Tải bản đầy đủ (.docx) (55 trang)

QUẢN LÝ MÔI TRƯỜNG TẠI CÁC KHU CÔNG NGHIỆP TP HCM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (661.5 KB, 55 trang )

BỘ CÔNG THƯƠNG
ĐẠI HỌC CÔNG NGHIỆP THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
……….……….

TIỂU LUẬN MÔN

QUẢN LÝ MÔI TRƯỜNG CÔNG NGHIỆP
VÀ ĐÔ THỊ

CHUYÊN ĐỀ: QUẢN LÝ MÔI TRƯỜNG TẠI
CÁC KHU CÔNG NGHIỆP TPHCM

GVHD: TS. LÊ VIỆT THẮNG
NHÓM: 4

TPHCM,
10 nămNGHIỆP
2017 20172017
TRƯỜNG
ĐẠItháng
HỌC CÔNG
TP.HCM


VIỆN KHOA HỌC CÔNG NGHỆ VÀ QUẢN LÝ MÔI TRƯỜNG
---------------------------------------------------

TIỂU LUẬN MÔN

QUẢN LÝ MÔI TRƯỜNG CÔNG NGHIỆP
VÀ ĐÔ THỊ



CHUYÊN ĐỀ: QUẢN LÝ MÔI TRƯỜNG TẠI
CÁC KHU CÔNG NGHIỆP TPHCM

GVHD: TS. LÊ VIỆT THẮNG

TP. Hồ Chí Minh, tháng 10 năm 2017


MỤC LỤC

DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
BQL

: Ban quản lý

CNH-HĐH

: Công nghiệp hóa-Hiện đại hóa

DN

: Doanh nghiệp

FDI

: Đầu tư trực tiếp nước ngoài (Foreign Direct Investment)

KCN


: Khu công nghiệp

KCX

: Khu chế xuất

TPHCM

: Thành phố Hồ Chí Minh

UBND

: Ủy ban nhân dân

KCNST

: Khu công nghiệp sinh thái

STHCN

: Sinh thái học công nghiệp


DANH MỤC BẢNG
Bảng 2.1: Một số khu chế xuất, khu công nghiệp tại TPHCM.....................................12
Bảng 2.2: Tổng hợp dự kiến điều chỉnh quy hoạch các khu công nghiệp - chế xuất
thành phố Hồ Chí Minh đến năm 2015, và định hướng đến năm 2020........................16

DANH MỤC HÌNH ẢNH
Hình 2.1: Qui hoạch và dự kiến phát triển các khu chế xuất và công nghiệp Tp Hồ

Chí Minh đến năm 2020..............................................................................................15
Hình 3.1: Sơ đồ tổ chức ban quản lý KCN, KCX.......................................................26
Hình 4.1 – Vị trí phân bố các KCN, KCX trên địa bàn TP.HCM.................................30

LỜI MỞ ĐẦU
Khu công nghiệp đóng vai trò vô cùng quan trọng thúc đẩy quá trình công
nghiệp hóa ở hầu hết các quốc gia trên thế giới đặc biệt là các nước đang phát triển ở
châu Á. Các khu công nghiệp phát triển nhanh chóng đem lại lợi ích về kinh tế rất lớn
cho các quốc gia.
Tuy nhiên, điều đáng nói nhất là tốc độ phát triển kinh tế của các khu công
nghiệp và sự tập trung công nghiệp trong một khu vực nhất đinh đã kéo theo nhiều tác
động tiêu cực đối với môi trường, sự phát triển của các KCN, KCX trong thời gian qua


đã bộc lộ nhiều hạn chế và yếu kém cần được nghiêm túc khắc phục, đó chính là tình
trạng ô nhiễm môi trường do các KCN, KCX gây ra, trong đó đáng kể đến là vấn nạn ô
nhiễm nguồn nước và không khí. Trong quá trình vận hành máy móc, thiết bị nhằm
phục vụ cho quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh của mình, một bộ phận lớn các
DN đã thiếu đi sự quan tâm đúng mức đến vấn đề BVMT trong và ngoài KCN, KCX,
đã gây ra những hệ lụy về môi trường nghiêm trọng. Bên cạnh đó sự tồn đọng nhiều
bất cập trong hệ thống pháp lý và quản lý lỏng lẻo của các cơ quan, ban, ngành tạo
điều kiện cho ô nhiễm càng trầm trọng hơn.
Bảo vệ môi trường sinh thái trong quá trình tăng trưởng kinh tế chính là yếu tố
đảm bảo sự bền vững trong phát triển các KCN, KCX; là điều kiện tiên quyết để phát
triển sản xuất, kinh doanh, đem lại hiệu quả kinh tế cao, bảo đảm cho sự thắng lợi của
công cuộc CNH-HĐH và hội nhập thành công. Do đó, bên cạnh việc khắc phục những
tồn đọng và đẩy nhanh sự phát triển của các KCN một cách toàn diện theo hướng
CNH-HĐH và hội nhập kinh tế quốc tế, cần coi trọng và giải quyết tốt hơn nữa vấn đề
bảo vệ môi trường, nhất là công tác quản lý môi trường khu công nghiệp để đảm bảo
cho các KCN có thể phát triển một cách bền vững.



CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN VỀ KHU CÔNG NGHIỆP
1.1. Khái niệm về KCN
Trên thế giới loại hình Khu công nghiệp (KCN) đã có một quá trình lịch sử
phát triển hơn 100 năm nay bắt đầu từ những nước công nghiệp phát triển như Anh,
Mỹ cho đến những nước có nền kinh tế công nghiệp mới như Hàn Quốc, Đài Loan,
Singapore,…và hiện nay vẫn đang được các quốc gia học tập và kế thừa kinh nghiệm
để tiến hành công nghiệp hóa. Tùy điều kiện từng nước mà KCN có những nội dung
hoạt động kinh tế khác nhau và có những tên gọi khác nhau nhưng chúng đều mang
tính chất và đặc trưng của KCN. Hiện nay trên thế giới có hai mô hình phát triển KCN,
cũng từ đó hình thành hai định nghĩa khác nhau về KCN.
– Định nghĩa 1: Khu công nghiệp là khu vực lãnh thổ rộng lớn, có ranh giới
địa lý xác định, trong đó chủ yếu là phát triển các hoạt động sản xuất công nghiệp và
có đan xen với nhiều hoạt động dịch vụ đa dạng; có dân cư sinh sống trong khu. Ngoài
chức năng quản lý kinh tế, bộ máy quản lý các khu này còn có chức năng quản lý hành
chính, quản lý lãnh thổ. KCN theo quan điểm này về thực chất là khu hành chính –
kinh tế đặc biệt như các công viên công nghiệp ở Đài Loan, Thái Lan và một số nước
Tây Âu.
– Định nghĩa 2: Khu công nghiệp là khu vực lãnh thổ có giới hạn nhất định, ở
đó tập trung các doanh nghiệp công nghệp và dịch vụ sản xuất công nghiệp, không có
dân cư sinh sống và được tổ chức hoạt động theo cơ chế ưu đãi cao hơn so với các khu
vực lãnh thổ khác Theo quan điểm này, ở một số nước và vùng lãnh thổ như Malaysia,
Indonesia, ….đã hình thành nhiều KCN với qui mô khác nhau và đây cũng là loại hình
KCN nước ta đang áp dụng hiện nay.
Những khái niệm về KCN còn đang gây nhiều tranh luận, chưa có sự thống
nhất và còn những quan niệm khác nhau về KCN.Ở Việt Nam khái niệm về KCN đã
được trình bày tại nhiều văn bản pháp luật như Quy chế Khu công nghiệp ban hành
theo Nghị định số 192-CP ngày 28 tháng 12 năm 1994 của Chính phủ; Luật Đầu tư
nước ngoài năm 1996; Quy chế Khu công nghiệp, Khu chế xuất, Khu công nghệ cao


6


ban hành theo Nghị định số 36/CP ngày 24 tháng 2 năm 1997 của Chính phủ, Luật đầu
tư năm 2005.
Định nghĩa ban đầu về KCN được nêu trong Quy chế Khu công nghiệp ban
hành theo Nghị định số 192-CP ngày 28 tháng 12 năm 1994 của Chính phủ thì KCN
được hiểu là KCN tập trung do Chính phủ quyết định thành lập, có ranh giới địa lý xác
định, chuyên sản xuất công nghiệp và thực hiện các dịch vụ hỗ trợ sản xuất công
nghiệp, không có dân cư sinh sống.
Nghị định của Chính phủ số 29/2008/NĐ-CP ngày 14 tháng 03 năm 2008 quy
định về KCN, KCX và KKT thì khái niệm về khu công nghiệp được hiểu như sau:
Khu công nghiệp là khu chuyên sản xuất hàng công nghiệp và thực hiện các
dịch vụ cho sản xuất công nghiệp, có ranh giới địa lý xác định, được thành lập theo
điều kiện, trình tự và thủ tục quy định của Chính phủ.
Khu chế xuất là khu công nghiệp chuyên sản xuất hàng xuất khẩu, thực hiện
dịch vụ cho sản xuất hàng xuất khẩu và hoạt động xuất khẩu, có ranh giới địa lý xác
định, được thành lập theo điều kiện, trình tự và thủ tục áp dụng đối với khu công
nghiệp theo quy định của Chính phủ..
Khu công nghiệp, khu chế xuất được gọi chung là khu công nghiệp, trừ trường
hợp quy định cụ thể.
Khu công nghiệp là công cụ của chính sách công nghiệp nhằm thúc đẩy công
nghiệp hóa hướng về xuất khẩu, đồng thời cũng là địa bàn để thực hiện chiến lược
CNH, HĐH trên phạm vi lãnh thổ nhất định.
Khu công nghiệp đối với nước ta còn là vấn đề mới mẻ, nhưng qua mấy năm
xây dựng và phát triển, nó trở thành nhân tố rất quan trọng góp phần thực hiện mục
tiêu CNH, HĐH.
Tóm lại, KCN là đối tượng đặc thù của quản lý nhà nước về kinh tế trong các
giai đoạn phát triển với các đặc điểm về mục tiêu thành lập, giới hạn hoạt động tập

trung vào công nghiệp, ranh giới địa lý và thẩm quyền ra quyết định thành lập.[1].
7


1.2. Phân loại các KCN
Có thể căn cứ vào nhiều tiêu thức khác nhau:


Căn cứ vào mục đích sản xuất, người ta chia ra khu công nghiệp và khu chế xuất. Khu
công nghiệp bao gồm các cơ sở sản xuất hàng công nghiệp để tiêu thụ nội địa và xuất

khẩu. Khu chế xuất là một dạng của khu công nghiệp chuyên làm hàng xuất khẩu.
• Theo mức độ mới - cũ, khu công nghiệp chia làm 3 loại:
- Các khu công nghiệp cũ xây dựng trong thời kỳ bao cấp (từ trước khi có chủ
trương xây dựng khu chế xuất năm 1990).
- Các khu công nghiệp cải tạo, hình thành trên cơ sở có một số xí nghiệp đang
hoạt động.
- Các khu công nghiệp xuất hiện trên địa bàn mới.


Theo tính chất đồng bộ của việc xây dựng, cần tách riêng 2 nhóm khu công nghiệp đã
hoàn thành và chưa hoàn thành đầy đủ cơ sở hạ tầng và các công trình bảo vệ môi
trường như hệ thống thông tin, giao thông nội khu, các công trình cấp điện, cấp nước,

thoát nước mưa, nước thải, các nhà máy xử lý nước thải, chất thải rắn, bụi khói v.v...
• Theo tình trạng cho thuê, có thể chia số khu công nghiệp thành ba nhóm có diện tích
cho thuê được lấp kín dưới 50%, trên 50% và 100%.(Các tiêu thức 3 và 4 chỉ là tạm
thời: khi xây dựng hoàn chỉnh, đồng bộ tất cả các công trình và cho thuê hết diện tích



thì 2 tiêu thức đó không cần sử dụng nữa).
Theo quy mô, hình thành 3 loại khu công nghiệp: lớn, vừa và nhỏ. Các chỉ tiêu phân
bổ quan trọng nhất có thể chọn là diện tích tổng số doanh nghiệp, tổng số vốn đầu tư,
tổng số lao động và tổng giá trị gia tăng. Các khu công nghiệp lớn được thành lập phải
có quyết định của Thủ tướng chính phủ. Các khu công nghiệp vừa và nhỏ thuộc quyền
quyết định của Chủ tịch UBND tỉnh, thành phố. Trong giai đoạn đầu hiện nay ta chú

trọng xây dựng các khu công nghiệp vừa và nhỏ để sớm khai thác có hiệu quả.
• Theo trình độ kỹ thuật, có thể phân biệt:
- Các khu công nghiệp bình thường, sử dụng kỹ thuật hiện đại chưa nhiều.
- Các khu công nghiệp caoo, kỹ thuật hiện đại thuộc ngành công nghiệp mũi
nhọn như công nghệ điện tử, công nghệ thông tin, công nghệ sinh học v.v... làm đầu
tàu cho sự phát triển công nghiệp, phục vụ cho mục tiêu phát triển kinh tế xã hội dài
hạn.
8




Theo chủ đầu tư, có thể chia thành 3 nhóm:
- Các khu công nghiệp chỉ gồm các doanh nghiệp, dự án đầu tư trong nước.
- Các khu công nghiệp hỗn hợp bao gồm các doanh nghiệp, dự án đầu tư trong
nước và nước ngoài.
- Các khu công nghiệp chỉ gồm các doanh nghiệp, các dự án 100% vốn đầu tư
nước ngoài.



Theo tính chất của thực thể kinh tế xã hội, cần phân biêt 2 loại:
- Các khu công nghiệp thuần túy chỉ xây dựng các xí nghiệp sản xuất, chế biến

sản phẩm, không có khu vực dân cư.
- Các khu công nghiệp này dần dần sẽ trở thành thị trấn, thị xã hay thành phố
vệ tinh. Đó là sự phát triển toàn diện của các khu công nghiệp.



Theo tính chất ngành công nghiệp có Có thể liệt kê theo các ngành cấp I, như khu chế
biến nông lâm hải sản, khu công nghiệp khai thác quặng, dầu khí, hóa dầu, điện tử, tin
học, khu công nghiệp điện, năng lượng, khu công nghiệp phục vụ vận tải, khu công

nghiệp vật liệu xây dựng v.v...
• Theo lãnh thổ địa lý: phân chia các khu công nghiệp theo ba miền Bắc, Trung, Nam,
theo các vùng kinh tế xã hội (hoặc theo các vùng kinh tế trọng điểm); và theo các tỉnh
thành để phục vụ cho việc khai thác thế mạnh của mỗi vùng, làm cho kinh tế xã hội
của các vùng phát triển tương đối đồng đều, góp phần bảo đảm nền kinh tế quốc dân
phát triển bền vững.
Quá trình phát triển kinh tế nói chung và công nghiệp nói riêng trong thế kỷ 21
sẽ đặt ra những yêu cầu mới, nhân vật mới, tạo ra những đặc trưng mới cho bộ mặt các
khu công nghiệp.[2]
1.3. Vai trò của KCN
Các KCN có vai trò đặc biệt quan trọng đối với sự phát triển của nền kinh tế
quốc dân, nhất là các nước đang phát triển thì việc hình thành các Khu công nghiệp đã
tạo ra được cơ hội phát triển công nghiệp và thực hiện công nghiệp hóa rút ngắn bởi có
thể kết hợp và học tập được những thành tựu mới nhất về khoa học công nghệ, về tổ
chức và quản lý doanh nghiệp, đồng thời tranh thủ được nguồn vốn đầu tư từ nước
ngoài để phát triển, cụ thể:
9





Thu hút vốn đầu tư trong và ngoài nước để phát triển nền kinh tế.
KCN với đặc điểm là nơi được đầu tư cơ sở hạ tầng hoàn chỉnh, đồng bộ, hiện
đại và thu hút các nhà đầu tư cùng đầu tư trên một vùng không gian lãnh thổ do vậy đó
là nơi tập trung và kết hợp sức mạnh nguồn vốn trong và ngoài nước. Với quy chế
quản lý thống nhất và các chính sách ưu đãi, các KCN đã tạo ra một môi trường đầu tư
kinh doanh thuận lợi, có sức hấp dẫn đối với các nhà đầu tư nước ngoài; hơn nữa việc
phát triển các KCN cũng phù hợp với chiến lược kinh doanh của các tập đoàn, công ty
đa quốc gia trong việc mở rộng phạm vi hoạt động trên cơ sở tranh thủ ưu đãi thuế
quan từ phía nước chủ nhà, tiết kiệm chi phí, tăng lợi nhuận và khai thác thị trường
mới ở các nước đang phát triển. Do vậy, KCN giúp cho việc tăng cường huy động vốn
và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn cho phát triển kinh tế xã hội và là đầu mối quan
trọng trong việc thu hút nguồn vốn đầu tư trong nước và là giải pháp hữu hiệu nhằm
thu hút vốn đầu tư trực tiếp từ nước ngoài. Vốn đầu tư trực tiếp từ nước ngoài là một
trong những nhân tố quan trọng giúp quốc gia thực hiện và đẩy nhanh sự nghiệp CNHHĐH đất nước, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Mặt khác sự hoạt động của đồng vốn có
nguồn gốc từ đầu tư trực tiếp từ nước ngoài đã tác động tích cực thúc đẩy sự lưu thông
và hoạt động của đồng vốn trong nước.
Việc khuyến khích các thành phần kinh tế trong nước đầu tư vào KCN bằng
nhiều hình thức, đa dạng sẽ thu hút được một nguồn vốn lớn trong nước tham gia đầu
tư vào các KCN. Đây là nguồn vốn tiềm tàng rất lớn trong xã hội chưa được khai thác
và sử dụng hữu ích. Nguồn vốn đầu tư của các doanh nghiệp trong nước tham gia xây
dựng hạ tầng KCN và đầu tư sản xuất trong KCN sẽ tạo sự tin tưởng và là động lực
thu hút các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào KCN. Thực tế trong thời gian vừa qua,
các KCN đã thu hút được khá nhiều các nguồn vốn cho mục tiêu đầu tư phát triển kinh
tế xã hội của quốc gia nói chung và từng địa phương nói riêng.



Đẩy mạnh xuất khẩu, tăng thu và giảm chi ngoại tệ và góp phần tăng nguồn thu ngân
sách.

Sự phát triển các KCN có tác động rất lớn đến quá trình chuyển dịch cơ cấu
kinh tế theo hướng công nghiệp hóa hướng về xuất khẩu. Hàng hóa sản xuất ra từ các
KCN chiếm tỷ trọng đáng kể trong tổng số lượng hàng hóa xuất khẩu của địa phương
10


và của cả nước. Khi các KCN mới bắt đầu đi vào hoạt động, lúc này nguồn thu ngoại
tệ của các KCN chưa đảm bảo vì các doanh nghiệp phải dùng số ngoại tệ thu được để
nhập khẩu công nghệ, dây chuyền, máy móc thiết bị … nhưng cái lợi thu được là nhập
khẩu nhưng không mất ngoại tệ. Khi các doanh nghiệp đi vào sản xuất ổn định, có
hiệu quả thì lúc đó nguồn thu ngoại tệ bắt đầu tăng lên nhờ hoạt động xuất khẩu của
các doanh nghiệp KCN. Ngoài ra, hình thức xuất khẩu tại chỗ thông qua việc cung ứng
nguyên vật liệu của các doanh nghiệp trong nước cho các doanh nghiệp chế xuất hoạt
động trong KCN và việc một số doanh nghiệp chế xuất tổ chức gia công một số chi
tiết, phụ tùng, một số công đoạn tại các doanh nghiệp trong nước góp phần vào quá
trình nội địa hóa trong cơ cấu giá trị sản phẩm của các doanh nghiệp. Ngoài ra, các
KCN cũng đóng góp đáng kể vào việc tăng nguồn thu ngân sách cho các địa phương
và đóng góp chung cho nguồn thu của quốc gia.


Tiếp nhận kỹ thuật, công nghệ tiên tiến, phương pháp quản lý hiện đại và kích thích sự
phát triển các ngành công nghiệp phụ trợ và doanh nghiệp trong nước.
Kinh nghiệm phát triển của nhiều nước trên thế giới cho thấy việc áp dụng tiến
bộ khoa học công nghệ tiên tiến của các nước đi trước là một trong những bí quyết để
phát triển và đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa. Việc tiếp cận và vận dụng linh hoạt
kỹ thuật, công nghệ tiên tiến vào điều kiện cụ thể của từng quốc gia là một trong
những giải pháp mà các nước đang phát triển áp dụng nhằm rút ngắn thời gian của quá
trình công nghiệp hóa. Cùng với sự hoạt động của các KCN một lượng không nhỏ các
kỹ thuật công nghệ tiên tiến, dây chuyền sản xuất đồng bộ, kỹ năng quản lý hiện đại…
đã được chuyển giao và áp dụng thành công trong các ngành công nghiệp; Việc

chuyển giao công nghệ của khu vực FDI tới các doanh nghiệp trong nước đã góp phần
thúc đẩy vào việc tăng năng suất, mang lại hiệu quả kinh tế cao trong các ngành công
nghiệp. KCN thúc đẩy sự phát triển năng lực khoa học công nghệ góp phần tạo ra
những năng lực sản xuất mới, ngành nghề mới, công nghệ mới, sản phẩm mới, phương
thức sản xuất, kinh doanh mới… giúp cho nền kinh tế từng bước chuyển dịch theo
hướng kinh tế thị trường hiện đại và hội nhập kinh tế quốc tế và phục vụ cho sự nghiệp
CNH-HĐH của quốc gia.

11


KCN là nơi tập trung hóa sản xuất cao và từ việc được tổ chức sản xuất khoa
học, trang bị công nghệ kỹ thuật tiên tiến của các doanh nghiệp FDI, các cán bộ quản
lý, công nhân kỹ thuật làm việc tại các KCN sẽ được đào tạo và đào tạo lại về kinh
nghiệm quản lý, phưong pháp làm việc với công nghệ hiện đại, tác phong công nghiệp
…. Những kết quả này có ảnh hưởng gián tiếp và tác động mạnh đến các doanh nghiệp
trong nước trong việc đổi mới công nghệ, trang thiết bị, nâng cao chất lượng sản
phẩm, thay đổi phương pháp quản lý … để nâng cao năng lực cạnh tranh nhằm đạt
hiệu quả kinh tế cao. Sự có mặt của các tập đoàn công nghiệp, các tập đoàn đa quốc
gia, các công ty có uy tín trên thế giới trong các KCN cũng là một tác nhân thúc đẩy
phát triển công nghiệp phụ trợ theo hướng liên doanh, liên kết. Thông qua đó cho phép
các công ty trong nước có thể vươn lên trở thành các nhà cung cấp đạt tiêu chuẩn quốc
tế và trở thành những tập đoàn kinh tế mạnh, các công ty đa quốc gia.


Tạo công ăn việc làm, xoá đói giảm nghèo và phát triển nguồn nhân lực.
Xây dựng và phát triển KCN đã thu hút một lượng lớn lao động vào làm việc
tại các KCN và đã có tác động tích cực tới việc xóa đói giảm nghèo và giảm tỷ lệ thất
nghiệp trong cộng đồng dân cư đồng thời góp phần làm giảm các tệ nạn xã hội do thất
nghiệp gây nên. Phát triển KCN góp phần quan trọng trong việc phân công lại lực

lượng lao động trong xã hội, đồng thời thúc đẩy sự hình thành và phát triển thị trường
lao động có trình độ và hàm lượng chất xám cao. Quan hệ cung cầu lao động diễn ra ở
thị trường này diễn ra gay gắt chính là động lực thúc đẩy người sử dụng lao động,
người lao động phải rèn luyện và không ngừng học tập, nâng cao trình độ tay nghề.
Như vậy, KCN đóng góp rất lớn vào việc đào tạo nguồn nhân lực có trình độ chuyên
môn kỹ thuật phù hợp với công nghệ mới áp dụng vào sản xuất đạt trình độ khu vực và
quốc tế và hình thành đội ngũ lao động của nền công nghiệp hiện đại thông qua việc
xây dựng các cơ sở đào tạo nghề, liên kết gắn đào tạo nghề với giải quyết việc làm
giữa các doanh nghiệp KCN với nhà trường.



Thúc đẩy việc hiện đại hóa hệ thống kết cấu hạ tầng và là hạt nhân hình thành đô thị
mới.

12


Xây dựng và phát triển các KCN trong phạm vi từng tỉnh, thành phố, vùng kinh
tế và quốc gia là hạt nhân thúc đẩy nhanh tốc độ đô thị hóa và hiện đại hóa kết cấu hạ
tầng trong và ngoài KCN tại các địa phương, cụ thể:
– Cùng với quá trình hình thành và phát triển KCN, kết cấu hạ tầng của các
KCN được hoàn thiện; kích thích phát triển kinh tế địa phương thông qua việc cải
thiện các điều kiện về kỹ thuật hạ tầng trong khu vực, gia tăng nhu cầu về các dịch vụ
phụ trợ, góp phần thúc đẩy hoạt động kinh doanh cho các cơ sở kinh doanh, dịch vụ
trong khu vực; góp phần rút ngắn khoảng cách chênh lệch phát triển giữa nông thôn và
thành thị, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân;
– Việc đầu tư hoàn thiện hạ tầng kỹ thuật trong KCN không những thu hút các
dự án đầu tư mới mà còn tạo điều kiện cho các doanh nghiệp mở rộng quy mô để tăng
năng lực sản xuất và cạnh tranh, hoặc di chuyển ra khỏi các khu đông dân cư, tạo điều

kiện để các địa phương giải quyết các vấn đề ô nhiễm, bảo vệ môi trường đô thị, tái tạo
và hình thành quỹ đất mới phục vụ các mục đích khác của cộng đồng trong khu vực;
– Quá trình xây dựng kết cấu hạ tầng trong và ngoài hàng rào KCN còn đảm
bảo sự liên thông giữa các vùng, định hướng cho quy hoạch phát triển các khu dân cư
mới, các khu đô thị vệ tinh, hình thành các ngành công nghiệp phụ trợ, dịch vụ… các
công trình hạ tầng xã hội phục vụ đời sống người lao động và cư dân trong khu vực
như: nhà ở, trường học, bệnh viện, khu giải trí…;
– Tạo điều kiện cho các doanh nghiệp đón bắt và thu hút đầu tư vào các ngành
như điện, giao thông vận tải, hệ thống thông tin liên lạc, cảng biển, các hoạt động dịch
vụ tài chính, ngân hàng, bảo hiểm, phát triển thị trường địa ốc… đáp ứng nhu cầu hoạt
động và phát triển của các KCN;
– Phát triển KCN là hạt nhân hình thành đô thị mới, mang lại văn minh đô thị
góp phần cải thiện đời sống kinh tế, văn hóa, xã hội cho khu vực rộng lớn được đô thị
hóa.
Phát triển KCN gắn với bảo vệ môi trường sinh thái

13


Các doanh nghiệp muốn tồn tại và phát triển cần phải khai thác và sử dụng hợp
lý nguồn tài nguyên thiên nhiên và bảo vệ môi trường. Do vậy để một doanh nghiệp
đơn lẻ xây dựng các công trình xử lý chất thải rất tốn kém, khó có thể đảm bảo được
chất lượng nhất là trong điều kiện hiện nay ở nước ta phần lớn là doanh nghiệp vừa và
nhỏ. KCN là nơi tập trung số lượng lớn nhà máy công nghiệp, do vậy có điều kiện đầu
tư tập trung trong việc quản lý, kiểm soát, xử lý chất thải và bảo vệ môi trường. Chính
vì vậy việc xây dựng các KCN là tạo thuận lợi để di dời các cơ sở sản xuất gây ô
nhiễm từ nội thành, khu dân cư đông đúc, hạn chế một phần mức độ gia tăng ô nhiễm,
cải thiện môi trường theo hướng thân thiện với môi trường phục vụ mục tiêu phát triển
bền vững.
Ngoài ra, KCN còn là động lực thúc đẩy việc đổi mới, hoàn thiện thể chế kinh

tế, hệ thống pháp luật, thủ tục hành chính, góp phần cơ cấu lại lĩnh vực phân phối, lưu
thông và dịch vụ xã hội; tạo điều kiện cho các địa phương phát huy thế mạnh đặc thù
của mình, đồng thời hình thành mối liên kết, hỗ trợ phát triển sản xuất trong từng
vùng, miền và cả nước; từ đó tạo ra những năng lực sản xuất, ngành nghề và công
nghệ mới, làm cho cơ cấu kinh tế của nhiều tỉnh, thành phố và khu vực toàn tuyến
hành lang kinh tế nói chung từng bước chuyển biến theo hướng một nền kinh tế CNH,
thị trường, hiện đại.[3]
1.4. Giới thiệu chung về KCN ở TPHCM
Tính đến 30/9/2015, 3 khu chế xuất và 13 khu công nghiệp thành phố Hồ Chí
Minh có 1.387 dự án đầu tư còn hiệu lực với tổng vốn đầu tư đăng ký là 9,043 tỷ USD,
trong đó đầu tư nước ngoài 559 dự án, vốn đầu tư là 5,4 tỷ USD; đầu tư trong
nước 828 dự án, vốn đầu tư đăng ký 54.641 tỷ VNĐ (tương đương 3,65 tỷ USD); kim
ngạch xuất khẩu tính đến nay là 46 tỷ USD với các thị trường chủ yếu là Mỹ, Nhật
Bản, châu Âu và Đài Loan; sản phẩm xuất đi trên 50 quốc gia và vùng lãnh thổ đồng
thời thu hút 280.778 lao động.
Theo Quyết định 188/2004/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về qui hoạch
phát triển công nghiệp thành phố Hồ Chí Minh đến 2010 có tính đến 2020 xác định
quỹ đất khu chế xuất, khu công nghiệp tập trung là 7.000ha trong đó đã khai thác 4000
ha, diện tích đất còn lại là 3000 ha. Hiện nay, định hướng phát triển khu chế xuất, khu
công nghiệp của thành phố Hồ Chí Minh chú trọng thu hút các nhà đầu tư vào các lĩnh
14


vực kỹ thuật cao, công nghệ tiên tiến – đặc biệt là các ngành cơ khí, điện-điện tử và
hóa chất.
Thành phố Hồ Chí Minh được xem là một thành phố năng động với một nền
tảng chính trị-xã hội ổn định, các ngành kinh tế phát triển nhanh chóng và lực lượng
lao động dồi dào có chất lượng chuyên môn cao. Đến nay, thành phố đóng góp 20% về
GDP, 30% giá trị sản xuất công nghiệp, 40% về kim ngạch xuất khẩu của cả nước và
tổng thu ngân sách đạt 91.305 tỷ đồng, đứng đầu về mức bình quân GDP trên đầu

người, gấp gần 3 lần mức bình quân cả nước.[4]
1.5. Lịch sử hình thành và phát triển KCN ở TPHCM
Thành lập các khu chế xuất và khu công nghiệp tại thành phố Hồ Chí
Minh
Sau khi Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam được ban hành năm 1987, đầu tư
nước ngoài vào Việt Nam tăng lên rất nhanh, song hầu hết tập trung vào lĩnh vực dịch
vụ. Đầu tư nước ngoài vào công nghiệp, nhất là công nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu
gặp 2 khó khăn chính là: cơ sở hạ tầng yếu kém, thủ tục xin giấy phép đầu tư và triển
khai dự án đầu tư phức tạp, mất nhiều thời gian. Dựa vào kinh nghiệm của nước ngoài,
Chính phủ chủ trương thành lập khu chế xuất để làm thí điểm một mô hình kinh tế
nhằm thực hiện chủ trương đổi mới, mở cửa theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa
theo Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ VI năm 1986.
Vì vậy, Quy chế khu chế xuất đã được ban hành kèm theo Nghị định số
322/HĐBT ngày 18/10/1991 và khu chế xuất Tân Thuận - khu chế xuất đầu tiên của cả
nước đã được thành lập theo Quyết định của Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng số 394/CT
ngày 25/11/1991 nay là Chính phủ.
Năm 1992 khu chế xuất Linh Trung, năm 1996 và 1997 liên tiếp 10 khu công
nghiệp của Thành phố có Quyết định thành lập của Chính phủ. Đầu năm 2002, thêm
một khu công nghiệp nữa được thành lập theo quyết định của Chính phủ là khu công
nghiệp Phong Phú.
Thành lập Ban quản lý
Ngay sau khi Quy chế khu chế xuất được ban hành và khu chế xuất Tân Thuận
được thành lập, Ban quản lý khu chế xuất Tân Thuận đã được thành lập theo Quyết
15


định của Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng số 62/CT ngày 26/2/1992, gồm 8 thành viên,
Trưởng ban là ông Lữ Minh Châu - Phó Chủ nhiệm Ủy ban Nhà nước về Hợp tác và
đầu tư, Phó ban là ông Nguyễn Công Ái - Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phố Hồ
Chí Minh, các Ủy viên là Vụ trưởng, Vụ phó đại diện cho các Bộ: Thương mại, Tài

chính, Công an, Ngân hàng Nhà nước, Tổng cục Hải quan và Ủy ban Nhân dân thành
phố Hồ Chí Minh.
Sau khi khu chế xuất Linh Trung ra đời, Ban quản lý đổi tên thành Ban quản
lý các khu chế xuất thành phố Hồ Chí Minh và được sử dụng con dấu có hình quốc
huy theo Thông báo số 433/KTĐN ngày 27/10/1992 của Văn phòng Chính phủ.
Sau khi một số khu công nghiệp được thành lập, Ban quản lý các khu chế xuất
thành phố Hồ Chí Minh được chuyển thành Ban quản lý các khu chế xuất và công
nghiệp thành phố Hồ Chí Minh theo Quyết định của Thủ tướng Chính phủ số 731/TTg
ngày 03/10/1996. Từ đó đến nay, Thủ tướng Chính phủ đã bổ nhiệm các Phó Chủ tịch
Ủy ban nhân dân Thành phố kiêm nhiệm Trưởng ban quản lý là ông Trần Thành Long
- từ 1996 đến 1999, ông Trần Ngọc Côn - từ 1999 đến 2001. Từ 2001 ông Nguyễn
Chơn Trung, Phó ban quản lý được bổ nhiệm Trưởng Ban quản lý.
Bộ máy giúp việc của Ban quản lý hình thành từ cuối năm 1992, đến năm
1997 đã ổn định về tổ chức, gồm có 5 Phòng nghiệp vụ, Văn phòng và Trung tâm Dịch
vụ việc làm. Từ năm 1999, Ban quản lý thực hiện thí điểm chê độ tự bảo đảm kinh phí
hoạt động theo Công văn của Chính phủ số 15/CP-khu công nghiệp ngày 14/08/1998
và Quyết định của Bộ trưởng Bộ Tài chính số 45/1999/QĐ-BTC ngày 06/05/1999. Số
lượng cán bộ công nhân viên chức được Ban tổ chức Cán bộ Chính phủ giao chỉ tiêu
năm 2000 là 50 người trong biên chế lương và 15 người làm việc theo hợp đồng lao
động.
Từ tháng 10/2000, Ban quản lý được chuyển giao trực thuộc Ủy ban nhân dân
Thành phố theo quyết định của Thủ tướng Chính phủ số 100/QĐ-TTg ngày
17/08/2000 Ban quản lý chịu sự chỉ đạo và quản lý về Tổ chức, biên chế, chương trình
công tác và kinh phí hoạt động của Ủy ban nhân Thành phố, đồng thời chịu sự chỉ đạo
về nghiệp vụ chuyên môn của Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ quản
lý ngành, lĩnh vực...[5]

16



CHƯƠNG 2. HIỆN TRẠNG VÀ QUY HOẠCH CÁC KCN CỦA THÀNH
PHỐ HỒ CHÍ MINH
2.1. Hiện trạng các khu công nghiệp tại thành phố Hồ Chí Minh
Trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh hiện tại có khoảng 20 khu công nghiệp
đang hoạt động. Với tổng diện tích khoảng 5746.2 ha và 23 cụm công nghiệp với diện
tích khoảng 1493.31 ha, chủ yếu tập trung tại các quận ngoại thành như 2, 7, 8, 9, 12,
Thủ Đức, Tân Bình, Huyện Nhà Bè, Bình Chánh, Củ Chi, Hóc Môn.
Bảng 2.1: Một số khu chế xuất, khu công nghiệp tại TPHCM
ST
T

1

2

Tên
Khu
chế
xuất
Linh
Trung
1
Khu
công
nghiệp
Tân
Thuận

Địa
Loại hình

điểm
khu công
tọa lạc
nghiệp
Quận
Đa ngành,
Thủ
công nghiệp
Đức
nhẹ

Quận 7 Công nghệ
nhẹ, sạch,
không gây ô
nhiễm, công
nghệ cao,
phần mềm,
công nghệ
sinh hóa,
Thương mại
và lưu
chuyển hàng
hóa

Diện tích
62ha
(tỷ lệ lấp
đầy:
92,02% )
300ha

(tỷ lệ lấp
đầy: 80,63
%)

17

Tuyến giao
thông vận tải
gần nhất
Nằm ngay
cạnh quốc lộ
1A, bến cảng
gần nhất là
Cát Lái,…

Cấp điện Cấp nước
Lấy điện
từ trạm
110kV

3.000 m3/
Ngày.Đêm

Quốc lộ gần
Lưới điện 30.000 m3/
nhất là Nguyễn quốc gia Ngày.Đêm
Văn Linh, bến
cảng gần nhất
là cảng Tân
Thuận, Bến

Nghé,,…


Khu
công
nghiệp
Hiệp
Phước

Địa
điểm:
Huyện
Nhà
Bè,
Thành
phố
Hồ Chí
Minh

Đa ngành
(hạn chế các
ngành ô
nhiễm môi
trường)

Giai đoạn
1: 311,4 ha
(tỷ lệ lấp
đầy:
95,5%)

Giai đoạn
2: 597 ha
(tỷ lệ lấp
đầy:
17,93%)

Quốc lộ gần
nhất là quốc lộ
1, bến cảng
gần nhất là
cảng Cảng Tân
Cảng Hiệp
Phước

500 KV
do Trạm
biến thế
Nhà Bè
thuộc
Tổng
Công ty
điện lực
quốc gia
cung cấp

45.000 m3/
Ngày.Đêm

Khu
công

nghiệp
Tân
Tạo

Quận
Tân
Tạo

Đa ngành

343,9ha
(tỷ lệ lấp
đầy:
100%)

Quốc lộ 1A và
kề bên đường
cao tốc Sài
Gòn – Trung
Lương, bến
cảng gần nhất
là cảng Sài
Gòn

Hệ thống
nước máy
Thành phố

Khu
công

nghiệp
Bình
Chiểu

Quận
Thủ
Đức

Đa ngành

27,34 ha
(tỷ lệ lấp
đầy:
100%)

Đường Bình
Chiểu

Khu
công
nghiệp
Cát
Lái II
Khu
công
nghiệp
Vĩnh
Lộc
Khu
công

nghiệp

Minh
Xuân
Khu
công

Quận 2 Đa nghành

136,4 ha
(tỷ lệ lấp
đầy:
87,73%)

Xa lộ Hà Nội
và cảng Cát
Lái

Được cấp
từ trạm
biến áp
110/15
KV, đảm
bảo cung
cấp điện
đầy đủ và
ổn định.
Mạng
điện
chung

của Tp.
Hồ Chí
Minh từ
trạm Thủ
Đức Bắc
Điện lực
Thủ
Thiêm

Huyện
Bình
Chánh

Đa ngành

207 ha
(tỷ lệ lấp
đầy:
100%)

Quốc lộ 1A,
bến cảng gần
nhất là cảng
Sài Gòn

Điện lưới
quốc gia

Hệ thống
nước máy

Thành phố

Huyện
Bình
Chánh

Đa ngành

100 ha
(tỷ lệ lấp
đầy:
100%)

Quốc lộ 1A,
bến cảng gần
nhất là cảng
Sài Gòn

Điện lưới
quốc gia

Hệ thống
nước máy
Thành phố

Quận
12

Đa ngành


28,41 ha
(tỷ lệ lấp

Quốc lộ 22

Điện lưới
quốc gia

Hệ thống
nước máy

3

4

5

6

7

8

9

18

Hệ thống
nước máy
Thành phố


1.469m3/
ngày.đêm


10

11

12

13

14

15

16

nghiệp
Tân
Thới
Hiệp
Khu
công
nghiệp
Tân
Bình
Khu
công

nghiệp
Tây
Bắc
Củ Chi
Khu
công
nghiệp
An Hạ
Khu
công
nghiệp
Đông
Nam
Khu
công
nghiệp
Cơ khí
ô tô

Khu
chế
xuất
Linh
Trung
2
Khu
công
nghiệp

Minh

Xuân
II

đầy:
100%)

Thành phố

128,70 ha
(tỷ lệ lấp
đầy:
100%)

Quốc lộ 1 và
cảng Cát Lái

Điện lưới
quốc gia

3.000 m3/
ngày.đêm

Huyện Đa ngành
Củ Chi

216 ha
(tỷ lệ lấp
đầy:
97,25%)


Quốc lộ 22 và
Cảng Sài Gòn

Điện lưới
quốc gia

Hệ thống
nước máy
Thành phố

Huyện
Bình
Chánh

123,51 ha
(tỷ lệ lấp
đầy:
23,22%)

Quốc lộ 22 và
Cảng Sài Gòn

Điện lưới
quốc gia

300.000
m3/
ngày.đêm

Huyện Đa ngành và 286,76 ha

Củ Chi thu hút đầu (tỷ lệ lấp

đầy:
68,7%)

Đường Xuyên
Á và cảng Cát
Lái

Mạng
lưới cung
cấp điện
EVN

200.000
m3/
ngày đêm

Huyện Ưu tiên
Củ Chi ngành cơ
khí ô tô, cơ
khí chế tạo,
điện, điện
tử, các
ngành công
nghiệp phụ
trợ…
Quận
Đa ngành,
Thủ

công nghiệp
Đức
nhẹ

99,34 ha
(tỷ lệ lấp
đầy: 21%)

Quốc lộ 22,
quốc lộ 13 và
cảng VIC, Bến
Nghé

Điện lưới
quốc gia

2.500
m3/ngày

61,7 ha (tỷ
lấp đầy:
100%)

Quốc lộ 1A và
cảng Cát Lái

Điện lưới
quốc gia

5.980 m3/

ngày đêm

Huyện
Bình
Chánh

319,16 ha

Quốc lộ 1A và
cảng Sài Gòn

Điện lưới
quốc gia

Hệ thống
nước máy
Thành phố

Quận
Tân
Bình

Đa ngành

Đa ngành

Đa ngành

19



17

18

19

20

Khu
công
nghiệp

Minh
Xuân
III
Khu
công
nghệ
cao
Khu
công
nghiệp
Phong
Phú
Khu
công
viên
phần
mềm

Quang
Trung

Huyện
Bình
Chánh

Đa ngành

219,51 ha
Quốc lộ 1A và
(tỷ lấp đầy: cảng Hiệp
0%)
Phước

Điện lưới
quốc gia

30.000
m3/ngày
đêm

Quận 9 Công nghệ
cao

805 ha (tỷ
lấp đầy:
100%)

Quốc lộ 52 và

cảng Cát Lái

Điện lưới
quốc gia

Hệ thống
nước máy
Thành phố

Huyện
Bình
Chánh

Đa ngành

148 ha

Quốc lộ 50

Điện lưới
quốc gia

Hệ thống
nước máy
Thành phố

Quận
12

Công nghệ

thông tin

43 ha (tỷ
lấp đầy:
100%)

Quốc lộ 1A

Điện lưới
quốc gia

Hệ thống
nước máy
Thành phố

2.2. Quy hoạch khu công nghiệp tại thành phố Hồ Chí Minh

20


Hình 2.1: Qui hoạch và dự kiến phát triển các khu chế xuất và công nghiệp Tp Hồ
Chí Minh đến năm 2020
Theo quy hoạch phát triển đến năm 2020, Tp.Hồ Chí Minh sẽ có 23 khu chế
xuất, khu công nghiệp (KCX-KCN) với tổng diện tích khoảng 6.038,8 ha. Hiện nay,
HEPZA đang quản lý 3 KCX và 13 KCN với tổng diện tích là 3.748,49 ha. Hầu hết
các khu này đều có tỷ lệ đất cho thuê từ đất 60% - 100% trên tổng diện tích đất cho
thuê.
Bảng 2.2: Tổng hợp dự kiến điều chỉnh quy hoạch các khu công nghiệp - chế xuất
thành phố Hồ Chí Minh đến năm 2015, và định hướng đến năm 2020
Số TT

1
2
3
4
5

TÊN KCX - KCN
KCX Tân Thuận
KCX Sài Gòn - Linh Trung
KCX Linh Trung 2
KCN Bình Chiểu
KCN Tân Tạo - hiện hữu

VỊ TRÍ
Quận 7
Q. Thủ Đức
Q. Thủ Đức
Q. Thủ Đức
Q. Bình Tân
21

Diện tích đất quy hoạch (ha)
300,00
62,00
61,75
27,34
175,57


KCN Tân Tạo - mở rộng

KCN Tân Bình - hiện hữu
6

7
8
9
10
11
12
13
14
15
16
17
18
19
20
21
22
23
24

Q. Bình Tân
Q. Tân Phú và
Q. Bình Tân
KCN Tân Bình - mở rộng
Q. Tân Phú và
Q. Bình Tân
KCN Lê Minh Xuân
H. Bình Chánh

KCN Lê Minh Xuân - mở rộng H. Bình Chánh
KCN Vĩnh Lộc
Q. Bình Tân
KCN Vĩnh Lộc - mở rộng
H. Bình Chánh
KCN Tân Thới Hiệp
Quận 12
KCN Tây Bắc Củ Chi
H. Củ Chi
KCN Tây Bắc Củ Chi - mở H. Củ Chi
rộng
KCN Cát Lái 2 - GĐ 1 & 2
Quận 2
KCN Hiệp Phước - GĐ1
H. Nhà Bè
KCN Hiệp Phước - GĐ2
H. Nhà Bè
KCN Hiệp Phước - GĐ 3
H. Nhà Bè
KCN Tân Phú Trung
H. Củ Chi
KCN Phong Phú
H. Bình Chánh
KCN Đông Nam
H. Củ Chi
KCN Bàu Đưng(*)
H. Củ Chi
KCN Phước Hiệp(*)
H. Củ Chi
KCN Xuân Thới Thượng(*)

H. Hóc Môn
KCN Vĩnh Lộc 3
H. Bình Chánh
KCN Lê Minh Xuân 2
H. Bình Chánh
KCN Lê Minh Xuân 3
H. Bình Chánh
KCN An Hạ
H. Bình Chánh
KCN Cơ khí Ô tô
H. Củ Chi
KCN Phạm Văn Hai(**)
H. Bình Chánh
Tổng cộng

204,58
105,95
24,01
100,00
120,00
203,18
56,06
28,41
208,00
173,24
124,00
311,40
597,00
500,00
542,64

148,40
286,76
175,00
200,00
300,00
200,00
338,00
242,00
123,51
100,00
768,00
6.038,80

(*): Đã bị xóa quy hoạch
(**): Xây dựng mới
Mục tiêu phát triển các khu công nghiệp tại Việt Nam đến năm 2015 và định
hướng đến năm 2020 là hình thành hệ thống các khu công nghiệp chủ đạo có vai trò
dẫn dắt sự phát triển công nghiệp quốc gia, đồng thời hình thành các khu công nghiệp
có quy mô hợp lý để tạo điều kiện phát triển công nghiệp, nhằm chuyển dịch cơ cấu
kinh tế tại những địa phương có tỷ trọng công nghiệp trong GDP thấp.
22


Đưa tỷ lệ đóng góp của các khu công nghiệp vào tổng giá trị sản xuất công
nghiệp từ trên 24% hiện nay lên khoảng 39 – 40% vào năm 2010 và tới trên 60% vào
giai đoạn tiếp theo. Tăng tỷ lệ xuất khẩu hàng công nghiệp của các khu công nghiệp từ
19,2% giá trị xuất khẩu toàn quốc hiện nay lên khoảng 40% vào năm 2010 và cao hơn
vào các giai đoạn tiếp theo.
TPHCM đang thực hiện đề án Điều chỉnh bổ sung quy hoạch phát triển công
nghiệp đến năm 2020 để phù hợp hơn với tình hình phát triển thực tế, đẩy nhanh tiến

độ triển khai dự án cũng như thu hút đầu tư. Sắp tới sẽ có nhiều sự thay đổi đối với các
khu công nghiệp (KCN), cụm công nghiệp (CCN).
Trước đó, TP đã quy hoạch quỹ đất dành xây dựng các KCN là 7.000ha và
CCN là 1.900ha. Trong quá trình thực hiện, KCN Phú Hữu (quận 9, diện tích 80ha) đã
được xóa quy hoạch để điều chỉnh thành khu dân cư.
Nối tiếp KCN Phú Hữu, vừa qua UBND TP cũng đã chấp thuận xóa quy
hoạch 3 KCN là Xuân Thới Thượng (Hóc Môn), Phước Hiệp và Bàu Đưng (Củ Chi),
tổng diện tích 657ha, vì chậm bồi thường giải phóng mặt bằng, gây ảnh hưởng đến đời
sống người dân trong khu vực. Tuy nhiên, theo Quy hoạch xây dựng các KCN đến
năm 2020, tầm nhìn 2025 thì tổng diện tích các KCN là 7.000ha. Vì thế, để đảm bảo
quỹ đất KCN, TP đã nghiên cứu và bổ sung KCN Phạm Văn Hai (Bình Chánh) diện
tích 768ha, gồm 668ha đất công nghiệp và 100ha đất khu dân cư liền kề phục vụ KCN.
Bên cạnh đó, khu vực dự kiến bố trí KCN Phạm Văn Hai bị chia cắt bởi tuyến
đường vành đai 3 và đường Tây Bắc mở rộng sẽ ảnh hưởng kết nối giao thông trong
khu, nên TPHCM cần khảo sát và nghiên cứu kỹ vị trí này. Đồng thời, phải báo cáo rõ:
Các loại hình công nghiệp dự kiến được hoạt động trong KCN này để làm cơ sở đề
xuất giải pháp quy hoạch xây dựng phù hợp; các chỉ tiêu diện tích giao thông - cây
xanh, phân định rõ đất cây xanh vườn hoa với đất cây xanh cách ly, cũng như đất cây
xanh thuộc công trình đầu mối giao thông trong đô thị theo quy chuẩn kỹ thuật quốc
gia về quy hoạch xây dựng. Bộ Xây dựng cũng lưu ý TP về việc xác định rõ phạm vi
ranh giới KCN và khu đô thị dịch vụ liền kề phục vụ KCN, để đảm bảo tuân thủ các
quy định về lưu trú, tạm trú trong KCN theo quy định của pháp luật.
Ngoài việc xóa quy hoạch, TPHCM còn điều chỉnh giảm quy mô một số KCN
khác. Cụ thể, UBND huyện Củ Chi cho hay đang phối hợp cùng các sở ngành liên
23


quan xem xét để xin ý kiến chỉ đạo của UBND TP về việc điều chỉnh quy hoạch KCN
Tây Bắc Củ Chi mở rộng từ 173ha xuống còn 73ha. KCN Tây Bắc Củ Chi phần mở
rộng đã được Thủ tướng Chính phủ chấp thuận chủ trương đầu tư vào năm 2005 và

UBND TP phê duyệt quy hoạch chi tiết xây dựng tỷ lệ 1/2000 vào năm 2011, do Công
ty cổ phần Đầu tư phát triển công nghiệp thương mại Củ Chi làm chủ đầu tư. Nhưng
cho đến nay, chủ đầu tư chưa thực hiện bồi thường giải phóng mặt bằng cũng như các
thủ tục đầu tư để triển khai dự án, trong khi một phần diện tích dự án có nhà ở hiện
hữu của người dân sinh sống ổn định. Cuối năm 2016, chủ đầu tư có văn bản đề nghị
điều chỉnh quy hoạch theo hướng giảm quy mô phần mở rộng xuống 73ha, đưa khu
dân cư hiện hữu ra ngoài ranh dự án. UBND huyện đã thống nhất hướng điều chỉnh
này. Tương tự, KCN Hiệp Phước giai đoạn 3 cũng đang được rà soát, xem xét điều
chỉnh giảm diện tích.
Còn đối với CCN, TPHCM điều chỉnh giảm từ 30 CCN (diện tích 1.900ha)
xuống còn 6 CCN (331ha), trong đó chuyển 2 CCN An Hạ và Cơ khí ô tô thành KCN,
đưa ra khỏi quy hoạch 22 CCN để chuyển thành chức năng sử dụng đất khác.
.

CHƯƠNG 3. TỔ CHỨC BỘ MÁY QUẢN LÝ MÔI TRƯỜNG KCN
3.1. Vị trí chức năng
Ban Quản lý các Khu công nghiệp và Khu Chế xuất TPHCM (sau đây viết tắt
là Ban Quản lý) là cơ quan trực thuộc Ủy ban nhân dân TPHCM, thực hiện chức năng
quản lý nhà nước trực tiếp đối với các khu công nghiệp trên địa bàn thành phố HCM
và tổ chức cung cấp dịch vụ hành chình công và dịch vụ hỗ trợ khác có liên quan đến
hoạt động đầu tư và sản xuất kinh doanh cho nhà đầu tư trong khu công nghiệp.
Ban Quản lý chịu sự chỉ đạo và quản lý về tổ chức, biên chế, chương trình kế
hoạch công tác và kinh phí hoạt động của Ủy ban nhân dân thành phố; chịu sự chỉ đạo,
hướng dẫn và kiểm tra về chuyên môn nghiệp vụ của các Bộ, ngành quản lý về lĩnh
vực có liên quan.

24


Ban Quản lý có tư cách pháp nhân; có con dấu mang hình quốc huy và tài

khoản riêng; kinh phí quản lý hành chính nhà nước, kinh phí hoạt động sự nghiệp và
vốn đầu tư phát triển do ngân sách nhà nước cấp theo kế hoạch hàng năm.
3.2. Nhiệm vụ và Quyền hạn
Ban Quản lý thực hiện các nhiệm vụ quyền hạn được quy định tại Điều 2
Thông tư liên tịch số 06/2015/TTLT-BKHĐT-BNV ngày 03 tháng 9 năm 2015 của Bộ
Kế hoạch và Đầu tư và Bộ Nội vụ hướng dẫn chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ
cấu tổ chức của Ban Quản lý khu công nghiệp, khu chế xuất, khu kinh tế.
3.3. Cơ cấu tổ chức và biên chế
a) Lãnh đạo Ban Quản lý bao gồm Trưởng ban và không quá 03 (ba) Phó
Trưởng ban.
- Trưởng ban là người đứng đầu Ban Quản lý, chịu trách nhiệm trước Ủy ban
nhân dân thành phố, Chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phố và trước pháp luật về việc
thực hiện chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của Ban Quản lý; chịu trách nhiệm báo
cáo trước Hội đồng nhân dân thành phố, Ủy ban nhân dân thành phố và Bộ Kế hoạch
và Đầu tư theo quy định.
- Phó Trưởng ban là người giúp Trưởng Ban phụ trách một số mặt công tác
của Ban Quản lý, chịu trách nhiệm trước Trưởng Ban và trước pháp luật về các nhiệm
vụ
được phân công.
- Việc bổ nhiệm, bổ nhiệm lại, điều động, luân chuyển, khen thưởng, kỷ luật,
miễn nhiệm, cho từ chức, nghỉ hưu và thực hiện chế các chế độ chính sách khác đối
với Trưởng ban và Phó Trưởng ban do Chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phố quyết định
theo quy định của pháp luật.
b) Cơ cấu tổ chức của Ban Quản lý:
- Văn phòng
1. Tham mưu, quản lý về công tác tổ chức, cán bộ.
2. Tham mưu xây dựng các quy chế, quy định nội bộ của Ban Quản lý.
25



×