SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HĨA
PHỊNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO ĐÔNG SƠN
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
KINH NGHIỆM RÈN NỀ NẾP THÓI QUEN CHO TRẺ 24-36
THÁNG TUỔI, NHẦM NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG GIÁO DỤC
TRẺ Ở TRƯỜNG MẦM NON THỊ TRẤN RỪNG THƠNG,
HUYỆN ĐƠNG SƠN, TỈNH THANH HĨA
Người thực hiện: Phan Thị Mơ
Chức vụ:
Giáo viên
Đơn vị công tác: Trường mầm non thị trấn
Rừng Thơng, huyện Đơng Sơn, tỉnh Thanh Hóa
SKKN thuộc lĩnh vực: Chuyên môn
1
THANH HÓA NĂM 2018
MỤC LỤC
TT
1.
1.1.
NỘI DUNG
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
Lý do chọn đề tài
TRANG
1
2
2
1.2.
Mục đích nghiên cứu
3
1.3.
Đối tượng nghiên cứu
3
Phương pháp nghiên cứu
NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
Cơ sở lý luận
Thực trạng của vấn đề
Thuận lợi
Khó khăn
Khảo sát chất lượng đầu năm học
Các biện pháp thực hiện
Biện pháp 1: Xây dựng môi trường giáo dục, giáo
dục bằng tình cảm yêu thương của cơ
Biện pháp 2: Tìm hiểu đặc điểm tâm sinh lý của
trẻ để có biện pháp giáo dục phù hợp
Biện pháp 3: Rèn nề nếp thói quen cho trẻ thơng
qua hoạt động chơi tập và mọi lúc mọi nơi
Biện pháp 4: Lấy một số gương tốt kịp thời để
giáo dục trẻ
Biện pháp 5: Làm tốt công tác phối hợp với phụ
huynh
Kết quả đạt được
III. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
Kết luận
Kiển nghị
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
DANH MỤC SKKN ĐÃ ĐƯỢC XẾP LOẠI
3
3
3
4
5
5
5
6
1.4.
2.
2.1.
2.2.
2.2.1.
2.2.2.
2.2.3.
2.3.
2.2.1.
2.2.2.
2.2.3.
2.2.4.
2.2.5.
2.4.
3.
3.1.
3.2.
6
8
9
13
14
15
16
16
16
18
19
2
1. MỞ ĐẦU
1.1. Lý do chọn đề tài.
Giáo dục mầm non là bậc học đầu tiên trong hệ thống giáo dục quốc dân,
là bộ phận quan trọng trong sự nghiệp đào tạo thế hệ trẻ trở thành những con
người có ích, những con người mới xã hội chủ nghĩa. Mục tiêu của Đảng ta là
giáo dục mầm non phải làm tốt việc chăm sóc giáo dục thế hệ trẻ ngay từ thời
thơ ấu, nhằm tạo ra cơ sở quan trọng của con người Việt Nam mới, con người
biết lao động làm chủ tập thể, đó chính là yếu tố phát triển toàn diện nhân cách
trẻ mầm non {2}. Ngày nay chúng ta khơng chỉ đào tạo những con người có trí
thức có khoa học có tình u thiên nhiên, u tổ quốc, yêu lao động mà còn tạo
nên những con người biết yêu nghệ thuật, yêu cái đẹp, giàu mơ ước và sáng tạo.
Những phẩm chất ấy của con người phải được hình thành từ lứa tuổi mầm non,
lứa tuổi hứa hẹn bao điều tốt đẹp trong tương lai.
Xuất phát từ mục tiêu trên Đảng và Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số
29-NQ/TW với nội dung đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp
ứng yêu cầu cơng nghiệp hóa – hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế. Mục tiêu cụ thể với giáo dục
mầm non, giúp trẻ phát triển thể chất, tình cảm, hiểu biết, thẩm mỹ, hình thành
các yếu tố đầu tiên của nhân cách, chuẩn bị tốt cho trẻ bước vào lớp 1{1}.
Trong những năm gần đây bậc học mầm non đang có nhiều sửa đổi về
chương trình giáo dục, trong đó đặc biệt coi trọng việc tổ chức các hoạt động
phù hợp với sự phát triển của từng cá nhân trẻ, khuyến khích trẻ hoạt động một
cách chủ động tích cực. Đồng thời tạo điều kiện cho giáo viên phát huy khả
năng sáng tạo trong việc lựa chọn và tổ chức các hoạt động chăm sóc, giáo dục
trẻ một cách linh hoạt.
Muốn thực hiện được mục tiêu trên thì những người làm công tác giáo
dục, đặc biệt là cô giáo mầm non người trực tiếp chăm sóc và giáo dục trẻ phải
biết đổi mới nội dung, phương pháp và hình thức tổ chức hoạt động giáo dục, để
khuyến khích trẻ tham gia hoạt động một cách tích cực và có hiệu quả nhất. Để
đạt được kết quả giáo dục đó chúng ta phải kể đến gia đình, gia đình chính là nơi
ni dưỡng chăm sóc, cha mẹ là những người thầy giáo đầu tiên và quan trọng
nhất của đứa trẻ. Cô giáo mầm non là người mẹ hiền thứ hai của trẻ. Vậy chúng
ta cần phải làm gì? Làm như thế nào? Làm ra sao? Để hình thành cho trẻ có
phẩm chất đạo đức tốt trở thành người con có ích cho gia đình và xã hội.
Trẻ mầm non đặc biệt trẻ 24 - 36 tháng tuổi là giai đoạn đầu tiên của việc
hình thành và phát triển nhân cách trẻ. Trong khi đó cơ thể trẻ cịn non nớt, tâm
sinh lý phát triển mạnh, dẫn đến việc trẻ rất dễ bị tổn thương về tâm lý và thể
3
chất {4}. Vì vậy muốn hình thành cho trẻ nề nếp thói quen ngay từ ngày đầu tiên
đến trường khơng phải là chuyện đơn giản. Chính vì vậy cơ giáo mầm non phải
làm thế nào để giúp trẻ cảm nhận được tình thương u và sự an tồn khi trẻ đến
trường, lớp.
Việc hình thành nề nếp thói quen ban đầu cho trẻ 24 - 36 tháng tuổi là một
nhiệm vụ vô cùng quan trọng và rất cần thiết, thời kỳ này trẻ bắt đầu xa bố mẹ,
xa người thân đến một mơi trường hồn tồn mới lạ. Chính vì vậy cơ giáo phải
có biện pháp giáo dục để đưa trẻ vào nề nếp thói quen ngay buổi ban đầu, nhằm
giúp trẻ dần dần bắt nhịp vào môi trường mới, mà trẻ ln cảm thấy vui, thoải
mái, an tồn khi tới trường lớp mầm non. Việc đưa trẻ vào nề nếp thói quen ban
đầu rất khó khăn, vì trẻ bắt đầu rời xa bố mẹ, xa người thân đến môi trường mới
lạ hoàn toàn, nên khi mới đến trường, lớp trẻ thường sợ hãi, mọi thứ xung quanh
đều lạ lẫm đối với trẻ, trẻ né tránh bạn, không chấp nhận sự giúp đỡ của cơ giáo,
thậm chí cịn la khóc, khơng ăn, không ngủ, không tham gia vào mọi hoạt động,
dường như khơng hồ nhập vào tập thể. Là cơ giáo trực tiếp chăm sóc và giáo
dục trẻ làm thế nào để giúp trẻ quen với cô giáo, quen với bạn bè và nhanh
chóng có nề nếp thói quen bước vào học tập cùng cô và các bạn. Hiểu được tầm
quan trọng đó tơi băn khoăn, suy nghĩ và chọn đề tài “ Kinh nghiệm rèn nề
nếp, thói quen cho trẻ 24 - 36 tháng tuổi nhằm nâng cao chất lượng giáo dục
trẻ nhà trẻ ở trường mầm non thị trấn Rừng Thơng, huyện Đơng Sơn, tỉnh
Thanh Hóa " với mong muốn trẻ có nề nếp thói quen tốt thích nghi với môi
trường giáo dục ở trường lớp mầm non.
1.2. Mục đích nghiên cứu.
Đề tài nghiên cứu tìm ra những biện pháp tốt nhất, giúp trẻ có thói quen
nề nếp tốt để thích ứng với mơi trường giáo dục ở trường, lớp mầm non nhằm
nâng cao chất lượng chăm sóc giáo dục trẻ nhà trẻ ở trường mầm non thị trấn
Rừng Thơng, huyện Đơng Sơn, tỉnh Thanh Hóa.
1.3. Đối tượng nghiên cứu.
Kinh nghiệm rèn nề nếp, thói quen cho trẻ 24 - 36 tháng tuổi nhằm nâng
cao chất lượng giáo dục trẻ nhà trẻ ở trường mầm non Thị Trấn Rừng Thơng,
huyện Đơng Sơn, tỉnh Thanh Hóa
1.4. Phương pháp nghiên cứu.
Để nghiên cứu đề tài này tôi áp dụng các phương pháp sau
* Phương pháp nghiên cứu lý luận:
+ Phương pháp đọc tài liệu
+ Phương pháp phân tích tổng hợp
Nhóm phương pháp này nhằm thu thập các thông tin lý luận để xây dựng
cơ sở lý luận của đề tài
* Phương pháp nghiên cứu thực tiễn:
+ Phương pháp điều tra
+ Phương pháp đàm thoại, phỏng vấn
+ Phương pháp trực quan minh họa
+ Phương pháp thực nghiệm sư phạm
+ Phương pháp thống kê
+ Phương pháp tổng kết kinh nghiệm
4
Nhóm phương pháp này nhằm thu thập các thơng tin thực tiễn để xây
dựng cơ sở thực tiễn của đề tài .
2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NHIỆM
2.1. Cơ sở lý luận.
Xuất phát từ đặc điểm tâm sinh lý trẻ nhà trẻ đang trên đà phát triển với
tốc độ nhanh, cơ thể trẻ còn yếu ớt, cấu tạo và chức năng của các hệ cơ quan
trong cơ thể chưa hoàn thiện. Sự phát triển tâm lý và sinh lý có mối quan hệ mật
thiết và thống nhất chặt chẽ. Trong khi đó nhu cầu cảm giác vận động, nhu cầu
giao tiếp với người lớn, nhu cầu xúc cảm, tình cảm và nhu cầu tiếp xúc với đồ
vật của trẻ rất mạnh. Như vậy người lớn có ảnh hưởng rất lớn đối với toàn bộ sự
phát triển tâm sinh lý của trẻ em (sự phát triển của trẻ em phụ thuộc rất nhiều
vào người lớn){4}.
Chính vì vậy cơ giáo mầm non phải hiểu hoàn cảnh sống của trẻ, nắm
được đặc điểm về thể chất, tâm lý của trẻ cũng như thói quen, hành vi đạo đức
mà trẻ đã có... Từ đó lựa chọn những biện pháp tác động sư phạm phù hợp,
nhằm giúp trẻ phát triển tốt về thể chất, tình cảm thẩm mĩ và thích ứng với cuộc
sống, với mơi trường giáo dục ở trường, lớp mầm non {3}.
Hoạt động của trẻ ở trường mầm non được phát triển phức tạp dần. Trẻ 24
- 36 tháng tuổi hoạt động với đồ vật là hoạt động chủ đạo. Các dạng hoạt động
khác mới nảy sinh như vẽ, nặn..., lao động tự phục vụ bản thân, trò chơi thao tác
vai...Trong giai đoạn này ngôn ngữ của trẻ đang phát triển mạnh mẽ, khă năng
tự ý thức được hình thành. Vai trị của cơ giáo trong việc rèn luyện nề nếp, thói
quen cho trẻ là vơ cùng quan trọng. Bởi vì lần đầu tiên đến lớp trẻ rất bỡ ngỡ và
luôn cảm thấy xa lạ. Đặc biệt trẻ thấy lo lắng xen lẫn chút sợ hãi, ln có cảm
giác cơ giáo và bạn bè khơng quan tâm tới mình. Thời gian trẻ ở trường khoảng
8 – 10 giờ/ngày đây là khoảng thời gian diễn ra nhiều hoạt động nhất. Vì vậy cơ
giáo phải tập cho trẻ thích nghi dần với nề nếp trong môi trường mới, không nên
bắt trẻ theo ngay tất cả chế độ sinh hoạt hàng ngày, đôi khi phải chiều theo ý của
trẻ.
Hoạt động giáo dục trẻ ở trường mầm non là hoạt động có mục đích, có
kế hoạch. Cơ giáo có vai trị vơ cùng quan trọng trong giáo dục trẻ, phương pháp
giáo dục của cô giáo mầm non phải phù hợp với nhu cầu phát triển, nhận thức,
hứng thú của trẻ, tạo cho trẻ có cảm giác thoải mái, hứng thú và an tồn. Vì thế
nghệ thuật của cơ giáo mầm non là biết hồ nhập vào thế giới của trẻ, biết quên
mình là người lớn để thực sự là người bạn của trẻ, cô giáo phải biết tơn trọng và
đồng cảm với trẻ tạo nên khơng khí vui tươi với thái độ cởi mở, lôi cuốn, thu hút
trẻ vào hoạt động, có như thế trẻ mới dễ dàng nghe theo sự hướng dẫn của cô.
Thông qua hoạt động giáo dục trẻ có những hiểu biết nhất định, có đủ điều kiện
về thể lực, kiến thức đồng thời hình thành và phát triển tốt nhân cách cho trẻ, tạo
tiền đề cho trẻ bước vào học lớp tiếp theo tốt hơn.
Chính vì vậy việc hình thành nề nếp thói quen ban đầu cho trẻ mầm non
phải được quan tâm chú trọng thường xuyên. Cô giáo mầm non không ngừng
học hỏi, trau dồi kiến thức, kỹ năng nghiệp vụ sự phạm, đổi mới phương pháp
giáo dục, thường xuyên tiếp cận với cái mới một cách kịp thời để có biện pháp
giáo dục cho phù hợp. Nề nếp thói quen khơng phải ngẫu nhiên hay trẻ đến
5
trường học một vài ngày là có. Mà thói quen đó là cả một q trình rèn luyện
mới hình thành được. Chính vì vậy bản thân tơi cần phải kiên trì, chịu khó và có
nhiều thủ thuật, phương pháp để giáo dục, lôi cuốn trẻ vào hoạt động một cách
nề nếp.
2.2. Thực trạng vấn đề.
Năm học 2017 - 2018 tôi được nhà trường phân cơng phụ trách nhóm trẻ
24 – 36 tháng tuổi, với tổng số 25 cháu trong đó có 10 cháu nam và 15 cháu nữ.
Đa số trẻ là con em cán bộ công chức, viên chức và chưa qua nhà trẻ, bước đầu
tách rời bố mẹ nên khi mới đến lớp trẻ chưa quen cô và các bạn để hồ nhập
ngay vào tập thể. Vì vậy mà việc đưa các trẻ vào nề nếp ngay buổi ban đầu là rất
quan trọng và cần thiết. Bước đầu thực hiện tơi gặp thuận lợi và khó khăn sau:
2.2.1. Thuận lợi:
Trường mầm non thị trấn Rừng Thông đạt chuẩn Quốc gia mức độ I năm
2010. Cơ sở vật chất nhà trường, các trang thiết bị đồ dùng, đồ chơi phục vụ cho
hoạt động chăm sóc giáo dục trẻ tương đối ổn định. Chất lượng giáo dục trẻ
được phòng giáo dục đánh giá là một trong những trường có chun mơn nằm
trong tốp đầu toàn huyện.
Đa số phụ huynh là cán bộ cơng chức, viên chức nên nhiệt tình với lớp,
quan tâm đến trẻ và luôn luôn đưa trẻ đi học đều, đúng giờ, cũng như tham gia
đầy đủ các hoạt động, các khoản ủng hộ cho nhà trường và lớp đầy đủ.
Bản thân được tham gia đầy đủ các lớp chun đề do phịng giáo dục tổ
chức, nhiệt tình, u nghề và có nhiều năm liên tục phụ trách nhóm trẻ, nên cũng
có một số kinh nghiệm trong việc chăm sóc giáo dục trẻ, cũng như việc hình
thành nề nếp thói quen cho trẻ nhà trẻ tạo được niềm tin với nhà trường và phụ
huynh.
2.2.2. Khó khăn:
Diện tích phịng học rất chật hẹp do đó hoạt động chăm sóc và giáo dục
trẻ rất khó khăn và vất vả.
Đa số trẻ trong lớp chưa đi học nhà trẻ nên rất khó khăn trong việc rèn nề
nếp thói quen cho trẻ.
Xuất phát từ đặc điểm tâm sinh lý của trẻ nhà trẻ nhút nhát, rụt dè, khả
năng ngôn ngữ của trẻ chưa phát triển, nói chưa rõ lời, trẻ cịn nói ngọng, nói lắp
nhiều, hiểu nghĩa câu từ hạn chế. Bước đầu xa mơi trường gia đình đến với mơi
trường lớp học hồn tồn xa lạ đối với trẻ do đó việc rèn nề nếp, thói quen cho
trẻ rất khó khăn
Do đặc thù của trẻ nhà trẻ sức khỏe yếu, sự thích nghi với thời tiết mơi
trường bên ngồi cịn kém, nên trẻ đi học không đều và không thường xuyên
nhất là thời điểm mưa gió, giá rét, vì vậy ảnh hưởng nhiều đến tỷ lệ chuyên cần
và nề nếp của trẻ.
Một số phụ huynh cịn có suy nghĩ trẻ con cịn nhỏ cần được cưng chiều,
nên việc rèn nề nếp thói quen cho trẻ gặp khơng ít khó khăn.
2.2.3. Kết quả khảo sát chất lượng đầu năm học.
Từ thuận lợi và khó khăn trên, bản thân tơi hiểu được vai trị và tầm quan
trọng của việc rèn nề nếp thói quen cho trẻ. Bước vào đầu năm học tôi tiến hành
khảo sát với kết quả như sau:
6
1
Khảo sát chất lượng đầu năm học (tháng 9/2017)
Nội Dung
Số
Đạt
Chưa đạt
trẻ Số
Tỷ lệ % Số
Tỷ lệ %
trẻ
trẻ
Nề nếp học tập
25
13
52
12
48
2
Nề nếp vui chơi
25
14
56
11
44
3
Nề nếp lao động phục vụ
25
14
56
11
44
4
5
Nề nếp vệ sinh
Nề nếp giờ ăn, ngủ
25
25
16
15
58
60
9
8
42
40
6
Nề nếp chào hỏi, xưng hô
25
16
58
9
42
TT
Với kết quả chất lượng qua khảo sát trên tôi thấy kết quả chưa cao, trẻ
chưa có thói quen nề nếp cụ thể: Thói quen nề nếp trong học tập mới đạt 52 %;
nề nếp vui chơi mới đạt 56 %; nề nếp lao động tự phục vụ đạt 56 %, nề nếp ăn ngủ mới đạt 60 %; nề nếp vệ sinh mới đạt 58 %; nề nếp chào hỏi xưng hô mới
đạt 58%. Từ kết quả trên tôi suy nghĩ và tìm ra một số biện pháp rèn nề nếp thói
quen cho trẻ, nhằm nâng cao chất lượng giáo dục trẻ nhà trẻ ở trường mầm non
thị trấn Rừng Thông, huyện Đông Sơn.
2.3. Các biện pháp thực hiện
2.3.1. Biện pháp 1: Xây dựng môi trường giáo dục, giáo dục bằng tình
cảm u thương của cơ giáo.
a. Xây dựng mơi trường giáo dục.
Xây dựng môi trường giáo dục trẻ nhà trẻ có nhiệm vụ hết sức quan trọng
có ý nghĩa đối với sự phát triển của trẻ. Môi trường giáo dục tạo cho trẻ cảm
thấy thích thú, vui tươi ấm áp và an tồn đối với trẻ. Mơi trường giáo dục là
những hình ảnh, những đồ chơi mới lạ, hấp dẫn để lơi cuốn trẻ vào hoạt động
một cách tích cực hơn. Mơi trường đó phải đảm bảo an tồn về thể chất, tâm lý
cho trẻ vừa có tác dụng giáo dục, vừa có tính thẩm mỹ và phải được xây dựng
xun suốt trong q trình học. Vì vậy tơi xác định trong lớp học khơng thể
thiếu những góc chơi của bé, để lớp học thêm lôi cuốn trẻ tôi phải tạo nên một
môi trường lớp học với những màu sắc sinh động, những nhân vật ngộ nghĩnh,
những người bạn thân u... Trường lớp có đẹp, đồ chơi nhiều, cơ tổ chức nhiều
trò chơi thú vị, nhiều hoạt động hấp dấn thì trẻ sẽ chăm chỉ, hứng thú đến
trường, lớp.
Lâu nay ở lớp tơi thường trang trí với các mảng, các loại dạ màu, xốp màu
với màu sắc rất sặc sỡ, đơi khi làm lóa mắt của trẻ, hình ảnh cịn mang tính áp
đặt, bố trí góc chơi chưa phù hợp, khai thác hiệu quả sử dụng chưa cao. Chính vì
vậy tơi đã dùng những lá cây, vỏ cây khơ, vỏ ngao, vỏ lạc, hoa thông, rơm dạ,
mùn cưa... để trang trí làm giảm màu sắc trang trí, làm cho hình ảnh trang trí hài
hịa hấp dẫn hơn. Các góc chơi được bố trí phù hợp với động và tĩnh, hình ảnh
trang trí phù hợp với trẻ và mang tính giáo dục cao.
Ví dụ 1: Tiêu đề các khu vực chơi là những hình ảnh con vật gần gũi, ngộ
nghĩnh đáng yêu, góc điểm danh trẻ “Đến lớp thật là vui” có hình ảnh của trẻ để
7
khi trẻ đến lớp trẻ gắn vào góc. Khu vực hoạt động với đồ vật với tiêu đề “Bé
nào giỏi” có hình ảnh trẻ đang chơi xếp hình, xâu hạt... Khu vực chơi thao tác
vai “Bé tập làm người lớn” “ Bé thích vài nào” hình ảnh trẻ đang bế em, cho em
ăn... “Một ngày của bé” tơi trang trí theo hoạt động trong ngày của trẻ như: Giờ
đón trẻ là hình ảnh cơ giáo đón trẻ vào lớp, giờ thể dục sáng trẻ đang đứng tập
thể dục, giờ chơi, tập có chủ định trẻ đang ngồi học, giờ chơi tập theo ý thích trẻ
đang chơi các khu vực chơi, giờ ngủ hình ảnh trẻ nằm ngủ ngay ngắn, giờ ăn trẻ
ngồi bàn xúc ăn, giờ trả trẻ hình ảnh trẻ đang vịng tay chào… Với hình ảnh
trơng rất bắt mắt vừa mang tính chất trang trí, mang cả tính giáo dục trẻ. Như
vậy môi trường giáo dục giúp trẻ yêu trường lớp hơn.
Môi trường lớp học phong phú sẽ tạo cho trẻ cảm hứng thích đến trường
lớp hơn, những mảng tường trang trí gây sự tị mị cho trẻ, những hình ảnh về
con vật ngộ nghĩnh đáng yêu, màu sắc hài hịa với trẻ để góp phần giáo dục trẻ
tốt hơn.
Ví dụ 2: Chủ đề “Bé và gia đình” tơi trang trí tranh ảnh về gia đình có bố
mẹ và các con. Chủ đề “Những con vật đáng yêu” tơi trang trí những con vật
thật ngộ nghĩnh đáng u, các khu vực chơi cũng được sắp xếp các con vật để
cho trẻ chơi và hoạt động. Chủ đề “Ngày tết vui vẻ” cũng được tơi trang trí về
cảnh gia đình chuẩn bị đón tết, hoa trái, cảnh vật ngày tết...
Hình ảnh góc chơi Hoạt động với đồ vật
b. Giáo dục bằng tình cảm u thương của cơ giáo.
Trẻ mới đến trường, lớp mầm non phải rời xa bàn tay yêu thương của bố
mẹ và người thân, đến một môi trường hồn tồn xa lạ, vì thế trẻ đến trường với
tâm trạng lạ lẫm, sợ hãi, quấy khóc. Trong đầu trẻ cứ nghĩ là người thân đã xa
8
lánh, bỏ rơi trẻ. Do đó trẻ rất cần đến sự yêu thương chăm sóc, quan tâm, gần
gũi, âu yếm của cô giáo. Bản thân tôi là cô giáo trực tiếp chăm sóc trẻ hàng ngày
tơi phải làm thế nào để trẻ có thể cảm nhận được sự gần gũi,yêu thương, sự an
tồn khi ở bên cơ? Bằng tình u thương tơi gần gũi, ân cần, trìu mến trị
chuyện, vui chơi cùng trẻ chỉ vào những bức tranh, những hình ảnh để trị
chuyện với trẻ, giúp trẻ nhanh chóng qn đi nỗi sợ hãi, nỗi nhớ người thân và
cảm thấy n tâm khi ở bên cơ. Khi trẻ có tình cảm với cô, hứng thú chơi tôi sử
dụng nghệ thuật của mình để thu hút lơi cuốn trẻ vào các hoạt động một cách dễ
dàng hơn.
Ví dụ 1: Ngày đầu tiên đến lớp trẻ thường khóc lóc nên tơi phải bế trẻ lên
và âu yếm, hỏi han trẻ, tạo tình huống bất ngờ như chỉ vào hình ảnh, đồ chơi nói:
Con chim đang bay kìa! Chim bay ở đâu? Ơi em búp bê này ngoan quá! Búp bê
có áo đẹp giống Quỳnh Anh không? Hoặc tôi chỉ vào tranh con vật hỏi trẻ con gì
đây? Con trâu có gì nào? ( bằng các câu hỏi tôi cho trẻ chỉ vào hình ảnh, con vật
để trẻ trả lời câu hỏi và nói cùng cơ.
Ví dụ 2: Tơi bế trẻ vào góc chơi, xem tranh ảnh, đồ chơi và trò chuyện với
trẻ: Cho trẻ xem tranh, kể chuyện theo tranh: Tranh vẽ ai đây? Cịn ai đây nữa?
Nào cơ cháu mình cùng chơi bế em, nấu cho em ăn nhé. Hoặc cô đố con đây là
cái gì (xe ơ tơ) cơ cháu mình cùng chở hàng bằng chiếc xe này nào....
Từ những câu hỏi tôi lôi cuốn trẻ xem tranh ảnh, đồ dùng, đồ chơi, tạo
tình huống bất ngờ, mới lạ, với lời dẫn nhẹ nhàng tình cảm tơi giúp trẻ cảm nhận
được tình u thương, nguồn hạnh phúc, sự an tồn khi ở bên cô, được cô giáo
yêu thương như người thân sẽ giúp trẻ dần dần quen cô và quên đi nỗi nhớ nhà.
Từ đó trẻ sẽ hứng thú tham gia các hoạt động cùng cô và các bạn một cách hiệu
quả. Phụ huynh cảm thấy yên tâm khi gửi con đến trường. Bản thân tôi cũng
thấy được niềm vui khi được phụ huynh tin tưởng, trẻ ngày một ngoan hơn,
thích thú hơn khi đến trường với cơ giáo và các bạn bè, tình cảm thân mật giữa
tơi và trẻ ngày càng gắn bó và gần gũi hơn.
2.3.2. Biện pháp 2: Tìm hiểu đặc điểm tâm sinh lý của trẻ để có biện
pháp giáo dục phù hợp.
Bên cạnh việc chăm sóc, giáo dục trẻ là nhiệm vụ trọng tâm, tơi tìm hiểu
đặc điểm tâm lý của từng trẻ qua hoạt động hàng ngày, xem trẻ thường có sở
thích gì? Đặc điểm riêng của trẻ như thế nào? Thông qua phụ huynh để biết
được một số đặc điểm, thói quen cá nhân của từng trẻ để có biện pháp giáo dục
phù hợp. Ngồi ra tơi thường xun tìm hiểu về trẻ như trước khi đi học trẻ
thường có những biểu hiện gì (tình trạng sức khỏe, biểu hiện tâm lý...) từ đó tơi
có biện pháp chăm sóc, giáo dục trẻ phù hợp.
Ví dụ 1: Tơi xếp chỗ ngồi cho trẻ, trẻ hiếu động ngồi cạnh cô, cạnh trẻ
ngoan, trẻ nhút nhát ngồi cạnh trẻ mạnh dạn, nhanh nhẹn. Như ở lớp có cháu
Minh Qn thường xun cào cấu bạn nên tơi xếp cho cháu ngồi cạnh cô giáo,
cạnh cháu Mộc Trà là cháu rất ngoan. Hay cháu Nguyễn Phương Thảo cháu đi
học nếu cho cháu ngồi cạnh cháu Lê Hạnh Dung thì cháu khơng khóc vì 2 cháu
này nhà gần nhau thường xuyên chơi với nhau.
Hay một số cháu có thói quen là đến lớp cháu cứ ôm ba lô, đồ dùng cá
nhân của mình, nếu bỏ ra là cháu khóc, rồi quần áo mặc trong người trời nóng cơ
9
cởi bớt ra cháu cũng khóc với những cháu như vậy tơi thường xun gần gũi trị
chuyện giáo dục, nhắc nhở trẻ để dần dần cho trẻ bỏ thói quen đó đi.
Ví dụ 2: Trong lớp có cháu Nhật Minh khi đến lớp nếu lấy ba lơ là cháu
khóc vậy nên tơi khơng lấy ngay mà đón cháu vào lớp cho cháu ngồi vào ghế,
một vài câu hỏi trò chuyện với cháu rồi gợi ý cô cùng con cất ba lơ nhé để cơ
cháu mình vào học. Tơi nói cho trẻ hiểu đây là đồ của con, cô và con sẽ cất vào
tủ cho sạch sẽ, nếu con đeo ba lơ trên người sẽ nặng lắm đấy, cịn cầm trên tay
thì sẽ bẩn mất, khi nào về con sẽ lấy ba lơ thì sẽ khơng bị bẩn được cơ và bố mẹ
khen nhé ….hay trời nóng rồi cơ cởi bớt áo ra cho con, nếu không khi con chơi
ra mồ hơi thì sẽ bị ốm phải uống thuốc, tiêm đau đấy...
Ví dụ 3: Đối với cháu rụt rè, ít nói tơi tăng cường trị chuyện vỗ về động
viên khích lệ để trẻ tự tin hơn, tích cực tham gia hoạt động của lớp hơn. Đối với
trẻ hiếu động thì tơi sẽ để trẻ giúp tôi nhiều việc vừa sức như: Khám tay đẹp của
bạn, chuẩn bị đồ dùng học tập cùng cô, chuẩn bị chỗ ngủ, chia cơm cho các
bạn... để trẻ thấy vai trị của mình và được rèn luyện nề nếp mà khơng cảm thấy
sự gị bó, áp đặt.
Như vậy nắm bắt được đặc điểm tâm, sinh lý của từng trẻ để có biện pháp
chăm sóc, giáo dục, rèn luyện phù hợp, giúp trẻ có nề nếp và thích nghi với
trường lớp mầm non. Khi thực hiện biện pháp này tôi phải mất vài tuần đầu giáo
dục rèn luyện cho trẻ, những tuần sau đó tơi theo dõi, nhắc nhở giáo dục kịp thời
khi cần thiết. Đến nay trẻ có nề nếp hơn khơng chọc ghẹo nhau, nghe lời cơ, học
ngoan có nề nếp hơn, các cháu khơng cịn khóc và khơng cịn ngồi ngả nghiêng
nữa.
2.3.3. Biện pháp 3: Rèn nề nếp thói quen cho trẻ thơng qua hoạt
động chơi tập và mọi lúc, mọi nơi.
a. Thông qua hoạt động chơi tậ.p
Trẻ mầm non thường là nhanh nhớ, chóng qn. Chính vì vậy nếu như thói
quen hàng ngày của trẻ mà không được thường xuyên rèn luyện nhắc nhở thì
hiệu quả sẽ khơng cao. Trong khi đó trẻ nhà trẻ thường đi học không thường
xuyên nếu trẻ nghỉ học một vài ngày đến khi đi học trẻ lại khóc nhè, khơng thực
hiện được các nề nếp như các bạn, đây là một thử thách lớn cho cô giáo. Vì vậy
tơi cần phải kiên trì chịu khó để uốn nắn, rèn luyện trẻ vào nề nếp thì mới có kết
quả cao.
Ví dụ 1: Thơng qua bài thơ: “ Cháu chào ông ạ ” giáo dục trẻ phải chào
hỏi lễ phép với ông bà, người lớn.
Bài thơ “ Yêu mẹ ” giáo dục trẻ mẹ đi làm vất vả để nuôi các con. Vậy
các con đi học phải chăm ngoan để được mẹ yêu.
Bài hát “ Đôi dép” Giáo dục trẻ hàng ngày phải đi dép để giữ vệ sinh giúp
đôi chân sạch sẽ, trắng tinh.
Thông qua bài thơ “ Giờ ăn, Giờ ngủ ” giáo dục trẻ biết rửa tay sạch sẽ,
giáo dục nề nếp thói quen vệ sinh cho trẻ. Trước khi ngủ tơi có thể hỏi trẻ giờ đi
ngủ các con phải làm gì? Hai mắt như thế nào? Giờ ăn tôi hỏi trẻ trước khi ăn
các con phải làm gì? (Rửa tay) Thế cơm rơi vãi con phải làm thế nào?
Ví dụ 2: Thơng qua các giờ chơi tập để rèn luyện nề nếp học tập cho trẻ
như: Giờ kể chuyện tôi rèn cho trẻ cách ngồi học ngay ngắn, trả lời đủ câu rõ lời,
10
khi nào cần hỏi, cần nói cháu nhớ giơ tay. Giờ vận động rèn cho trẻ tính mạnh
dạn tự tin, trật tự đợi đến lượt mình.
Bằng các câu hỏi với các hoạt động để tôi giáo dục rèn luyện nề nếp thói
quen cho trẻ với nhiều hình thức giáo dục, tạo tình huống, rèn luyện nhắc nhở để
trẻ luyện tập thực hành thường xuyên nhằm giúp trẻ có được nề nếp thói quen
tốt khi đến trường lớp mầm non.
Cơ giáo hướng dẫn trẻ trả lời câu hỏi
b. Thông qua hoạt động mọi lúc, mọi nơi.
Muốn đưa trẻ vào nề nếp thói quen đạt hiệu quả cao, bản thân tơi đã đi sâu
nghiên cứu, tìm tịi, tham khảo ở sách báo những tài liệu có nội dung rèn nề nếp
thói quen cho trẻ, học hỏi kinh nghiệm của đồng nghiệp. Xong để trẻ thực hiện
được các quy định, nề nếp của lớp là một điều hết sức khó khăn địi hỏi bản thân
tơi phải kiên trì, hướng dẫn thật nhẹ nhàng, thật rõ ràng và cụ thể cho trẻ:
Ví dụ 1: Để giáo dục trẻ biết rửa tay trước khi ăn, sau khi đi vệ sinh thì tơi
thường xun nhắc nhở trẻ như: Đến giờ ăn rồi chúng mình phải làm gì? (rửa
tay) Đúng rồi rửa tay để tay sạch sẽ, nếu không tay bẩn vi trùng theo tay vào
trong miệng thì sẽ đau bụng đấy. Rồi tơi hướng dẫn cho trẻ cách rửa tay. Lý do
vì sao phải rửa tay? Đồng thời nhắc nhở trẻ thường xuyên rửa tay sạch sẽ. Ngồi
ra tơi giáo dục trẻ trong khi ăn các con không được dùng tay bốc thức ăn, làm đổ
vãi thức ăn, biết nhặt cơm rơi vào đĩa riêng. Hướng dẫn cho trẻ từ cách cầm thìa
xúc cơm, xúc cháo ăn, xúc thìa vừa phải để khơng làm rơi vãi. Trước khi ăn trẻ
11
biết chào mời cô giáo, các bạn, ăn hết xuất, hết cơm biết nói cháu xin cơ bát
cơm...
Ví dụ 2: Khi đến lớp các con chào ai? (chào cô giáo và chào các bạn), Đồ chơi
trên giá các con có được lấy chơi không? Tại sao? (giáo dục trẻ không tự do lấy
đồ chơi khi cô chưa cho phép). Nhắc trẻ biết cất đồ dùng, đồ chơi đúng nơi quy
định, không tranh giành đồ chơi của bạn, không tự do đi lại trong lớp…
Ví dụ 3: Giờ ăn, ngủ tơi chuẩn bị nơi ngủ cho trẻ, hướng dẫn nhắc nhở trẻ
ăn xong lấy khăn lau miệng, uống nước, đi vệ sinh, lên giường ngủ, nằm ngủ
thoải mái . Tôi theo dõi nhắc nhở giúp đỡ trẻ khi cần thiết.
Giờ ăn trưa
12
Hình ảnh cơ giáo đón trẻ, dạy trẻ chào mẹ
Ví dụ 2: Khi đến lớp các con chào ai? (chào cô giáo và chào các bạn), Đồ
chơi trên giá các con có được lấy chơi khơng? Tại sao? (giáo dục trẻ không tự
do lấy đồ chơi khi cô chưa cho phép). Nhắc trẻ biết cất đồ dùng, đồ chơi đúng
nơi quy định, không tranh giành đồ chơi của bạn, không tự do đi lại trong lớp…
Ví dụ 3: Giờ ăn, ngủ tôi chuẩn bị nơi ngủ cho trẻ, hướng dẫn nhắc nhở trẻ
ăn xong lấy khăn lau miệng, uống nước, đi vệ sinh, lên giường ngủ, nằm ngủ
thoải mái . Tôi theo dõi nhắc nhở giúp đỡ trẻ khi cần thiết.
13
Hình ảnh cơ giáo hướng dẫn trẻ lau miệng phơi khăn lên giá
Giờ thể dục sáng
Tuy nhiên tôi cũng không nên làm trẻ quá tải với hàng loạt quy tắc, bởi
ngay một lúc trẻ không thể nhớ ngay được, mà để trẻ nhớ dần dần, rồi dạy trẻ
14
qua những tình huống cụ thể và mọi lúc, mọi nơi, tạo cho trẻ cảm giác nhẹ
nhàng, thoải mái. Tôi lấy một số gương tốt để dạy trẻ, với mục đích làm gương
cho trẻ noi theo. Lưu ý tuyệt đối không la mắng, quát nạt trẻ, tránh dùng những
từ như “ phạt ”, “ đánh ”, “ tét đít ”... Bởi vì tính kỉ luật xuất phát từ mong muốn,
từ sự tự giác của trẻ. Hãy nói với trẻ là cô yêu thương các con, khi con làm sai,
cô không thích hành động của con, chứ khơng phải khơng thích bản thân con để
trẻ nhận ra được hành động sai của mình mà sửa chữa để được cơ giáo khen và
yêu thương.
2.3.4. Biện pháp 4: Lấy một số gương tốt kịp thời để giáo dục trẻ.
Động viên khuyến khích nêu gương là biện pháp vô cùng quan trọng đối
với trẻ nhà trẻ. Do đó nêu gương phải kịp thời, phải đúng lúc, đúng chỗ, đúng
mục đích, khen chê phải có tác dụng đến hành vi tốt của trẻ, tránh tình trạng
khen không rõ ràng, khen chung chung. Chê cũng phải bằng những ngôn ngữ
biểu cảm để không làm nhụt ý của trẻ.
Ví dụ 1: Khi trẻ đến lớp tơi thường khen trẻ hôm nay bạn Mộc Trà rất giỏi
đi học rất ngoan, đến lớp chào cơ, khơng khóc nhè, lại cịn biết cất ba lơ của
mình đúng nơi qui định nữa.
Cơ giáo đang khuyến khích biểu dương trẻ
15
Ví dụ 2: Bạn Hạnh Dung xâu vịng màu đỏ rất đẹp con sẽ tặng ai? (tặng
mẹ) Hạnh Dung tặng mẹ con nói như thế nào? Mẹ Hạnh Dung sẽ rất vui và khen
con nhiều đấy! Hay thông qua các hoạt động khác tôi kịp thời nêu một số gương
tốt nhằm giúp trẻ có thói quen nề nếp tốt hơn. Xong tôi cũng cần chú ý khen chê
đúng mức, tuyệt đối không nên chê trẻ trước các bạn, trước lớp mà tơi có thể chê
trẻ bằng ngơn ngữ biểu cảm, giúp trẻ cảm nhận được sự khơng đồng tình của cơ
với trẻ để nhận ra được điểm yếu của mình mà thực hiện tốt nhiệm vụ.
Ví dụ 3: Trong lớp có cháu Minh Ngọc hay nhõng nhẽo, đi học thường
xuyên khóc nhè, đến lớp khơng chào cơ giáo… tơi đã kể cho trẻ nghe chuyện,
đưa ra một số câu hỏi như: Bạn gà con hôm nay đi học không chào cơ giáo đấy,
các con thấy bạn gà con có ngoan khơng? Cịn các con thì sao? Các con đến lớp
có chào cô giáo không nào? Các con chào như thế nào? Tơi cho chính cháu
Minh Ngọc nói lời chào cơ và được các bạn vỗ tay tán thưởng, một vài lần như
vậy sẽ dần dần hình thành cho trẻ nề nếp chào hỏi, trẻ sẽ tự tin mạnh dạn trong
giao tiếp hơn.
2.3.5. Biện pháp 5: Làm tốt công tác phối hợp với phụ huynh.
Công tác phối hợp với phụ huynh là việc làm rất quan trọng và có hiệu
quả cao trong việc rèn nề nếp thói quen cho trẻ. Chính vì vậy tơi đã sử dụng rất
nhiều các biện pháp để tuyên truyền với phụ huynh, giúp phụ huynh hiểu được
việc rèn thói quen nề nếp cho trẻ là rất cần thiết. Để trẻ khắc sâu và nhớ lâu thói
quen nề nếp có được khi ở trường lớp, thì về nhà trẻ cũng phải được thường
xuyên luyện tập thực hiện, có như vậy việc rèn luyện nề nếp thói quen của trẻ
mới có nề nếp thực sự. Từ đó trẻ có kỹ năng thói quen tốt trong mọi hoạt động
hàng ngày cũng như các hành vi văn minh lịch sự trong mọi hoạt động và mọi
tình huống. Đặc biệt là những ngày đầu năm học, trẻ mới bắt đầu đi học. Vì trẻ ở
nhà được ơng bà, bố mẹ và những người thân cưng chiều, không phải tuân thủ
những nề nếp sinh hoạt như ở lớp, nên một số thói quen được hình thành bị phá
vỡ. Một số trẻ lần đầu tiên được đến trường cảm thấy sợ hãi, thường khóc khi
chia tay bố mẹ để vào lớp và hay bị ốm sau một vài buổi đi học đầu tiên vì
khơng thích nghi kịp với sự thay đổi mơi trường, chế độ sinh hoạt. Vì vậy nhà
trường và gia đình cần giúp trẻ mau chóng vượt qua giai đoạn này.
Ví dụ 1: Tơi tun truyền qua giờ đón, trả trẻ, qua họp phụ huynh trong
năm học, qua góc tuyên truyền của lớp. Trao đổi với phụ huynh thường xuyên
trò chuyện với trẻ để giúp trẻ biết vì sao phải đi học? Đi học vui như thế nào? Đi
học con được chơi với ai? Qua đó kích thích sự tị mị gây hứng thú cho trẻ
mong muốn được đi học.
Nhắc nhở phụ huynh ở nhà cũng rèn luyện cho trẻ thói quen rửa tay trước
khi ăn, khi tay bẩn, sau khi đi vệ sinh, tự xúc cơm. Trước khi ăn biết chào mời
người lớn, không tự do lấy đồ chơi ra chơi khi chưa được sự cho phép của người
lớn... Phụ huynh cần chú ý không nên nuông chiều trẻ quá mức, trẻ địi gì được
nấy, mà cần có thái độ nghiêm khắc với trẻ khi trẻ chưa ngoan.
Ngày đầu trẻ đi học tôi trao đổi với phụ huynh cho trẻ thích nghi dần dần
với mơi trường một cách từ từ như: Có thể cho trẻ đến muộn hơn, và đón sớm
hơn một chút để trẻ thích nghi dần rồi dần dần cho trẻ đi học đúng thời gian biểu
của trường. Tơi trao đổi với phụ huynh về thói quen cũng như đặc điểm tâm,
16
sinh ý của trẻ khi ở nhà như thế nào. Trẻ thích ăn món gì? Sợ ăn món gì? Khơng
ăn được thức ăn nào? Thức ăn nào bị dị ứng? Khó ngủ hay dễ ngủ, thói quen vệ
sinh như thế nào... để tơi có biện pháp giáo dục phù hợp.
Ví dụ 2: Thấy trẻ rửa tay trước khi ăn cha mẹ nên khen ngợi và khoe với
mọi người về thói quen đó để trẻ thêm phấn khởi và làm theo mong muốn được
khen ngợi tiếp... hoặc cha mẹ khen ngợi thói quen chào hỏi lễ phép của trẻ,
những gì trẻ làm tốt thì phụ huynh nên khen trẻ để khuyến khích trẻ phát huy.
Nhắc nhở, trao đổi với phụ huynh đưa trẻ đến trường trao tay cho cô, phụ
huynh nhắc trẻ chào cô rồi ra về. Bố mẹ phải thể hiện sự trìu mến nhưng rứt
khốt, mặc dù rất muốn xem trẻ tập thể dục như thế nào? Chơi với ai? Có khóc
hay khơng? Nếu trẻ biết sự lo lắng của bố mẹ trẻ càng khóc to, thậm trí cịn
mong muốn được về nhà hơn. Chính vì vậy tơi trao đổi, vận động phụ huynh
cho trẻ đi học đều chuyên cần và đúng giờ, vì đi học đều sẽ giúp cho trẻ ngoan
hơn, có nề nếp thói quen tốt.
Ngồi ra tôi vận động phụ huynh sưu tầm các nguyên vật liệu phế thải,
các loại tranh ảnh qun góp cho cơ giáo và cùng làm đồ dùng, đồ chơi cho trẻ
nhằm nâng cao chất lượng chăm sóc giáo dục trẻ đạt kết quả tốt hơn.
2.4. Kết quả đạt được.
Qua áp dụng biện pháp trên trong năm học 2017 – 2018 bản thân tôi thu
được kết quả như sau:
Đối với trẻ: Trẻ ở lớp tơi phụ trách nề nếp thói quen tiến bộ rõ rệt, kết quả
cụ thể khảo sát cuối năm học như sau:
Kết quả khảo sát chất lượng cuối năm học (tháng 3/2018)
T
Nội Dung
Số
Đạt
Chưa đạt
T
trẻ Số trẻ Tỷ lệ % Số trẻ Tỷ lệ %
1
Nề nếp học tập
25
24
96
1
4
2
Nề nếp vui chơi
25
24
96
1
4
3
Nề nếp lao động phục vụ
25
23
92
2
8
4
5
Nề nếp vệ sinh
Nề nếp giờ ăn, ngủ
25
25
24
25
96
100
1
0
4
0
6
Nề nếp chào hỏi, xưng 25
25
100
0
0
hô
Qua chất lượng khảo sát cuối năm được nâng lên rõ rệt: Thói quen nề nếp
trong học tập đạt 96% tăng 44% so với đầu năm học; nề nếp vui chơi đạt 96%
tăng 40% so với đầu năm học; nề nếp lao động tự phục vụ đạt 92 % tăng 36%
so với đầu năm học; nề nếp ăn - ngủ đạt 100% tăng 40% so với đầu năm học;
nề nếp vệ sinh đạt 100% tăng 42% so với đầu năm học, đây là kết quả rất đáng
mừng.
Ngoài những kết quả nêu trên đa số trẻ đến cuối năm học thích đi học, đến
trường ngoan hơn, khơng cịn tình trạng trẻ khóc lóc như trước nữa, trẻ biết tự
động chào hỏi lễ phép cô giáo và người thân, biết cất lấy đồ dùng đúng nơi gọn
gàng, biết đi vệ sinh đúng nơi quy định và có một số thói quen tốt trong các hoạt
17
động trong ngày. Đặc biệt là trẻ rất hào hứng được đến trường, gần gũi với cô và
các bạn. Trẻ có thói quen tự phục vụ nên việc chăm sóc giáo dục trẻ ngày càng
dễ dàng hơn. Trẻ tự xúc cơm, xúc cháo ăn, biết gọi người lớn khi có nhu cầu,
chơi xong biết cất đồ chơi gọn gàng. Đặc biệt trẻ biết tự động chào cô giáo,
người thân và khi có khách đến thăm lớp. Trẻ biết đọc thơ, hát cho bố mẹ ông bà
nghe.
Đối với cô giáo: Bản thân có thêm nhiều kinh nghiệm trong việc rèn luyện
nề nếp thói quen cho trẻ. Tạo được uy tín, niềm tin đối với địa phương và phụ
huynh
Đối với phụ huynh: Phụ huynh rất hài lòng và tin tưởng vào chất lượng
chăm sóc và giáo dục trẻ của cơ giáo và nhà trường. Từ đó phụ huynh yên tâm
gửi con đến trường nâng tỷ lệ huy động chuyên cần ngày càng cao.
3. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
3.1. Kết luận.
Qua áp dụng các biện pháp và thu được kết quả như trên, tôi rút ra kết
luận như sau:
Việc rèn luyện nề nếp thói quen ban đầu nhằm hình thành cơ sở nhân cách
đầu tiên cho trẻ, đây là nhiệm vụ hết sức khó khăn và luôn đặt lên hàng đầu.
Để làm tốt công tác chăm sóc giáo dục, rèn luyền nề nếp trẻ nhà trẻ bản
thân cô giáo phải thực sự yêu nghề, mến trẻ, nhiệt tình với cơng việc, ln ln
lấy tình thương yêu và quan tâm để chăm sóc giáo dục trẻ.
Bản thân khơng ngừng học hỏi nâng cao trình độ chuyên môn, kiến thức,
trau dồi kỹ năng nghề nghiệp. Thường xuyên tham khảo sách vở, tài liệu, trên
mạng Intenet, học hỏi kinh nghiệm đồng nghiệp để có biện pháp giáo dục phù
hợp,
Tìm hiểu đặc điểm tâm sinh lý, đặc điểm cá biệt của trẻ để có biện pháp
giáo dục, rèn luyện trẻ cho phù hợp.
Bản thân cô giáo và người lớn luôn là tấm gương tốt, mẫu mực làm gương
cho trẻ noi theo từ lời nói đến việc làm.
Cơ giáo luôn tạo cơ hội cho trẻ tự làm công việc vừa sức, phù hợp với trẻ,
cơ giáo thường xun khích lệ, hỗ trợ cần thiết và khen ngợi kịp thời khi trẻ làm
tốt.
Thường xuyên rèn nề nếp thói quen cho trẻ ở mọi lúc, mọi nơi và mọi hoạt
động .
Làm tốt công tác tuyên truyền vận động, phối kết hợp với phụ huynh về
cơng tác chăm sóc giáo dục trẻ.
3.2 Kiến nghị.
Đối với phòng giáo dục: Tổ chức chuyên đề hè hàng năm. Tổ chức xây
dựng các hoạt động cho giáo viên thăm quan học tập rút kinh nghiệm.
Đối với nhà trường: Tham mưu với các cấp lãnh đạo mở rộng khuôn viên
nhà trường, sửa chữa chống xuống cấp cơ sở vật chất nhà trường để đảm bảo
cho công tác chăm sóc và giáo dục trẻ đạt kết quả tốt hơn.
Trên đây là sáng kiến kinh nghiệm với đề tài: “Kinh nghiệm rèn nề
nếp thói quen cho trẻ 24 - 36 tháng tuổi nhằm nâng cao chất lượng chăm sóc
giáo dục trẻ nhà trẻ ở trường mầm non Thị Trấn Rừng Thông, huyện Đông
18
Sơn, tỉnh Thanh Hóa.” Được tích lũy từ bản thân tơi khơng sao tránh khỏi
những thiếu sót. Vậy tơi rất mong hội đồng khoa học các cấp, bạn đồng nghiệp
đóng góp ý kiến để sáng kiến này hồn thiện hơn.
Xin chân thành cảm ơn!
XÁC NHẬN CỦA HỘI ĐỒNG
KHOA HỌC CẤP TRƯỜNG
Xếp loại:
CTHĐKH
HIỆU TRƯỞNG
Cao Thị Hường
Thanh hóa, ngày 15 tháng 3 năm 2018
Tơi xin cam đoan đây là SKKN
của mình viết không sao chép nội
dung của người khác
Người viết
Phan Thị Mơ
19
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
{1} Hội nghị Trung ương 8 khóa XI, Nghị quyết số 29/NQ-TW ngày
04/11/2013 Đổi mới căn bản, toàn diện Giáo dục và Đào tạo.
{2} Một số quan điểm cơ bản của Đảng về giáo dục - đào tạo trong thời
kỳ đổi mới
{3} Quản lý nhóm/ lớp mầm non, Module mầm non 37. Dự án tăng cường
khả năng sẵn sàng đi học cho trẻ mầm non
{4} Tham kháo trên mạng Intenet, các hình thức rèn nề nếp thói cho trẻ.
{5} Bộ Giáo dục & Đào tạo Thông tư số 28/2016/TT-BGDĐT sửa đổi, bổ
sung một số nội dung của chương trình giáo dục mầm non ban hành kèm theo
thông tư số 17/2009/TT BGDĐT
20
DANH MỤC
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐÃ ĐƯỢC HỘI ĐỒNG SÁNG KIẾN KINH
NGHIỆM NGÀNH GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO HUYỆN, TỈNH VÀ CÁC
CẤP CAO HƠN XẾP LOẠI TỪ C TRỞ LÊN
Họ và tên tác giả:
Phan Thị Mơ
Chức vụ và đơn vị công tác: Giáo viên trường Mầm non thị trấn Rừng Thơng,
huyện Đơng Sơn, tỉnh Thanh Hóa
T
T
Tên đề tài SKKN
Cấp đánh
giá xếp loại
(Ngành GD
cấp
huyện/tỉnh;
Tỉnh...)
1
Kinh nghiệm rèn nề nếp thói quen
cho trẻ 24 - 36 tháng tuổi nhằm
nâng cao chất lượng chăm sóc giáo
dục trẻ nhà trẻ ở trường mầm non
Thị Trấn Rừng Thơng, huyện Đơng
Sơn, tỉnh Thanh Hóa
Cấp huyện
Kết quả
đánh giá
xếp loại
(A, B,
hoặc C)
A
Năm học
đánh giá
xếp loại
2017-2018
21