VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
MAI THÀNH NAM
PHÒNG NGỪA TÌNH HÌNH CÁC TỘI
XÂM PHẠM TÍNH MẠNG CỦA CON NGƯỜI
TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH QUẢNG NAM
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
HÀ NỘI, Năm 2018
VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
MAI THÀNH NAM
PHÒNG NGỪA TÌNH HÌNH CÁC TỘI
XÂM PHẠM TÍNH MẠNG CỦA CON NGƯỜI
TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH QUẢNG NAM
Chuyên ngành : Tội phạm học và Phòng ngừa tội phạm
Mã số
:
838.01.05
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS. TS. HỒ SỸ SƠN
HÀ NỘI, Năm 2018
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi.
Các số liệu trích dẫn trong luận văn dựa trên số liệu bảo đảm độ tin cậy, chính
xác và trung thực. Những kết luận khoa học của luận văn chưa từng được ai
công bố trong bất kỳ công trình nào khác.
Tác giả
Mai Thành Nam
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ PHÒNG NGỪA TÌNH
HÌNH CÁC TỘI XÂM PHẠM TÍNH MẠNG CỦA CON NGƯỜI........... 8
1.1. Khái niệm, mục đích và ý nghĩa của phòng ngừa tình hình các tội xâm
phạm tính mạng của con người ......................................................................... 8
1.2. Cơ chế phòng ngừa tình hình các tội xâm phạm tính mạng của con
người................................................................................................................ 12
1.3. Mối quan hệ giữa phòng ngừa tình hình các tội xâm phạm tính mạng
của con người với tình hình tội phạm, nguyên nhân và điều kiện của tình
hình các tội xâm phạm tính mạng của con người và nhân thân người phạm
tội xâm phạm tính mạng của con người .......................................................... 26
CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG PHÒNG NGỪA TÌNH HÌNH CÁC TỘI
XÂM PHẠM TÍNH MẠNG CỦA CON NGƯỜI TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH
QUẢNG NAM ................................................................................................ 31
2.1. Thực trạng nhận thức mục đích, ý nghĩa, các nguyên tắc, nội dung
phòng ngừa tình hình các tội xâm phạm tính mạng của con người trên địa
bàn tỉnh Quảng Nam ....................................................................................... 31
2.2. Thực trạng biện pháp phòng ngừa tình hình các tội xâm phạm tính
mạng của con người ........................................................................................ 34
2.3. Thực trạng tổ chức thực hiện các biện pháp phòng ngừa tình hình các
tội xâm phạm tính mạng của con người .......................................................... 36
2.4. Đánh giá kết quả phòng ngừa tình hình các tội xâm phạm tính mạng
của con người trên địa bàn tỉnh Quảng Nam .................................................. 42
CHƯƠNG 3. TĂNG CƯỜNG PHÒNG NGỪA TÌNH HÌNH CÁC TỘI
XÂM PHẠM TÍNH MẠNG CỦA CON NGƯỜI TRÊN ĐỊA BÀN
TỈNH QUẢNG NAM .................................................................................... 52
3.1. Nâng cao nhận thức mục đích, ý nghĩa, các nguyên tắc và nội dung
phòng ngừa tình hình các tội xâm phạm tính mạng của con người ................ 52
3.2. Tăng cường hoàn thiện các biện pháp phòng ngừa tình hình các tội
xâm phạm tính mạng của con người ............................................................... 55
3.3. Tăng cường hoàn thiện tổ chức thực hiện các biện pháp phòng ngừa
tình hình các tội xâm phạm tính mạng của con người .................................... 69
3.4. Tăng cường các nguồn lực cho phòng ngừa tình hình các tội xâm
phạm tính mạng của con người ....................................................................... 71
KẾT LUẬN .................................................................................................... 74
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
- BLHS
: Bộ luật hình sự
- CAND
: Công an nhân dân
- Nxb
: Nhà xuất bản
- PNTH
: Phòng ngừa tình hình
- TAND
: Tòa án nhân dân
- THTP
: Tình hình tội phạm
- TNHS
: Trách nhiệm hình sự
- UBND
: Ủy ban nhân dân
- VKSND
: Viện kiểm sát nhân dân
- XPTM
: Xâm phạm tính mạng
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Quảng Nam là một tỉnh thuộc vùng duyên hải Nam Trung bộ, cách
thành phố Đà Nẵng 68 km về phía Nam và cách Thành phố Hồ Chí Minh 887
km về phía Bắc theo đường quốc lộ 1A, phía Bắc giáp thành phố Đà Nẵng và
tỉnh Thừa Thiên Huế, phía Nam giáp tỉnh Quảng Ngãi và tỉnh Kon Tum, phía
Tây giáp tỉnh Sekong (Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào), phía Đông giáp Biển
Đông. Quảng Nam có 18 đơn vị hành chính cấp huyện, gồm 2 thành phố, 1 thị
xã và 15 huyện với 247 xã/ phường/ thị trấn. Trung tâm hành chính của tỉnh
Quảng Nam đặt tại Thành phố Tam Kỳ. Quảng Nam có diện tích 10.574,74
km2 và dân số 1.487,721 người (số liệu thống kê năm 2017).
Những năm qua, thực hiện chủ trương, đường lối đổi mới của Đảng,
tỉnh Quảng Nam đã và đang đạt được những thành tựu to lớn trên tất cả các
lĩnh vực của đời sống xã hội. Tình hình kinh tế, chính trị - xã hội đi vào ổn
định phát triển, các ngành công nghiệp, dịch vụ chiếm tỷ trọng và tốc độ phát
triển cao, mức sống của người dân không ngừng được nâng lên. Bên cạnh đó,
dưới tác động từ mặt trái nền kinh tế thị trường, sự du nhập của những yếu tố
văn hóa, tinh thần không phù hợp trong quá trình phát triển kinh tế, xã hội
khiến cho tình hình an ninh trật tự diễn biến ngày càng phức tạp, ảnh hưởng
đến sự ổn định về an ninh, kinh tế - xã hội của tỉnh. Theo số liệu thống kê xét
xử từ năm 2013 đến năm 2017 của Toà án nhân dân tỉnh Quảng Nam cho thấy
có 62/3821 (chiếm tỷ lệ 1,62%) vụ phạm tội xâm phạm tính mạng của con
người với 71/6272 người phạm tội (chiếm tỷ lệ 1,13%). Mặc dù chiếm tỷ lệ
không cao trong tổng số vụ án và người phạm tội nhưng với tính chất, hậu
quả đặc biệt nghiêm trọng cho xã hội, ngoài việc tước đoạt quyền sống hợp
pháp của con người, các tội XPTM của con người còn gây ra cảnh đau thương
1
tang tóc cho nhiều gia đình, gây mất trật tự trị an ở địa phương, gây tâm lý
hoang mang, lo lắng trong quần chúng nhân dân.
Xác định đúng đắn vị trí, vai trò của công tác phòng ngừa tội phạm,
trong những năm qua, các cơ quan chức năng trên địa bàn tỉnh Quảng Nam đã
đề ra nhiều chủ trương, thực hiện nhiều chính sách, kế hoạch phòng ngừa
THTP nói chung và tình hình các tội XPTM của con người nói riêng, qua đó
đã góp phần quan trọng kéo giảm tình hình tội phạm trên toàn tỉnh. Tuy
nhiên, hoạt động phòng ngừa vẫn bộc lộ một số tồn tại, hạn chế như: Công tác
phòng ngừa chung chưa mang lại hiệu quả cao; Hệ thống văn bản pháp luật
liên quan đến công tác điều tra, xử lý các tội XPTM của con người còn những
hạn chế nhất định; Công tác phối hợp giữa các lực lượng và các đơn vị, địa
phương trong phòng ngừa các tội phạm này chưa chặt chẽ, nhất là việc quản
lý, giáo dục đối tượng có nguy cơ trở thành tội phạm và phòng ngừa nguy cơ
trở thành nạn nhân của tội phạm... Từ thực tế trên cho thấy, việc nghiên cứu
làm sáng tỏ về lý luận và thực tiễn công tác PNTH các tội XPTM của con
người để rút ra những tồn tại, hạn chế và nguyên nhân của chúng nhằm đề
xuất giải pháp nâng cao hiệu quả công tác phòng ngừa nhóm tội phạm này trở
nên vô cùng cấp thiết. Chính vì vậy, đề tài “Phòng ngừa tình hình các tội xâm
phạm tính mạng của con người trên địa bàn tỉnh Quảng Nam” đã được lựa
chọn để nghiên cứu dưới góc độ tội phạm học.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
* Các công trình lý luận tội phạm học
Để có cơ sở lý luận cho việc thực hiện đề tài luận văn, các công trình
khoa học sau đây đã được nghiên cứu:
- Học viện Cảnh sát nhân dân (2010), Giáo trình Tội phạm học, Nxb
CAND, Hà Nội;
- Học viện Cảnh sát nhân dân (2013), Một số vấn đề về tội phạm học
2
Việt Nam, (tài liệu tham khảo dùng cho hệ đào tạo sau đại học);
- ĐH Luật Hà Nội, (2012), Giáo trình Tội phạm học, Nxb Công an
nhân dân, Hà Nội;
- Trần Đại Quang, Nguyễn Xuân Yêm (2013), Tội phạm học Việt Nam,
Nxb CAND, Hà Nội;
- Đại học Quốc gia Hà Nội, Khoa Luật (2007), Giáo trình Luật hình sự
Việt Nam, Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội;
- PGS. TS. Hồ Sỹ Sơn (2011), Tập bài giảng về tình hình tội phạm,
nguyên nhân và phòng ngừa tội phạm ở nước ta hiện nay;
- PGS. TS. Phạm Văn Tỉnh (2007), Một số vấn đề lý luận về tình hình
tội phạm ở Việt Nam, Nxb Tư pháp, Hà Nội;
- Viện nghiên cứu Nhà nước và pháp luật (2000), Tội phạm học Việt
Nam, một số vần đề lý luận và thực tiễn, Nxb CAND, Hà Nội;
- GS. TS. Võ Khánh Vinh (2013), Giáo trình Tội phạm học, Nxb
CAND, Hà Nội;
- GS. TS. Võ Khánh Vinh (2012), Xã hội học pháp luật, những vấn đề
cơ bản, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
- Các bài viết về nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội phạm, về
nhân thân người phạm tội, về phòng ngừa tội phạm được đăng tải trên tạp chí
Nhà nước và Pháp luật, tạp chí Nhân lực khoa học xã hội, tạp chí Cảnh sát
nhân dân, tạp chí Kiểm sát nhân dân, tạp chí Tòa án nhân dân, CAND trong
những năm gần đây.
Các công trình đã nêu không thể thiếu trong việc thực hiện đề tài luận
văn. Bởi vì trong đó không chỉ chứa đựng lý luận tội phạm học về các vấn đề
cơ bản phải giải quyết của đề tài luận văn mà còn có những chỉ dẫn cho việc
xác định phương pháp nghiên cứu đề tài, từ tổng quan cho đến chi tiết.
3
* Các công trình nghiên cứu liên quan trực tiếp đến phòng ngừa tình
hình các tội xâm phạm tính mạng của con người
- Ở cấp độ luận án tiến sĩ luật học có các công trình nghiên cứu :
+ Nguyễn Minh Công (2014), Những vấn đề phải chứng minh trong vụ
án giết người, Luận án tiến sỹ Luật học, Học viện khoa học xã hội;
+ Thái Huy Đức (2014), Tội giết người theo pháp luật hình sự Việt
Nam, Luận án tiến sỹ Luật học, Học viện khoa học xã hội;
+ Đỗ Đức Hồng Hà (2007), Tội giết người trong Luật Hình sự Việt
Nam và đấu tranh phòng chống loại tội phạm này, Luận án tiến sỹ Luật học,
Học viện khoa học xã hội;
- Ở cấp độ luận văn thạc sĩ, có các công trình nghiên cứu:
+ Nguyễn Thị Mỹ Lệ (2013), Các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe,
danh dự, nhân phẩm của con người trên địa bàn tỉnh Quảng Nam: Tình hình,
nguyên nhân và giải pháp phòng ngừa, Luận văn thạc sỹ Luật học, Học viện
khoa học xã hội;
+ Trần Đình Quảng (2012), Các tội xâm phạm tính mạng của con
người trên địa bàn Thành phố Đà Nẵng: Tình hình, nguyên nhân và giải pháp
phòng ngừa, Luận văn thạc sỹ Luật học, Học viện khoa học xã hội;
Các công trình khoa học nói trên đều liên quan trực tiếp hoặc gián tiếp
đến công tác đấu tranh phòng ngừa tội phạm xâm phạm tính mạng của con
người trên phạm vi cả nước hoặc một địa bàn cụ thể và đều có giá trị kế thừa
đối với việc triển khai nghiên cứu đề tài: “Phòng ngừa tình hình các tội xâm
phạm tính mạng của con người trên địa bàn tỉnh Quảng Nam”.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu những vấn đề lý luận phòng ngừa tình hình các
tội xâm phạm tính mạng của con người, thực tiễn PNTH các tội này trên địa
4
bàn tỉnh Quảng Nam, luận văn đề xuất các giải pháp tăng cường PNTH các
tội nói trên trong thời gian tới.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích nêu trên, luận văn thực hiện các nhiệm vụ sau:
Thứ nhất, phân tích những vấn đề lý luận về phòng ngừa tình hình các
tội xâm phạm tính mạng của con người;
Thứ hai, phân tích, đánh giá thực trạng phòng ngừa tình hình các tội
xâm phạm tính mạng của con người trên địa bàn tỉnh Quảng Nam trong thời
gian từ 2013 – 2017;
Thứ ba, lập luận, đề xuất các giải pháp tăng cường phòng ngừa tình
hình các tội xâm phạm tính mạng của con người trên địa bàn tỉnh Quảng Nam
trong thời gian tới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn lấy các quan điểm khoa học, quy định của pháp luật hình sự
và thực trạng PNTH các tội XPTM của con người trên địa bàn tỉnh Quảng
Nam để nghiên cứu các vấn đề thuộc nội dung nghiên cứu của đề tài.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Đề tài được nghiên cứu dưới góc độ chuyên ngành tội phạm học và
phòng ngừa tội phạm.
- Luận văn lấy địa bàn tỉnh Quảng Nam làm phạm vi về không gian để
nghiên cứu các vấn đề thuộc nội dung nghiên cứu.
- Luận văn lấy thời hạn năm năm từ năm 2013 đến 2017 làm phạm vi
nghiên cứu về thời gian, trong đó số liệu thống kê xét xử sơ thẩm hình sự của
TAND tỉnh Quảng Nam đối với các tội XPTM của con người cũng nằm trong
khoảng thời gian nói trên.
5
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận
Đề tài luận văn được thực hiện dựa trên phép duy vật biện chứng và
duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác – Lênin; Tư tưởng Hồ Chí Minh; Chủ
trương, đường lối của Đảng; Chính sách, pháp luật của Nhà nước ta về Phòng
ngừa THTP.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài luận văn còn được thực hiện một loạt phương pháp nghiên cứu
chuyên ngành tội phạm học và phòng ngừa tội phạm như tổng kết thực tiễn,
quan sát, thống kê hình sự, điều tra án điển hình, nghiên cứu hồ sơ vụ án,
phân tích, so sánh, hệ thống, kế thừa…
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
6.1. Ý nghĩa lý luận
Đề tài là công trình khoa học nghiên cứu tình hình các tội XPTM của
con người một cách toàn diện, hệ thống và nhất quán dưới góc độ tội phạm
học Việt Nam trên địa bàn tỉnh Quảng Nam. Kết quả nghiên cứu của luận văn
có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo tại Học viện khoa học xã hội,
trong các trường Luật, các trường Công an.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Kết quả nghiên cứu của đề tài góp phần nâng cao hiệu quả phòng ngừa
THTP nói chung và PNTH các tội XPTM của con người trên địa bàn tỉnh
Quảng Nam nói riêng.
7. Cơ cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,
luận văn được cấu trúc thành 3 chương như sau:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về phòng ngừa tình hình các tội xâm
phạm tính mạng của con người.
6
Chương 2: Thực trạng phòng ngừa tình hình các tội xâm phạm tính
mạng của con người trên địa bàn tỉnh Quảng Nam.
Chương 3: Tăng cường phòng ngừa tình hình các tội xâm phạm tính
mạng của con người trên địa bàn tỉnh Quảng Nam.
7
CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ PHÒNG NGỪA TÌNH HÌNH
CÁC TỘI XÂM PHẠM TÍNH MẠNG CỦA CON NGƯỜI
1.1. Khái niệm, mục đích và ý nghĩa của phòng ngừa tình hình các
tội xâm phạm tính mạng của con người
1.1.1. Khái niệm phòng ngừa tình hình các tội xâm phạm tính mạng
của con người
Phòng ngừa tội phạm là một khái niệm được sử dụng rộng rãi trong quá
trình đấu tranh phòng, chống tội phạm. Tuy nhiên, khái niệm thế nào là phòng
ngừa tội phạm lại chưa được thống nhất. Đó là lý do mà hiện nay có rất nhiều
quan điểm khi đưa ra khái niệm về phòng ngừa tội phạm.
Theo Từ điển Luật học định nghĩa: “Phòng ngừa tội phạm là ngăn ngừa
tội phạm và loại trừ các nguyên nhân phát sinh tội phạm bằng toàn bộ những
biện pháp liên quan với nhau do cơ quan Nhà nước và tổ chức xã hội tiến
hành”.
Còn trong khoa học về tội phạm học của Liên Xô trước đây, quan niệm
về phòng ngừa tội phạm được GS.TS. Nguyễn Xuân Yêm dẫn ra như sau:
“Phòng ngừa tội phạm là tổng hợp các biện pháp có quan hệ tác động lẫn
nhau, được tiến hành bởi cơ quan nhà nước và các tổ chức xã hội nhằm mục
đích ngăn chặn tội phạm và hạn chế, loại trừ những nguyên nhân sinh ra tội
phạm” [43, tr.185-199].
Quan điểm khoa học trong sách báo pháp lý một số nước đều thống
nhất cho rằng: “Phòng ngừa tội phạm là không để cho tội phạm xảy ra, thủ
tiêu các nguyên nhân và điều kiện của tội phạm...” hay “không để cho tội
phạm gây ra hậu quả nguy hại cho xã hội, thủ tiêu nguyên nhân và kiểm soát
được tội phạm, hoàn thiện hệ thống pháp luật về đấu tranh chống tội phạm và
8
vi phạm pháp luật, cũng như có các biện pháp cải tạo, giáo dục người phạm
tội, đưa họ trở thành những công dân có ích cho xã hội và cho cộng đồng...”
[11, tr. 143-156].
Một quan điểm khác cho rằng phòng ngừa tội phạm được hiểu theo hai
nghĩa: “Theo nghĩa rộng, phòng ngừa tội phạm bao hàm, một mặt không để
cho tội phạm xảy ra, thủ tiêu nguyên nhân và điều kiện phạm tội và bằng mọi
cách để ngăn chặn tội phạm, kịp thời phát hiện tội phạm, xử lý nghiêm minh
các trường hợp phạm tội và cuối cùng là cải tạo, giáo dục người phạm tội, đưa
họ trở thành những công dân có ích cho xã hội. Còn theo nghĩa hẹp, phòng
ngừa tội phạm là không để cho tội phạm xảy ra, không để cho tội phạm gây
hậu quả cho xã hội, không để cho thành viên nào của xã hội phải chịu hình
phạt của pháp luật, tiết kiệm được những chi phí cần thiết cho Nhà nước trong
công tác điều tra, truy tố, xét xử và cải tạo giáo dục người phạm tội” [12, tr.
116-123].
Phòng ngừa tình hình tội phạm là đối tượng nghiên cứu của tội phạm
học và cũng là mục đích cuối cùng của tội phạm học. Tội phạm học nghiên
cứu tình hình tội phạm, nguyên nhân, điều kiện của tình hình tội phạm, nhân
thân người phạm tội,... phát hiện quy luật phát sinh, tồn tại và vận động của
tình hình tội phạm để tìm ra các biện pháp tác động vào các quy luật đó nhằm
mục đích cuối cùng là không để tội phạm xảy ra.
Theo GS.TS Võ Khánh Vinh: “Phòng ngừa tình hình tội phạm là hệ
thống nhiều mức độ và biện pháp mang tính chất Nhà nước, xã hội và Nhà
nước - xã hội nhằm khắc phục các nguyên nhân và điều kiện của tội phạm
hoặc làm vô hiệu hóa (làm yếu; hạn chế) chúng và bằng cách đó làm giảm và
dần dần loại bỏ tình hình tội phạm”. [38, tr.154].
Theo quan điểm của đa số các nhà nghiên cứu lý luận về tội phạm học
ở Việt Nam hiện nay thì: “Phòng ngừa THTP được hiểu là việc áp dụng các
9
biện pháp kinh tế, chính trị, tư tưởng, pháp luật… do các cơ quan, các tổ chức
và công dân tiến hành dưới sự lãnh đạo của Đảng nhằm xóa bỏ hoặc vô hiệu
hóa các nguyên nhân, điều kiện phạm tội; không để cho tội phạm xảy ra; làm
giảm tội phạm và tiến tới loại trừ hoàn toàn tình hình tội phạm ra khỏi đời
sống xã hội” [11, tr.210].
Như vậy, phòng ngừa THTP sẽ bao gồm cả hoạt động phòng và chống
tội phạm. Tuy nhiên, cũng có quan điểm cho rằng, phòng ngừa THTP nên
hiểu theo nghĩa hẹp. Theo quan điểm này, “phòng ngừa THTP chỉ bao gồm
hoạt động tác động vào nguyên nhân, điều kiện của tội phạm nhằm ngăn ngừa
trước không để tội phạm xảy ra và loại trừ nguyên nhân phát sinh tội phạm”
[13, tr.47-53].
Mặc dù còn có nhận thức khác nhau về khái niệm phòng ngừa THTP
nhưng tựu chung lại, các quan điểm đều thống nhất xác định: phòng ngừa
THTP không chỉ là nhiệm vụ của một cơ quan, tổ chức mà chính là nhiệm vụ
chung của toàn xã hội; phòng ngừa THTP là việc sử dụng tổng thể các biện
pháp mang tính xã hội và các biện pháp mang tính cưỡng chế Nhà nước và
suy cho cùng chính là những giải pháp mang tính chủ động, tích cực và hiệu
quả hơn trong công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm. Phòng ngừa THTP
mang tính hệ thống, đồng bộ và có sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan nhà
nước, tổ chức xã hội và công dân. Chủ thể chính của hoạt động phòng ngừa
THTP bao gồm: Các cơ quan Nhà nước; các tổ chức xã hội và cá nhân công
dân. Với nhận thức về phòng ngừa THTP như vậy, theo chúng tôi, khái niệm
PNTH các tội xâm phạm tính mạng của con người có thể được hiểu như sau:
“Phòng ngừa tình hình các tội xâm phạm tính mạng của con người là
hoạt động của các cơ quan Nhà nước, tổ chức xã hội và của mọi công dân áp
dụng tổng hợp các biện pháp khác nhau hướng đến việc thủ tiêu những
nguyên nhân, điều kiện phạm các tội xâm phạm tính mạng của con người
10
nhằm ngăn chặn, hạn chế, làm giảm tình hình tội phạm và tiến tới loại trừ
hoàn toàn tình hình các tội xâm phạm tính mạng của con người ra khỏi đời
sống xã hội”.
1.1.2. Mục đích và ý nghĩa của phòng ngừa tình hình các tội xâm
phạm tính mạng của con người
- Mục đích: Vì PNTH các tội XPTM của con người là một trường hợp
cụ thể của phòng ngừa THTP nói chung cho nên, mục đích của nó cũng được
quy định bởi mục đích của “cái chung” là ngăn chặn và từng bước đẩy lùi tội
phạm khỏi đời sống xã hội. Vì vậy, có thể hiểu mục đích của PNTH các tội
XPTM của con người chính là từng bước ngăn chặn và đẩy lùi nguyên nhân
và điều kiện của các tội XPTM của con người ra khỏi đời sống xã hội.
- Ý nghĩa: Từ thực tiễn cho thấy PNTH các tội XPTM của con người sẽ
mang lại nhiều ý nghĩa to lớn, đó là:
+ Trên cơ sở nghiên cứu về tình hình các tội XPTM của con người giúp
cho việc hoạch định và ban hành những chủ trương, đường lối, chính sách,
biện pháp nhằm hạn chế, loại trừ các nguyên nhân và điều kiện làm nảy sinh
tình hình các tội XPTM của con người, từ đó tiến tới loại bỏ tình hình các tội
phạm này ra khỏi đời sống xã hội, tạo môi trường thuận lợi cho việc phát triển
kinh tế - xã hội của đất nước.
+ Phòng ngừa tình hình các tội XPTM của con người có ý nghĩa quan
trọng trong việc bảo vệ con người và mang tính nhân đạo cao cả. Con người
được bảo vệ ở đây bao gồm người có nguy cơ phạm tội, người là nạn nhân
của tội phạm và cả cộng đồng xã hội. PNTH tội phạm tốt, có hiệu quả tức là
ngăn ngừa trước không cho một người thực hiện hành vi phạm tội, không để
họ phải bị những hạn chế về quyền con người khi chấp hành hình phạt. Hay
nói cách khác là khi PNTH các tội XPTM của con người đạt hiệu quả thì mọi
người trong xã hội sẽ có điều kiện được hưởng các quyền tự do, hưởng thụ
11
các giá trị vật chất và tinh thần vì những thiệt hại do các tội phạm gây ra cho
xã hội đã bị hạn chế tối đa.
+ Về mặt kinh tế, PNTH các tội XPTM của con người, không để cho
tội phạm xảy ra sẽ hạn chế thấp nhất những thiệt hại do tội phạm gây ra cho
nạn nhân và những thiệt hại khác về ngân sách nhà nước, đó là những chi phí
mà nhà nước phải bỏ ra cho hoạt động phát hiện, điều tra, xử lý tội phạm,
khắc phục hậu quả,…số tiền dùng cho công tác tố tụng sẽ có ý nghĩa tích cực
hơn nếu được đầu tư vào các hoạt động an sinh xã hội, giải quyết các vấn đề
về cơ sở hạ tầng, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của người dân.
+ Ngoài ra PNTH các tội XPTM của con người còn mang ý nghĩa
chính trị xã hội sâu sắc. Phòng ngừa tốt, không để cho tội phạm xảy ra hoặc
hạn chế thấp nhất tình trạng phạm tội sẽ giúp cho công tác quản lý xã hội
được thuận lợi hơn, các chủ thể sẽ không bị rơi vào tình trạng căng thẳng đối
phó với tội phạm, con người sẽ được sống trong môi trường lành mạnh, an
toàn hơn. Mặt khác, PNTH các tội XPTM của con người là nghĩa vụ, trách
nhiệm của tất cả mọi người trong xã hội nhưng các cơ quan nhà nước là chủ
thể giữ vai trò chuyên trách và thường xuyên nên hiệu quả của hoạt động
phòng ngừa sẽ phản ánh năng lực của các cơ quan nhà nước và ảnh hưởng
đến uy tín của Đảng, Nhà nước trong việc lãnh đạo, quản lý đất nước.
1.2. Cơ chế phòng ngừa tình hình các tội xâm phạm tính mạng của
con người
1.2.1. Nội dung phòng ngừa tình hình các tội xâm phạm tính mạng
của con người
- Phòng ngừa chung: là tổng hợp các biện pháp về văn hóa, kinh tế,
chính trị, xã hội của cả hệ thống chính trị - xã hội nhằm hướng đến hạn chế,
từng bước xóa bỏ dần những nguyên nhân, điều kiện của tình hình các tội
XPTM của con người. Các biện pháp mang tính xã hội này là những biện
12
pháp nhằm bảo đảm đời sống vật chất, tinh thần cho người dân để con người
ta sẽ không thực hiện các hành vi phạm tội do thiếu thốn vật chất hay do hạn
chế trong nhận thức. Về bản chất, các biện pháp này không mang tính cưỡng
chế bắt buộc nên có thể được xây dựng và triển khai bởi nhiều chủ thể khác
nhau. Đây là hoạt động phòng ngừa có tính chiến lược, bảo đảm sự thống nhất
đồng bộ giữa các chủ thể, do cơ quan có thẩm quyền tiến hành. Nhờ đó,
phòng ngừa chung đóng vai trò là cơ sở, nền tảng của phòng ngừa riêng. “Quá
trình tác động của các biện pháp này nhằm xây dựng đất nước vững mạnh về
chính trị, phát triển về kinh tế, nâng cao đời sống của nhân dân, xây dựng xã
hội trật tự, kỷ cương, dân chủ, văn minh. Từ đó, xóa bỏ những yếu kém trên
các lĩnh vực quản lý, xóa bỏ sự nghèo khổ, bất bình đẳng, những mâu thuẫn
nảy sinh trong đời sống xã hội, cuối cùng làm giảm tội phạm và đi đến xóa bỏ
hiện tượng tội phạm trong xã hội” [32, tr.427-428].
- Phòng ngừa riêng: Khác với các biện pháp phòng ngừa chung, đây là
nhóm biện pháp được áp dụng tác động trực tiếp đến những người cụ thể có
khả năng, điều kiện thực hiện hành vi phạm tội XPTM của con người nhằm
ngăn chặn, không để hành vi phạm tội này xảy ra. Đối tượng áp dụng biện
pháp này là những con người cụ thể đang sinh sống trong xã hội. Đó có thể là
những người có tiền án, tiền sự; những người không có việc làm; những
người thường xuyên tham gia vào các tệ nạn xã hội như cờ bạc, ma túy,... Nếu
như tiêu chuẩn hiệu quả của các biện pháp phòng ngừa chung được xét trên
hiệu quả thực hiện các nhiệm vụ kinh tế - xã hội, chính trị - tư tưởng, văn hóa
– giáo dục,... thì hiệu quả của phòng ngừa riêng được đánh giá trực tiếp dựa
vào mức độ khắc phục, hạn chế và thủ tiêu nguyên nhân, điều kiện của tình
hình các tội XPTM của con người.
Phòng ngừa riêng trong mối quan hệ với phòng ngừa chung, một mặt
dựa trên phòng ngừa chung, bổ sung cho phòng ngừa chung, mặt khác có tính
13
độc lập tương đối và có vai trò quan trọng không những đối với PNTH các tội
XPTM của con người mà còn đối với việc thực hiện các biện pháp phòng
ngừa THTP nói chung. Phòng ngừa riêng có khả năng linh hoạt trong việc
giải quyết những nguyên nhân và điều kiện của các tội XPTM của con người
trong phạm vi nhất định với hiệu quả cao và trong thời gian ngắn. “Trong khi
đó, quá trình thực hiện các nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, văn hóa – giáo
dục,... là một quá trình lâu dài, và quá trình này thường xuyên gặp trở ngại,
mà tội phạm là một trở ngại lớn. Để thực hiện nhiệm vụ đề ra đòi hỏi phải
khắc phục mọi trở ngại, kể cả tội phạm. Yêu cầu này chỉ được thực hiện thông
qua việc sử dụng các biện pháp phòng ngừa riêng. Như vậy, phòng ngừa riêng
trở thành biện pháp đảm bảo thực hiện nhiệm vụ phòng ngừa chung” [33,
tr.248-249].
1.2.2. Nguyên tắc phòng ngừa tình hình các tội xâm phạm tính mạng
của con người
- Nguyên tắc đảm bảo sự lãnh đạo của Đảng: Nội dung của nguyên tắc
này thể hiện ở chỗ mọi hoạt động phòng ngừa THTP cũng như mọi chủ thể
tiến hành các hoạt động phòng ngừa THTP nói chung và tình hình các tội
XPTM của con người đều phải đặt dưới sự lãnh đạo toàn diện, tuyệt đối của
Đảng Cộng sản Việt Nam với lý luận khoa học chủ nghĩa Mác – Lênin kết
hợp với tư tưởng Hồ Chí Minh làm sợi chỉ đỏ dẫn đường. Trong thực tiễn
cũng cho thấy Đảng ta luôn quan tâm, chỉ đạo sát sao và đã hoạch định những
chủ chương, chiến lược phòng ngừa tội phạm hiệu quả như Nghị quyết số 49NQ/TW ngày 02/6/2005 về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, Nghị
quyết số 48-NQ/TW ngày 22/10/2010 về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng
đối với công tác phòng, chống tội phạm trong tình hình mới… Bằng việc đề
ra các chủ trương, đường lối và công tác cán bộ, Đảng giao nhiệm vụ cụ thể
cho từng tổ chức, cá nhân trong Đảng, các ban, ngành, tổ chức chính trị - xã
14
hội, Đảng phát động cuộc đấu tranh chống tội phạm tới toàn thể xã hội, phát
huy sức mạnh toàn dân tộc trong cuộc chiến đầy cam go, lâu dài này.
- Nguyên tắc pháp chế: PNTH các tội XPTM của con người là loại hoạt
động xã hội mà ở mức độ này hay mức độ khác đều mang tính quyền lực nhà
nước. Hoạt động này nhằm thực hiện nhiệm vụ chung mà xã hội và Nhà nước
đặt ra vì lợi ích chung của xã hội. Vì vậy, chỉ khi thực hiện đúng các quy định
của pháp luật, phòng ngừa tội phạm mới đảm bảo đúng mục đích là phục vụ
lợi ích xã hội, Nhà nước và công dân.
Nguyên tắc pháp chế trong PNTH các tội XPTM của con người thể
hiện ở chỗ mọi hoạt động phòng ngừa THTP nói chung và việc áp dụng các
biện pháp phòng ngừa nghiệp vụ phải được thực hiện trên cơ sở pháp luật, cụ
thể là các quy định của Hiến pháp, BLHS, BL TTHS, các văn bản luật và các
quy phạm pháp luật khác có liên quan đến hoạt động PNTH các tội XPTM
của con người. Để nguyên tắc pháp chế phát huy tối đa hiệu quả đòi hỏi hệ
thống pháp luật, các quy định của pháp luật về phòng ngừa THTP nói chung
và tình hình các tội xâm phạm tính mạng của con người phải không ngừng
được hoàn thiện. Đồng thời chủ thể tiến hành hoạt động phòng ngừa cũng
phải tuân thủ nghiêm chỉnh, nhất quán các quy định của pháp luật trong quá
trình tiến hành các hoạt động phòng ngừa đó.
- Nguyên tắc dân chủ: Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin thì
quần chúng là sức mạnh vĩ đại, là người làm chủ của xã hội. Chỉ khi quần
chúng được lôi cuốn tham gia vào hoạt động PNTH các tội XPTM của con
người thì mới hoàn thành nhiệm vụ vẻ vang đó. Nguyên tắc dân chủ đòi hỏi
phải lôi cuốn được sự tham gia đông đảo của các tầng lớp, lực lượng trong xã
hội, đặc biệt là quần chúng nhân dân tham gia tích cực vào hoạt động phòng
ngừa THTP các tội XPTM của con người. Do đó, để nguyên tắc này được áp
dụng trong thực tế thì cần thiết phải được ghi nhận trong các quy định của
15
pháp luật về phòng ngừa THTP. Bên cạnh đó cần phải nhận thức rằng các chủ
thể PNTH các tội XPTM của con người phạm là quần chúng nhân dân là lực
lượng đông đảo nhất nhưng lại không có các công cụ, phương tiện nhằm đấu
tranh trực tiếp với tội phạm vì vậy cần có sự hướng dẫn từ các chủ thể là cơ
quan nhà nước trực tiếp áp dụng các biện pháp phòng ngừa, phát hiện, điều
tra, xử lý tội phạm. Việc tuân thủ nguyên tắc dân chủ trong hoạt động phòng
ngừa THTP các tội XPTM của con người nhằm phát huy được sức mạnh tối
đa của các tầng lớp nhân dân trong xã hội. Phòng ngừa trước, không để cho
tội phạm xảy ra và kịp thời phát hiện, điều tra, xử lý, góp phần nâng cao hiệu
quả hoạt động phòng ngừa THTP.
- Nguyên tắc nhân đạo: Vì mục đích của phòng ngừa tội phạm là không
để tội phạm xảy ra, không để cho một công dân nào phải chịu hình phạt. Do
đó, nguyên tắc nhân đạo cần phải được quán triệt trong quá trình và toàn bộ
hoạt động phòng ngừa tội phạm.
Nguyên tắc nhân đạo vừa thể hiện sự mong muốn của xã hội, đồng thời
thể hiện bản chất tốt đẹp của chế độ ta, phải bằng mọi biện pháp không để cho
bất cứ thành viên nào của xã hội đi vào con đường tội phạm. Tuy nhiên, cần
phải thấy rằng việc quán triệt nguyên tắc nhân đạo trong phòng ngừa tình hình
các tội xâm phạm tính mạng của con người nhằm làm cho hoạt động phòng
ngừa tình hình các tội xâm phạm tính mạng của con người có kết quả hơn,
trong khi xử lý tội phạm cần phải chú ý tới hiệu quả của việc áp dụng, thực
hiện các chính sách nhân đạo để loại trừ tội phạm chứ không phải để tội phạm
lợi dụng hoạt động.
- Nguyên tắc đảm bảo quyền con người: Nguyên tắc đảm bảo quyền
con người đòi hỏi các biện pháp phòng ngừa được xây dựng và áp dụng trong
thực tiễn không được hạ thấp nhân phẩm, danh dự, các quyền cơ bản của con
người mà phải hướng đến việc định hướng hành vi, lối sống cho họ theo
16
hướng hòa nhập với xã hội, làm những việc có ích cho xã hội. Nguyên tắc này
còn đòi hỏi hoạt động phòng ngừa tình hình các tội xâm phạm tính mạng của
con người phải kết hợp hài hòa, đúng mức độ biện pháp cưỡng chế với thuyết
phục theo hướng tăng cường sự thuyết phục, giáo dục.
Theo đó, để đảm bảo nguyên tắc này trong phòng ngừa tình hình các tội
xâm phạm tính mạng của con người cần đảm bảo: các biện pháp trách nhiệm
pháp lý áp dụng không nhằm gây đau đớn về thể xác, không nhằm hạ thấp
hoặc xúc phạm danh dự nhân phẩm của người vi phạm pháp luật, kể cả người
đó là người phạm tội, mà nhằm đảm bảo công lý, công bằng xã hội,cải tạo
giáo dục người vi phạm pháp luật sửa chữa lỗi lầm để trở thành người lương
thiện, có ích cho xã hội, ngăn ngừa họ tái vi phạm pháp luật đồng thời giáo
dục người khác ý thức tôn trọng pháp luật và không vi phạm pháp luật.
- Nguyên tắc phối hợp giữa các chủ thể: Nội dung của nguyên tắc này
thể hiện ở chỗ các biện pháp phòng ngừa, tổ chức hệ thống phòng ngừa, các
chủ thể phòng ngừa phải được xây dựng có khoa học, có sự phân công, phối
hợp chặt chẽ giữa các chủ thể của hoạt động phòng ngừa. Hoạt động PNTH
các tội XPTM của con người phải mang tính hệ thống, có sự điều hành thống
nhất và hợp tác chặt chẽ giữa Nhà nước, xã hội và các cá nhân. Hình thức, nội
dung và phạm vi hoạt động phòng ngừa cần phải được xác định thống nhất
giữa các chủ thể của hoạt động phòng ngừa. Ví dụ, trong quan hệ phối hợp
giữa cơ quan nhà nước về phòng ngừa tội phạm với gia đình, nhà trường, xã
hội cần xác định rõ nhiệm vụ chính của từng chủ thể, nhà trường có trách
nhiệm giáo dục học sinh theo đúng đường lối chủ trương của Đảng, Nhà nước
về giáo dục; gia đình có nhiệm vụ giáo dục con cái tuân theo các quy tắc đạo
đức xã hội; các cơ quan nhà nước thực hiện các biện pháp phòng ngừa nghiệp
vụ đối với các đối tượng cá biệt, xử lý nghiêm các đối tượng vi phạm pháp
luật,… có như vậy thì hoạt động phòng ngừa tội phạm nói chung và PNTH
17
các tội XPTM của con người mới có thể đạt hiệu quả cao nhất.
1.2.3. Các chủ thể phòng ngừa tình hình các tội xâm phạm tính
mạng của con người
Phòng ngừa tình hình các tội XPTM của con người là hoạt động xã hội
phức tạp đòi hỏi phải có sự tham gia phối hợp chặt chẽ của nhiều chủ thể khác
nhau. Do đó, chủ thể PNTH các tội XPTM của con người có thể hiểu là
những người và tổ chức tham gia hoạt động này một cách thường xuyên và có
hệ thống. Với cách hiểu này, các chủ thể PNTH các tội XPTM của con người
bao gồm:
- Các tổ chức của Đảng Cộng sản Việt Nam
Đảng Cộng sản Việt Nam là lực lượng lãnh đạo xã hội nói chung và
hoạt động PNTH các tội XPTM của con người nói riêng ở nước ta. Điều này
được ghi nhận tại Khoản 1 Điều 4 Hiến pháp: “Đảng Cộng sản Việt Nam…là
lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội”. Đảng thực hiện vai trò lãnh đạo của
mình thông qua các quan điểm, đường lối, định hướng về công tác PNTH các
tội XPTM của con người trong các Nghị quyết, chương trình hành động của
Đảng. Các tổ chức Đảng thông qua đảng viên của mình để thực hiện sự lãnh
đạo chính trị đối với các cơ quan Nhà nước, các tổ chức xã hội trong hoạt
động PNTH các tội XPTM của con người.
Với tư cách là chủ thể của hoạt động PNTH các tội XPTM của con
người, Đảng luôn tạo mọi điều kiện về chính trị xã hội thuận lợi cho việc
nghiên cứu các nguyên nhân, điều kiện phạm tội và các biện pháp phòng ngừa
tội phạm, định hướng việc tổ chức các hoạt động phòng ngừa một cách hệ
thống, toàn diện; kiểm tra hoạt động của các tổ chức Đảng trên các lĩnh vực
kinh tế, xã hội. Bên cạnh đó, sự lãnh đạo của Đảng còn thể hiện ở vai trò nòng
cốt, tiên phong, gương mẫu của đội ngũ cán bộ Đảng viên trong hoạt động
PNTH các tội XPTM của con người.
18
- Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp
+ Quốc hội là cơ quan quyền lực nhà nước duy nhất có quyền lập Hiến
và lập pháp, là chủ thể phòng ngừa THTP có vai trò quan trọng trong việc ban
hành Hiến pháp và các đạo luật làm cơ sở pháp lý cho việc điều chỉnh hoạt
động PNTH các tội XPTM của con người như BLHS, BL TTHS,…Bên cạnh
đó Quốc hội còn có vai trò quan trọng trong việc kiểm tra, giám sát hoạt động
của các cơ quan nhà nước, của cán bộ nhằm phòng ngừa các hành vi vi phạm
pháp luật, tích cực tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật về PNTH tội
phạm nói chung và PNTH các tội XPTM của con người nói riêng.
+ Hội đồng nhân dân các cấp là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa
phương, giữ vai trò quan trọng trong PNTH các tội XPTM của con người
thông qua việc quyết định những đường lối, chủ trương, biện pháp kinh tế, xã
hội quan trọng để cải thiện đời sống vật chất, tinh thần của người dân nhằm
làm giảm, hạn chế các nguyên nhân, điều kiện làm phát sinh tội phạm. Bên
cạnh đó, thông qua các Nghị quyết của mình, Hội đồng nhân dân các cấp
quyết định các biện pháp PNTH các tội XPTM của con người ở địa phương
đồng thời tích cực kiểm tra, giám sát các cơ quan, tổ chức, cá nhân để phòng
ngừa các hành vi phạm tội cụ thể.
- Các cơ quan quản lý hành chính, kinh tế nhà nước
+ Chính phủ có vai trò to lớn trong hoạt động phòng ngừa THTP nói
chung và PNTH các tội XPTM của con người nói riêng. Điều đó được thể
hiện qua việc triển khai thi hành các quy định của pháp luật cũng như ban
hành các văn bản hướng dẫn thực hiện. Chính phủ xây dựng và thực hiện các
kế hoạch phát triển kinh tế, xã hội, văn hóa, giáo dục,… trong phạm vi toàn
quốc nhằm nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho nhân dân, từ đó có tác
dụng PNTH các tội XPTM của con người. Trong lĩnh vực quốc phòng, an
ninh và trật tự xã hội, Chính phủ tổ chức thực hiện các chính sách, biện pháp
19