Tải bản đầy đủ (.docx) (91 trang)

Nhân thân người phạm tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt trên địa bàn tỉnh quảng nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (444.32 KB, 91 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN BÁ NGỌC

NHÂN THÂN NGƯỜI PHẠM TỘI XÂM PHẠM
SỞ HỮU CÓ TÍNH CHẤT CHIẾM ĐOẠT
TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH QUẢNG NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI - 2018


VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN BÁ NGỌC

NHÂN THÂN NGƯỜI PHẠM TỘI XÂM PHẠM
SỞ HỮU CÓ TÍNH CHẤT CHIẾM ĐOẠT
TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH QUẢNG NAM

Chuyên ngành : Tội phạm học và phòng ngừa tội phạm Mã số
: 838.01.05

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
PGS. TS. TRẦN HỮU TRÁNG



LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan số liệu và kết quả nghiên cứu trong Luận văn Thạc sĩ Tộiphạm
học và phòng ngừa tội phạm về “Nhân thân người phạm tội xâm pham sở hữu có tính chất
chiếm đoạt trên địa bàn tỉnh Quảng Nam " là hoàn toàn trung thực và không trùng lặp với
các luận văn khác trong cùng lĩnh vực. Các thông tin, tài liệu trình bày trong Luận văn đã
được ghi rõ nguồn gốc. Luận văn này là công trình nghiên cứu của cá nhân tôi dưới sự
hướng dẫn khoa học của PGS.TS. Trần Hữu Tráng.
Tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm về lời cam đoan này.

Tác giả luận văn

Nguyễn Bá Ngọc

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
ANTT

: An ninh trật tự

BLHS

: Bộ luật hình sự

CLB

: Câu lạc bộ


CQTHTT

: Cơ quan tiến hành tố tụng

KCN

: Khu công nghiệp

TAND

: Tòa án nhân dân

TCCĐ

: TCCĐ

TTATXH

: Trật tự an toàn xã hội

VKSND

: Viện kiểm sát nhân dân

XPSH

: XPSH




Bảng 2.1

Tình hình tội XPSH có TCCĐ trên địa bàn tỉnh Quảng Nam
Tỉ lệ số vụ, số bị cáo phạm tội XPSH có TCCĐ so sánh với tổng số vụ, số bị

Bảng 2.2

Bảng 2.3

cáo phạm tội nói chung trên địa bàn tỉnh Quảng Nam từ năm 2013 - 2017

Cơ số tội phạm nói chung và tội XPSH có TCCĐ trên địa bàn tỉnh Quảng
Nam

Bảng 2.4

Bảng 2.5

Biểu đồ diễn biến tình hình tội XPSH có TCCĐ trên địa bàn tỉnh Quảng Nam

Cơ cấu của từng loại tội XPSH có TCCĐ trong mối quan hệ với các tội XPSH
có TCCĐ trên địa bàn tỉnh Quảng Nam

Bảng 2.6

Bảng 2.7

Bảng 2.8


Bảng 2.9

Bảng 2.10
Bảng 2.11

Cơ cấu xét theo hình phạt ở cấp sơ thẩm áp dụng đối với các tội XPSH có
TCCĐ trên địa bàn tỉnh Quảng Nam giai đoạn từ năm 2013 - 2017
Cơ cấu độ tuổi, giới tính của nhân thân người phạm tội XPSH có TCCĐ trên
địa bàn tỉnh Quảng Nam giai đoạn 2013 - 2017
Cơ cấu trình độ học vấn của nhân thân người phạm tội XPSH có TCCĐ trên
địa bàn tỉnh Quảng Nam giai đoạn 2013 - 2017
Cơ cấu nghề nghiệp của nhân thân người phạm tội XPSH có TCCĐ trên địa
bàn tỉnh Quảng Nam giai đoạn 2013 - 2017
Cơ cấu nơi cư trú, hộ khẩu thường trú của nhân thân người phạm tội XPSH có
TCCĐ trên địa bàn tỉnh Quảng Nam giai đoạn 2013 - 2017
Phiếu điều tra xã hội học

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài

6


Quảng Nam là một tỉnh thuộc vùng duyên hải Nam Trung bộ, cách thành phố Đà
Nẵng 68 km về phía Nam và cách Thành phố Hồ Chí Minh 887 km về phía Bắc theo đường
quốc lộ 1A, phía Bắc giáp thành phố Đà Nằng và tỉnh Thừa Thiên Huế, phía Nam giáp tỉnh
Quảng Ngãi và tỉnh Kon Tum, phía Tây giáp tỉnh Sekong (Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào),
phía Đông giáp Biển Đông. Quảng Nam có 18 đơn vị hành chính cấp huyện, gồm 2 thành
phố, 1 thị xã và 15 huyện với 247 xã/ phường/ thị trấn. Trung tâm hành chính của tỉnh Quảng
Nam đặt tại Thành phố Tam Kỳ. Với diện tích tự nhiên 10.407,47km2, địa hình đa dạng phân

thành 03 vùng rõ rệt: Đồng bằng, trung du, miền núi; được phân bố thấp dần từ Tây sang
Đông và một phần diện tích đảo. Dân số là 1.480.000 người, với mật độ dân số trung bình là
140 người/km2 (2016), với 27 dân tộc sinh sống trong đó có 4 tộc người thiểu số cư trú lâu
đời là người Cơ Tu, người Co, người Gié Triêng, người Xê Đăng. Tỉnh có 142 km đường
biên giới giáp với nước bạn Lào và 125 km bờ biển; có trục Quốc lộ 1A, 07 tuyến Quốc lộ
khác và tuyến đường sắt Bắc - Nam qua địa phận; có cảng biển Kỳ Hà, sân bay Chu Lai và
nhiều tuyến sông phục vụ hoạt động vận tải. Toàn tỉnh có 18 huyện, thị xã, thành phố; trên
4.200 doanh nghiệp các loại (trong đó, có 2.500 doanh nghiệp trong 35 Cụm công nghiệp và
08 Khu công nghiệp đang hoạt động).
Tỉnh Quảng Nam có những điều kiện thuận lợi để phát triển kinh tế - xã hội như giao
thông đường bộ (QL1A), đường sắt, đường thủy, đường hàng không, nền kinh tế mũi nhọn
của tỉnh là thủy sản, nông nghiệp và du lịch (Hội An, Thánh địa Mỹ Sơn, Cù Lao Chàm). Chủ
trương của tỉnh là chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, với
chính sách mở cửa của Đảng và Nhà nước tỉnh Quảng Nam dã thu hút nhiều các dự án đầu tư
trong và ngoài nước, chủ động phát triển các khu vực ngành nghề, vùng kinh tế tạo công ăn
việc làm ổn định cho nhiều lao động tại tỉnh cũng như các địa phương khác, góp phần cải
thiện đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân, nâng cao thu nhập bình quân đầu người
hằng năm.
Bên cạnh những thuận lợi, cơ hội, tỉnh cũng gặp không ít những khó khăn, thách
thức, như: Điểm xuất phát của nền kinh tế, các nguồn lực cho tăng trưởng kinh tế còn hạn
chế, thường xuyên bị ảnh hưởng bởi thiên tai, lũ lụt, thời tiết khắc nghiệt, tình trạng người từ
nhiều nơi kéo về các khu công nghiệp trên địa bàn kéo theo những tệ nạn xã hội và phát sinh

7


những tiêu cực làm nảy sinh những mâu thuẫn, tranh chấp trong cộng đồng dân cư. Theo số
liệu thống kê của Tòa án nhân dân tỉnh từ năm 2013-2017, trên địa bàn tỉnh xảy ra 3821 vụ,
với 6272 bị cáo phạm tội hình sự, số vụ tăng từ 42,41% năm 2013 lên 45,25% trong năm
2017, số bị cáo tăng từ 42,97% năm 2013 lên 45,87% trong năm 2017. Qua đó cho thấy tình

hình tội phạm có xu hướng gia tăng hằng năm trong phạm vi toàn tỉnh với tính chất, mức độ
nguy hiểm của hành vi phạm tội ngày càng nghiêm trọng; phương thức, thủ đoạn tinh vi; hoạt
động ngày càng manh động và liều lĩnh. Trong đó, các tội XPSH có TCCĐ chiếm tỉ lệ cao
(đã phát hiện, xét xử 1729/3821 vụ án chiếm 45,25% tổng số vụ án với 2877/6272 bị cáo
phạm tội XPSH có TCCĐ chiếm 45,87% tổng số bị cáo mà Tòa án đã xét xử); chủ yếu là các
tội trộm cắp tài sản, cướp tài sản, lừa đảo chiếm đoạt tài sản...
Trước tình hình gia tăng của các tội phạm và đặc biệt là để triển khai có hiệu quả Chỉ
thị số 48/CT-TW của Bộ Chính trị về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác
phòng, chống tội phạm trong tình hình mới (2010), Quyết định 282 năm 2011 và Quyết định
số 623/QĐ-TTg ngày 14 tháng 4 năm 2016 của Thủ tướng chính phủ phê duyệt chiến lược
quốc gia phòng, chống tội phạm giai đoạn 2016-2025 và định hướng đến năm 2030, Tỉnh ủy
đã ban hành Chương trình hành động số 09- CTr/TU, ngày 15/3/2011 để chỉ đạo các tổ chức
Đảng, các ban ngành, đoàn thể, địa phương triển khai thực hiện Chỉ thị; Ủy ban nhân dân tỉnh
ban hành Kế hoạch số 1440/KH-UBND, ngày 26/4/2011 phân công trách nhiệm, hướng dẫn
các đơn vị, địa phương triển khai thực hiện Chỉ thị 48-CT/TW của Bộ Chính trị và Chương
trình hành động số 09-CTr/TU của Tỉnh ủy gắn với việc triển khai kế hoạch thực hiện các
Chương trình mục tiêu Quốc gia về phòng, chống tội phạm; phòng, chống ma túy. Song, do
nhiều nguyên nhân khác nhau mà tình hình tội XPSH có TCCĐ trên địa bàn vẫn không giảm,
thậm chí có một số tội phạm tiếp tục gia tăng, gây ảnh hưởng đến quyền sở hữu về tài sản của
các cá nhân, cơ quan, tổ chức; làm cho tình hình TTATXH hết sức phức tạp, tác động xấu đến
khả năng thu hút đầu tư và phát triển kinh tế. Bên cạnh đó, công tác đấu tranh phòng, chống
loại tội phạm này của các cơ quan chức năng còn có nhiều bất cập, chưa có sự phối hợp chặt
chẽ, sự hỗ trợ của quần chúng nhân dân còn chưa tích cực, nên hiệu quả công tác phòng,
chống tội XPSH có TCCĐ trên địa bàn tỉnh Quảng Nam còn nhiều hạn chế.

8


Để đấu tranh phòng, chống có hiệu quả với tình hình tội XPSH có TCCĐ cần nhận
thức một cách đúng đắn, sâu sắc, nghiên cứu làm rõ nhân thân người phạm tội XPSH có

TCCĐ nhằm xác định nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội phạm, từ đó có thể xây
dựng các biện pháp phòng ngừa hữu hiệu tình hình tội XPSH có TCCĐ nói riêng và tình hình
tội phạm nói chung; giúp cho việc định tội, định khung, quyết định hình phạt một cách chính
xác; đề ra các biện pháp giáo dục, cải tạo hiệu quả đối với người phạm tội. Yêu cầu đấu tranh
phòng, chống tội XPSH có TCCĐ đòi hỏi phải nghiên cứu làm rõ nhân thân người phạm tội
XPSH có TCCĐ, bởi nghiên cứu nhân thân người phạm tội không chỉ giúp nhận thức rõ tình
hình tội phạm mà còn giúp xác định rõ nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội phạm, từ
đó có các biện pháp hữu hiệu để phòng, chống tội phạm. Nhằm hoàn thiện hệ thống lý luận
về nhân thân người phạm tội XPSH có TCCĐ, cũng như phục vụ công tác đấu tranh phòng,
chống tội phạm này trên địa bàn tỉnh Quảng Nam, tác giả đã lựa chọn đề tài: “Nhân thân
người phạm tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt trên địa bàn tỉnh Quảng Nam ”
làm đề tài luận văn thạc sỹ.

2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Việc nghiên cứu nhân thân người phạm tội XPSH có TCCĐ đã được đề cập trong một
số công trình nghiên cứu luật học về nhân thân người phạm tội tiêu biểu như:
2.1. Nhóm công trình nghiên cứu nhân thân người phạm tội từ cách tiếp cận của
khoa học Luật Hình sự
- Luận án Tiến sĩ luật học: Nhân thân người phạm tội trong trong luật hình sự Việt
Nam của Nguyễn Thị Thanh Thủy, năm 2005;
-

Luận văn Thạc sĩ luật học: ”Nhân thân người phạm tội theo pháp luật hình sự

Việt Nam từ thực tiễn quận Thanh Khê, thành phố Đà Nang” của tác giả Lưu Thị Hằng, Học
viện Khoa học xã hội 2017;
-

Bài viết: “Nhân thân người phạm tội: Một số vấn đề lý luận cơ bản" của tác


giả GS.TS. Lê Cảm, Tạp chí Toà án, số 10/2001, tr.7-11 và Số 11/2001, tr. 5-8;
- Bài viết: “Nhân thân bị can và một số khái niệm kề cận" của tác giả TS. Bùi Kiên
Điện, Tạp chí Luật học, số 6/2001, tr. 14-18;

9


-

Bài viết: “Một số vấn đề về nhân thân người phạm tội"" của tác giả Nguyễn

Thị Thanh Thuỷ, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 5/2001, tr. 46-53;
- Bài viết: “Nhân thân người phạm tội với việc quy trách nhiệm hình sự"" của tác
giả Nguyễn Thị Thanh Thuỷ, Tạp chí Toà án, số 8/2001, tr. 2-7;
- Bài viết: “Nhân thân người phạm tội một căn cứ để quyết định hình phạt" của tác
giả Trần Văn Sơn, Tạp chí Luật học, số 1/1997, tr. 41-43;
- Bài viết: “Nhân thân người phạm tội một căn cứ cần cân nhắc khi quyết định hình
phạt"" của tác giả Trịnh Tiến Việt, Tạp chí Kiểm sát, số 1/2003, tr. 21-23;
- Bài viết: “Cần có biện pháp để thống nhất khi áp dụng tình tiết đã bị xử phạt hành
chính trong Bộ luật hình sự" của tác giả Lê Đức Tùng, Tạp chí Kiểm sát, số 5/2005, tr. 3436;
- Bài viết: “Vấn đề nhân thân người phạm tội trong thực tiễn quyết định hình phạt"
của tác giả Nguyễn Thị Thanh Thuỷ, Tạp chí Toà án nhân dân, số 19/2005, tr. 3-9;
- Bài viết: “ Vấn đề nhân thân người phạm tội trong thực tiễn truy cứu trách nhiệm
hình sự" của tác giả Nguyễn Thị Thanh Thuỷ, Tạp chí Kiểm sát, số 17/2005, tr. 32-35;
- Bài viết: “Các tình tiết định khung tăng nặng trong tội giết người phản ánh mức
độ lỗi và các đặc điểm về nhân thân người phạm tội"" của tác giả Đỗ Đức Hồng Hà, Tạp chí
Toà án nhân dân, số 18/2005, tr. 17- 20;
- Bài viết: “Các trường hợp loại trừ trách nhiệm hình sự liên quan đến nhân thân
người phạm tội"" của tác giả Đinh Văn Quế, Tạp chí Toà án, số 13/2009, tr. 2327 và số 14,tr.
19-28;

2.2. Nhóm công trình nghiên cứu nhân thân người phạm tội từ cách tiếp
cận của Tội phạm học
Trong nhóm này, trước hết cần phải kể đến các công trình khoa học tạo nền tảng nhận
thức lí luận của Tội phạm học. Thuộc nhóm này có các công trình tiêu biểu sau đây:
- Tội phạm học, Luật Hình sự và Luật Tố tụng Hình sự Việt Nam, Nxb. Chính trị
quốc gia, 1994;
- Giáo trình tội phạm học, do GS.TS Võ Khánh Vinh chủ biên, Đại học Huế - Trung
tâm đào tạo từ xa, năm 2011;

1
0


- Tội phạm học Việt Nam một số vấn đề lý luận và thực tiễn, của Tập thể tác giả,
Viện nghiên cứu nhà nước và pháp luật, năm 2000;
- Tội phạm học hiện đại và phòng ngừa tội phạm - Sách chuyên khảo của GS.TS
Nguyễn Xuân Yêm, Nxb. Công an nhân dân, năm 2001.
- Giáo trình Tội phạm học Việt Nam do GS.TS. Trần Đại Quang chỉ đạo biên soạn
Nxb. Công an nhân dân, năm 2013.
- Giáo trình Luật hình sự Việt Nam (Phần các tội phạm) của GS.TS. Võ Khánh Vinh,
Chương - Các tội xâm phạm sở hữu có tính chiếm đoạt, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội
2010;
- Giáo trình Tội phạm học của trường Đại học Luật Hà Nội, Nxb. Công an nhân dân,
2004.. .2010;
- Giáo trình Tội phạm học của Học viện Cảnh sát nhân dân, Nxb. Công an nhân dân,
2002, 2013;
- Một số vấn đề lý luận về tình hình tội phạm ở Việt Nam của TS. Phạm Văn Tỉnh,
Nxb. Công an nhân dân, 2007;
Bên cạnh các công trình khoa học nêu trên, còn có nhiều công trình nghiên cứu về
nhân thân người phạm tội của một tội, một nhóm tội trên địa bàn một tỉnh, thành hay cả

nước. Thuộc nhóm này có các công trình sau:
- Luận văn Thạc sĩ luật học: Nhân thân người phạm tội hiếp dâm trẻ em trên địa bàn
tỉnh Bình Phước của Nguyễn Thanh Tuấn (2017), Học viện khoa học xã hội;
-Luận văn Thạc sĩ luật học: Nhân thân người phạm tội cướp giật tài sản trên địa bàn
thành phố Hồ Chí Minh của Lê Ngô Phương Thanh (2017), Học viện khoa học xã hội;
-Luận văn Thạc sĩ luật học: Nhân thân người phạm tội cướp giật tài sản trên địa bàn
quận Bình Tân, thành phố Hồ Chí Minh của Phan Thị Phương Thảo (2017), Học viện khoa
học xã hội;
- Luận văn Thạc sĩ luật học: Nhân thân người phạm tội cố ý gây thương tích hoặc
gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh của Nguyễn
Xuân Bá (2017), Học viện khoa học xã hội;

11


- Luận văn Thạc sĩ luật học: Nhân thân người phạm tội cướp tài sản trên địa bàn
thành phố Hồ Chí Minh của Lê Đình Toàn (2017), Học viện khoa học xã hội;
- Luận văn Thạc sĩ luật học: Nhân thân người thực hiện các tội xâm phạm tình dục
trên địa bàn tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu của Bùi Ai Giôn (2017), Học viện khoa học xã hội;
- Luận văn Thạc sĩ luật học: Nhân thân người phạm tội giết người trên địa bàn thành
phố Hồ Chí Minh của Phan Ái nhi (2016), Học viện khoa học xã hội;
- Luận văn Thạc sĩ luật học: Nhân thân người phạm tội XPSH trên địa bàn tỉnh Kiên
Giang của Hồ Thanh Lam (2016), Học viện khoa học xã hội;
- Luận văn Thạc sĩ luật học: Phòng ngừa tội phạm cướp tài sản trên địa bàn tỉnh
Vĩnh Long từ góc độ nhân thân người phạm tội của Nguyễn Chí Công (2013), Đại học Luật
thành phố Hồ Chí Minh;
- Luận văn Thạc sĩ luật học: Nhân thân người phạm tội trên địa bàn Quận 7, thành
phố Hồ Chí Minh của Phạm Uyên Thy (2015), Học viện khoa học xã hội;
- Luận văn Thạc sĩ luật học: Đặc điểm nhân thân người phạm tội hiếp dâm trẻ em
trên địa bàn tỉnh Đồng Nai dưới góc độ tội phạm học của Ngô Minh Hải (2015), Đại học

Luật thành phố Hồ Chí Minh;
- Bài viết: “Một số đặc điểm chú ý về nhân thân của người phạm tội về ma tuý ở Việt
Nam’" của tác giả Nguyễn Tuyết Mai, Tạp chí Luật học, số 11/2006, tr. 32-37;
- Bài viết: “Một số vấn đề nhân thân người phạm tội” của tác giả Nguyễn
Quang Hạnh, Tạp chí Nghề luật, số 1/2013, tr. 52-57;
- Bài viết: “Đặc điểm nhân thân người phạm tội và phương thức thực hiện tội trộm
cắp tài sản trên địa bàn tỉnh Gia Lai” của tác giả Lê Văn Định, Tạp chí Kiểm sát, số 6/2015,
tr. 47-53
* Đánh giá chung:
Các công trình nghiên cứu nói trên đã phân tích làm rõ nhân thân người phạm tội ở
những góc độ khác nhau, dưới những cách tiếp cận khác nhau. Có những công trình nghiên
cứu làm rõ vai trò của nhân thân người phạm tội trong định tội danh, quyết định hình phạt,
trong áp dụng các quy định về loại trừ trách nhiệm hình sự. Có công trình nghiên cứu đặc
điểm nhân thân người phạm tội của một loại tội phạm cụ thể hay của một nhóm tội như tội

1
2


giết người, tội trộm cắp tài sản, nhóm tội phạm về ma tuý... Có công trình nghiên cứu về
nhân thân người phạm tội nói chung hoặc có công trình nghiên cứu về nhân thân người phạm
một tội, một nhóm tội trên một địa bàn nhất định, như Thành phố Hồ Chí Minh, Tỉnh Bà RịaVũng Tàu, tỉnh Đồng Nai, tỉnh Kiên Giang.
Kết quả nghiên cứu của các công trình trên đây là những kiến thức nền tảng quan
trọng mà tác giả sẽ kế thừa có chọn lọc trong quá trình nghiên cứu đề tài của mình. Tuy
nhiên, cho đến nay vẫn chưa có công trình nghiên cứu nào nghiên cứu về nhân thân người
phạm tội XPSH có TCCĐ từ thực tiễn tỉnh Quảng Nam. Vì vậy, trên cơ sở kế thừa những tri
thức lý luận nền tảng, cũng như những tri thức về nhân thân người phạm tội trong các công
trình nghiên cứu mà mình tiếp cận được, tác giả sẽ vận dụng để nghiên cứu về nhân thân
người phạm tội XPSH có TCCĐ trên địa bàn tỉnh Quảng Nam giai đoạn 2013 - 2017.


3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở làm rõ những đặc điểm nhân thân người phạm tội XPSH có TCCĐ xảy ra
trên địa bàn tỉnh Quảng Nam, nghiên cứu phân tích các yếu tố tác động đến sự hình thành các
đặc điểm nhân thân xấu ở người phạm tội, luận văn hướng đến mục đích đề xuất các giải
pháp tăng cường phòng ngừa tình hình tội XPSH có TCCĐ trên
địa bàn tỉnh Quảng Nam từ khía cạnh nhân thân người phạm tội.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục tiêu nêu trên, đề tài đi sâu giải quyết các nhiệm vụ cơ bản sau đây:
- Thứ nhất, nghiên cứu làm rõ những vấn đề lý luận về nhân thân người phạm tội
XPSH có TCCĐ;
- Thứ hai, nghiên cứu phân tích làm rõ các đặc điểm nhân thân người phạm tội
XPSH có TCCĐ và các yếu tố tác động đến sự hình thành nhân thân người phạm tội XPSH
có TCCĐ trên địa bàn tỉnh Quảng Nam giai đoạn 2013- 2017;
- Thứ ba, kiến nghị các giải pháp tăng cường phòng ngừa các tội XPSH có TCCĐ
trên địa bàn tỉnh Quảng Nam từ khía cạnh nhân thân người phạm tội.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu

13


Đối tượng nghiên cứu của đề tài là những vấn đề lí luận và thực tiễn nhân thân người
phạm tội XPSH có TCCĐ trên địa bàn tỉnh Quảng Nam giai đoạn 20132017. Để nghiên cứu
về nhân thân người phạm tội XPSH có TCCĐ trên địa bàn tỉnh Quảng Nam, tác giả dựa trên
các số liệu thống kê xét xử hình sự của Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Nam giai đoạn 2013 2017 được thu thập một cách ngẫu nhiên và tiến hành thực hiện 300 phiếu điều tra xã hội học
nhằm đánh giá mức độ của môi trường giáo dục tại tỉnh Quảng Nam đối với sự hình thành
nhân thân người phạm tội XPSH có TCCĐ.
4.2. Phạm vi nghiên cứu

- Pham vi vê không gian: Đề tài nghiên cứu nhân thân người phạm tội XPSH có
TCCĐ dưới góc độ tội phạm học và phòng ngừa tội phạm trên địa bàn tỉnh Quảng Nam.
- Pham vi vê thơi gian: Tư năm 2013 đên năm 2017.
- Phạm vi về tội danh: Đề tài chỉ nghiên cứu các tội về XPSH có TCCĐ quy định tại
chương XIVcủa BLHS 1999, gồm Tội cướp tài sản (Điều 133), Tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt
tài sản (Điều 134), Tội cưỡng đoạt tài sản (Điều 135), Tội cướp giật tài sản (Điều 136), Tội
công nhiên chiếm đoạt tài sản (Điều 137), Tội trộm cắp tài sản (Điều 138), Tội lừa đảo chiếm
đoạt tài sản (Điều 139), Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản (Điều 140).
Mặc dù BLHS 2015, sửa đổi năm 2017 đã có hiệu lực pháp luật, tuy nhiên, trong luận
văn, tác giả nghiên cứu nhân thân người phạm tội giai đoạn 2013—2017, mà trong giai đoạn
này, các hành vi phạm tội được giải quyết dựa trên các quy định của BLHS 1999. Chính vì
vậy, trong luận văn, tác giả chủ yếu dựa trên quy định của BLHS 1999, có so sánh ở mức độ
cần thiết với quy định của BLHS 2015.

5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận
Đề tài nghiên cứu dựa trên cơ sở phép biện chứng duy vật của chủ nghĩa Mác-Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh và các quan điểm của Đảng, pháp luật của Nhà nước về đấu tranh
phòng, chống tội phạm, bảo vệ an ninh quốc gia và giữ gìn TTATXH; các tri thức khoa học
pháp lý của tội phạm học, pháp luật hình sự, khoa học điều tra hình sự.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu đặc thù của tội phạm học, cụ thể:

1
4


- Phương pháp nghiên cứu lý luận, phân tích, so sánh, bình luận... được sử dụng để
làm rõ những vấn đề lý luận chung về nhân thân người phạm tội XPSH có TCCĐ.
- Phương pháp nghiên cứu lý luận, phân tích, quy nạp, hệ thống, diễn dịch, thống kê,

đối chiếu, suy luận logic, nghiên cứu bản án, điều tra xã hội học. được sử dụng để làm rõ các
đặc điểm nhân thân người phạm tội XPSH có TCCĐ và các yếu tố tác động đến sự hình
thành nhân thân người phạm tội XPSH có TCCĐ trên địa bàn tỉnh Quảng Nam giai đoạn
2013 - 2017.
- Phương pháp tổng kết kinh nghiệm, phân tích, suy luận logic... được sử dụng để
nhằm đưa ra kiến nghị việc hoàn thiện các giải pháp phòng ngừa tình hình tội XPSH có
TCCĐ từ góc độ nhân thân người phạm tội.
Để có thêm chất liệu nghiên cứu, tác giả đã sử dụng phương pháp điều tra xã hội học
bằng phiếu hỏi với mục đích để khảo sát, tìm hiểu quan điểm của phụ huynh đối với sự giáo
dục của nhà trường đối với con em họ. Tác giả đã thực hiện 300 phiếu điều tra. Kết quả khảo
sát được tác giả sử dụng trong các nội dung của luận văn.

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn, yếu tố mới cần đạt được
6.1. Ý nghĩa lý luận của đề tài
Kết quả nghiên cứu của đề tài sẽ góp phần bổ sung, hoàn thiện lý luận tội phạm học
nói chung và lý luận phòng, chống tội XPSH có TCCĐ nói riêng, đông thơi dùng làm tài liệu
tham khao trong nghiên cứu, học tập của các cơ sở đào tạo luật.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn của đề tài
Kết quả nghiên cứu của đề tài co thê được vận dụng vào thực tiễn công tác phòng,
chống tội phạm nói chung và tội XPSH có TCCĐ nói riêng trên địa bàn tỉnh Quảng Nam
trong thời gian tới.
- Những điểm mới của đề tài: Luận văn là công trình khoa học đầu tiên đi sâu nghiên
cứu nhân thân người phạm tội XPSH có TCCĐ từ thực tiễn tỉnh Quảng Nam giai đoạn 2013 2017, làm rõ các đặc điểm nhân thân người phạm tội XPSH có TCCĐ và các yếu tố tác động
đến sự hình thành nhân thân người phạm tội XPSH có TCCĐ trên địa bàn tỉnh Quảng Nam
một cách có hệ thống, toàn diện và sâu sắc, từ đó đưa ra một số giải pháp có tính khả thi
nhằm tăng cường đấu tranh phòng, chống tội XPSH có TCCĐ trên địa bàn tỉnh Quảng Nam.

15



7. Cơ cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, nội dung của
luận văn được cấu trúc thành ba chương:
Chương 1. Những vấn đề lý luận về nhân thân người phạm tội XPSH có TCCĐ.
Chương 2. Thực tiễn nhân thân người phạm tội XPSH có TCCĐ trên địa bàn tỉnh
Quảng Nam.
Chương 3. Các giải pháp tăng cường phòng ngừa tình hình các tội XPSH có TCCĐ từ
góc độ nhân thân nhân thân người phạm tội tại tỉnh Quảng Nam.

Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ NHÂN THÂN NGƯỜI PHẠM TỘI
XÂM PHẠM SỞ HỮU CÓ TÍNH CHẤT CHIẾM ĐOẠT
1.1. Khái niệm, ý nghĩa nhân thân người phạm tội XPSH có TCCĐ
1.1.1. Khái niệm tộiXPSH có TCCĐ
Các tội XPSH được quy định tại chương XXIV Bộ luật Hình sự năm 1999 đã được
sửa đổi, bổ sung năm 2009, gồm 13 tội được quy định từ điều 133 đến điều 145. Đó là các
tội: Tội cướp tài sản (Điều 133); Tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản (Điều 134); Tội cưỡng
đoạt tài sản (Điều 135); Tội cướp giật tài sản (Điều 136); Tội công nhiên chiếm đoạt tài sản
(Điều 137); Tội trộm cắp tài sản (Điều 138); Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản (điều 139); Tội
lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản (Điều 140); Tội chiếm giữ trái phép tài sản (Điều
141); Tội sử dụng trái phép tài sản (Điều 142); Tội huỷ hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản
(Điều 143); Tội thiếu trách nhiệm gây thiệt hại nghiêm trọng đến tài sản của Nhà nước (Điều
144); Tội vô ý gây thiệt hại nghiêm trọng đến tài sản (Điều 145).
Căn cứ vào mục đích phạm tội, khoa học luật hình sự chia các tội XPSH thành nhóm
các tội có mục đích tư lợi bao gồm 10 tội từ điều 133 đến điều 142 BLHS 1999 và nhóm các
tội không có mục đích tư lợi từ điều 143 đến điều 145. Đối với nhóm các tội có mục đích tư
lợi, dựa vào dấu hiệu chiếm đoạt, chúng lại được chia nhỏ ra thành nhóm có TCCĐ bao gồm
8 tội từ điều 133 đến điều 140 và nhóm không có TCCĐ gồm các điều 141, 142 BLHS 1999
[15, tr.49].


1
6


Trong phạm vi nghiên cứu của luận văn, Tác giả tập trung vào nhóm tội phạm XPSH
có TCCĐ (gồm 8 tội). Cụ thể:
- Tội cướp tài sản (Điều 133);
- Tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản (Điều 134);
- Tội cưỡng đoạt tài sản (Điều 135);
- Tội cướp giật tài sản (Điều 136);
- Tội công nhiên chiếm đoạt tài sản (Điều 137);
- Tội trộm cắp tài sản (Điều 138);
- Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản (Điều 139);
- Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản (Điều 140).
Trong nhóm các tội phạm này, mặc dù có nhiều tội danh khác nhau, nhưng chúng đều
có một đặc điểm chung, đó là luôn luôn có hành vi chiếm đoạt. Bởi vậy, để đảm bảo tính
thống nhất trong quá trình nghiên cứu, cần làm sáng tỏ khái niệm “chiếm đoạt”.
Khi nghiên cứu khái niệm chiếm đoạt, có thể thấy các dấu hiệu sau:
+ Hành vi chiếm đoạt xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản.
+ Bản chất của hành vi chiếm đoạt thể hiện ở chỗ, người phạm tội cố ý chiếm lấy,
không hoàn trả lại tài sản của người khác (của nhà nước, của công dân) biến tài sản đó thành
tài sản của mình hoặc chuyển giao cho người khác. [15, tr.54]
Theo đó, về phương diện khách quan của hành vi chiếm đoạt có các đặc điểm: Tính
bất hợp pháp; không hoàn trả lại; biến tài sản chiếm đoạt được thành tài sản của mình hoặc
của người khác; gây thiệt hại cho chủ sở hữu; hình thức chiếm đoạt quy định cụ thể trong
điều luật như: Cướp tài sản, cướp giật, trộm cắp tài sản, lừa đảo chiếm đoạt tài sản, lạm dụng
tín nhiệm chiếm đoạt tài sản.
Hành vi chiếm đoạt bao giờ cũng là bất hợp pháp, tức là người phạm tội không có cơ
sở pháp lý để lấy tài sản của người khác. Sau khi chiếm đoạt được tài sản, người phạm tội
biến tài sản đó thành tài sản của mình hoặc chuyển cho người khác. Hành vi chiếm đoạt làm

cho chủ tài sản mất khả năng thực hiện quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt đối với tài sản.
Hành vi chiếm đoạt dù thực hiện bằng hình thức nào đều gây ra thiệt hại vật chất cho chủ sở
hữu, thiệt hại đó biểu hiện dưới dạng mất mát, hao mòn, hao hụt, làm giảm bớt giá trị tài

17


sản... Vì vậy, gây thiệt hại là dấu hiệu đặc trưng của hành vi chiếm đoạt và hành vi chiếm
đoạt được coi là hoàn thành khi gây ra thiệt hại vật chất. Tuy nhiên, trong một số trường hợp
chiếm đoạt tuy chưa gây ra thiệt hại vật chất nhưng cũng được coi là hoàn thành (như tội
cướp tài sản, cướp giật tài sản, bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản...).
+ Hành vi chiếm đoạt bao giờ cũng được thực hiện do lỗi cố ý trực tiếp, tức là người
phạm tội nhận thức được hành vi của mình là trái pháp luật, nhưng vì động cơ vụ lợi mà lấy
tài sản của người khác, ở đây có thể thấy động cơ và mục đích vụ lợi là dấu hiệu đặc trưng
của hành vi chiếm đoạt.
Như vậy, từ sự phân tích trên, tác giả rút ra kết luận: chiếm đoạt là chiếm lấy không
hoàn lại một cách trái phép tài sản của người khác và biến nó thành của mình hoặc chuyển
cho người khác bằng hình thức khác nhau được quy định trong luật với mục đích vụ lợi.
Từ những vấn đề đã nêu ở trên cùng với việc nghiên cứu các loại giáo trình, tài liệu,
tác giả cho rằng: Tội phạm XPSH có TCCĐ là những hành vi nguy hiểm cho xã hội, được
quy định trong Bộ luật hình sự, do người có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện một cách
cố ý, xâm phạm đến quan hệ sở hữu mà trong cấu thành tội phạm của những tội phạm này có
yếu tố chiếm đoạt.
1.1.2. Khái niệm nhân thân người phạm tội XPSH có TCCĐ
Con người sống trong xã hội luôn luôn tồn tại những mối quan hệ kinh tế-xã hội nhất
định. C.Mác đã khẳng định: “Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hoà
những quan hệ xã hội” [8, tr.11].
Tự nhiên và xã hội thống nhất với nhau trong bản chất con người. C.Mác đã chỉ rõ
vai trò của xã hội đối với sự hình thành cá nhân và vai trò của cá nhân đối với sự hình thành
xã hội “Bản thân xã hội sản xuất ra con người với tính cách là con người như thế nào thì nó

cũng sản xuất ra xã hội như thế” [9, tr,169]. Như vậy, đời sống sinh hoạt, kinh nghiệm sống
của cá nhân được quy định bởi nội dung của các quan hệ xã hội cụ thể hình thành trong gia
đình, môi trường, bạn bè trong lao động hay học tập. Tất cả các yếu tố đó đều có ảnh hưởng
đến quá trình hình thành nhân thân của con người.
Tội phạm là một hiện tượng tiêu cực nhất trong xã hội, xuất hiện cùng với sự ra đời
của Nhà nước và pháp luật, cũng như khi xã hội phân chia thành giai cấp đối kháng. Để quản

1
8


lí xã hội, giữ gìn an ninh, trật tự, an toàn xã hội, Nhà nước đã quy định những hành vi nguy
hiểm cho xã hội là tội phạm và áp dụng trách nhiệm hình sự đối với người nào thực hiện các
hành vi đó, nên tội phạm mang bản chất là một hiện tượng pháp lý. "Đối tượng nghiên cứu
của tội phạm học là con người phạm tội chứ không phải là con người nói chung. Người
phạm tội là người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội mà luật hình sự quy định là tội
phạm” [44, tr. 149]. Như vậy, khi nghiên cứu nhân thân người phạm tội chính là nghiên cứu
con người phạm tội cụ thể.
Nhân thân con người là sự tổng hợp những đặc điểm, dấu hiệu, phản ánh bản chất của
mỗi con người trong các mối quan hệ xã hội của họ, bao gồm: các đặc điểm, dấu hiệu về xã
hội, nhân khẩu học như giới tính, tuổi, trình độ văn hóa, địa vị xã hội, nghề nghiệp, hoàn
cảnh gia đình, nơi sinh sống, hoàn cảnh kinh tế, các đặc điểm, dấu hiệu về tâm lý như quan
điểm, nhu cầu, sở thích, thói quen, lý trí, cảm xúc,.. các đặc điểm, dấu hiệu, mối quan hệ xã
hội khác [52, tr.130].
Dưới góc độ tội phạm học, nhân thân người phạm tội bao gồm toàn bộ các đặc điểm
tâm, sinh lý. Các đặc điểm tâm, sinh lý phụ thuộc vào những điều kiện sống, của sự giáo dục,
của những mối quan hệ... nhất định. Chính các đặc điểm đó dưới sự tác động của các điều
kiện và hoàn cảnh bên ngoài, của tình huống cụ thể, tạo thành động lực thúc đẩy việc thực
hiện tội phạm.
Như vậy, nhân thân người phạm tội là tổng hợp những đặc điểm, dấu hiệu thể hiện

bản chất xã hội của con người và các đặc điểm, dấu hiệu này kết hợp với các điều kiện, hoàn
cảnh nhất định đã dẫn đến con người đó thực hiện hành vi phạm tội [52, tr.131].
Từ khái niệm nhân thân người phạm tội và tội phạm XPSH có TCCĐ ở trên, tác giả
đưa ra định nghĩa nhân thân người phạm tội XPSH có TCCĐ như sau:
Nhân thân người phạm tội XPSH có TCCĐ là tổng hợp những đặc điểm, dấu hiệu thể
hiện bản chất xã hội của con người và các đặc điểm, dấu hiệu này kết hợp với các điều kiện,
hoàn cảnh nhất định đã dẫn đến người đó thực hiện hành vi phạm tội xâm phạm đến quan hệ
sở hữu mà trong cấu thành tội phạm của những tội phạm này có yếu tố chiếm đoạt.
1.1.3. Ý nghĩa của việc nghiên cứu nhân thân người phạm tội XPSH có
TCCĐ

19


Tội phạm học nghiên cứu nhân thân người phạm tội XPSH có TCCĐ với các ý nghĩa
sau:
Thứ nhất, Nghiên cứu nhân thân người phạm các tội XPSH có TCCĐ giúp cho việc
định tội, định khung và quyết định hình phạt một cách chính xác.
Theo khoa học Luật hình sự: "Nhân thân người phạm tội không phải là yếu tố bắt
buộc cấu thành tội phạm nhưng trong quá trình đánh giá tính chất nguy hiểm của hành vi
phạm tội và xác định trách nhiệm pháp lý của người phạm tội đó thì cần phải xem xét những
đặc điểm, dấu hiệu về nhân thân của người phạm tội được cân nhắc để giải quyết những vấn
đề của trách nhiệm hình sự (cá thể hóa hình phạt, miễn trách nhiệm hình sự, miễn và giảm
hình phạt' [51, tr.194]. Như vậy, nhân thân người phạm tội tuy không phải là một trong
những yếu tố cấu thành tội phạm nhưng các đặc điểm của nhân thân người phạm tội có ý
nghĩa quan trọng trong việc xác định các vấn đề: Truy cứu trách nhiệm hình sự, định tội danh
hoặc định khung hình phạt, quyết định hình phạt.. .Chính vì vậy, pháp luật tố tụng hình sự
quy định, các đặc điểm nhân thân người phạm tội phải được các cơ quan tiến hành tố tụng
thu thập đầy đủ trong hồ sơ vụ án và phải được thể hiện trong bản Kết luận điều tra của Cơ
quan điều tra, bản Cáo trạng của Viện kiểm sát và Bản án của Tòa án.

Các đặc điểm nhân thân người phạm tội XPSH có TCCĐ có ý nghĩa trong việc định
tội và định khung hình phạt đối với các tội XPSH có TCCĐ, như: Động cơ và mục đích tư
lợi, có TCCĐ là yếu tố định tội của các tội XPSH có TCCĐ tại Chương XIV của Bộ luật hình
sự 1999; đặc điểm “tái phạm nguy hiểm” được quy định là yếu tố định khung của tất cả các
tội XPSH có TCCĐ (điểm c khoản 2 của Điều 133, Điều 134, Điều 135, Điều 136, Điều 137,
Điều 138, Điều 139; điểm đ khoản 2 Điều 140 của BLHS); đặc điểm “tái phạm tội” là yếu tố
định tội được quy định tại khoản 1 của Điều 137, Điều 138, Điều 139, Điều 140 của BLHS;
đặc điểm nghề nghiệp là yếu tố định khung tại khoản 2 của Điều 139, Điều 140.
Giữa hành vi phạm tội XPSH có TCCĐ đã thực hiện và con người đã thực hiện có
mối quan hệ với nhau nên nghiên cứu, xem xét nhân thân người phạm tội XPSH có TCCĐ
giúp Tòa án đánh giá đúng mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội từ đó giúp cho
việc định tội, định khung và quyết định hình phạt một cách chính xác.

2
0


Đặc biệt, việc nghiên cứu nhân thân người phạm tội XPSH có TCCĐ có ý nghĩa quan
trọng trong việc quyết định hình phạt. Qua nghiên cứu nhân thân người phạm tội XPSH có
TCCĐ không chỉ đánh giá được khả năng giáo dục cải tạo của người phạm tội mà còn giúp
đánh giá được tính chất mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội để có hình phạt phù hợp.
Cùng một hành vi nhưng ở người này là biểu hiện ngẫu nhiên đột xuất nhưng ở người khác là
hành vi có tính toán, có ý thức sâu sắc biểu hiện bản chất của người pham tội. Hành vi và con
người luôn có quan hệ với nhau cho nên tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội
cũng phụ thuộc vào tính chất của con người.
Chính vì vậy, luật cũng có quy định coi tình tiết thuộc về nhân thân của người phạm
tội là những tình tiết tăng nặng hoặc giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. Ví dụ: Khi xem xét nhân
thân người phạm tội XPSH có TCCĐ của A cho thấy A tuy chưa bị kết án, chưa bị xử lý vi
phạm hành chính, nhưng luôn có hành vi gây rối trật tự công cộng, không có công ăn việc
làm...Khi xem xét nhân thân người phạm tội XPSH có TCCĐ của B cho thấy B cũng chưa bị

kết án, chưa bị xử lý vi phạm hành chính, nhưng không có bất kỳ hành vi vi phạm pháp luật
nào, có công ăn, việc làm ổn định, luôn chấp hành tốt các nghĩa vụ công dân... Cân nhắc nhân
thân người phạm tội XPSH có TCCĐ của A và của B cho thấy nhân thân của A xấu hơn nhân
thân của B, do đó, việc quyết định hình phạt đối với A phải nặng hơn đối với B, nếu các tình
tiết khác của vụ án như nhau.
Ngoài ra, việc nghiên cứu nhân thân người phạm tội XPSH có TCCĐ có vai trò rất
lớn trong việc làm sáng tỏ động cơ, mục đích của người phạm tội. Ví dụ: A thất nghiệp, lúc
nào cũng thiếu tiền tiêu nên đã đi trộm cắp và B có công ăn việc làm đàng hoàng nhưng cũng
đi trộm cắp. Vậy động cơ, mục đích của A và B là không giống nhau. Đây cũng chính là tình
tiết quan trọng để cơ quan điều tra xác định đúng phương hướng điều tra, phá án và quyết
định hình phạt.
Thứ hai, nghiên cứu làm rõ nhân thân người phạm tội XPSH có TCCĐ, giúp xác định
nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội XPSH có TCCĐ, đặc biệt là nhóm nguyên nhân
và điều kiện từ phía người phạm tội.

21


Nguyên nhân và điều kiện của tội phạm XPSH có TCCĐ là sự tác động qua lại giữa
các đặc điểm cá nhân của người phạm tội và những tình huống hoàn cảnh khách quan bên
ngoài dẫn đến việc thực hiện hành vi phạm tội XPSH có TCCĐ.
“ Việc phân tích các nguyên nhân và điều kiện của tội phạm cụ thể chỉ ra rằng không
thể nhận thức, hiểu biết được các nguyên nhân và điều kiện đó nếu thiếu việc cân nhắc nhân
thân người phạm tộp [52, tr.127]. Như vậy, Việc nhận thức, phân tích các nguyên nhân và
điều kiện của tình hình tội XPSH có TCCĐ không thể thiếu việc nghiên cứu nhân thân người
phạm tội XPSH có TCCĐ bản chất, các đặc điểm và quá trình hình thành nó.
Bằng những nghiên cứu tổng quát về nhân thân người phạm tội XPSH có TCCĐ và
những số liệu về các loại tội XPSH có TCCĐ góp phần làm rõ những tác động tiêu cực của
môi trường gia đình, nhà trường, môi trường kinh tế, văn hóa, xã hội vĩ mô đến sự hình thành
các đặc điểm nhân thân tiêu cực của người phạm tội XPSH có TCCĐ. Nghiên cứu cụ thể về

các đặc điểm và những yếu tố tác động đến quá trình hình thành các đặc điểm tiêu cực của
nhân thân người phạm tội XPSH có TCCĐ sẽ cho thấy rõ những nguyên nhân và điều kiện
làm phát sinh hành vi phạm tội XPSH có TCCĐ, đặc biệt là nhóm nguyên nhân và điều kiện
từ phía người phạm tội.
Thứ ba, nghiên cứu làm rõ nhân thân người phạm tội XPSH có TCCĐ, giúp đề ra
các biện pháp phòng ngừa tội XPSH có TCCĐ nói riêng và tội phạm nói chung.
Trong hoạt động phòng ngừa tội phạm XPSH có TCCĐ, những kết quả nghiên cứu
về nhân thân người phạm tội XPSH có TCCĐ sẽ cho chúng ta cơ sở để áp dụng các biện
pháp phòng ngừa thích hợp. Biện pháp phòng ngừa chung trong từng lĩnh vực, địa bàn, đối
với từng loại người nhất định được tiến hành trên cơ sở nghiên cứu về nhân thân người phạm
tội nói chung và nhân thân của những người phạm tội có sự giống nhau về loại tội phạm được
thực hiện hoặc theo nội dung của những đặc điểm có ý nghĩa trong nhân thân người phạm tội.
Từ đó có thể dự đoán được những thay đổi của các điều kiện khách quan biến động thế nào,
tác động đến sự hình thành nhân thân ra sao trong tương lai. Trên cơ sở đó có thể đưa ra dự
báo về tình hình tội phạm XPSH có TCCĐ xảy ra trong tương lai, từ đó có thể đề xuất được
các biện pháp phòng ngừa các tội XPSH có TCCĐ phù hợp, qua đó góp phần hạn chế hay

2
2


loại trừ sự hình thành các đặc điểm nhân thân tiêu cực của con người, góp phần quan trọng
trong phòng ngừa tội phạm.
Thứ tư, nghiên cứu làm rõ nhân thân người phạm tội XPSH có TCCĐ, giúp đề ra các
biện pháp giáo dục, cải tạo người phạm tội XPSH có TCCĐ một cách phù hợp và hiệu quả.
Khoa học quản lý, giáo dục người phạm tội dựa vào nhân thân người phạm tội và
những phương pháp phân loại người phạm tội, có ý nghĩa quan trọng trong việc nghiên cứu
các hình thức, phương pháp giáo dục quản lý giáo dục người phạm tội, lập phương án tại trại
giam, cơ sở giáo dục, trường giáo dưỡng, xây dựng quy chế tại trại giam, cơ sở giáo dưỡng
đó. Đối với người phạm tội XPSH có TCCĐ cần phải nghiên cứu nhân thân người phạm tội

XPSH có TCCĐ, để rút ra đặc điểm nhân thân riêng biệt là nguyên nhân dẫn đến việc thực
hiện tội phạm XPSH có TCCĐ. Từ đó áp dụng các biện pháp giáo dục, cải tạo phù hợp với
từng đặc điểm nhân thân riêng biệt đó nhằm cải thiện hoặc loại trừ các đặc điểm nhân thân
tiêu cực có vai trò quan trọng đối với việc phát sinh tội XPSH có TCCĐ, từ đó có thể giáo
dục, cải tạo họ thành người tốt, không tái phạm tội và tái hòa nhập với xã hội.

1.2. Các đặc điểm nhân thân của người phạm tội XPSH có TCCĐ
Các đặc điểm nhân thân của người phạm tội là tập hợp những thông tin phản ánh
những đặc điểm chủ yếu của người phạm tội, thể hiện các dấu hiệu tiêu cực của người phạm
tội. Trong tội phạm học, nghiên cứu đặc điểm nhân thân của người phạm tội thường được thể
hiện ở các mức độ như mức độ cá biệt nghiên cứu nhân thân người phạm tội cụ thể đã thực
hiện hành vi phạm tội, mức độ nhóm nghiên cứu loại, dạng người phạm tội được phân loại
theo sự giống nhau về loại tội phạm đã thực hiện và mức độ chung nghiên cứu người phạm
tội nói chung trong xã hội với những đặc điểm, dấu hiệu, những yếu tố cấu tạo nên nhân thân
người phạm tội một cách chung nhất ở tầm vĩ mô. Trong quá trình nghiên cứu nhân thân
người phạm tội nói chung, nghiên cứu nhân thân người phạm tội XPSH có TCCĐ tác giả
cũng phân chia các đặc điểm nhân thân người phạm tội XPSH có TCCĐ thành 3 nhóm như
sau:
- Nhóm đặc điểm nhân chủng học - xã hội
- Nhóm đặc điểm đạo đức - tâm sinh lý
- Nhóm đặc điểm pháp lý hình sự

23


1.2.1. Nhóm đặc điểm nhân chủng học — xã hội
Những dấu hiệu đặc điểm nhân chủng - xã hội trong nhân thân người phạm tội XPSP
có TCCĐ cũng giống như trong nhân thân con người nói chung bao gồm: giới tính, tuổi, trình
độ học vấn, nghề nghiệp, địa vị xã hội... Những dấu hiệu nhân chủng học, xã hội bản thân
chúng không có ý nghĩa về mặt tội phạm học, bởi chúng tồn tại trong bất kỳ người nào. Tuy

nhiên, tập hợp những đặc điểm nhân thân trên được thống kê qua tội phạm học sẽ cho chúng
ta những cơ sở để rút ra kết luận quan trọng khi nghiên cứu nhân thân người phạm tội XPSH
có TCCĐ, chúng có ý nghĩa đối với việc phòng ngừa, biết được tình huống và hoàn cảnh ảnh
hưởng đến sự hình thành định hướng giá trị không đúng đắn của người phạm tội [52, tr.143].
1.2.1.1. Đặc điểm về giới tính
Nghiên cứu đặc điểm giới tính của người phạm tội XPSH có TCCĐ giúp chúng ta xác
định 02 vấn đề: Một là, tỷ lệ phạm tội XPSH có TCCĐ của nam và nữ giới; hai là, đặc trưng
của giới tính ảnh hưởng như thế nào đến việc thực hiện các tội XPSH có TCCĐ. Trong thực
tế hiện nay, thông thường tỷ lệ nam giới phạm tội XPSH có TCCĐ cao hơn so với nữ giới.
Điều này cho thấy nam giới có xu hướng nhu cầu vật chất phục vụ việc ăn chơi, hưởng thụ
hơn nhiều so với nữ giới, do vậy khi gia đình không đáp ứng đủ nhu cầu vật chất, họ thường
có xu hướng phạm tội XPSH có TCCĐ để phục vụ nhu cầu của mình. Tuy nhiên, những năm
gần đây số liệu về cơ cấu giới tính của người phạm tội XPSH có TCCĐ đang có sự thay đổi.
Tỷ lệ nữ giới phạm tội XPSH có TCCĐ trong tổng số tội XPSH có TCCĐ đang có khuynh
hướng tăng lên và các loại tội XPSH có TCCĐ do họ thực hiện ngày càng đa dạng [54,
tr.155].
1.2.1.2. Đặc điểm về độ tuổi
Nghiên cứu đặc điểm lứa tuổi trong nhân thân người phạm tội XPSH có TCCĐ nhằm
xác định hai vấn đề quan trọng: Một là, lứa tuổi nào phạm tội XPSH có TCCĐ nhiều nhất;
hai là, ảnh hưởng của lứa tuổi đến việc thực hiện tội phạm XPSH có TCCĐ như thế nào. Mỗi
lứa tuổi có những đặc điểm riêng, có thể chia người phạm tội XPSH có TCCĐ thành 03
nhóm: Dưới 18 tuổi, từ 18 đến 30 tuổi, từ trên 30 tuổi. Theo cách phân nhóm này, những
người dưới 18 tuổi là những người có đặc điểm tâm lý nhận thức chưa đầy đủ, rất dễ bị ảnh
hưởng bởi những tác động xấu từ môi trường. Những người từ 18 đến 30 tuổi là những người

2
4


đã hoàn thiện về tâm lý, đang trong giai đoạn định hướng nghề nghiệp, tạo lập cuộc sống

riêng, nên diễn biến tâm lý phức tạp và cũng dễ bị tác động của môi trường sống. Lứa tuổi
trên 30 là lứa tuổi chín chắn, ở độ tuổi này con người thường đã ổn định về gia đình, nghề
nghiệp nên ít chịu ảnh hưởng của môi trường sống hơn các lứa tuổi khác. Theo nghiên cứu, tỉ
lệ tội phạm XPSH có TCCĐ trong độ tuổi từ 18 đến 30 tuổi chiếm tỉ lệ cao nhất.
Những năm gần đây, những người thuộc nhóm tội XPSH có TCCĐ đang có xu hướng
trẻ hóa về độ tuổi. Nhóm người phạm tội có độ tuổi dưới 18 đang có xu hướng gia tăng.
Nghiên cứu đặc điểm lứa tuổi giúp cho việc đưa ra các giải pháp phòng ngừa tội phạm XPSH
có TCCĐ phù hợp với từng lứa tuổi, đặc biệt ưu tiên với những lứa tuổi có tỉ lệ phạm tội
XPSH có TCCĐ nhiều nhất [54, tr.106].
1.2.1.3. Đặc điểm về trình độ học vấn
Trình độ học vấn cũng phản ánh sự phát triển lý trí và hình thành nhân cách, tạo cho
con người còn có thể lựa chọn được cách ứng xử đúng với các chuẩn mực xã hội. Vì vậy,
trình độ học vấn của con người có ảnh hưởng đến hành vi phạm tội. Mỗi người có một trình
độ học vấn khác nhau và mức độ ảnh hưởng của trình độ học vấn đối với từng loại tội, từng
nhóm tội cũng khác nhau, đối với nhóm tội XPSH có TCCĐ, người phạm tội không cần phải
có trình độ học vấn cao mới có thể thực hiện được tội phạm. Nhiều nghiên cứu tội phạm học
cho thấy, những người phạm tội XPSH có TCCĐ đa phần đều có trình độ học vấn tương đối
thấp và ứng với mỗi tội XPSH có TCCĐ khác nhau thì người phạm tội cũng có trình độ học
vấn khác nhau. Dựa vào đặc điểm trình độ học vấn, người phạm tội XPSH có TCCĐ được
chia thành 05 nhóm: (1) Người không biết chữ và người có trình độ tiểu học, (2) Người có
trình độ trung học cơ sở, (3) Người có trình độ trung học phổ thông, (4) Người có trình độ
trung cấp, cao đẳng, (5) Người có trình độ đại học trở lên.
1.2.1.4. Đặc điểm địa vị xã hội và nghề nghiệp
Địa vị xã hội và đặc biệt là nghề nghiệp của người phạm tội có vị trí quan trọng khi
phân tích đặc điểm nhân thân của người phạm tội. Thực tiễn cho thấy, người có nghề nghiệp
ổn định, với mức thu nhập ổn định sẽ bảo đảm cuộc sống, tạo điều kiện thuận lợi để giải
quyết các mâu thuẫn xã hội, ít bị tác động làm phát sinh các đặc điểm nhân thân tiêu cực.
Ngược lại, người có nghề nghiệp không ổn định hoặc không có nghề nghiệp, thu nhập thấp,

25



×