phạm, bảo vệ an ninh quốc gia và giữ gìn
TTATXH; các tri thức khoa học pháp lý của tội phạm học, pháp luật hình sự, khoa
học điều tra hình sự.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu đặc thù của tội phạm học, cụ thể:
- Phương pháp nghiên cứu lý luận, phân tích, so sánh, bình luận… được sử
dụng để làm rõ những vấn đề lý luận chung về nhân thân người phạm tội XPSH có
TCCĐ.
- Phương pháp nghiên cứu lý luận, phân tích, quy nạp, hệ thống, diễn dịch,
thống kê, đối chiếu, suy luận logic, nghiên cứu bản án, điều tra xã hội học… được
sử dụng để làm rõ các đặc điểm nhân thân người phạm tội XPSH có TCCĐ và các
yếu tố tác động đến sự hình thành nhân thân người phạm tội XPSH có TCCĐ trên
địa bàn tỉnh Quảng Nam giai đoạn 2013 – 2017.
- Phương pháp tổng kết kinh nghiệm, phân tích, suy luận logic… được sử
dụng để nhằm đưa ra kiến nghị việc hoàn thiện các giải pháp phòng ngừa tình hình
tội XPSH có TCCĐ từ góc độ nhân thân người phạm tội.
Để có thêm chất liệu nghiên cứu, tác giả đã sử dụng phương pháp điều tra xã
9
hội học bằng phiếu hỏi với mục đích để khảo sát, tìm hiểu quan điểm của phụ huynh
đối với sự giáo dục của nhà trường đối với con em họ. Tác giả đã thực hiện 300 phiếu
điều tra. Kết quả khảo sát được tác giả sử dụng trong các nội dung của luận văn.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn, yếu tố mới cần đạt được
6.1. Ý nghĩa lý luận của đề tài
Kết quả nghiên cứu của đề tài sẽ góp phần bổ sung, hoàn thiện lý luận tội
phạm học nói chung và lý luận phòng, chống tội XPSH có TCCĐ nói riêng, đồng thời
dùng làm tài liệu tham khảo trong nghiên cứu, học tập của các cơ sở đào tạo luật.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn của đề tài
Kết quả nghiên cứu của đề tài có thể được vận dụng vào thực tiễn công tác
phòng, chống tội phạm nói chung và tội XPSH có TCCĐ nói riêng trên địa bàn tỉnh
Quảng Nam trong thời gian tới.
- Những điểm mới của đề tài: Luận văn là công trình khoa học đầu tiên đi sâu
nghiên cứu nhân thân người phạm tội XPSH có TCCĐ từ thực tiễn tỉnh Quảng Nam
giai đoạn 2013 – 2017, làm rõ các đặc điểm nhân thân người phạm tội XPSH có
TCCĐ và các yếu tố tác động đến sự hình thành nhân thân người phạm tội XPSH có
TCCĐ trên địa bàn tỉnh Quảng Nam một cách có hệ thống, toàn diện và sâu sắc, từ
đó đưa ra một số giải pháp có tính khả thi nhằm tăng cường đấu tranh phòng, chống
tội XPSH có TCCĐ trên địa bàn tỉnh Quảng Nam.
7. Cơ cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, nội
dung của luận văn được cấu trúc thành ba chương:
Chương 1. Những vấn đề lý luận về nhân thân người phạm tội XPSH có
TCCĐ.
Chương 2. Thực tiễn nhân thân người phạm tội XPSH có TCCĐ trên địa bàn
tỉnh Quảng Nam.
Chương 3. Các giải pháp tăng cường phòng ngừa tình hình các tội XPSH có
TCCĐ từ góc độ nhân thân nhân thân người phạm tội tại tỉnh Quảng Nam.
10
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ NHÂN THÂN NGƯỜI PHẠM TỘI
XÂM PHẠM SỞ HỮU CÓ TÍNH CHẤT CHIẾM ĐOẠT
1.1. Khái niệm, ý nghĩa nhân thân người phạm tội XPSH có TCCĐ
1.1.1. Khái niệm tội XPSH có TCCĐ
Các tội XPSH được quy định tại chương XXIV Bộ luật Hình sự năm 1999 đã
được sửa đổi, bổ sung năm 2009, gồm 13 tội được quy định từ điều 133 đến điều
145. Đó là các tội: Tội cướp tài sản (Điều 133); Tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản
(Điều 134); Tội cưỡng đoạt tài sản (Điều 135); Tội cướp giật tài sản (Điều 136); Tội
công nhiên chiếm đoạt tài sản (Điều 137); Tội trộm cắp tài sản (Điều 138); Tội lừa
đảo chiếm đoạt tài sản (điều 139); Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản (Điều
140); Tội chiếm giữ trái phép tài sản (Điều 141); Tội sử dụng trái phép tài sản (Điều
142); Tội huỷ hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản (Điều 143); Tội thiếu trách nhiệm
gây thiệt hại nghiêm trọng đến tài sản của Nhà nước (Điều 144); Tội vô ý gây thiệt
hại nghiêm trọng đến tài sản (Điều 145).
Căn cứ vào mục đích phạm tội, khoa học luật hình sự chia các tội XPSH
thành nhóm các tội có mục đích tư lợi bao gồm 10 tội từ điều 133 đến điều 142
BLHS 1999 và nhóm các tội không có mục đích tư lợi từ điều 143 đến điều 145.
Đối với nhóm các tội có mục đích tư lợi, dựa vào dấu hiệu chiếm đoạt, chúng lại
được chia nhỏ ra thành nhóm có TCCĐ bao gồm 8 tội từ điều 133 đến điều 140 và
nhóm không có TCCĐ gồm các điều 141, 142 BLHS 1999 [15, tr.49].
Trong phạm vi nghiên cứu của luận văn, Tác giả tập trung vào nhóm tội
phạm XPSH có TCCĐ (gồm 8 tội). Cụ thể:
- Tội cướp tài sản (Điều 133);
- Tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản (Điều 134);
- Tội cưỡng đoạt tài sản (Điều 135);
- Tội cướp giật tài sản (Điều 136);
- Tội công nhiên chiếm đoạt tài sản (Điều 137);
- Tội trộm cắp tài sản (Điều 138);
11
- Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản (Điều 139);
- Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản (Điều 140).
Trong nhóm các tội phạm này, mặc dù có nhiều tội danh khác nhau, nhưng
chúng đều có một đặc điểm chung, đó là luôn luôn có hành vi chiếm đoạt. Bởi vậy,
để đảm bảo tính thống nhất trong quá trình nghiên cứu, cần làm sáng tỏ khái niệm
“chiếm đoạt”.
Khi nghiên cứu khái niệm chiếm đoạt, có thể thấy các dấu hiệu sau:
+ Hành vi chiếm đoạt xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản.
+ Bản chất của hành vi chiếm đoạt thể hiện ở chỗ, người phạm tội cố ý
chiếm lấy, không hoàn trả lại tài sản của người khác (của nhà nước, của công dân)
biến tài sản đó thành tài sản của mình hoặc chuyển giao cho người khác. [15, tr.54]
Theo đó, về phương diện khách quan của hành vi chiếm đoạt có các đặc
điểm: Tính bất hợp pháp; không hoàn trả lại; biến tài sản chiếm đoạt được thành tài
sản của mình hoặc của người khác; gây thiệt hại cho chủ sở hữu; hình thức chiếm
đoạt quy định cụ thể trong điều luật như: Cướp tài sản, cướp giật, trộm cắp tài sản,
lừa đảo chiếm đoạt tài sản, lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản.
Hành vi chiếm đoạt bao giờ cũng là bất hợp pháp, tức là người phạm tội
không có cơ sở pháp lý để lấy tài sản của người khác. Sau khi chiếm đoạt được tài
sản, người phạm tội biến tài sản đó thành tài sản của mình hoặc chuyển cho người
khác. Hành vi chiếm đoạt làm cho chủ tài sản mất khả năng thực hiện quyền chiếm
hữu, sử dụng, định đoạt đối với tài sản. Hành vi chiếm đoạt dù thực hiện bằng hình
thức nào đều gây ra thiệt hại vật chất cho chủ sở hữu, thiệt hại đó biểu hiện dưới
dạng mất mát, hao mòn, hao hụt, làm giảm bớt giá trị tài sản... Vì vậy, gây thiệt hại
là dấu hiệu đặc trưng của hành vi chiếm đoạt và hành vi chiếm đoạt được coi là
hoàn thành khi gây ra thiệt hại vật chất. Tuy nhiên, trong một số trường hợp chiếm
đoạt tuy chưa gây ra thiệt hại vật chất nhưng cũng được coi là hoàn thành (như tội
cướp tài sản, cướp giật tài sản, bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản...).
+ Hành vi chiếm đoạt bao giờ cũng được thực hiện do lỗi cố ý trực tiếp, tức
là người phạm tội nhận thức được hành vi của mình là trái pháp luật, nhưng vì động
12
cơ vụ lợi mà lấy tài sản của người khác, ở đây có thể thấy động cơ và mục đích vụ
lợi là dấu hiệu đặc trưng của hành vi chiếm đoạt.
Như vậy, từ sự phân tích trên, tác giả rút ra kết luận: chiếm đoạt là chiếm lấy
không hoàn lại một cách trái phép tài sản của người khác và biến nó thành của
mình hoặc chuyển cho người khác bằng hình thức khác nhau được quy định trong
luật với mục đích vụ lợi.
Từ những vấn đề đã nêu ở trên cùng với việc nghiên cứu các loại giáo trình,
tài liệu, tác giả cho rằng: Tội phạm XPSH có TCCĐ là những hành vi nguy hiểm
cho xã hội, được quy định trong Bộ luật hình sự, do người có năng lực trách nhiệm
hình sự thực hiện một cách cố ý, xâm phạm đến quan hệ sở hữu mà trong cấu thành
tội phạm của những tội phạm này có yếu tố chiếm đoạt.
1.1.2. Khái niệm nhân thân người phạm tội XPSH có TCCĐ
Con người sống trong xã hội luôn luôn tồn tại những mối quan hệ kinh tế-xã
hội nhất định. C.Mác đã khẳng định: “Trong tính hiện thực của nó, bản chất con
người là tổng hoà những quan hệ xã hội” [8, tr.11].
Tự nhiên và xã hội thống nhất với nhau trong bản chất con người. C.Mác đã
chỉ rõ vai trò của xã hội đối với sự hình thành cá nhân và vai trò của cá nhân đối với
sự hình thành xã hội“Bản thân xã hội sản xuất ra con người với tính cách là con
người như thế nào thì nó cũng sản xuất ra xã hội như thế” [9, tr,169]. Như vậy, đời
sống sinh hoạt, kinh nghiệm sống của cá nhân được quy định bởi nội dung của các
quan hệ xã hội cụ thể hình thành trong gia đình, môi trường, bạn bè trong lao động
hay học tập. Tất cả các yếu tố đó đều có ảnh hưởng đến quá trình hình thành nhân
thân của con người.
Tội phạm là một hiện tượng tiêu cực nhất trong xã hội, xuất hiện cùng với sự
ra đời của Nhà nước và pháp luật, cũng như khi xã hội phân chia thành giai cấp đối
kháng. Để quản lí xã hội, giữ gìn an ninh, trật tự, an toàn xã hội, Nhà nước đã quy
định những hành vi nguy hiểm cho xã hội là tội phạm và áp dụng trách nhiệm hình
sự đối với người nào thực hiện các hành vi đó, nên tội phạm mang bản chất là một
hiện tượng pháp lý. "Đối tượng nghiên cứu của tội phạm học là con người phạm tội
13
chứ không phải là con người nói chung. Người phạm tội là người thực hiện hành vi
nguy hiểm cho xã hội mà luật hình sự quy định là tội phạm" [44, tr.149]. Như vậy,
khi nghiên cứu nhân thân người phạm tội chính là nghiên cứu con người phạm tội
cụ thể.
Nhân thân con người là sự tổng hợp những đặc điểm, dấu hiệu, phản ánh bản
chất của mỗi con người trong các mối quan hệ xã hội của họ, bao gồm: các đặc
điểm, dấu hiệu về xã hội, nhân khẩu học như giới tính, tuổi, trình độ văn hóa, địa vị
xã hội, nghề nghiệp, hoàn cảnh gia đình, nơi sinh sống, hoàn cảnh kinh tế, các đặc
điểm, dấu hiệu về tâm lý như quan điểm, nhu cầu, sở thích, thói quen, lý trí, cảm
xúc,.. các đặc điểm, dấu hiệu, mối quan hệ xã hội khác [52, tr.130].
Dưới góc độ tội phạm học, nhân thân người phạm tội bao gồm toàn bộ các
đặc điểm tâm, sinh lý. Các đặc điểm tâm, sinh lý phụ thuộc vào những điều kiện
sống, của sự giáo dục, của những mối quan hệ… nhất định. Chính các đặc điểm đó
dưới sự tác động của các điều kiện và hoàn cảnh bên ngoài, của tình huống cụ thể,
tạo thành động lực thúc đẩy việc thực hiện tội phạm.
Như vậy, nhân thân người phạm tội là tổng hợp những đặc điểm, dấu hiệu
thể hiện bản chất xã hội của con người và các đặc điểm, dấu hiệu này kết hợp với
các điều kiện, hoàn cảnh nhất định đã dẫn đến con người đó thực hiện hành vi phạm
tội [52, tr.131].
Từ khái niệm nhân thân người phạm tội và tội phạm XPSH có TCCĐ ở trên,
tác giả đưa ra định nghĩa nhân thân người phạm tội XPSH có TCCĐ như sau:
Nhân thân người phạm tội XPSH có TCCĐ là tổng hợp những đặc điểm, dấu
hiệu thể hiện bản chất xã hội của con người và các đặc điểm, dấu hiệu này kết hợp
với các điều kiện, hoàn cảnh nhất định đã dẫn đến người đó thực hiện hành vi phạm
tội xâm phạm đến quan hệ sở hữu mà trong cấu thành tội phạm của những tội phạm
này có yếu tố chiếm đoạt.
1.1.3. Ý nghĩa của việc nghiên cứu nhân thân người phạm tội XPSH có
TCCĐ
Tội phạm học nghiên cứu nhân thân người phạm tội XPSH có TCCĐ với các
ý nghĩa sau:
14
Thứ nhất, Nghiên cứu nhân thân người phạm các tội XPSH có TCCĐ giúp
cho việc định tội, định khung và quyết định hình phạt một cách chính xác.
Theo khoa học Luật hình sự: "Nhân thân người phạm tội không phải là yếu
tố bắt buộc cấu thành tội phạm nhưng trong quá trình đánh giá tính chất nguy hiểm
của hành vi phạm tội và xác định trách nhiệm pháp lý của người phạm tội đó thì
cần phải xem xét những đặc điểm, dấu hiệu về nhân thân của người phạm tội được
cân nhắc để giải quyết những vấn đề của trách nhiệm hình sự (cá thể hóa hình phạt,
miễn trách nhiệm hình sự, miễn và giảm hình phạt" [51, tr.194]. Như vậy, nhân thân
người phạm tội tuy không phải là một trong những yếu tố cấu thành tội phạm nhưng
các đặc điểm của nhân thân người phạm tội có ý nghĩa quan trọng trong việc xác
định các vấn đề: Truy cứu trách nhiệm hình sự, định tội danh hoặc định khung hình
phạt, quyết định hình phạt…Chính vì vậy, pháp luật tố tụng hình sự quy định, các
đặc điểm nhân thân người phạm tội phải được các cơ quan tiến hành tố tụng thu
thập đầy đủ trong hồ sơ vụ án và phải được thể hiện trong bản Kết luận điều tra của
Cơ quan điều tra, bản Cáo trạng của Viện kiểm sát và Bản án của Tòa án.
Các đặc điểm nhân thân người phạm tội XPSH có TCCĐ có ý nghĩa trong
việc định tội và định khung hình phạt đối với các tội XPSH có TCCĐ, như: Động
cơ và mục đích tư lợi, có TCCĐ là yếu tố định tội của các tội XPSH có TCCĐ tại
Chương XIV của Bộ luật hình sự 1999; đặc điểm “tái phạm nguy hiểm” được quy
định là yếu tố định khung của tất cả các tội XPSH có TCCĐ (điểm c khoản 2 của
Điều 133, Điều 134, Điều 135, Điều 136, Điều 137, Điều 138, Điều 139; điểm đ
khoản 2 Điều 140 của BLHS); đặc điểm “tái phạm tội” là yếu tố định tội được quy
định tại khoản 1 của Điều 137, Điều 138, Điều 139, Điều 140 của BLHS; đặc điểm
nghề nghiệp là yếu tố định khung tại khoản 2 của Điều 139, Điều 140.
Giữa hành vi phạm tội XPSH có TCCĐ đã thực hiện và con người đã thực
hiện có mối quan hệ với nhau nên nghiên cứu, xem xét nhân thân người phạm tội
XPSH có TCCĐ giúp Tòa án đánh giá đúng mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành
vi phạm tội từ đó giúp cho việc định tội, định khung và quyết định hình phạt một
cách chính xác.
15
Đặc biệt, việc nghiên cứu nhân thân người phạm tội XPSH có TCCĐ có ý
nghĩa quan trọng trong việc quyết định hình phạt. Qua nghiên cứu nhân thân người
phạm tội XPSH có TCCĐ không chỉ đánh giá được khả năng giáo dục cải tạo của
người phạm tội mà còn giúp đánh giá được tính chất mức độ nguy hiểm của hành vi
phạm tội để có hình phạt phù hợp. Cùng một hành vi nhưng ở người này là biểu
hiện ngẫu nhiên đột xuất nhưng ở người khác là hành vi có tính toán, có ý thức sâu
sắc biểu hiện bản chất của người pham tội. Hành vi và con người luôn có quan hệ
với nhau cho nên tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội cũng phụ
thuộc vào tính chất của con người.
Chính vì vậy, luật cũng có quy định coi tình tiết thuộc về nhân thân của
người phạm tội là những tình tiết tăng nặng hoặc giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. Ví
dụ: Khi xem xét nhân thân người phạm tội XPSH có TCCĐ của A cho thấy A tuy
chưa bị kết án, chưa bị xử lý vi phạm hành chính, nhưng luôn có hành vi gây rối trật
tự công cộng, không có công ăn việc làm...Khi xem xét nhân thân người phạm tội
XPSH có TCCĐ của B cho thấy B cũng chưa bị kết án, chưa bị xử lý vi phạm hành
chính, nhưng không có bất kỳ hành vi vi phạm pháp luật nào, có công ăn, việc làm
ổn định, luôn chấp hành tốt các nghĩa vụ công dân... Cân nhắc nhân thân người
phạm tội XPSH có TCCĐ của A và của B cho thấy nhân thân của A xấu hơn nhân
thân của B, do đó, việc quyết định hình phạt đối với A phải nặng hơn đối với B, nếu
các tình tiết khác của vụ án như nhau.
Ngoài ra, việc nghiên cứu nhân thân người phạm tội XPSH có TCCĐ có vai
trò rất lớn trong việc làm sáng tỏ động cơ, mục đích của người phạm tội. Ví dụ: A
thất nghiệp, lúc nào cũng thiếu tiền tiêu nên đã đi trộm cắp và B có công ăn việc
làm đàng hoàng nhưng cũng đi trộm cắp. Vậy động cơ, mục đích của A và B là
không giống nhau. Đây cũng chính là tình tiết quan trọng để cơ quan điều tra xác
định đúng phương hướng điều tra, phá án và quyết định hình phạt.
Thứ hai, nghiên cứu làm rõ nhân thân người phạm tội XPSH có TCCĐ,
giúp xác định nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội XPSH có TCCĐ, đặc
biệt là nhóm nguyên nhân và điều kiện từ phía người phạm tội.
16
Nguyên nhân và điều kiện của tội phạm XPSH có TCCĐ là sự tác động qua
lại giữa các đặc điểm cá nhân của người phạm tội và những tình huống hoàn cảnh
khách quan bên ngoài dẫn đến việc thực hiện hành vi phạm tội XPSH có TCCĐ.
“Việc phân tích các nguyên nhân và điều kiện của tội phạm cụ thể chỉ ra
rằng không thể nhận thức, hiểu biết được các nguyên nhân và điều kiện đó nếu
thiếu việc cân nhắc nhân thân người phạm tội” [52, tr.127]. Như vậy, Việc nhận
thức, phân tích các nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội XPSH có TCCĐ
không thể thiếu việc nghiên cứu nhân thân người phạm tội XPSH có TCCĐ bản
chất, các đặc điểm và quá trình hình thành nó.
Bằng những nghiên cứu tổng quát về nhân thân người phạm tội XPSH có
TCCĐ và những số liệu về các loại tội XPSH có TCCĐ góp phần làm rõ những tác
động tiêu cực của môi trường gia đình, nhà trường, môi trường kinh tế, văn hóa, xã hội
vĩ mô đến sự hình thành các đặc điểm nhân thân tiêu cực của người phạm tội XPSH có
TCCĐ. Nghiên cứu cụ thể về các đặc điểm và những yếu tố tác động đến quá trình
hình thành các đặc điểm tiêu cực của nhân thân người phạm tội XPSH có TCCĐ sẽ cho
thấy rõ những nguyên nhân và điều kiện làm phát sinh hành vi phạm tội XPSH có
TCCĐ, đặc biệt là nhóm nguyên nhân và điều kiện từ phía người phạm tội.
Thứ ba, nghiên cứu làm rõ nhân thân người phạm tội XPSH có TCCĐ, giúp đề
ra các biện pháp phòng ngừa tội XPSH có TCCĐ nói riêng và tội phạm nói chung.
Trong hoạt động phòng ngừa tội phạm XPSH có TCCĐ, những kết quả
nghiên cứu về nhân thân người phạm tội XPSH có TCCĐ sẽ cho chúng ta cơ sở để
áp dụng các biện pháp phòng ngừa thích hợp. Biện pháp phòng ngừa chung trong
từng lĩnh vực, địa bàn, đối với từng loại người nhất định được tiến hành trên cơ sở
nghiên cứu về nhân thân người phạm tội nói chung và nhân thân của những người
phạm tội có sự giống nhau về loại tội phạm được thực hiện hoặc theo nội dung của
những đặc điểm có ý nghĩa trong nhân thân người phạm tội. Từ đó có thể dự đoán
được những thay đổi của các điều kiện khách quan biến động thế nào, tác động đến
sự hình thành nhân thân ra sao trong tương lai. Trên cơ sở đó có thể đưa ra dự báo
về tình hình tội phạm XPSH có TCCĐ xảy ra trong tương lai, từ đó có thể đề xuất
17
được các biện pháp phòng ngừa các tội XPSH có TCCĐ phù hợp, qua đó góp phần
hạn chế hay loại trừ sự hình thành các đặc điểm nhân thân tiêu cực của con người,
góp phần quan trọng trong phòng ngừa tội phạm.
Thứ tư, nghiên cứu làm rõ nhân thân người phạm tội XPSH có TCCĐ, giúp
đề ra các biện pháp giáo dục, cải tạo người phạm tội XPSH có TCCĐ một cách phù
hợp và hiệu quả.
Khoa học quản lý, giáo dục người phạm tội dựa vào nhân thân người phạm
tội và những phương pháp phân loại người phạm tội, có ý nghĩa quan trọng trong
việc nghiên cứu các hình thức, phương pháp giáo dục quản lý giáo dục người phạm
tội, lập phương án tại trại giam, cơ sở giáo dục, trường giáo dưỡng, xây dựng quy
chế tại trại giam, cơ sở giáo dưỡng đó. Đối với người phạm tội XPSH có TCCĐ cần
phải nghiên cứu nhân thân người phạm tội XPSH có TCCĐ, để rút ra đặc điểm
nhân thân riêng biệt là nguyên nhân dẫn đến việc thực hiện tội phạm XPSH có
TCCĐ. Từ đó áp dụng các biện pháp giáo dục, cải tạo phù hợp với từng đặc điểm
nhân thân riêng biệt đó nhằm cải thiện hoặc loại trừ các đặc điểm nhân thân tiêu cực
có vai trò quan trọng đối với việc phát sinh tội XPSH có TCCĐ, từ đó có thể giáo
dục, cải tạo họ thành người tốt, không tái phạm tội và tái hòa nhập với xã hội.
1.2. Các đặc điểm nhân thân của người phạm tội XPSH có TCCĐ
Các đặc điểm nhân thân của người phạm tội là tập hợp những thông tin phản
ánh những đặc điểm chủ yếu của người phạm tội, thể hiện các dấu hiệu tiêu cực của
người phạm tội. Trong tội phạm học, nghiên cứu đặc điểm nhân thân của người phạm
tội thường được thể hiện ở các mức độ như mức độ cá biệt nghiên cứu nhân thân
người phạm tội cụ thể đã thực hiện hành vi phạm tội, mức độ nhóm nghiên cứu loại,
dạng người phạm tội được phân loại theo sự giống nhau về loại tội phạm đã thực hiện
và mức độ chung nghiên cứu người phạm tội nói chung trong xã hội với những đặc
điểm, dấu hiệu, những yếu tố cấu tạo nên nhân thân người phạm tội một cách chung
nhất ở tầm vĩ mô. Trong quá trình nghiên cứu nhân thân người phạm tội nói chung,
nghiên cứu nhân thân người phạm tội XPSH có TCCĐ tác giả cũng phân chia các đặc
điểm nhân thân người phạm tội XPSH có TCCĐ thành 3 nhóm như sau:
18
- Nhóm đặc điểm nhân chủng học – xã hội
- Nhóm đặc điểm đạo đức – tâm sinh lý
- Nhóm đặc điểm pháp lý hình sự
1.2.1. Nhóm đặc điểm nhân chủng học – xã hội
Những dấu hiệu đặc điểm nhân chủng – xã hội trong nhân thân người phạm
tội XPSP có TCCĐ cũng giống như trong nhân thân con người nói chung bao gồm:
giới tính, tuổi, trình độ học vấn, nghề nghiệp, địa vị xã hội… Những dấu hiệu nhân
chủng học, xã hội bản thân chúng không có ý nghĩa về mặt tội phạm học, bởi chúng
tồn tại trong bất kỳ người nào. Tuy nhiên, tập hợp những đặc điểm nhân thân trên
được thống kê qua tội phạm học sẽ cho chúng ta những cơ sở để rút ra kết luận quan
trọng khi nghiên cứu nhân thân người phạm tội XPSH có TCCĐ, chúng có ý nghĩa
đối với việc phòng ngừa, biết được tình huống và hoàn cảnh ảnh hưởng đến sự hình
thành định hướng giá trị không đúng đắn của người phạm tội [52, tr.143].
1.2.1.1. Đặc điểm về giới tính
Nghiên cứu đặc điểm giới tính của người phạm tội XPSH có TCCĐ giúp
chúng ta xác định 02 vấn đề: Một là, tỷ lệ phạm tội XPSH có TCCĐ của nam và nữ
giới; hai là, đặc trưng của giới tính ảnh hưởng như thế nào đến việc thực hiện các
tội XPSH có TCCĐ. Trong thực tế hiện nay, thông thường tỷ lệ nam giới phạm tội
XPSH có TCCĐ cao hơn so với nữ giới. Điều này cho thấy nam giới có xu hướng
nhu cầu vật chất phục vụ việc ăn chơi, hưởng thụ hơn nhiều so với nữ giới, do vậy
khi gia đình không đáp ứng đủ nhu cầu vật chất, họ thường có xu hướng phạm tội
XPSH có TCCĐ để phục vụ nhu cầu của mình. Tuy nhiên, những năm gần đây số
liệu về cơ cấu giới tính của người phạm tội XPSH có TCCĐ đang có sự thay đổi.
Tỷ lệ nữ giới phạm tội XPSH có TCCĐ trong tổng số tội XPSH có TCCĐ đang có
khuynh hướng tăng lên và các loại tội XPSH có TCCĐ do họ thực hiện ngày càng
đa dạng [54, tr.155].
1.2.1.2. Đặc điểm về độ tuổi
Nghiên cứu đặc điểm lứa tuổi trong nhân thân người phạm tội XPSH có
TCCĐ nhằm xác định hai vấn đề quan trọng: Một là, lứa tuổi nào phạm tội XPSH
19