Tải bản đầy đủ (.pdf) (91 trang)

Hòa giải trong giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại từ thực tiễn xét xử của tòa án nhân dân tại tỉnh gia lai

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (845.42 KB, 91 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

THỦY SƠN HÒA

HÒA GIẢI TRONG GIẢI QUYẾT
TRANH CHẤP KINH DOANH, THƯƠNG
MẠI TỪ THỰC TIỄN XÉT XỬ CỦA
TÒA ÁN NHÂN DÂN TẠI TỈNH GIA LAI

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI, năm 2018


VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

THỦY SƠN HÒA

HÒA GIẢI TRONG GIẢI QUYẾT
TRANH CHẤP KINH DOANH,
THƯƠNG MẠI TỪ THỰC TIỄN XÉT XỬ
CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN TẠI TỈNH GIA LAI
Chuyên ngành: Luật Kinh tế
Mã số: 838.01.07

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC


NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. DƯƠNG QUỲNH HOA

HÀ NỘI, năm 2018


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi với.
Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình
nào khác. Các số liệu và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin
cậy và trung thực.
Người cam đoan

Thủy Sơn Hòa


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
CHƯƠNG 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ HÒA GIẢI
TRONG GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP KINH DOANH THƯƠNG
MẠI TẠI TÒA ÁN .......................................................................................... 8
1.1. Khái niệm, đặc điểm tranh chấp kinh doanh thương mại .......................... 8
1.2. Hòa giải trong giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại tại Tòa án 13
1.3. Pháp luật về hòa giải trong giải quyết tranh chấp kinh doanh thương
mại tại Tòa án .................................................................................................. 19
CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ HÒA GIẢI TRONG
GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP KINH DOANH THƯƠNG MẠI TẠI
TÒA ÁN Ở VIỆT NAM HIỆN NAY VÀ THỰC TIỄN THI HÀNH Ở
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH GIA LAI ....................................................... 24

2.1. Các quy định của pháp luật hiện hành về hòa giải trong giải quyết
tranh chấp kinh doanh thương mại tại Tòa án................................................. 24
2.2. Thực trạng thi hành pháp luật về hòa giải trong giải quyết tranh chấp
kinh doanh thương mại ở Tòa án nhân dân tỉnh Gia Lai ................................ 39
CHƯƠNG 3. ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP
LUẬT VỀ HÒA GIẢI TRONG GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP KINH
DOANH THƯƠNG MẠI TẠI TÒA ÁN VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ
THI HÀNH Ở TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH GIA LAI ............................. 61
3.1. Định hướng hoàn thiện pháp luật về hòa giải trong giải quyết tranh
chấp kinh doanh thương mại tại Tòa án .......................................................... 61
3.2. Các giải pháp hoàn thiện pháp luật về hòa giải trong giải quyết tranh
chấp kinh doanh thương mại tại Tòa án .......................................................... 63


3.3. Một số kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả thi hành pháp luật hòa giải
trong giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại tại Tòa án nhân dân
tỉnh Gia Lai...................................................................................................... 69
KẾT LUẬN .................................................................................................... 77
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

BLDS

: Bộ luật Dân sự

BLTTDS

: Bộ luật Tố tụng dân sự


HĐXX

: Hội đồng xét xử

KDTM

: Kinh doanh thương mại

LDN

: Luật Doanh nghiệp

LTM

: Luật Thương mại

LTCTA

: Luật tổ chức Tòa án

LTTTM

: Luật Trọng tài thương mại

QĐCN

: Quyết định công nhận

QLNVLQ


: Quyền lợi nghĩa vụ liên quan

TAND

: Tòa án nhân dân


DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 2.1: Tình hình thụ lý và giải quyết các vụ án KDTM tại Tòa án nhân dân
tỉnh Gia Lai các năm 2015, 2016, 2017 .......................................................... 42
Bảng 2.2: Tình hình thụ lý và giải quyết các vụ án KDTM tại 17 Tòa án nhân
dân cấp huyện của tỉnh Gia Lai các năm 2015, 2016, 2017 ........................... 42
Bảng 2.3: Tình hình thụ lý và giải quyết các vụ án KDTM tại Tòa án nhân dân
thành phố Pleiku, tỉnh Gia Lai các năm 2015, 2016, 2017 ............................. 43


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Xã hội ngày càng phát triển, đời sống ngày càng được nâng cao. Để
thỏa mãn các nhu cầu cơ bản hàng ngày, các quan hệ mua bán hàng hóa phát
triển theo chiều rộng và chiều sâu với một tốc độ nhanh chóng với đa dạng về
chủ thể và sự phức tạp của nội dung quan hệ. Tranh chấp kinh doanh thương
mại (KDTM) xảy ra là hệ quả tất yếu của quá trình này và cũng trở nên phong
phú hơn về chủng loại, gay gắt, phức tạp hơn về tính chất và mức độ. Do vậy,
yêu cầu phải áp dụng các hình thức và phương thức giải quyết tranh chấp phù
hợp, có hiệu quả là một đòi hỏi khách quan để bảo vệ các quyền và lợi ích
hợp pháp của các chủ thể kinh tế, bảo đảm nguyên tắc pháp chế, thông qua đó
góp phần tạo lập môi trường pháp lý lành mạnh để thúc đẩy quá trình phát
triển kinh tế - xã hội.

Có nhiều phương pháp giải quyết tranh chấp KDTM như: Thương
lượng, hoà giải, Trọng tài (phi chính phủ) và giải quyết thông qua Toà án. Ở
nước ta hiện nay, các bên thường lựa chọn Tòa án là nơi cuối cùng để bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của mình trong giải quyết các tranh chấp khi mà
các biện pháp như thương lượng, hòa giải thất bại. Cùng với tính chất của Tòa
án là cơ quan tài phán quốc gia, mang tính cưỡng chế nghiêm minh nên khi
xảy ra các tranh chấp KDTM thì Tòa án là sự lựa chọn hàng đầu cho các chủ
thể xảy ra tranh chấp, đặc biệt là các tranh chấp phức tạp. Tuy nhiên, pháp
luật KDTM đề cao sự thỏa thuận giữa các chủ thể, do đó khi lựa chọn phương
thức giải quyết tranh chấp bằng Tòa án, các bên vẫn có cơ hội được hòa giải
trước khi Tòa án xét xử vụ án. Lúc này, Tòa án đóng vai trò làm trung gian
hòa giải và tạo điều kiện để các bên thương lượng với nhau.
Thời gian qua, Quốc hội Khóa XIV đã sửa đổi và ban hành nhiều bộ
1


luật, luật mới có tác động tới việc giải quyết các tranh chấp dân sự nói chung
và tranh chấp KDTM tại Tòa án nói riêng như: Bộ luật Dân sự năm 2015, Bộ
luật Tố tụng dân sự 2015, Luật Doanh nghiệp 2014, v.v… Nhờ đó, việc giải
quyết tranh chấp KDTM đã có nhiều bước tiến mới, đặc biệt là với hoạt động
hòa giải. Bên cạnh đó, với Nghị định số 22/2017/NĐ-CP của Chính phủ ngày
24 tháng 02 năm 2017 về Hòa giải thương mại, quy định trình tự thủ tục và
công nhận kết quả của việc hòa giải ngoài tố tụng đã giúp công tác hòa giải
trong giải quyết tranh chấp KDTM thêm linh hoạt, dễ dàng hơn bao giờ hết.
Tuy nhiên, đối với một số địa phương có điều kiện kinh tế xã hội còn nhiều
hạn chế như các tỉnh Tây Nguyên (Gia Lai, Đăk Lăk, Đăk Nông, Kon Tum,
Lâm Đồng), việc thực hiện hòa giải thông qua hòa giải viên là điều hết sức
khó khăn, chính vì vậy, ở các địa phương này, việc áp dụng phương thức hòa
giải trong giải quyết tranh chấp KDTM tại Tòa án vẫn là phương án lựa chọn
tối ưu nhất. Nhưng việc vận dụng các quy định mới của pháp luật về hòa giải

trong giải quyết tranh chấp KDTM ở một số Tòa án chưa thực sự linh hoạt,
còn cứng nhắc, điều này dẫn đến việc giải quyết tranh chấp KDTM bằng hòa
giải ở Tòa án chưa thực sự phát huy hết vai trò và ý nghĩa của mình. Chính vì
vậy, tác giả chọn đề tài “Hòa giải trong giải quyết tranh chấp kinh doanh,
thương mại từ thực tiễn xét xử của Tòa án nhân dân tại tỉnh Gia Lai” làm đề
tài Luận văn tốt nghiệp Thạc sĩ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Hòa giải trong giải quyết tranh chấp KDTM từ thực tiễn xét xử của Tòa
án là một vấn đề thu hút sự quan tâm của không ít các nhà nghiên cứu và
những người làm công tác thực tiễn. Song, cách tiếp cận được thực hiện ở các
mức độ khác nhau. Có thể giới thiệu một số công trình nghiên cứu tiêu biểu
như:
Võ Hương Giang (2015), Pháp luật điều chỉnh hoạt động hòa giải tư
2


pháp trong giải quyết tranh chấp thương mại tại Việt Nam, Luận văn Thạc sĩ
Luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội.
Cung Mỹ Anh (2008), Giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại
theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự - Những vướng mắc và giải pháp
khắc phục, Luận văn Thạc sĩ luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội.
Nguyễn Thị An Na (2010), Hòa giải – Phương thức giải quyết tranh
chấp thương mại ngoài tố tụng tư pháp, Luận văn Thạc sĩ Luật học, Trường
Đại học Luật Hà Nội.
Ngô Thị An (2012), Pháp luật về giải quyết tranh chấp thương mại
ngoài thủ tục tố tụng tư pháp, thực trạng và giải pháp hoàn thiện, Luận văn
Thạc sĩ Luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội.
Lê Thị Tâm (2014), So sách phương thức hòa giải với thủ tục hòa giải
trong giải quyết tranh chấp kinh tế tại Tòa án, Luận văn Thạc sĩ Luật học,
Trường Đại học Luật Hà Nội.

Nguyễn Thị Thúy (2014), Hoàn thiện chế định hòa giải trong pháp luật
tố tụng dân sự Việt Nam, Luận văn Thạc sĩ Luật học, Khoa Luật - Đại học
Quốc gia Hà Nội.
Phạm Lê Mai Ly (2014), Pháp luật hòa giải tranh chấp KDTM ở Việt
Nam, Luận văn Thạc sĩ Luật học, Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội.
Tạ Ngọc Nam (2015), Phân biệt tranh chấp kinh doanh thương mại và
tranh chấp dân sự theo pháp luật Việt Nam, Luận văn Thạc sĩ Luật học, Khoa
Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội.
Một số bài viết trên các tạp chí như:
Nguyễn Thị Thanh Hương (2006), Việc áp dụng các quy định về hòa
giải trong tố tụng dân sự, Tạp chí kiểm sát số 05/2006.
TS. Lê Nết (2006), Hòa giải trong tố tụng dân sự nhìn từ góc độ kinh
tế, Tạp chí Khoa học pháp lý số 2/2006.
3


Phan Thị Thanh Thủy (2016), Giải quyết tranh chấp thương mại bằng
hòa giải ở Việt Nam: Một số vấn đề pháp lý cần quan tâm, Tạp chí Khoa học
Đại học quốc gia Hà Nội số 2, tập 32.
Tuy nhiên, trong số các công trình nghiên cứu đề cập ở trên, một số
công trình tập trung vào hòa giải với tính chất là một chế định độc lập. Bên
cạnh đó, một số công trình nghiên cứu có đề cập đến hòa giải KDTM trong tố
tụng (Tòa án và Trọng tài) nhưng các nội dung nghiên cứu đó đều không còn
tính thời sự, thiếu tính cập nhật, đặc biệt là trong bối cảnh một loạt các quy
định mới của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 có hiệu lực thi hành. Mặt
khác, đa phần các nghiên cứu thường tiếp cận phương thức hòa giải để giải
quyết tranh chấp KDTM từ góc độ khái quát mà chưa đi sâu vào từng trường
hợp cụ thể hoặc chỉ đi sâu nghiên cứu cụ thể một vài trường hợp nào đó mà
thôi. Do vậy, trong Luận văn này, trên cơ sở kế thừa kết quả của các công
trình nghiên cứu trước đó, tác giả sẽ tiếp tục phát triển hướng nghiên cứu vào

các vấn đề, các khía cạnh còn bỏ ngỏ, phân tích, so sánh giữa hai phương thức
hòa giải trong và ngoài tố tụng và cập nhật các quy định mới liên quan đến
vấn đề này. Thông qua thực tiễn xét xử tại Tòa án nhân dân tỉnh Gia Lai, tác
giả đưa ra những nhận xét điểm chưa hợp lý của các quy định pháp luật, đề
xuất những phương hướng giải quyết những điểm chưa hợp lý đó, làm tư liệu
tham khảo cho quá trình hoàn thiện luật về sau. Ngoài ra, việc nghiên cứu
thực tiễn tại Tòa án, tác giả chỉ ra những mặt đạt được và hạn chế còn tồn tại
của công tác xét xử, thông qua các báo cáo thống kê, các vụ việc cụ thể. Từ
đó, góp phần làm sáng tỏ và hoàn thiện hơn các vấn đề lý luận và thực tiễn
của Đề tài dưới góc độ khoa học pháp lý.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích của luận văn là trên cơ sở nghiên cứu làm sáng tỏ một số vấn
4


đề lý luận về hòa giải trong giải quyết tranh chấp KDTM tại Tòa án; đánh giá
thực trạng pháp luật về giải quyết tranh chấp KDTM tại Tòa án ở Việt Nam
và thực tiễn áp dụng tại Tòa án nhân dân tỉnh Gia Lai, luận văn đề xuất một
số kiến nghị nhằm góp phần hoàn thiện pháp luật, nâng cao hiệu quả hoạt
động của hệ thống Tòa án nhân dân nói chung và Tòa án nhân dân tỉnh Gia
Lai nói riêng.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Làm rõ một số vấn đề lý luận về hòa giải trong giải quyết tranh chấp
KDTM tại Tòa án như: Khái niệm tranh chấp kinh doanh thương mại; hòa
giải trong giải quyết tranh chấp KDTM tại Tòa án, khái niệm và phân loại hòa
giải trong giải quyết tranh chấp KDTM, đặc điểm của hòa giải tranh chấp
KDTM tại Tòa án, ý nghĩa và vai trò của hòa giải trong giải quyết tranh chấp
KDTM tại Tòa án.
- Đánh giá thực trạng quy định của pháp luật hiện hành về hòa giải

trong giải quyết tranh chấp KDTM tại Tòa án, phạm vi hòa giải và thủ tục tiến
hành hòa giải khi giải quyết tranh chấp KDTM tại Tòa án.
- Đánh giá thực trạng áp dụng pháp luật về hòa giải trong giải quyết
tranh chấp KDTM tại Tòa án, tìm ra được những nguyên nhân gây ra vướng
mắc, bất cập trong phạm vi cả nước nói chung và trên địa bàn tỉnh Gia Lai nói
riêng.
- Đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu
quả thi hành pháp luật hòa giải tranh chấp KDTM tại Tòa án.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Trong luận văn này, tác giả tập trung nghiên cứu các quy định của pháp
luật về hòa giải trong tố tụng và cụ thể là trong giải quyết các tranh chấp về
KDTM. Thông qua đó đánh giá thực trạng áp dụng pháp luật để tìm ra vướng
5


mắc, từ đó mạnh dạn đưa ra một số đánh giá và kiến nghị hoàn thiện về pháp
luật hòa giải trong giải quyết tranh chấp KDTM tại Tòa án và nâng cao hiệu
quả thi hành ở Tòa án nhân tỉnh Gia Lai.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Các quy định của pháp luật Việt Nam về hòa giải trong giải quyết tranh
chấp KDTM được quy định trong BLDS (1995, 2009, 2015), BLTTDS (2011,
2015); các đạo luật liên quan đến KDTM như LDN (2005, 2014), LTM
(1997, 2005), LTTTM (2010); các luật liên quan và văn bản hướng dẫn về
hòa giải trong giải quyết tranh chấp KDTM tại Tòa án.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận
Luận văn được thực hiện trên cơ sở phương pháp duy vật biện chứng,
duy vật lịch sử của Triết học Mac – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm
của Đảng và Nhà nước về hệ thống pháp luật nói chung và pháp luật tố tụng

dân sự nói riêng.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Các phương pháp nghiên cứu cụ thể gồm: Phương pháp phân loại pháp
lý, phương pháp diễn dịch, phương pháp quy nạp và phương pháp so sánh
pháp luật được dùng chủ yếu để nghiên cứu các vấn đề lý luận liên quan.
Phương pháp phân tích quy phạm và phân tích tình huống được sử dụng chủ
yếu để nghiên cứu thực trạng pháp luật liên quan. Phương pháp quy nạp và
phương pháp xây dựng mô hình chủ yếu dùng để đưa ra các giải pháp nhằm
hoàn thiện pháp luật.
Trên cơ sở kết quả nghiên cứu, luận văn cũng đánh giá tình hình và từ
đó đưa ra một số kiến nghị, giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả trong việc áp
dụng quy định hòa giải trong giải quyết tranh chấp KDTM tại Tòa án nhân
dân tỉnh Gia Lai.
6


6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
6.1. Ý nghĩa lý luận
Luận văn góp phần làm sáng tỏ khái niệm, phạm vi, trình tự tiến hành
và ý nghĩa của hòa giải trong giải quyết tranh chấp KDTM.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Từ kết quả nghiên cứu, luận văn đưa ra được các giải pháp kiến nghị để
hoàn thiện quy định của pháp luật và khắc phục hạn chế trong thực tế về việc
tiến hành hòa giải trong giải quyết tranh chấp KDTM, góp phần nâng cao hiệu
quả công tác xét xử vụ án dân sự nói chung, xét xử vụ án KDTM nói riêng
của hệ thống Tòa án nhân dân tỉnh Gia Lai.
Các kiến nghị của luận văn có thể được dùng để nghiên cứu, xem xét
áp dụng khi sửa đổi, bổ sung quy định của Bộ luật tố tụng dân sự hiện hành.
7. Cơ cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung

của luận văn gồm 03 chương:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận cơ bản về hòa giải trong giải quyết
tranh chấp kinh doanh thương mại tại Tòa án.
Chương 2: Thực trạng pháp luật về hòa giải trong giải quyết tranh chấp
chấp kinh doanh thương mại tại Tòa án ở Việt Nam hiện nay và thực tiễn thi
hành ở Tòa án nhân dân tỉnh Gia Lai.
Chương 3: Định hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật về hòa giải
trong giải quyết tranh chấp chấp kinh doanh thương mại tại Tòa án và nâng
cao hiệu quả thi hành tại Tòa án nhân dân tỉnh Gia Lai.

7


CHƯƠNG 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ HÒA GIẢI TRONG
GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP KINH DOANH THƯƠNG MẠI TẠI
TÒA ÁN
1.1. Khái niệm, đặc điểm tranh chấp kinh doanh thương mại
1.1.1. Khái niệm tranh chấp kinh doanh thương mại
Con người, với bản tính tự nhiên là luôn tìm cách tối đa hóa lợi ích cho
mình nên đôi khi dẫn đến sự xung đột với lợi ích của người khác, lợi ích của
cộng đồng và xã hội. Do vậy, tranh chấp tồn tại như một điều tất yếu nảy sinh
từ những lợi ích đó. Chừng nào con người còn bị thúc đẩy bởi lợi ích cá nhân
thì chừng đó còn có những xung đột về lợi ích. Và hệ quả của nó là, để mở
đường cho sự phát triển, luôn tồn tại các phương thức để giải quyết các tranh
chấp cụ thể. Xét ở một chừng mực nhất định, theo Triết học, “mâu thuẫn và
việc giải quyết mâu thuẫn nội tại trong bản thân mỗi sự vật, hiện tượng chính
là động lực của sự phát triển”.
Tranh chấp KDTM là một thuật ngữ pháp lý mới xuất hiện trong những
năm gần đây. Theo nghĩa thông thường, tranh chấp KDTM có thể được hiểu

là tranh chấp về KDTM hoặc tranh chấp trong KDTM. Như vậy, trước khi
làm rõ khái niệm “tranh chấp KDTM”, cần làm rõ khái niệm “tranh chấp” và
khái niệm “kinh doanh – thương mại”.
Theo định nghĩa của từ điển Tiếng Việt, “tranh chấp” được hiểu là “đấu
tranh, giằng co khi có những mâu thuẫn, bất đồng thường là trong vấn đề
quyền lợi giữa hai bên”.
Theo quy định của Luật Doanh nghiệp (LDN) năm 2005 và LDN năm
2014 có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2015, thay thế LDN năm 2005 đều
quy định: “Kinh doanh là việc thực hiện liên tục một, một số hoặc tất cả các
8


công đoạn của quá trình đầu tư, từ sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm hoặc cung
ứng dịch vụ trên thị trường nhằm mục đích sinh lợi”[11], [12].
Tại khoản 2 Điều 5 Luật Thương mại (LTM) năm 1997 định nghĩa:
“Hoạt động thương mại là việc thực hiện một hay nhiều hành vi thương mại
của thương nhân, bao gồm việc mua bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ thương
mại và các hoạt động xúc tiến thương mại nhằm mục đích lợi nhuận hoặc
nhằm thực hiện các chính sách kinh tế - xã hội”. Trong khi đó, “hành vi
thương mại” là “hành vi của thương nhân trong hoạt động thương mại làm
phát sinh quyền và nghĩa vụ giữa các thương nhân với nhau hoặc giữa
thương nhân với các bên có liên quan”[13]. LTM năm 2005, có hiệu lực thi
hành kể từ ngày 01/01/2006, thay thế LTM năm 1997, định nghĩa một cách
ngắn gọn hơn: “Hoạt động thương mại là hoạt động nhằm mục đích sinh lợi,
bao gồm mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ, đầu tư, xúc tiến thương mại và
các hoạt động nhằm mục đích sinh lợi khác”[14].
Với các cách định nghĩa như trên, hoạt động kinh doanh và hoạt động
thương mại, có nhiều nội dung trùng nhau như về mục đích sinh lợi, về đầu
tư, về cung ứng dịch vụ, về tiêu thụ sản phẩm, v.v… Như vậy, về bản chất thì
hoạt động kinh doanh hay hoạt động thương mại đều nhằm mục đích sinh lợi.

Trong Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế năm 1994 của Ủy
ban thường vụ Quốc hội đã liệt kê các tranh chấp được coi là tranh chấp kinh
tế gồm: “Các tranh chấp về hợp đồng kinh tế giữa pháp nhân với pháp nhân,
giữa pháp nhân với cơ quan có đăng ký kinh doanh; Các tranh chấp giữa
công ty với các thành viên công ty, giữa các thành viên công ty với nhau liên
quan đến việc thành lập, hoạt động, giải thể công ty; Các tranh chấp liên
quan đến việc mua bán cổ phiếu, trái phiếu; Các tranh chấp khác theo quy

9


định pháp luật” 1. Với một khái niệm rộng và việc pháp luật gắn cho các tranh
chấp có nội dung kinh tế trên được gọi là tranh chấp kinh tế đã tạo ra sự
không phù hợp với các hoạt động thương mại hiện nay.
Trong các văn bản pháp lý quốc tế, thuật ngữ “tranh chấp kinh tế” ít
được sử dụng mà thay vào đó là thuật ngữ “tranh chấp thương mại”
(commercial dispute) hay thuật ngữ “tranh chấp kinh doanh” (business
dispute). Trong luật mẫu của UNCITRAL về Trọng tài thương mại quốc tế
cũng sử dụng thuật ngữ “Thương mại”.
Trên thực tế cho thấy, khái niệm “tranh chấp thương mại” được tiếp
cận dưới nhiều góc độ khác nhau và có nhiều tên gọi khác nhau như: Tranh
chấp kinh tế, tranh chấp thương mại, tranh chấp kinh doanh, tranh chấp về
kinh doanh, thương mại. Ở nước ta, khái niệm tranh chấp KDTM lần đầu tiên
được đề cập trong Luật Thương mại (LTM) năm 1997: “Tranh chấp thương
mại là tranh chấp phát sinh do việc không thực hiện hoặc thực hiện không
đúng hợp đồng trong hoạt động thương mại”[13]. Tuy nhiên khái niệm về
tranh chấp thương mại theo LTM 1997 đã loại bỏ nhiều tranh chấp không
được coi là tranh chấp thương mại mặc dù xét về bản chất đó vẫn có thể coi là
các tranh chấp thương mại như tranh chấp trong hoạt động đầu tư, xây dựng,
hoạt động trung gian thương mại, v.v...

BLTTDS đã dung hòa các tranh chấp kinh doanh và tranh chấp thương
mại bằng cách gọi chung là tranh chấp KDTM. Tại Điều 30 BLTTDS 2015 đã
liệt kê những tranh chấp KDTM thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án gồm
05 nhóm: “1. Tranh chấp phát sinh trong hoạt động kinh doanh, thương mại
giữa cá nhân, tổ chức có đăng ký kinh doanh với nhau và đều có mục đích lợi
nhuận; 2. Tranh chấp về quyền sở hữu trí tuệ, chuyển giao công nghệ giữa cá
nhân, tổ chức với nhau và đều có mục đích lợi nhuận; 3. Tranh chấp giữa
1. Điều 12 Pháp lệnh hợp đồng kinh tế năm 1994.

10


người chưa phải là thành viên công ty nhưng có giao dịch về chuyển nhượng
phần vốn góp với công ty, thành viên công ty; 4. Tranh chấp giữa công ty với
các thành viên của công ty; tranh chấp giữa công ty với người quản lý trong
công ty trách nhiệm hữu hạn hoặc thành viên Hội đồng quản trị, giám đốc,
tổng giám đốc trong công ty cổ phần, giữa các thành viên của công ty với
nhau liên quan đến việc thành lập, hoạt động, giải thể, sáp nhập, hợp nhất,
chia, tách, bàn giao tài sản của công ty, chuyển đổi hình thức tổ chức của
công ty; 5. Các tranh chấp khác về kinh doanh, thương mại, trừ trường hợp
thuộc thẩm quyền giải quyết của cơ quan, tổ chức khác theo quy định của
pháp luật”.
Hiện nay, vẫn chưa có một khái niệm rõ ràng quy định thế nào là tranh
chấp KTDM mà chỉ ở quan điểm tiếp cận của một số tác giả thông qua pháp
luật nội dung và tố tụng.
Như vậy, có thể nói tranh chấp KDTM là những mâu thuẫn, bất đồng
giữa các chủ thể phát sinh trong hoạt động thực hiện liên tục một, một số hoặc
toàn bộ quá trình đầu tư từ sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm, cung ứng các dịch
vụ trên thị trường, xúc tiến thương mại và các hoạt động sinh lợi khác. Một
cách ngắn gọn hơn, có thể định nghĩa khái niệm về tranh chấp KDTM như

sau: “Tranh chấp KDTM là những mâu thuẫn (bất đồng hay xung đột) về
quyền và nghĩa vụ giữa các bên trong quá trình thực hiện các hoạt động
KDTM hoặc có liên quan đến hoạt động KDTM”.
1.1.2. Đặc điểm tranh chấp kinh doanh thương mại
Tranh chấp về KDTM nảy sinh trực tiếp từ các quan hệ kinh doanh và
luôn gắn liền với hoạt động kinh doanh. Đó là hệ quả phát sinh từ quan hệ
giữa các chủ thể kinh doanh với nhau hoặc giữa các bên liên quan với chủ thể
kinh doanh trong quá trình tiến hành các hoạt động nhằm mục đích sinh lợi.
So với các tranh chấp trong lĩnh vực xã hội khác nhau như lao động hành
11


chính, hôn nhân và gia đình, tranh chấp KDTM có những đặc điểm như sau:
Thứ nhất, chủ thể của các hoạt động phát sinh tranh chấp chủ yếu là
những thương nhân, có hoạt động thương mại và có đăng ký kinh doanh.
Những chủ thể này có tâm lý mong muốn xác định quan hệ ổn định, lâu dài
trên cơ sở hợp tác, tin cậy lẫn nhau. Mỗi bên đều có mục đích là những lợi ích
kinh tế khi tham gia các quan hệ kinh doanh và trong quan hệ này, quyền của
chủ thể này sẽ phát sinh nghĩa vụ tương ứng của chủ thể kia. Vì thế, khi các
tranh chấp phát sinh sẽ đe doạ ảnh hưởng xấu đến mục đích và hiệu quả hoạt
động của các các chủ thể này trong điều kiện lợi ích kinh tế của các bên phụ
thuộc, ảnh hưởng lẫn nhau. Tuy nhiên, trong một số trường hợp, một bên chủ
thể của tranh chấp KDTM còn có thể là các cá nhân, tổ chức không phải là
thương nhân, như tranh chấp giữa các thành viên của công ty với nhau liên
quan đến việc thành lập, hoạt động, giải thể, sáp nhập, hợp nhất, chia, tách,
chuyển đổi hình thức tổ chức của công ty hay tranh chấp về giao dịch giữa
một bên không nhằm mục đích sinh lợi với thương nhân thực hiện trên lãnh
thổ Việt Nam trong trường hợp bên không nhằm mục đích sinh lợi đó chọn áp
dụng LTM.
Thứ hai, khách thể của các tranh chấp KDTM là các quyền và nghĩa vụ

của các chủ thể tham gia trong hoạt động KDTM. Quyền và nghĩa vụ giữa
các bên phát sinh trước, trong và sau khi các bên cùng tham gia thỏa thuận
với nhau trong hoạt động KDTM. Khi một trong hai bên không thực hiện
những nghĩa vụ của mình tương ứng với quyền lợi của bên kia thì phát sinh
tranh chấp.
Thứ ba, nội dung các tranh chấp KDTM luôn là những mâu thuẫn về
lợi ích kinh tế, tài sản, nảy sinh gắn liền với hoạt động KDTM. Điều đó là do
mục đích cơ bản của mọi hoạt động KDTM là sinh lợi và đối tượng để đầu tư,
kinh doanh cũng như mục đích mà những người tham gia hoạt động KDTM
12


nhằm đạt được sau quá trình đầu tư, kinh doanh này đều là tài sản. Hoạt động
KDTM vốn rất đa dạng, chịu sự tác động, điều tiết của các quy luật và yếu tố
riêng của thị trường, chẳng hạn như quy luật cung cầu, sự biến đổi quy luật
của giá cả, v.v… Những tranh chấp phát sinh trong hoạt động KDTM cũng vì
thế mà có những biến đổi về biểu hiện, mức độ, từ đó nảy sinh các tranh chấp
và đòi hỏi cách thức giải quyết tranh chấp đó giữa các bên.
1.2. Hòa giải trong giải quyết tranh chấp kinh doanh thương mại
tại Tòa án
1.2.1. Khái niệm hòa giải trong giải quyết tranh chấp kinh doanh
thương mại tại Tòa án
Giải quyết tranh chấp KDTM là việc các bên tranh chấp thông qua hình
thức, thủ tục thích hợp, tiến hành các giải pháp nhằm loại bỏ những mâu
thuẫn, xung đột, bất đồng về lợi ích kinh tế nhằm bảo vệ quyền và lợi ích
chính đáng của mình.
Việc lựa chọn phương thức giải quyết tranh chấp KDTM nói chung dựa
trên nguyên tắc quan trọng là quyền tự định đoạt của các bên. Theo đó, các
bên có thể lựa chọn việc giải quyết tranh chấp KDTM thông qua các phương
thức mang tính tài phán (Trọng tài thương mại, Tòa án) hoặc không mang tính

tài phán (thương lượng, hòa giải). Đối với các hình thức không mang tính tài
phán, bao gồm phương thức giải quyết tranh chấp lựa chọn (ADR - alternative
dispute resolution) là hoà giải (thông qua Hòa giải viên) và thương lượng.
Khác với các hình thức mang tính tài phán, ADR đề cao sự tự nguyện, tinh
thần thiện chí của các bên, quyết định trong hoà giải và thương lượng không
mang tính bắt buộc thi hành, các bên có thể tự do áp dụng hoặc khước từ.
Trong trường hợp không đạt được thoả thuận hay sự nhất trí thì họ có thể tiếp
tục lựa chọn phương thức giải quyết mang tính tài phán. Tài phán là quyền
của các cơ quan hành chính và tư pháp của quốc gia thực hiện giải quyết các
13


vụ việc vi phạm pháp luật theo thẩm quyền của họ. Theo nghĩa thông thường,
quyền tài phán là quyền xử lý, xét xử đối với các hành vi vi phạm. Trong giải
quyết tranh chấp KDTM, hình thức này bao gồm Trọng tài thương mại và Toà
án. Những quyết định của Toà án hay Trọng tài không chỉ mang giá trị ràng
buộc phải thực hiện mà buộc bên thua kiện phải thi hành các quyết định đó.
Dù giải quyết theo phương thức hòa giải, thương lượng hay Trọng tài thương
mại và Tòa án thì nguyên tắc đầu tiên để giải quyết tranh chấp là tôn trọng sự
thỏa thuận giữa các bên và chế định hòa giải cũng xuất phát từ nguyên tắc
này.
Trên thế giới có nhiều quan niệm khác nhau về hòa giải: Theo Luật
Mẫu của Ủy ban Pháp luật Thương mại Quốc tế của Liên Hiệp Quốc
(UNCITRAL) thì: “Hòa giải là một trình tự được gọi bằng cụm từ hòa giải,
trung gian hay một cụm từ khác có nghĩa tương đương, trong đó các bên yêu
cầu một bên thứ ba (Hòa giải viên) hỗ trợ các bên đạt được thỏa thuận giải
quyết tranh chấp; Hòa giải viên không có quyền áp đặt giải pháp giải quyết
tranh chấp cho các bên”2. Theo Từ điển Black’s Law: “Hòa giải
(conciliation) là sự can thiệp, sự làm trung gian hòa giải; hành vi của người
thứ ba làm trung gian giữa hai bên tranh chấp nhằm thuyết phục họ dàn xếp

hoặc giải quyết tranh chấp giữa họ” [27]. Từ điển pháp lý của Rothenberg
định nghĩa hòa giải là “hành vi thỏa hiệp giữa các bên sau khi có tranh chấp,
mỗi bên nhượng bộ một ít”. Theo từ điển Tiếng Việt, “hòa giải” là “hành vi
thuyết phục các bên đồng ý chấm dứt xung đột hoặc xích mích một cách ổn
thoả”.
Như vậy, có thể hiểu, “hòa giải” là việc giải quyết các tranh chấp, bất
đồng giữa hai hay nhiều bên tranh chấp bằng việc các bên dàn xếp, thương
lượng với nhau có sự tham gia của bên thứ ba (không phải là bên tranh chấp).
2. Điều 1 Luật Mẫu của UNCITRAL.

14


Bên thứ ba đóng vai trò trung gian, hoàn toàn độc lập với hai bên, không có
quyền áp đặt, thiên vị, hay hành động như một người môi giới, mà giúp hai
bên ngồi lại với nhau và tìm cách đưa các bên tranh chấp thỏa thuận được với
nhau những mâu thuẫn phát sinh.
Từ khái niệm tranh chấp KDTM đã nêu ở phần 1.1.1 và khái niệm về
hòa giải, có thể đưa ra khái niệm về hòa giải trong tranh chấp KDTM: “Hòa
giải trong tranh chấp KDTM là một phương thức giải quyết tranh chấp với sự
giúp đỡ của một bên thứ ba trung lập, các bên tranh chấp tự nguyện thỏa
thuận giải quyết những mâu thuẫn, bất đồng hay xung đột về quyền lợi và
nghĩa vụ giữa các chủ thể phát sinh trong quá trình thực hiện hoạt động
KDTM, phù hợp với quy định của pháp luật, truyền thống đạo đức xã hội”.
Phương thức giải quyết tranh chấp KDTM bằng hòa giải chia thành:
Hòa giải ngoài tố tụng và hòa giải trong tố tụng.
Hòa giải ngoài tố tụng thường do các tổ chức Trọng tài thương mại
thực hiện hoặc một bên thứ ba làm trung gian hòa giải theo yêu cầu của các
bên tranh chấp (thông qua Hòa giải viên thương mại). Việc lựa chọn phương
thức này giúp các bên chủ động trong việc lựa chọn Hòa giải viên; địa điểm,

thời gian và quy trình hòa giải phù hợp với tranh chấp cụ thể phát sinh;
nguyên tắc bí mật trong hòa giải được đảm bảo nhằm bảo vệ bí mật kinh
doanh của các bên, v,v… Tuy nhiên, phương thức này có các hạn chế như
thiếu sự điều chỉnh của quy định pháp luật, bản thỏa thuận chi tiết do các bên
ký sau khi hòa giải không có giá trị pháp lý buộc các bên phải thi hành, mà
tùy thuộc vào thiện chí của các bên. Một khi một trong hai bên không thực
hiện theo nội dung của bản thỏa thuận này thì hợp đồng đương nhiên bị phá
vỡ một lần nữa, buộc các bên phải lựa chọn phương thức giải quyết tranh
chấp khác, là hòa giải trong tố tụng.
Phương thức hòa giải trong tố tụng là phương thức hòa giải do Tòa án
15


có thẩm quyền thực hiện, là một giai đoạn bắt buộc trong tố tụng, được luật
hóa một cách cụ thể, rõ ràng trong pháp luật tố tụng để áp dụng thống nhất tại
mọi Tòa án, kết quả hoà giải có giá trị pháp lý và có tính chất bắt buộc thi
hành.
Như vậy, có thể hiểu hòa giải trong giải quyết tranh chấp KDTM tại
Tòa án là “Hoạt động tố tụng do Tòa án tiến hành nhằm giúp đỡ các đương
sự thỏa thuận được với nhau về giải quyết những mâu thuẫn, bất đồng hay
xung đột về quyền lợi và nghĩa vụ giữa các chủ thể phát sinh trong quá trình
thực hiện hoạt động KDTM”.
1.2.2. Đặc điểm của hòa giải tranh chấp kinh doanh thương mại tại
Tòa án
Thứ nhất, cơ sở của hòa giải tranh chấp KDTM tại Tòa án là quyền tự
định đoạt của các đương sự. Đương sự trong các tranh chấp KDTM chính là
các bên của tranh chấp mà Tòa án cần phải giải quyết, họ là người hiểu rõ
được các mâu thuẫn, tranh chấp phát sinh trong hoạt động KDTM của chính
họ. Vì lý do này mà pháp luật quy định chính đương sự là người có quyền tự
định đoạt để giải quyết các mâu thuẫn đó. Vì vậy, Tòa án không được dùng

bất kỳ hình thức nào để cưỡng ép, bắt buộc các đương sự phải hòa giải với
nhau, sự thỏa thuận của chính các đương sự là đặc trưng cơ bản của hòa giải,
đồng thời cũng là điểm khác biệt giữa hòa giải và xét xử. Khi xét xử, Tòa án
sẽ ra phán quyết và đương sự phải tuân thủ nghiêm chỉnh mọi phán quyết của
Tòa án. Trong hòa giải, Tòa án chỉ có vai trò trung gian giúp đỡ các bên tranh
chấp thỏa thuận với nhau mà không được can thiệp vào thỏa thuận đó.
Thứ hai, hòa giải tranh chấp KDTM là hoạt động do Tòa án tiến hành.
Trong hoạt động hòa giải, Tòa án xuất hiện không phải với tư cách một bên
tham gia hòa giải mà là người tổ chức, bố trí cho các đương sự thương lượng,
thỏa thuận với nhau. Với vai trò của mình, Tòa án giải thích cho các bên hiểu
16


được quyền, nghĩa vụ theo quy định của pháp luật. Kết quả hòa giải do Tòa án
tiến hành là những văn bản có tính chất pháp lý (biên bản hòa giải thành hoặc
không thành), là cơ sở để tiếp tục các hành vi tố tụng tiếp theo.
Thứ ba, hòa giải là một nguyên tắc trong quá trình giải quyết các tranh
chấp KDTM. Hòa giải được pháp luật tố tụng dân sự quy định thuộc trách
nhiệm của Tòa án, được Tòa án thực hiện trong quá trình giải quyết tranh
chấp, nhằm đảm bảo cho đương sự thực hiện quyền tự định đoạt của mình.
Thứ tư, hòa giải tranh chấp KDTM tại Tòa án phải tuân thủ nghiêm
ngặt về trình tự, thủ tục tố tụng chặt chẽ do pháp luật quy định. Căn cứ vào
các quy định của pháp luật, Tòa án tiến hành hòa giải tranh chấp, phán quyết
của Tòa án nếu không có sự tự nguyện tuân thủ sẽ được đảm bảo thi hành
bằng sức mạnh cưỡng chế của Nhà nước.
1.2.3. Vai trò, ý nghĩa của hòa giải trong giải quyết tranh chấp kinh
doanh thương mại tại Tòa án
Hòa giải không chỉ đóng vai trò, ý nghĩa quan trọng đối với các bên
tranh chấp nói riêng mà còn có vai trò, ý nghĩa với Tòa án, với xã hội nói
chung.

Đối với các bên tranh chấp: Hòa giải giúp các bên có sự hiểu biết,
thông cảm với nhau, từ đó, giải quyết tranh chấp một cách cởi mở, giảm bớt
được mâu thuẫn cũng như ngăn ngừa tội phạm có nguồn gốc phát sinh trong
quá trình xảy ra tranh chấp. Đối với trường hợp không hòa giải thành thì quá
trình hòa giải một phần nào giúp các bên hiểu rõ hơn nguyên nhân xảy ra
tranh chấp, qua đó, thể hiện được ý chí, nguyện vọng của mình, tìm được
điểm chung, hạn chế bớt mâu thuẫn. Bên cạnh đó, hòa giải cũng góp phần
nâng cao ý thức pháp luật của các bên tranh chấp. Tòa án trong quá trình hòa
giải sẽ giải thích quyền và nghĩa vụ cũng như quy định pháp luật có liên quan
đến nội dung tranh chấp, từ đó, các bên có thể hiểu, thỏa thuận và giải quyết
17


được tranh chấp đang xảy ra mà không trái với các quy định của pháp luật,
giúp tiết kiệm được thời gian cũng như tiền bạc của các bên tranh chấp khi
không phải đóng án phí xét xử.
Đối với Tòa án: Đối với trường hợp hòa giải thành, Tòa án một phần
nào sẽ giảm được thời gian cũng như công sức cho việc giải quyết tranh chấp.
Nếu hòa giải thành trong thời gian chuẩn bị xét xử, Tòa án sẽ ra Quyết định
công nhận (QĐCN) sự thỏa thuận giữa các đương sự trên cơ sở thỏa thuận tự
nguyện, không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội, Tòa án
sẽ không mở phiên tòa xét xử sơ thẩm. Nếu hòa giải không thành, vụ án được
đưa ra xét xử sơ thẩm, nhiều trường hợp bị kháng cáo, kháng nghị thì Tòa án
sẽ tiến hành xét xử phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm, kéo dài thời gian giải
quyết tranh chấp. Đồng thời, nếu việc hòa giải được thực hiện tốt, các bên tự
nguyện thỏa thuận được với nhau nội dung tranh chấp thì số lượng án xét xử
của Tòa án cấp sơ thẩm giảm, dẫn đến số lượng án xét xử cấp phúc thẩm
giảm, Tòa án không mất nhiều thời gian giải quyết nhiều tranh chấp cùng lúc,
từ đó, có thời gian nâng cao hiệu quả công tác xét xử, tránh tình trạng án bị
kháng cáo, kháng nghị. Điều này không chỉ có ý nghĩa về kinh tế mà còn có ý

nghĩa rất quan trọng trong việc tăng cường uy tín của cơ quan tư pháp của
Nhà nước nói chung.
Đối với xã hội: Thông qua việc tiến hành hòa giải, nhiều tranh chấp
được giải quyết trên ý chí tự nguyện, thỏa thuận giữa các bên, trong trường
hợp hòa giải không thành, cũng giúp các bên hiểu rõ được nội dung mâu
thuẫn, tranh chấp xảy ra, giúp hạn chế được mâu thuẫn phát sinh trong quá
trình giải quyết tranh chấp. Vì vậy, hòa giải một phần nào giúp giữ gìn an
ninh, trật tự, công bằng cho xã hội trên tinh thần thiện chí, tự nguyện, không
trái với các quy định của pháp luật, đạo đức của xã hội. Đồng thời, hòa giải
góp phần nâng cao ý thức pháp luật của mọi người trong xã hội, góp phần xây
18


×