I. MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
“Trẻ em hôm nay thế giới ngày mai” có thể nói câu hát này cứ vang vọng
mãi trong tâm hồn của tôi - một cô giáo mầm non. Nó luôn nhắc nhở cho tôi vê
lương tâm và trách nhiệm nghê nghiệp của mình chính là người góp một phần
nhỏ bé của mình vào việc ươm những mầm xanh tương lai của đất nước, góp
phần đào tạo một thế hệ là chủ nhân tương lai của đất nước phát triển toàn diện
vê mọi mặt.
Đúng vậy đối với trẻ mầm non, mà đặc biệt là lứa tuổi mẫu giáo được
xem như: “Điểm khởi đầu” của quá trình hình thành nhân cách con người thì
việc rèn kỹ năng sống cho trẻ là vô cùng quan trọng và rất cần thiết. Bởi trẻ đang
chập chững bước những bước đầu tiên vào đời, đang từng bước: “Học cách làm
người”. Nếu các kỹ năng sớm được hình thành thì trẻ sẽ có nhân cách phát triển
toàn diện và bên vững. Rèn kỹ năng sống cho trẻ từ lúc đầu đời là chìa khóa
thành công cho tương lai của mỗi đứa trẻ. N. Mandela - cố Tổng thống Nam Phi
đã nói:“Giáo dục là vũ khí mạnh nhất mà người ta có thể sử dụng để thay đổi cả
thế giới.[1]
Chính vì vậy, việc rèn luyện kỹ năng sống cho trẻ là điêu rất cần thiết.
Việc hình thành các kỹ năng cơ bản trong học tập và sinh hoạt là yếu tố quyết
định đến quá trình hình thành và phát triển nhân cách sau này của trẻ. Khi xảy ra
vấn đê nào đó, nếu không được trang bị kỹ năng sống, trẻ sẽ không đủ kiến thức
để xử lý các tình huống bất ngờ. Vì thế, rèn luyện kỹ năng sống sẽ giúp trẻ sớm
có ý thức làm chủ bản thân, sống tích cực và hướng đến những điêu lành mạnh
cho chính mình cũng như xã hội.
Ở độ tuổi mầm non, trẻ xuất hiện tình trạng thụ động, không biết ứng phó
trong những hoàn cảnh nguy cấp, không biết cách tự bảo vệ bản thân trước nguy
hiểm, tìm kiếm sự giúp đỡ…. Có nhiêu nguyên nhân khác nhau gây ra tình trạng
này, trong đó việc thiếu kỹ năng sống là nguyên nhân sâu xa nhất. Do đó, việc
dạy kỹ năng sống cho trẻ là rất cần thiết.
Xã hội ngày càng phát triển kéo theo đó là sự phát triển vê kinh tế xã hội,
nếu một đứa trẻ không có các kỹ năng cơ bản thì làm sao trưởng thành trong
cuộc sống. Bên cạnh đó nếu trẻ có các kỹ năng sống tốt trẻ sẽ dễ dàng hòa nhập
với cuộc sống hơn.
Tuy nhiên hiện nay vẫn còn nhiêu giáo viên, phụ huynh chưa nhận thức rõ
ràng vê việc rèn kỹ năng sống cho trẻ. Trên thực tế có rất nhiêu trẻ thiếu kỹ năng
sống: trẻ sống thụ động, không biết ứng phó phù hợp trong những hoàn cảnh
nguy cấp, không biết cách tự chăm sóc, tự bảo vệ bản thân trước nguy hiểm,
luôn tìm kiếm sự giúp đỡ của người lớn khi gặp khó khăn....
Bên cạnh sự quan tâm quá mức của một số bậc cha mẹ ấy vẫn tồn tại
những gia đình vì quá mải mê với công việc mà sao nhãng tới việc quan tâm
chăm sóc con cái dẫn đến hậu quả trẻ thiếu tình thương và cách giáo dục đúng
đắn dẫn đến tình trạng trẻ có lối sống không lành mạnh như trẻ chơi bời, bạo lực
học đường, sống vô cảm không biết quan tâm tới người khác....
Một vấn đê đáng quan tâm hiện nay nữa là tình trạng bắt cóc trẻ em, trẻ em
bị xâm hại tình dục, các tai nạn thương tích ngày càng gia tăng tập trung ở lứa
1
tuổi thiếu nhi đặc biệt là đối với lứa tuổi mầm non và tôi thiết nghĩ tỉ lệ trẻ bị bắt
cóc, tai nạn thương tích ngày càng tăng một phần là do trẻ chưa có kỹ năng ứng
phó với những hoàn cảnh nguy cấp, chưa biết cách tự bảo vệ bản thân trước
những sự nguy hiểm có thể xảy ra.
Từ thực tế trên, tôi nghĩ rằng nếu chúng ta làm tốt việc rèn kỹ năng sống
cho trẻ chính là đặt nên móng giúp trẻ trở thành con người mới, chủ động, sáng
tạo. Giúp trẻ có được những kinh nghiệm trong cuộc sống, biết được những điêu
nên làm và không nên làm, giúp trẻ tự tin, chủ động và biết cách ứng xử phù hợp
trong cuộc sống, khơi gợi khả năng tư duy sáng tạo của trẻ, tạo tiên đê cơ bản để
trẻ trở thành người có trách nhiệm và có tự chủ trong cuộc sống của bản thân
mình. Từ những lý do trên tôi nhận thấy việc rèn kỹ năng sống cho trẻ là rất
quan trọng, cần thiết và thực sự có ý nghĩa với trẻ nên tôi đã trăn trở tìm ra
những biện pháp để làm sao giúp trẻ có được những kỹ năng sống tốt nhât.
Chính vì thế là một giáo viên chủ nhiệm lớp mẫu giáo 4-5 tuổi, tôi xin mạnh dạn
trao đổi cùng các bạn đồng nghiệp một số kinh nghiệm mà tôi cho là tâm đắc
nhất với đê tài: “Một số biện pháp rèn kỹ năng sống cho trẻ 4 - 5 tuổi ở trường
mầm non Sông Âm năm học 2017 - 2018”.
2. Mục đích nghiên cứu
Qua đê tài “Một số biện pháp rèn kỹ năng sống cho trẻ 4 - 5 tuổi ở trường
mầm non Sông Âm năm học 2017 - 2018”. Tôi muốn rèn luyện cho trẻ những
kỹ năng sống cơ bản và cần thiết với trẻ, giúp trẻ có được những kinh nghiệm
sống để trẻ biết được mình nên và không nên làm gì, giúp trẻ tự tin, chủ động
trong cuộc sống, tạo cho trẻ những nhân cách tốt cho sau này.
3. Đối tượng nghiên cứu
Một số biện pháp rèn kỹ năng sống cho trẻ mẫu giáo 4 - 5 tuổi ở trường
mầm non Sông Âm năm học 2017 - 2018.
4. Phương pháp nghiên cứu:
Phương pháp nghiên cứu, xây dựng cơ sở lý thuyết: thu thập, phân tích,
tổng hợp các tài liệu sách, báo, tạp chí có liên quan đến đê tài. Từ đó đọc, phân
tích tổng hợp lý thuyết để xác định cơ sở lý luận của đê tài cũng như nắm bắt
được đặc điểm tâm sinh lý của trẻ, làm căn cứ đưa ra hệ thống các biện pháp tác
động đến trẻ.
Phương pháp điêu tra khảo sát thực tế, thu thập thông tin: khảo sát tình
hình thực tế trên trẻ, những tồn tại, hạn chế và nguyên nhân. Trao đổi với bạn bè
đồng nghiệp, với giáo viên các trường mầm non để tích lũy thêm kinh nghiệm từ
đó lựa chọn các biện pháp hữu hiệu nhất phù hợp với đặc điểm của trẻ ở lớp để
rèn kỹ năng sống cho trẻ.
Phương pháp thống kê, thực nghiệm, xử lý số liệu: thống kê, thực nghiệm
trên trẻ, đánh giá kết quả đạt được, so sánh kết quả trước và sau khi áp dụng
biện pháp từ đó rút ra những bài học kinh nghiệm.
2
II. NỘI DUNG
1. Cơ sở lý luận.
Nhà tâm lý học - Nguyễn Thị Ánh Tuyết đã nhận định vê đời sống xúc
cảm và tình cảm của trẻ mẫu giáo nhỡ đó là: [2]
Các loại tình cảm bậc cao của trẻ phát triển ngày càng rõ nét hơn so với
mẫu giáo bé.
Tình cảm đạo đức ngày càng được phát triển do lĩnh hội được các chuẩn
mực hành vi, quy tắc ứng xử. Trẻ bối rối, cảm thấy có lỗi khi hành vi phạm sai
lầm. Trẻ biết đòi người lớn đánh giá đúng mức hành vi đúng, sai, tốt, xấu của
mình vê động cơ, hành vi.
Từ tuổi mẫu giáo nhỡ, những động cơ: “vì xã hội” bắt đầu chiếm vị trí
ngày càng lớn trong số các động cơ đạo đức. Trong thời kỳ này, trẻ đã hiểu rằng
những hành vi của chúng có thể mang lại lợi ích cho những người khác và chúng
bắt đầu thực hiện những công việc vì người khác theo sáng kiến của riêng mình.
Ở trẻ mẫu giáo nhỡ trở đi, hành vi của chúng tương đối dễ xác định. Nếu
động cơ vì xã hội chiếm ưu thế thì trẻ sẽ thực hiện những hành vi mang tính đạo
đức tốt đẹp. Ngược lại nếu động cơ nhằm thỏa mãn quyên lợi riêng chiếm ưu thế
thì trong nhiêu trường hợp trẻ sẽ hành động nhằm tìm kiếm những quyên lợi cá
nhân ích kỷ, dẫn đến những sai phạm nghiêm trọng vê quy tắc đạo đức xã hội.
Đối với những đứa trẻ này cần áp dụng những biện pháp giáo dục thích hợp, có
hiệu quả nhằm thay đổi những cơ sở của nhân cách đã được hình thành một cách
bất lợi này, trước hết phải cảm hoá trẻ bằng tình yêu thương, đồng thời lại đòi
hỏi ở chúng sự yêu thương và quan tâm đến những người xung quanh, tạo ra
những tình huống để gợi lên ở trẻ những hành vi đạo đức tốt đẹp.
Nhà giáo dục người Ý Maria Montessori đã nói:“Thời kỳ quan trọng nhất
của cuộc đời không phải là ở tuổi học đại học, mà là thời kỳ đầu tiên, giai đoạn
từ khi sinh ra cho tới khi sáu tuổi”.[3]
Đúng vậy, rèn kỹ năng sống đang là nhu cầu cấp thiết đối với thế hệ trẻ
và đối với trẻ mầm non. Rèn luyện kỹ năng sống sẽ giúp trẻ nhanh chóng hòa
nhập và khẳng định vị trí của mình trong tập thể, mà xa hơn là một cộng đồng,
xã hội. Do đó, cho dù trẻ có tài giỏi, thông minh đến đâu nhưng thiếu kỹ năng
sống, trẻ cũng không thể tiếp cận với môi trường xung quanh, hòa nhập cũng
như khẳng định mình.
Rèn kỹ năng sống nhằm tăng sức đê kháng, tăng năng lực cho trẻ hôm
nay và vững bước trong tương lai. Ở mỗi lứa tuổi, mỗi thời kỳ, trẻ có những đặc
điểm tăng trưởng và phát triển khác biệt mang tính chất phức tạp riêng của nó.
Qua việc rèn kỹ năng sống trẻ sẽ được lĩnh hội các kiến thức phù hợp với
trẻ từ đó trẻ sẽ phát triển cân đối hài hòa cả vê thể chất lẫn tâm hồn.
Với từng giai đoạn phát triển của từng lứa tuổi thì việc rèn kỹ năng cũng
đòi hỏi người giáo dục trẻ phải có kiến thức kỹ năng đúng đắn, đây cũng là cơ
hội cho người giáo dục trẻ thêm cơ hội học hỏi và trau dồi kinh nghiệm của bản
thân từ đó có thể rút kết ra những kinh nghiệm để có cách giáo dục trẻ tốt nhất.
Rèn kỹ năng sống cho trẻ em là giúp cho trẻ tự tin hơn vào bản thân, thể hiện
những hiểu biết của mình trong cuộc sống. Tuy nhiên, có những trường hợp trẻ
tự ti, rụt rè trước hiện thực dù có vốn kiến thức khá tốt để ứng dụng vào thực tế.
3
2. Thực trạng vấn đề rèn kỹ năng sống cho trẻ mẫu giáo 4 - 5 tuổi
trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm.
Năm học 2017 - 2018, tôi được phân công phụ trách lớp mẫu giáo 4 - 5
tuổi. Ngay từ đầu năm học tôi đã đặt ra nhiệm vụ và mục tiêu cho chính bản thân
đó là phải làm sao để có thể mang lại cho các con một môi trường giáo dục tốt
nhất, mong muốn giúp các con có những kỹ năng trong cuộc sống, biết được
những điêu nên làm và không nên làm, giúp các con luôn tự tin, chủ động và
biết cách ứng xử phù hợp trong cuộc sống.
Để thực hiện mục tiêu đó đầu năm tôi đã tiến hành khảo sát thực trạng của
lớp mình. Tôi nhận thấy có những thuận lợi và khó khăn sau:
2.1. Thuận lợi.
Bản thân tôi luôn nhận được sự ủng hộ, quan tâm nhiệt tình của ban giám
hiệu nhà trường, của các cấp lãnh đạo địa phương vê việc tạo điêu kiện cơ sở vật
chất, chuẩn bị đầy đủ đồ dùng, đồ chơi cho cô và trẻ.
Môi trường cho trẻ hoạt động luôn sạch sẽ, ngăn nắp gọn gàng. Bản thân
luôn là tấm gương sáng vê mọi mặt cho trẻ noi theo.
Ngoài ra tôi cũng là một giáo viên có kinh nghiệm trong giảng dạy cũng
như có nhiêu cố gắng trong quá trình tự học, tự rèn luyện. Biết ứng dụng công
nghệ thông tin vào giảng dạy và luôn ý thức được tầm quan trọng của việc rèn
kỹ năng sống cho trẻ.
Mặt khác bản thân tôi luôn nhận được sự ủng hộ nhiệt tình của các bậc
phụ huynh. Đây cũng là yếu tố thuận lợi để tôi có thể áp dụng một số biện pháp
rèn kỹ năng sống cho trẻ mẫu giáo 4 - 5 tuổi.
2.2. Khó khăn:
Bên cạnh những thuận lợi trên khi đi vào thực tế quá trình rèn kỹ năng
sống cho trẻ 4 - 5 tuổi cũng còn gặp rất nhiêu khó khăn:
Giáo viên chỉ mới chú ý đến hoạt động chính nên việc lồng ghép dạy trẻ
các kỹ năng sống vào các hoạt động hàng ngày còn mờ nhạt, chưa được chú
trọng. Giáo viên cũng chưa thường xuyên đánh giá kỹ năng sống cho trẻ.
Trẻ tuy cùng độ tuổi nhưng nhận thức lại không đồng đêu, có nhiêu trẻ
sinh cuối năm và có nhiêu trẻ thể lực không tốt, đây cũng là một trong những
nhân tố làm hạn chế kết quả của hoạt động giáo dục kỹ năng sống cho trẻ.
Ở lớp còn có một số trẻ quá hiếu động, khả năng tập trung chú ý chưa cao
hay quậy phá. Một số trẻ lại khá nhút nhát vì trẻ mới từ trường khác chuyển đến.
Trẻ ở lớp phần lớn được sinh ra trong những gia đình nông dân, kinh tế
khó khăn nên bố mẹ phải đi làm ăn xa phải để con ở nhà cho ông bà dẫn đến
chuyện phối kết hợp giữa gia đình và cô giáo gặp nhiêu hạn chế, một số trẻ lại là
con đầu lòng nên được ông bà bố mẹ nâng niu, chiêu chuộng, không cho trẻ làm
bất cứ việc gì dẫn đến tình trạng trẻ không biết cách tự phục vụ bản thân mình
như trẻ đã 4 - 5 tuổi mà vẫn chưa biết tự xúc cơm ăn, chưa biết cách mặc áo
quần....
2.3. Kết quả thực trạng.
Để nắm bắt được thực trạng các kỹ năng sống của trẻ tôi bắt đầu khảo sát
chất lượng trên trẻ ngay từ đầu năm học. Với tổng số trẻ ở lớp là 30 trẻ.
Kết quả khảo sát cụ thể như sau:
4
Đạt
T
T
1
2
3
4
5
Nội dung
Tổng
số trẻ
Số
trẻ
Tỉ
lệ
%
63
63
60
70
Chưa đạt
Tỉ
Số
lệ
trẻ
%
11
37
11
37
12
40
9
30
Kỹ năng giao tiếp lịch sự lễ phép.
30
19
Kỹ năng phục vụ chăm sóc bản thân.
30
19
Kỹ năng tuân thủ quy tắc xã hội.
30
18
Kỹ năng hợp tác.
30
21
Kỹ năng ứng xử phù hợp với người
30
20
67
10
33
xung quanh.
6 Kỹ năng tự bảo vệ trước những tình
30
18
60
12
40
huống nguy hiểm.
Từ thực trạng trên tôi đã đi sâu tìm hiểu nguyên nhân, tìm hiểu kỹ vê đặc
điểm tâm sinh lý của trẻ ở lớp, bàn bạc thỏa thuận với giáo viên cùng phụ trách
lớp với mình, lựa chọn các biện pháp để rèn kỹ năng sống cho trẻ với những
biện pháp cụ thể như sau:
3. Một số biện pháp rèn kỹ năng sống cho trẻ mẫu giáo 4 - 5 tuổi ở
trường mầm non Sông Âm năm học 2017 - 2018.
3.1. Tăng cường tham khảo sách báo, tài liệu để nâng cao trình độ
chuyên môn và nắm vững đặc điểm tâm sinh lý của từng trẻ trong lớp.
Để có thể thực hiện tốt các mục tiêu giáo dục đã đê ra thì trước tiên mỗi
giáo viên phải trang bị cho mình hệ thống kiến thức phong phú chính xác và trải
nghiệm các kỹ năng giáo dục thực tế. Chính vì vậy mà tôi đã dành thời gian để
đi sâu vào nghiên cứu, tìm tòi, tham khảo những tài liệu có nội dung vê đê tài để
có nhận thức đúng đắn nhất vê vấn đê từ đó tìm ra biện pháp thực hiện hữu hiệu
nhất.
Ví dụ: Tôi tham khảo các tài liệu sách báo để tìm hiểu đặc điểm tâm sinh
lý của trẻ như sách: “Tâm lý học lứa tuổi và tâm lý học sư phạm” của nhà xuất
bản Đại học sư phạm, “Giáo trình tâm lý học trẻ em lứa tuổi mầm non” nhà xuất
bản Hà Nội....
Qua nghiên cứu tôi đã nắm vững hơn được đặc điểm tâm sinh lý của từng
trẻ, sự thay đổi vê tâm lý của trẻ trong giai đoạn hiện nay. Tôi thấy rằng, đối với
trẻ 4 - 5 tuổi có đặc thù tâm lý tính cách riêng. Mỗi trẻ có một đặc điểm riêng
biệt không trẻ nào giống trẻ nào.
Mặt khác tôi nhận thấy muốn giáo dục trẻ có hiệu quả thì trước tiên cô
giáo phải hiểu trẻ. Đúng như nhà giáo dục K.D.Usinxki đã nói:“Muốn giáo dục
con người thì phải hiểu con người về mọi mặt”[4], nắm vững đặc điểm của từng
trẻ là một trong những nội dung quan trọng trong công tác chủ nhiệm lớp ở
trường mầm non. Giáo viên cần phải hiểu hoàn cảnh sống của trẻ. Nắm được
những đặc điểm cơ bản vê thể chất, tâm lý cũng như thói quen hành vi đạo đức
mà trẻ đã có…từ đó lựa chọn những biện pháp tác động sư phạm phù hợp nhằm
giúp trẻ phát triển tốt vê thể chất, tình cảm. Vì vậy, qua quan sát các hoạt động
hằng ngày, qua trò chuyện với trẻ, tôi nắm bắt được đặc điểm riêng của từng trẻ
để có biện pháp tác động phù hợp.
5
Ví dụ: Cháu A Trà, cháu Anh Thương hay có tâm lý nhút nhát và sợ hãi
khi đứng trước đám đông. Có thể do nơi ở của các cháu là các thôn bản không
gần trung tâm nên các cháu không hay được tiếp xúc, giao lưu với nhiêu người.
Chính vì vậy mà tôi phải rất nhẹ nhàng, thường xuyên trò chuyện với các cháu
và luôn tạo cảm giác thân thiện với các cháu để các cháu thấy không còn sợ hãi
nữa và gần gũi với cô hơn. Hay như ở lớp cũng có cháu Gia Bảo, cháu Phúc
Duy có thể trạng yếu hơn các bạn nên khi hoạt động các cháu thường tránh né
không muốn tham gia, với những cháu này tôi luôn có những biện pháp động
viên khuyến khích và cổ vũ các cháu để các cháu tham gia hoạt động cùng các
bạn. Ở lớp còn có một số bé quá hiếu động như bé: Ngọc Dũng,Văn Đạt, Thu
Trang, Chí Tài khả năng tập trung chú ý chưa cao hay quậy phá. Cháu Bảo hay
tranh dành đồ chơi của bạn...
Ngoài ra qua tìm hiểu tâm sinh lý của trẻ tôi thấy trẻ ở giai đoạn này rất
nhanh bắt chước, trẻ rất nhanh nhớ nhưng cũng rất nhanh quên nên việc rèn kỹ
năng sống cho trẻ phải thường xuyên và liên tục. Cô cần tạo cho trẻ được hoạt
động dưới nhiêu hình thức khác nhau, thông qua các hoạt động hằng ngày ở mọi
lúc, mọi nơi. Có như vậy thì kỹ năng sống của trẻ mới thành kỹ năng và nó hình
thành một thói quen của trẻ.
Ngoài tìm hiểu kỹ vê tâm sinh lý trẻ tôi còn tham khảo những tài liệu
hướng dẫn tổ chức thực hiện chương trình giáo dục mầm non lứa tuổi 4 - 5 tuổi
của nhà xuất bản Giáo dục Việt Nam để từ đó biết cách lồng ghép việc rèn kỹ
năng sống cho trẻ một cách linh hoạt, phù hợp với khả năng của trẻ.
Ví dụ: Khi rèn trẻ một số kỹ năng tự phục vụ trong ăn uống thì lúc đầu cô
nên cho trẻ thực hiện từ những việc đơn giản nhất và hình thành cho trẻ các thói
quen như: ban đầu hướng dẫn trẻ cùng cô kê bàn ghế, giúp cô lấy khăn lau tay,
lấy bát...sau đó trẻ nhẹ nhàng đi đến bàn ăn, ngồi vào bàn. Khi trẻ ăn cô hướng
dẫn trẻ tự xúc cơm ăn, tự uống nước, ăn xong xếp bát, thìa vào chỗ quy định.
Tập cho trẻ những thói quen tốt như ăn uống từ tốn, nhai kỹ. Khi muốn ho hoặc
hắt hơi phải lấy tay che miệng, không lấy tay bốc thức ăn, không xúc thức ăn
của bạn hoặc xúc thức ăn cho bạn.
Có thể nói qua một thời gian tự học, tự nghiên cứu và tự bồi dưỡng tôi
cảm thấy mình đã trang bị được những kiến thức cơ bản vê rèn kỹ năng sống
cho trẻ. Tôi đã thực sự “hiểu” trẻ hơn và có thể đưa ra những biện pháp phù hợp
nhất để giúp trẻ có những kỹ năng cần thiết.
3.2. Tổ chức cho trẻ luyện tập thường xuyên để rèn các kỹ năng sống
cho trẻ.
Từ việc hiểu trẻ, nắm được đặc điểm tâm sinh lý riêng của từng trẻ, tiếp
theo để rèn kỹ năng sống cho trẻ tôi thực hiện tổ chức cho trẻ được luyện tập
thường xuyên. Bởi việc tổ chức các hoạt động cho trẻ luyện tập thường xuyên
đóng vai trò chủ đạo trong việc rèn kỹ năng sống cho trẻ. Sở dĩ như vậy bởi trẻ
mẫu giáo 4 - 5 tuổi, khả năng tập trung chú ý và ghi nhớ có chủ định còn hạn
chế. Trẻ nhanh nhớ nhưng cũng nhanh quên. Nếu các kỹ năng chúng ta dạy trẻ
không được củng cố bằng cách luyện tập thường xuyên thì chúng sẽ dần mất đi.
Ngược lại nếu ta có kế hoạch cho trẻ luyện tập thường xuyên thì các kỹ năng đó
sẽ thành kỹ xảo, phát triển bên vững và không bị lãng quên. Việc tổ chức cho trẻ
6
luyện tập phải có kế hoạch cụ thể, được tiến hành thường xuyên và không ngừng
sáng tạo, có như vậy mới gây được hứng thú cho trẻ.
Chẳng hạn để hình thành thói quen tự phục vụ cho trẻ như dạy trẻ biết rửa
mặt tôi đã tổ chức cho trẻ thực hiện như sau:
Ví dụ: Khi dạy trẻ rửa mặt thì trước tiên tôi nói cho trẻ biết ý nghĩa của
việc giữ gìn mặt sạch sẽ, đó là khuôn mặt đáng yêu và tôi cho trẻ biết khi cần
rửa mặt đó là lúc mặt bẩn, khi ngủ dậy, khi đi chơi vê mặt bị bụi bẩn, trước và
sau khi ăn. Phải sử dụng khăn sạch, khăn riêng để lau mặt tránh bị lây nhiễm các
bệnh vê mắt như đau mắt đỏ, mụn nhọt…sau đó tôi hướng dẫn trẻ lau mặt trước
tiên cần săn tay áo lên cho khỏi bị ướt sau đó rửa tay bằng xà phòng trước khi
rửa mặt, tiếp theo là vò khăn sạch vắt ráo nước, trải khăn lên lòng bàn tay phải
rồi lần lượt lau: lau hai mắt hai bên, dịch khăn lên lau trán, lau má, lau mũi, lau
cằm, rồi lật gấp khăn lau cổ, gáy, vành tai từng bên. Lau xong giặt vò lại khăn,
giũ hai ba lần nước sạch, vắt khô, phơi lên giá phơi khăn. Và để việc trẻ rửa mặt
của trẻ trở thành thói quen, thì tôi luôn tổ chức cho trẻ thực hiện lập đi lập lại
vào những lúc như: mặt bẩn, khi ngủ dậy, khi đi chơi vê mặt bị bụi bẩn, trước và
sau khi ăn.
Hay để hình thành thói quen tự phục vụ như: trẻ biết cách đi tất khi trời
lạnh, biết mặc quần áo đúng cách…. Cô có thể đưa ra hình thức thi đua để tạo
cho trẻ sự nhanh nhẹn, khéo léo trong các thao tác.
Việc xác định nội dung cho trẻ thực hành, tôi dựa trên nguyên tắc cho trẻ
làm quen từ dễ đến khó, từ đơn giản đến phức tạp.
Ví dụ: Cũng là dạy trẻ cách mặc áo nhưng tuần đầu tôi dạy trẻ cách mặc
áo có khuy bấm, tuần tiếp theo tôi dạy trẻ cách mặc áo có khuy cài và những
tuần sau là áo có khóa kéo. Lúc đầu trẻ thực hiện rất vụng vê lúng túng nhưng
do luyện tập thường xuyên và có kế hoạch nên các thao tác của trẻ dần chính xác
hơn. Trong quá trình cho trẻ thực hiện cách mặc áo, tôi thường chọn cách cho trẻ
chơi trò chơi “Ai nhanh hơn, khéo hơn”, cách chơi như sau: Cho 2 trẻ lên thi
mặc áo, đầu tiên tôi gợi mở, giới thiệu với trẻ các thao tác mặc áo sau đó tổ chức
cho trẻ chơi. Cả lớp đếm ngược cùng cô từ 5 đến 1, khi nghe hết giờ phải dừng
tay, cô và các bé kiểm tra kết quả và tặng quà. Với cách tổ chức có hệ thống và
linh hoạt như vậy trẻ lớp tôi đã có kỹ năng chăm sóc bản thân tương đối tốt.
Hình ảnh: Trẻ tự tập cài khuy áo cho các bạn xem
7
Để việc tổ chức rèn kỹ năng sống cho trẻ không bị nhàm chán tôi còn
hướng dẫn trẻ thực hiện các kỹ năng sống thông qua các trò chơi, làm động tác
mô phỏng, trẻ sẽ thấy thoải mái và bắt chước bạn làm theo dễ dàng hơn.
Ví dụ: Cho trẻ mô phỏng lại cách đánh răng: tôi tiến hành hướng dẫn trẻ
mô phỏng lần lượt các động tác.
Qua mô phỏng các động tác, trẻ có thể tự đánh răng. Cô giáo quan sát và
hướng để trẻ thực hiện đánh răng theo đúng trình tự như: lấy cốc nước, nhúng
ướt bàn chải (tay phải cầm bàn chải, tay trái cầm tuýp kem đánh răng), lấy kem
đánh răng (nhắc trẻ lấy vừa kem, không nhiêu quá để kem dây bẩn ra quần áo và
bẩn tay), sau đó ngụm nước xúc miệng, lần lượt chải các mặt răng. Chải mặt
trước răng của hàm trên, hàm dưới, sau đó chải mặt ngoài bên phải của hàm
răng trên và dưới, tiếp theo chải mặt ngoài bên trái của hàm trên và hàm dưới,
rồi chải mặt trong bên trái, mặt trong bên phải tiếp theo chải mặt nhai, chải mặt
trước trong cửa răng của hàm trên và hàm dưới. Sau khi chải xong tôi hướng dẫn
trẻ lấy nước xúc miệng hai ba lần cho sạch bọt của kem đánh răng, chú ý nhắc
trẻ khạc nhổ nước bẩn vào chậu rửa quy định, không được nuốt vì có hại cho sức
khỏe. Sau cùng tôi hướng dẫn trẻ cất bàn chải đúng nơi quy định. Trong quá
trình hướng dẫn tôi quan sát và động viên kịp thời trẻ để trẻ có thói quen vệ sinh
tốt giữ hàm răng sạch sẽ, không bị sâu răng.
Bên cạnh việc giáo dục trẻ những kỹ năng lao động tự phục vụ thì tôi còn
chú ý tới việc giáo dục trẻ với việc bảo vệ môi trường, giáo dục trẻ biết nhặt rác
bỏ vào thùng ngay cả ở trường lớp cũng như trong gia đình và nơi công cộng.
Ví dụ: Trong giờ hoạt động ngoài trời khi cho trẻ dạo chơi sân trường nếu
nhìn thấy rác thay vì sai trẻ nhặt rác bỏ vào thùng cô sẽ là người thực hiện trước
và hỏi trẻ vì sao cô làm như vậy, sau đó cô phân tích cho trẻ hiểu là hành động
nhặt rác bỏ vào thùng là để góp phần làm cho môi trường sạch sẽ, khi đã hiểu
được ý nghĩa của việc làm có ích những lần khác trẻ thấy rác sẽ tự động thực
hiện mà không cần chờ cô nhắc nhở. Và tôi hướng dẫn trẻ cách thực hiện như:
khi thấy rác các con nhặt lên sau đó bỏ rác vào nơi quy định, sau đó cho trẻ đi
rửa tay.
Hình ảnh trẻ nhặt lá cây trong vườn cổ tích
8
Có thể nói với biện pháp này, các kỹ năng của trẻ luôn được củng cố và
hoàn thiện một cách chính xác. Kết quả trên trẻ mặc dù đạt được rất khả quan
nhưng chưa phải là đủ. Để cho các kỹ năng sống của trẻ được hình thành và phát
triển một cách liên hoàn tôi tiến hành thực hiện biện pháp thứ ba.
3.3. Lồng ghép rèn kỹ năng sống cho trẻ trong các hoạt động hàng
ngày.
Lồng ghép việc rèn kỹ năng sống cho trẻ thông qua các hoạt động hằng
ngày và qua các môn học có rất nhiêu ưu thế bởi thông qua các hoạt động hằng
ngày và qua các môn học thì kỹ năng sống của trẻ sẽ được hình thành và phát
triển một cách liên hoàn. Tùy vào từng hoạt động mà tôi lồng ghép rèn kỹ năng
sống cho trẻ sao cho phù hợp. Trước hết để làm tốt được thì ngay từ đầu năm
học tôi đã lên kế hoạch chuẩn bị cho việc rèn kỹ năng sống cho trẻ bằng việc: tôi
dán ảnh trẻ vào tủ cá nhân để trẻ biết được tủ cá nhân của mình, phối hợp cùng
phụ huynh chọn loại khăn rửa mặt phù hợp với trẻ và trên mỗi khăn tôi đêu dùng
ký hiệu để trẻ nhận ra khăn của mình, khăn của trẻ được phơi ở trên giá khăn trẻ
có thể tự lấy được. Tôi cũng phối hợp cùng phụ huynh mua chăn, gối, dép đi
trong nhà, cốc uống nước và mỗi đồ vật đêu có ký hiệu riêng từng trẻ. Mục đích
tôi làm như vậy để tôi tập cho trẻ có tính tự lập, hình thành cho trẻ một số thói
quen tốt, một số công việc tự phục vụ.
Tiếp theo tôi thực hiện nghiêm túc chế độ giờ giấc trong sinh hoạt hàng
ngày của trẻ. Đây là một trong những nhân tố giáo dục có tác dụng thúc đẩy
mạnh mẽ phẩm chất cá nhân, khả năng tuân thủ yêu cầu của người lớn và khả
năng định hướng vê thời gian cho trẻ. Tôi đã căn cứ vào nội dung cụ thể của
từng hoạt động để lựa chọn nội dung lồng ghép cho phù hợp. Chẳng hạn:
Thông qua hoạt động đón trẻ và trả trẻ:
Khi đón trẻ tôi nhắc nhở trẻ chào cô giáo, chào bố mẹ rồi hướng dẫn trẻ
cất đồ dùng vào tủ cá nhân của mình. Sau đấy hướng dẫn trẻ cất dép vào giá dép
và lấy dép đi trong lớp đi vào. Khi trả trẻ tôi cũng hướng dẫn trẻ lại tủ cá nhân
lấy cặp, đổi dép và chào cô giáo trước khi ra vê. Đầu năm học trẻ chưa quen nên
tôi phải hướng dẫn trẻ tỉ mỉ và khi trẻ làm được tôi tuyên dương kịp thời đồng
thời khích lệ trẻ. Sau một thời gian hướng dẫn và tập cho trẻ, trẻ làm rất tốt và
mỗi khi trẻ đến lớp không cần tôi nhắc nhở trẻ đã tự giác chào cô giáo, chào bố
mẹ và tự cất đồ dùng cá nhân của mình. Sau đấy tôi thường xuyên gần gũi trò
chuyện tiếp xúc với trẻ để hướng trẻ vào các kỹ năng sống khác. Khi trò chuyện
với trẻ đôi lúc tôi còn đóng vai thành trẻ để giao tiếp với trẻ như những người
bạn, để trẻ thấy cô rất gần gũi với trẻ.
Thông qua hoạt động học có chủ định: Đây là một trong những hoạt động
để tôi tích hợp có hiệu quả nội dung giáo dục kỹ năng sống cho trẻ. Tôi căn cứ
vào nội dung của từng tiết học để tích hợp một cách hài hoà, không ôm đồm.
Ví dụ: Qua hoạt động khám phá khoa học: “Trò chuyện một số bộ phận
trên cơ thể”, tôi dạy trẻ kỹ năng sau đây: Kỹ năng chăm sóc bản thân: trẻ có một
số kỹ năng và có ý thức giữ gìn, bảo vệ các bộ phận trên cơ thể. Kỹ năng giao
tiếp tự tin: khi trả lời phải đứng thẳng, mắt nhìn thẳng vào cô, nói to, rõ ràng….
Kỹ năng tuân thủ quy tắc giờ học như muốn nói phải giơ tay, chờ đến lượt cô
mời mới được nói, không nói leo, tập trung chú ý nghe cô…. Chính vì thế trẻ
9
lớp tôi học rất ngoan, trong giờ học biết chú ý lắng nghe, tuân thủ theo sự hướng
dẫn của cô và đặc biệt rất tự tin khi trả lời câu hỏi cô đưa ra.
Ở lứa tuổi này các loại tình cảm bậc cao như tình cảm trí tuệ, tình cảm
đạo đức, tình cảm thẩm mỹ đêu ở vào thời điểm phát triển thuận lợi nhất, đặc
biệt là tình cảm thẩm mỹ, tình yêu cái đẹp trong tự nhiên và trong nghệ thuật
càng khiến trẻ gắn bó hơn với con người và thiên nhiên, từ đó trẻ mong muốn
làm những điêu tốt đẹp cho mọi người và cho môi trường sống, như vậy qua
giáo dục thẩm mỹ đã có tác dụng giáo dục cả tình cảm đạo đức bởi thực chất với
trẻ nhỏ cái đẹp và cái tốt không thực sự được phân biệt rạch ròi, thông qua các
tác phẩm nghệ thuật như thơ truyện tôi cho trẻ cảm nhận cái tốt của các nhân vật
trong tác phẩm từ đấy tôi có thể giáo dục trẻ làm nhiêu việc tốt đây cũng là một
phần trong giáo dục nhân cách cho trẻ.
Ví dụ: Qua tiết học làm quen tác phẩm văn học truyện: “Tích Chu”. Tôi
giáo dục cho trẻ biết yêu quý, kính trọng người thân trong gia đình, biết vâng lời
ông bà bố mẹ, biết giúp đỡ ông bà bố mẹ những công việc phù hợp với sức của
mình.
Thông qua hoạt động ngoài trời: Hoạt động dạo chơi ngoài trời cũng là
một hoạt động không thể thiếu trong chế độ sinh hoạt hằng ngày của trẻ. Thông
qua hoạt động ngoài trời, trẻ được tiếp xúc gần gũi với thiên nhiên, hít thở bầu
không khí trong lành, được khám phá, thỏa mãn trí tò mò của trẻ. Chính vì vậy,
tôi đã lồng ghép dạy trẻ nhiêu kỹ năng khác nhau như: kỹ năng nhận biết được
các nguy hiểm xung quanh mình, những nguy hiểm từ lửa, điện, nước và xử lý
một số tai nạn thương tích thường gặp.
Ví dụ: Qua việc trò chuyện quan sát cái xích đu. Trẻ nhận biết được một
số nguyên nhân gây ngã, tai nạn và biết cách phòng tránh nguy cơ gây ngã. Các
kỹ năng tôi dạy trẻ đó là:
Kỹ năng giao tiếp: trẻ biết lắng nghe cô, bạn, nêu ý kiến, chia sẻ thông tin.
Kỹ năng xử lý tình huống: khi ngồi trên xích đu chẳng may bị ngã bé cần
làm gì? (Nằm yên, chờ xích đu dừng hẳn mới ngồi dậy để tránh xích đu đập vào
đầu, bạn khác chạy đi báo với cô…)
Kỹ năng ra quyết định: làm gì hay không làm gì để phòng tránh ngã?
(Không đu quá nhanh, không xô đẩy bạn khi ngồi trên xích đu, nắm chắc tay
cầm…).
Hay qua hoạt động “quan sát thời tiết”, tôi cho trẻ quan sát nhận biết thời
tiết trong ngày từ đó giáo dục trẻ ăn mặc phù hợp với thời tiết để giữ gìn sức
khỏe, bên cạnh đó tôi kết hợp lồng ghép dạy trẻ kỹ năng nhận biết mối nguy
hiểm của thiên tai như sấm, sét, tia lửa điện. Qua đó tôi rèn cho trẻ các kỹ năng
cần thiết như không đi ra ngoài khi trời mưa to, không trú mưa ở các gốc cây to
để phòng tránh thương tích có thể xảy ra.
Hoạt động dạo chơi, tham quan có tác dụng rất lớn đối với việc mở rộng
tầm hiểu biết của trẻ. Thiên nhiên không chỉ mang đến cho trẻ những thứ cần
thiết, mà còn hấp dẫn trẻ bởi những điêu kỳ diệu mà không có gì thay thế nổi. Vì
vậy, dạo chơi, tham quan có tác dụng lớn trong việc rèn kỹ năng sống cho trẻ.
Thông qua giờ hoạt động góc: Hoạt động vui chơi ở trẻ mầm non thực sự
đóng vai trò chủ đạo đối với sự phát triển của trẻ. Thông qua vui chơi, hành
10
động chơi với những mối quan hệ bạn bè cùng chơi giúp trẻ tiếp thu những kinh
nghiệm xã hội, và mở ra một chặng đường phát triển mới vê chất. Đó là giai
đoạn đầu tiên của quá trình hình thành nhân cách. Tổ chức trò chơi chính là tổ
chức cuộc sống của trẻ, trò chơi là phương tiện để trẻ học làm người. Chúng ta
biết rằng: “Trẻ học mà chơi, chơi mà học”. Vì thế qua việc tham ra chơi ở các
khu thì các kỹ năng sống được trẻ tiếp thu một cách dễ dàng nhất.
Ví dụ: Qua khu chơi phân vai mẹ con, trẻ học được các kỹ năng như: kỹ
năng giao tiếp (giao tiếp giữa mẹ với con, trẻ biết nói nựng con, dặn dò con, giao
tiếp giữa các thành viên trong gia đình), kỹ năng chăm sóc (biết lấy nước cho
con uống, xúc bột cho con ăn), kỹ năng hợp tác (trẻ học được cách chơi trong
nhóm chơi, biết trò chuyện chia sẻ với bạn bên cạnh. Sau khi chơi xong trẻ biết
cất đồ chơi đúng nơi quy định.
Hình ảnh trẻ chơi ở khu phân vai
Không chỉ ở khu phân vai trẻ mới học được các kỹ năng sống mà ở tất cả
các khu chơi khác thì các kỹ năng của trẻ đêu có thể được củng cố và phát huy.
Ví dụ: Ở khu xây dựng, trẻ có kỹ năng hợp tác, làm việc theo nhóm. Trẻ ở
lớp tôi đã biết tự phân vai chơi cho nhau và chơi rất đoàn kết, không tranh giành
đồ chơi của nhau và đã biết cùng nhau tạo nên công trình đẹp (ví dụ: xây ngôi
trường của bé, trẻ phân công nhau: bạn Tâm thì xếp hàng rào, bạn Phú chở gạch,
bạn Mi trang trí trường cây xanh, bạn Dũng, Nam, Duy lắp ghép lớp...).
Qua việc tổ chức bữa ăn cho trẻ, tôi tập cho trẻ làm một số công việc tự
phục vụ qua đó hình thành ở trẻ một số kỹ năng sử dụng đồ dùng ăn, uống đúng
cách và hành vi văn hoá văn minh như: cách dùng ca, cốc, bát, thìa.Tham gia
chuẩn bị bữa ăn (tự kê ghế, gấp khăn lau, tự chia đĩa, chia bát).
11
Hình ảnh trẻ đi chia cơm cho bạn, sắp bàn ghế ăn
Trẻ được tập luyện một số thói quen hành vi văn minh trong ăn uống (trẻ
biết rửa tay bằng xà phòng trước khi ăn, khi ăn thì mời cô, mời bạn, biết vệ sinh
cá nhân trước và sau khi ăn, biết giữ vệ sinh chung và hành vi văn hóa như
không nói chuyện khi ăn, ho hoặc ngáp phải quay ra ngoài đồng thời lấy tay che
miệng, biết nhặt cơm rơi bỏ vào đĩa và lau tay…).
Khi tổ chức giấc ngủ cho trẻ, tôi dạy trẻ biết tự mình lấy, cất gối đúng nơi
quy định, biết lau chùi chân trước khi lên giường, đi nhẹ, nói khẽ, không làm ồn
khi bạn đang ngủ.
Ngoài ra tôi còn lồng ghép giáo dục kỹ năng sống cho trẻ vào các hoạt
động khác trong ngày như: ăn phụ, hoạt động chiêu, vệ sinh, trả trẻ.... Bằng việc
tạo tình huống có vấn đê để trẻ suy nghĩ và giải quyết qua đó trẻ được củng cố
các kỹ năng của mình.
Ví dụ: Vào các giờ hoạt động chiêu tôi tổ chức các trò chơi có luật, trò
chơi dân gian..., và tạo ra các câu hỏi tình huống cho trẻ giải quyết như: khi cháu
đang ăn bánh mì bỗng gặp một bạn nhỏ đang rất đói vậy thì con phải làm gì? Tôi
dành thời gian cho trẻ suy nghĩ và cho trẻ nói ra suy nghĩ của mình. Sau khi trẻ
đã trả lời tôi dạy cho trẻ biết phải mời bạn ăn bánh mì và chia cho bạn một nửa
bánh mì mình đang có, bên cạnh đó tôi giải thích cho trẻ biết rằng giúp đỡ người
khác trong lúc khó khăn là một việc tốt đáng được khen ngợi, mình biết giúp đỡ
mọi người đến khi mình gặp khó khăn thì sẽ được người khác giúp đỡ mình. Từ
đó tôi giáo dục trẻ biết cách quan tâm chia sẻ với người khác, góp phần vào việc
hình thành nhân cách, tình cảm cho trẻ.
Qua việc rèn kỹ năng sống cho trẻ trong các hoạt động hàng ngày, tôi
nhận thấy trẻ lớp tôi đã tiến bộ rất nhiêu. Việc lồng ghép kỹ năng sống vào các
hoạt động hằng ngày đảm bảo tính liên tục để mỗi kỹ năng, phẩm chất mới được
hình thành sẽ trở thành thói quen, thành thuộc tính vững chắc trong nhân cách
trẻ. Tuy nhiên không nên lạm dụng tích hợp quá nhiêu sẽ làm ảnh hưởng đến kết
quả của hoạt động chính cũng như sẽ gây tâm lý nặng nê cho trẻ khi tham gia
vào các hoạt động đó. Sau mỗi hoạt động, tôi nhận xét đánh giá các kỹ năng đạt
được trên trẻ bởi đây cũng là một trong những biện pháp giáo dục kỹ năng sống
cho trẻ rất hiệu quả.
12
3.4. Đánh giá kỹ năng sống của trẻ thường xuyên.
Việc nhìn nhận, xem xét lại các công việc đã làm trong một thời gian nhất
định sẽ rút ra được những bài học bổ ích, có những điêu chỉnh hoặc cải tiến các
hoạt động tiếp theo đạt hiệu quả hơn. Việc đánh giá các kỹ năng sống của trẻ
thường xuyên lại có vai trò đặc biệt hơn.
Sau mỗi hoạt động trong ngày, tôi luôn dành thời gian để nhận xét đánh
giá hoạt động đó nhằm cũng cố các kỹ năng cho trẻ và tìm ra biện pháp để các
hoạt động sau cô cùng trẻ thực hiện tốt hơn.
Ví dụ: Qua việc cho trẻ chơi ở khu phân vai, tôi nhận xét đánh giá nhóm
chơi bán hàng như sau: hôm nay bác Khánh Chi bán hàng thật là khéo, biết chào
mời khách lịch sự, biết nhận tiên của khách và đưa bằng hai tay, biết cảm ơn
khách, nhưng tôi thấy tiên của bác cất chưa cẩn thận, tôi khuyên bác lần sau nếu
có nhiêu tiên như vậy nên cất vào túi, đừng để lên bàn như vậy nhé!
Khi nghe những lời nhận xét đơn giản như vậy, trẻ có thêm tự tin vào bản
thân, nắm được kỹ năng giao tiếp lịch sự, hình thành tính cẩn thận cho trẻ. Hoặc
qua việc nhận xét giờ ăn trưa: hôm nay cô cảm ơn bạn Diễm My, bạn Hiếu, bạn
Anh Thương đã giúp cô chuẩn bị bữa ăn cho các bạn, ba bạn đã biết chia thìa
vào bát, bê cơm cho các bạn bằng hai tay và khi đưa cho các bạn thì đặt nhẹ
nhàng. Như vậy bản thân cháu Diễm My, cháu Hiếu, cháu Anh Thương sẽ tự tin
vào hoạt động của mình và các bạn khác trong lớp hôm sau cũng cố gắng làm tốt
như vậy để được cô khen.
Mỗi ngày tôi đêu ghi chép vào nhật ký và đánh giá những biểu hiện tâm
sinh lý của trẻ trong các hoạt động. Tôi đặc biệt chú ý đến việc đánh giá các kỹ
năng, trạng thái cảm xúc và hành vi của trẻ. Tôi xác định những trẻ cần lưu ý để
có biện pháp chăm sóc riêng phù hợp và lấy đó làm căn cứ thước đo để đánh giá
cuối mỗi chủ đê.
Việc đánh giá kỹ năng sống cho trẻ ở mỗi chủ đê tôi dựa vào mục tiệu đạt
được trên trẻ ở chủ đê đó, sử dụng phiếu đánh giá cuối chủ đê ghi các thông tin
vê các kỹ năng trẻ đã làm và chưa làm được trong chủ đê.
Ví dụ: Trong chủ đê gia đình: tôi đánh giá sự tích cực của trẻ khi cùng cô,
cùng bạn tham gia các hoạt động trong chủ đê, đánh giá việc trẻ có thực hiện
một số quy tắc đơn giản trong gia đình như biết nghe lời bố mẹ, cất dọn đồ dùng
của mình ngăn nắp, có được một số kỹ năng chào hỏi, xin phép, biết được vị trí
của mình trong gia đình.
Bằng việc nhận xét đánh giá thường xuyên như vậy, tôi đã rút ra được
nhiêu kinh nghiệm rèn kỹ năng sống cho trẻ và cũng đã có nhiêu kỹ năng sống
được hình thành và cũng cố trên trẻ. Trẻ giao tiếp tốt hơn, tự tin vào bản thân
hơn, nhận thức đúng vị trí của mình, biết nhận xét bạn, khéo léo hơn trong các
hoạt động lần sau. Thông qua việc nhận xét đánh giá khéo léo của cô, trẻ biết tự
điêu chỉnh hành vi của mình sao cho tốt, sao cho được cô khen. Biện pháp đánh
giá đã góp phần đáng kể vào việc nâng cao kết quả giáo dục kỹ năng sống cho
trẻ.
3.5. Phối hợp với phụ huynh để rèn kỹ năng sống cho trẻ.
Song song với việc thực hiện các biện pháp trên, là giáo viên chủ nhiệm
lớp, tôi luôn ý thức được tầm quan trọng của việc phối kết hợp giữa gia đình,
13
nhà trường và xã hội trong việc giáo dục trẻ. Việc rèn kỹ năng sống cho trẻ
không phải là chuyện một sớm một chiêu mà là cả một quá trình. Các kỹ năng
sống phải được củng cố, rèn luyện đồng nhất thì mới bên vững và thành kỹ xảo.
Nếu chỉ rèn kỹ năng sống cho trẻ ở trường thôi thì chưa đủ. Bên cạnh đó, môi
trường gia đình rất thích hợp để rèn kỹ năng sống cho trẻ. Trẻ được tiếp thu các
kỹ năng thông qua gia đình một cách tự nhiên, nhẹ nhàng mà lại hiệu quả cao.
Mặt khác, nuôi dạy con luôn là mối quan tâm hàng đầu của các bậc phụ huynh
nhất là trong thời buổi hiện nay, ai cũng muốn con mình đạt thành tích cao trong
học tập cũng như trưởng thành hơn vê mọi mặt. Tuy nhiên việc làm thế nào để
có thể giúp trẻ phát huy được khả năng tiêm ẩn? Làm thế nào để trẻ có những kỹ
năng sống tốt nhất thì nhiêu phụ huynh còn lúng túng trong vấn đê này. Trên
thực tế nhiêu phụ huynh chưa có kiến thức vê kỹ năng sống, không biết kỹ năng
sống bao gồm những kỹ năng nào? Cần giáo dục trẻ từ đâu, dạy trẻ những gì?
Chính vì vậy mà tôi phải tuyên truyên đến các bậc phụ huynh để họ hiểu tầm
quan trọng của kỹ năng sống, những kiến thức cần dạy trẻ, phương pháp dạy trẻ
như thế nào để trẻ tiếp thu một cách thoải mái, tự nhiên. Việc tuyên truyên đến
các bậc phụ huynh được tiến hành trong giờ đón, trả trẻ, thông qua góc tuyên
truyên, thông qua việc mời phụ huynh thăm quan hoặc tham gia trực tiếp vào
các hoạt động của lớp hay thông qua buổi họp phụ huynh. Cụ thể:
Thông qua giờ đón, trả trẻ, tôi đã trao đổi với phụ huynh vê tình hình sức
khoẻ, vệ sinh cá nhân, những phản ứng kém linh hoạt cũng như những kỹ năng
của trẻ để cùng phụ huynh giáo dục trẻ, giúp trẻ chủ động trong các hoạt động.
Ví dụ: Ở lớp tôi có cháu Anh Thương, thời gian đầu đi học cháu không thể
tự mình kéo quần lên sau mỗi lần đi vệ sinh, không biết đi dép có quai, thậm chí
không biết đội mũ len đúng cách nếu không có sự giúp đỡ của cô vì tất cả những
việc đó ở nhà bố mẹ đêu làm cho cháu. Thông qua trao đổi với mẹ của cháu, tôi
biết cháu là con của gia đình có điêu kiện. Ở nhà bà và mẹ vì quá yêu thương mà
bao bọc cháu, làm thay hết mọi việc cho cháu nhưng không biết rằng điêu đó vô
tình dẫn đến việc cháu không biết cách phục vụ bản thân, làm cháu thiếu hụt kỹ
năng sống so với các bạn cùng độ tuổi. Tôi có trao đổi với mẹ cháu rằng để cháu
tập làm mọi thứ bắt đầu từ chỗ chọn việc dễ nhất để con làm.
Thông qua góc tuyên truyên với phụ huynh: bảng được thiết kế đẹp, kích
thước to rõ, các phụ huynh có thể đọc, quan sát theo dõi dễ dàng. Đây là nơi trao
đổi thông tin với phụ huynh rất hiệu quả. Theo từng chủ đê tôi có đánh máy nội
dung rèn kỹ năng sống cho trẻ mà cô đang dạy trẻ ở trên lớp.
Ví dụ: Ở chủ đê trường mầm non tôi ghi nội dung lồng ghép rèn kỹ năng
sống cho trẻ như sau:
Kỹ năng giao tiếp: giao tiếp với bạn bè, với cô, với người lớn, (biết chào
hỏi cô, chào hỏi bạn khi tới lớp, chào khách khi có khách tới chơi, biết xin lỗi,
biết cảm ơn đúng lúc…).
Kỹ năng tuân thủ các quy định của trường, lớp: không la hét, không nói
leo trong giờ học, không làm ồn, biết chờ đến lượt….
Kỹ năng hợp tác: trẻ biết chơi cùng bạn, chia sẻ đồ chơi với bạn, giúp đỡ
bạn khi cần thiết, cùng bạn hoàn thành việc đơn giản, tìm sự giúp đỡ của bạn khi
cần....
14
Thông qua việc mời phụ huynh thăm quan hoặc tham gia trực tiếp vào
việc tổ chức bữa ăn trưa cho trẻ. Có rất nhiêu phụ huynh đã không khỏi ngỡ
ngàng vì khả năng tự lập của con mình trên lớp.
Ví dụ: Chị Oanh, phụ huynh cháu Quang Anh có nói với tôi rằng ở nhà
cháu không tự xúc ăn, cứ đòi mẹ xúc cho thì mới ăn, thậm chí ăn xong còn bắt
mẹ lấy khăn lau miệng. Nhưng ở trên lớp thì khác hẳn, cháu có thể chia cơm cho
các bạn, tự ngồi vào bàn ăn và xúc ăn rất gọn gàng. Khi tôi hỏi Quang Anh: tại
sao ở nhà con không tự xúc cơm ăn? Cháu trả lời rằng: vì mỗi khi con đánh rơi
cơm, làm đổ canh mẹ thường quát con còn cô giáo thì không. Qua buổi thăm
quan hôm đó chị Oanh đã rút được kinh nghiệm trong việc rèn kỹ năng sống cho
trẻ đó là không nên nóng vội, ít la mắng cháu, nên tôn trọng cháu, con có quyên
làm sai, nếu sai mẹ sẽ động viên con làm lại.
Việc phối hợp với phụ huynh bằng hình thức này đã giúp phụ huynh hiểu
biết thêm vê cách rèn kỹ năng sống cho trẻ, từ đó các bậc phụ huynh biết cách
dạy con mình các kỹ năng sống tốt hơn.
Hình ảnh một buổi họp phụ huynh
Thông qua các buổi họp phụ huynh, tôi cũng đã chủ động lồng ghép nội
dung rèn kỹ năng sống cho trẻ đến các bậc phụ huynh như các kỹ năng tự phục
vụ bản thân, kỹ năng nhận biết được các nguy hiểm xung quanh trẻ,...từ đó trẻ
biết ứng phó với những tình huống có thể xảy ra. Các bậc phụ huynh đã tiếp
nhận thông tin một cách đồng bộ, không gò bó, gượng ép. Tôi giải thích cho phụ
huynh hiểu việc dạy kỹ năng sống cho trẻ cần phải bắt nguồn từ gia đình vì trẻ
học hỏi nhiêu nhất từ chính bố mẹ của mình, phụ huynh phải là những tấm
gương tốt để trẻ noi theo.
Bên cạnh việc trao đổi với phụ huynh hay mời phụ huynh tham quan lớp
học, để phụ huynh hiểu hơn vê tầm quan trọng của việc rèn kỹ năng sống cho trẻ
là rất cần thiết.
Tổ chức cho trẻ thực hành các tình huống trong cuộc sống, giáo viên tạo
tình huống cho trẻ giải quyết với sự góp sức của phụ huynh.
Ví dụ: Cô tổ chức cho trẻ (hoặc một nhóm trẻ) được trải nghiệm thực tế,
áp dụng theo chương trình “Con đã lớn khôn”. Cô yêu cầu trẻ đi tới một cửa
15
hàng và mua cho cô một món đồ, cô chỉ đường và hướng dẫn trẻ đi, trong khi trẻ
đi tới cửa hàng, cô đi theo để giám sát trẻ nhưng không để cho trẻ biết là cô đang
giám sát trẻ, tạo tình huống là cô mời hai phụ huynh tham gia, một phụ huynh
đóng vai là người xấu còn một phụ huynh giám sát trẻ cùng với cô (phụ huynh
giám sát trẻ có thể là cha hoặc mẹ của trẻ được giám sát). Phụ huynh đóng vai
làm người xấu phải là người mà trẻ chưa biết mặt. Khi trẻ đang trên đường đến
cửa hàng phụ huynh đóng vai người xấu xuất hiện hỏi han trẻ và cho trẻ kẹo, rủ
trẻ đi theo để cho nhiêu kẹo hơn, nếu trẻ không đi theo thì là điêu tốt, sau đó ta
tạo tình huống thứ hai là người xấu bế trẻ đi xem phản ứng của trẻ như thế nào.
Cô và phụ huynh quan sát xem ứng phó của trẻ như thế nào để tìm biện pháp
giáo dục cho phù hợp và hiệu quả, nếu trẻ đi theo người lạ cô can thiệp kịp thời
và giáo dục cho trẻ các kỹ năng cần thiết như: không đi theo người lạ, khi người
lạ kéo đi, bế đi thì phải cầu cứu hoặc hét to cho mọi người nghe thấy.
Qua việc phối hợp với phụ huynh tổ chức cho trẻ trải nghiệm thực tế này
giúp trẻ có kỹ năng bảo vệ bản thân mình hơn và có ý thức bảo vệ mình khỏi
những tình huống nguy hiểm.
Bên cạnh đó tôi kết hợp với phụ huynh trong việc dạy trẻ ghi nhớ địa chỉ
của gia đình, tên bố mẹ, nghê nghiệp để phòng khi gặp khó khăn cần giúp đỡ.
Những biện pháp trên đã làm thay đổi cơ bản từ phía phụ huynh: Cha mẹ
luôn coi trọng trẻ và tích cực phối hợp với giáo viên để dạy kỹ năng sống cho
trẻ. Đặc biệt là giao tiếp giữa cha mẹ và con cái tốt hơn, đa số phụ huynh dịu
dàng, ít la mắng trẻ, thay đổi trong cách rèn kỹ năng sống cho trẻ, phân việc cho
trẻ, không cung phụng trẻ thái quá.
4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm
* Đối với trẻ:
Sau khi áp dụng các biện pháp, kết quả trên trẻ so với đầu năm đã có
chuyển biến rõ rệt. Kết quả khảo sát cụ thể như sau:
Kết quả đầu năm
TT
1
2
3
4
5
6
Nội dung
Kỹ năng giao tiếp
lịch sự lễ phép.
Kỹ năng phục vụ
chăm sóc bản thân.
Kỹ năng tuân thủ
quy tắc xã hội.
Kỹ năng hợp tác.
Kỹ năng ứng xử
phù hợp với người
xung quanh.
Kỹ năng tự bảo vệ
trước những tình
huống nguy hiểm.
Tổng
số trẻ
Đạt
Kết quả cuối năm
Chưa đạt
Đạt
Chưa đạt
%
Số trẻ
%
Số trẻ % Số trẻ
%
Số trẻ
30
19
63
11
37
30
100
0
0
30
19
63
11
37
28
93
2
7
30
18
60
12
40
29
97
1
3
30
21
70
9
30
29
97
1
3
30
20
67
10
33
30
100
0
0
30
18
60
12
40
29
97
1
3
16
Kết quả khảo sát trên cho thấy, trẻ có kỹ năng sống ở mức đạt tăng lên
nhanh chóng. Trẻ đã có được những kỹ năng tương đối bên vững. Kết quả này
đã chứng minh ưu điểm của việc thực hiện có hiệu quả các biện pháp. Trẻ lớp tôi
đã có được những kỹ năng sống cơ bản, cần thiết của lứa tuổi này. Đồng thời
cũng lĩnh hội được những kỹ năng kỹ xảo, thói quen hành vi, nếp sống văn hoá,
làm nên tảng cho việc phát triển nhân cách trẻ toàn diện, bên vững, có khả năng
thích ứng với mọi biến động của xã hội, biết tự khẳng định mình trong xã hội.
* Đối với bản thân: Qua việc tổ chức hoạt động giáo dục kỹ năng sống
cho trẻ tôi cũng có điêu kiện để rèn luyện các kỹ năng sống của mình, có một số
kinh nghiệm và tự tin hơn khi tổ chức các hoạt động giáo dục cho trẻ trong đó có
hoạt động giáo dục kỹ năng sống.
* Đối với phụ huynh: Sự chuyển biến tích cực từ phía trẻ đã làm cho phụ
huynh cảm thấy vui mừng, phấn khởi, tin tưởng vào kết quả giáo dục của nhà
trường. Các bậc phụ huynh đã có thói quen phối hợp với giáo viên, tích cực
tham gia các hoạt động giáo dục trẻ ở nhà trường.
17
III. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
1. Kết luận
Sự phát triển không ngừng của các ngành khoa học công nghệ trong thời
kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, đòi hỏi phải có những con người
năng động, sáng tạo, có khả năng làm chủ bản thân, ứng xử phù hợp với môi
trường xung quanh và có khả năng ứng phó tích cực trước các tình huống của
cuộc sống. Rèn kỹ năng sống cho trẻ ngay từ lúc còn bé là rất cần thiết. Việc rèn
kỹ năng sống cho trẻ cần được quan tâm và thực hành một cách mạnh mẽ, toàn
diện hơn nữa ở cả gia đình, nhà trường và xã hội, góp phần tạo cho xã hội có
những “Mầm ươm” khoẻ mạnh và sẵn sàng vươn lên.
Chính vì vậy, việc rèn luyện kỹ năng sống cho trẻ là điêu rất cần thiết.
Việc hình thành các kỹ năng cơ bản trong học tập và sinh hoạt là yếu tố quyết
định đến quá trình hình thành và phát triển nhân cách sau này của trẻ. Khi xảy ra
vấn đê nào đó, nếu không được trang bị kỹ năng sống, trẻ sẽ không đủ kiến thức
để xử lý các tình huống bất ngờ. Vì thế, rèn luyện kỹ năng sống sẽ giúp trẻ sớm
có ý thức làm chủ bản thân, sống tích cực và hướng đến những điêu lành mạnh
cho chính mình cũng như xã hội.
Trong thời buổi trẻ tiếp xúc với xã hội sớm như ngày nay, rèn kỹ năng
sống cho trẻ thực sự rất cần thiết. Việc hình thành các kỹ năng cơ bản trong học
tập và sinh hoạt không chỉ mang lại lợi ích vê mặt sức khỏe mà còn giúp các em
sớm có ý thức để làm chủ bản thân, sống tích cực và hướng đến những điêu lành
mạnh cho chính mình cũng như xã hội.
Rèn kỹ năng sống là việc làm thường xuyên đòi hỏi mỗi giáo viên phải
nâng cao trách nhiệm nghê nghiệp, tìm các biện pháp để tổ chức cho trẻ được
hoạt động, chuẩn bị những tiên đê cần thiết giúp cho trẻ bước vào học phổ thông
và học làm người.
2. Kiến nghị:
- Nhà trường cần tổ chức nhiêu buổi kiến tập, thực tập, trao đổi kinh
nghiệm vê việc rèn kỹ năng sống cho trẻ để chúng tôi được học hỏi, học tập vê
thực hiện tốt tại lớp mình phụ trách.
Trên đây là “Một số biện pháp rèn kỹ năng sống cho trẻ 4 - 5 tuổi ở
trường mầm non Sông Âm năm học 2017 - 2018” mà bản thân tôi đã đúc kết
được trong quá trình rèn kỹ năng sống cho trẻ. Rất mong nhận được sự góp ý,
nhận xét của Hội đồng khoa học trường mầm non Sông Âm và Hội đồng khoa
học cấp trên, để bản thân tôi có được nhiêu kinh nghiệm quý báu hơn nữa trong
việc góp phần nâng cao chất lượng chăm sóc giáo dục trẻ mầm non.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ
.......................................................................
.......................................................................
.......................................................................
.......................................................................
.......................................................................
.......................................................................
Nguyệt Ấn, ngày tháng năm 2018
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình viết,
không sao chép nội dung của người khác.
Người viết
Mai Thị Thủy
18
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]. Giáo dục là vũ khí mạnh nhất mà người ta có thể sử dụng để thay đổi
cả thế giới”. Loigiaihay.com
[2] Chương 8: bài 7: “Đặc điểm phát triển tâm lý trẻ tuổi mẫu giáo
nhỡ”. Tâm lý học trẻ em. Tác giả: Nguyễn Thị Ánh Tuyết
[3] .
[4]. Diến đàn báo dân trí.
19