Tải bản đầy đủ (.doc) (19 trang)

skkn một số biện pháp nâng cao chất lượng giáo dục ý thức bảo vệ môi trường cho trẻ 3 4 tuổi

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (129.42 KB, 19 trang )

SỞ GIÁO DỤC & ĐÀO TẠO THANH HÓA
PHÒNG GIÁO DỤC & ĐÀO TẠO THỌ XUÂN

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

ĐỀ TÀI: MỘT SỐ BIỆN PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ GIÁO
DỤC TÍNH TỰ LẬP CHO TRẺ MẪU GIÁO 4-5 TUỔI
TẠI TRƯỜNG MẦM NON

Người thực hiện: Lê Thị Dung
Chức vụ: Giáo viên
Đơn vị công tác: Trường Mầm non Hạnh Phúc-Thọ Xuân
SKKN thuộc lĩnh vực: Chuyên môn

THANH HÓA NĂM 2018
1


MỤC LỤC
Mục
1
Mở đầu
2
Lý do chọn đề tài

Nội dung

Trang
2
2


3

Mục đích nghiên cứu

3

4

Đối tượng nghiên cứu

3

5

Phương pháp nghiên cứu

3

6

Nội dung

4

7

Cơ sở lý luận

4


8

Thực trạng

5

9

Các biện pháp thực hiện

7

10

Hiệu quả sáng

13

11

Kết luận, kiến nghị

15

12

Kết luận

15


13

Kiến nghị

16

2


1. Mở đầu
1.1. Lý do chọn đề tài.
Giáo dục mầm non là bậc học đầu tiên của hệ thống giáo dục quốc dân.
Mục tiêu của giáo dục mầm non là hình thành nhân cách một cách toàn diện cho
trẻ, chính vì vậy mà giáo dục mầm non có vai trò vô cùng quan trọng trong việc
tạo nền tảng cho nhân cách một con người sau này.
Giáo dục tính tự lập cho trẻ ngay từ lứa tuổi mầm non là một trong những
mặt quan trọng của việc giáo dục con người mới phát triển toàn diện, có ảnh
hưởng sâu sắc đến sự hình thành nhân cách trẻ. Tự lập giúp cho con người nói
chung, trẻ em nói riêng nhận ra được khả năng của mình và ý nghĩa của cuộc
sống. Vì vậy, Luật Giáo dục (năm 2005) đã đưa ra những yêu cầu về phương
pháp giáo dục là: “Phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, tư duy sáng
tạo của người học; bồi dưỡng cho người học năng lực tự học, khả năng thực
hành, lòng say mê học tập và ý trí vươn lên” (1). Hay nói cách khác, giáo dục
phải phát huy tính tự lập cho người học, điều đó nhằm đáp ứng yêu cầu đổi mới
và phát triển của xã hội. Để trẻ nhanh chóng thích nghi với sự phát triển của xã
hội, hòa nhập với cuộc sống mới thì việc hình thành tính tự lập cho trẻ ở những
năm đầu tiên của cuộc đời trẻ là rất cần thiết, đặc biệt là ở giai đoạn trẻ tuổi mẫu
giáo.
Tính tự lập được hình thành rất sớm và là một biểu hiện tâm lý có ảnh
hưởng trực tiếp đến quá trình hình thành các sản phẩm nhân cách của con người

đặc biệt là trẻ 3- 4 tuổi. Một số dấu hiệu đáng tin cậy của sự bắt đầu hình thành
tính tự lập là sự xuất hiện nhu cầu khẳng định mình, trẻ muốn tự làm một số
công việc trong sinh hoạt hàng ngày. Giáo dục tính tự lập cho trẻ ngay từ khi
còn bé không những tạo ra cho trẻ khả năng tự lập trong sinh hoạt hàng ngày mà
còn là một trong những điều kiện quan trọng để hình thành sự tự tin, năng động,
sáng tạo, làm cơ sở hình thành các kỹ năng sống sau này.
Để tạo điều kiện cho trẻ phát triển toàn diện, mục đích của giáo dục mầm
non là định hướng tất cả khả năng tự lập của trẻ, góp phần hình thành cho trẻ
những cơ sở chuẩn mực ban đầu về nhân cách, phẩm chất cần thiết như: Mạnh
dạn, tự tin, tự lập, sáng tạo, linh hoạt và tự giác... đưa trẻ tham gia vào các hoạt
động trong đời sống hàng ngày. Từ những biểu hiện của trẻ chúng ta nhận thấy
khả năng tự lập có ảnh hưởng mạnh mẽ, trực tiếp đến trí tuệ, cảm xúc và trong
các hoạt động trẻ có thể tự tin, kiểm soát, điều khiển các hành vi của mình. Tính
tự lập quyết định việc hình thành nhân cách, trí tuệ, cảm xúc của trẻ.
Hiện nay việc giáo dục tính tự lập cho trẻ đã được xã hội và các bậc phụ
huynh quan tâm. Ở trường mầm non giáo viên cũng đã luôn tạo điều kiện cho
3


trẻ được rèn luyện tính tự lập thông qua các hoạt động học tập và các hoạt động
sinh hoạt tự phục vụ bản thân phù hợp với khả năng của trẻ. Tuy nhiên mới
dừng lại ở yêu cầu cần đạt, chưa có các kế hoạch hay các biện pháp giáo dục cụ
thể.
Mặt khác, do xã hội ngày càng phát triển, mỗi gia đình chỉ có từ 1 đến 2
con, điều kiện kinh tế đủ đầy hoặc dư thừa, con cái lại ít nên phụ huynh thường
hay nuông chiều con, làm hộ hay cấm đoán trẻ nhiều việc mà trẻ có thể làm
được, từ đó dẫn tới trẻ bị thụ động, thiếu kỹ năng lao động, thiếu tự tin, sinh ra
thói quen dựa dẫm, ỉ lại cho người khác, làm cho tính tự lập của trẻ khó phát
triển.
Thực tế cho thấy, không ít số trẻ mẫu giáo ở nước ta nói chung vẫn chưa có

ý thức tự lập, cả gia đình và trường mầm non chưa đánh giá đúng khả năng của
trẻ và vai trò quan trọng của việc cần giáo dục tính tự lập cho trẻ, điều này sẽ
ảnh hưởng tiêu cực trước là tương lai của trẻ, sau là mục tiêu giáo dục con người
mới.Vậy làm thế nào để tìm ra các biện pháp để nâng cao hiệu quả giáo dục tính
tự lập cho trẻ? Đây là một vấn đề cần thiết không chỉ đối với sự phát triển của
trẻ mà còn có ý nghĩa sâu sắc đối với gia đình, các nhà giáo dục và với toàn xã
hội nhằm góp phần giáo dục trẻ phát triển toàn diện.
Chính vì những lý do trên, tôi đã chọn đề tài:“Một số biện pháp nâng cao
hiệu quả giáo dục tính tự lập cho trẻ mẫu giáo 3- 4 tuổi tại trường mầm non
Hạnh Phúc huyện Thọ Xuân” làm đề tài viết sáng kiến kinh nghiệm trong năm
học 2017- 2018. Tôi hy vọng đề tài sáng kiến kinh nghiệm này sẽ làm cơ sở để
giáo viên có những định hướng, kế hoạch, biện pháp đúng đắn và kịp thời trong
việc giáo dục tính tự lập cho trẻ.
1.2. Mục đích nghiên cứu:
- Nâng cao hiệu quả của việc giáo dục tính tự lập cho trẻ mẫu giáo ở trường
mầm non Hạnh Phúc, tạo điều kiện cho trẻ được rèn luyện tính tự lập thông qua
các hoạt động học tập và các hoạt động sinh hoạt tự phục vụ bản thân phù hợp
với khả năng của trẻ để trẻ nhanh chóng thích nghi với sự phát triển của xã hội,
hòa nhập với cuộc sống mới giúp trẻ phát triển một cách toàn diện.
- Rút ra những bài học kinh nghiệm, những biện pháp chăm sóc giáo dục trẻ.
- Tự học tập, rèn luyện năng lực chuyên môn của bản thân để đáp ứng với
chương trình giáo dục mầm non.
1.3. Đối tượng nghiên cứu:
- Đối tượng nghiên cứu “Một số biện pháp nâng cao hiệu quả giáo dục
tính tự lập cho trẻ mẫu giáo 3- 4 tuổi tại trường mầm non”
1.4. Phương pháp nghiên cứu:
4


- Phương pháp nghiên cứu xây dựng cơ sở lý thuyết từ sách vở, tài liệu

- Phương pháp điều tra khảo sát thực tế, thu thập thông tin
- Phương pháp thống kê, xử lý số liệu
- Phương pháp đàm thoại
- Phương pháp quan sát
- Phương pháp hướng dẫn thực hành luyện tập
- Phương pháp sử dụng tình huống
- Phương pháp nêu gương khích lệ
2. Nội dung sáng kiến
Trong năm học này tôi quyết tâm thực hiện nhiệm vụ năm học của ngành
phát động và luôn lấy mục tiêu giáo dục tính tự lập cho trẻ là nhiệm vụ hàng đầu
trong việc chăm sóc giáo dục trẻ, để góp một phần nhỏ bé của mình vào quá
trình hình thành và phát triển nhân cách toàn diện cho trẻ theo mục tiêu của nhà
trường, của ngành và của toàn xã hội.
2.1. Cơ sở lý luận
Mục tiêu của chương trình giáo dục mầm non hiện nay đóng vai trò quan
trọng trong việc nâng cao chất lượng chăm sóc giáo dục trẻ. Tổ chức các hoạt
động theo quan điểm “ Lấy trẻ làm trung tâm” nhằm phát huy tính tích cực, tính
sáng tạo, khả năng tự lập của trẻ về mặt tinh thần, nhờ khả năng đó trẻ có thể tự
mình làm một việc gì đấy mà không cần dựa dẫm và nhờ vào người khác.
Tuổi mầm non là lứa tuổi cần sự quan tâm đặc biệt của cha mẹ và cô giáo.
Ở giai đoạn này, những mối quan hệ, sự vật, hiện tượng xảy ra xung quanh trẻ
đều có tác động rất lớn đến bản thân trẻ. Vì vậy nhờ sự giáo dục đúng đắn của
người lớn, tạo cơ hội để trẻ được trải nghiệm và hoàn thành nhiệm vụ được giao,
cách tốt nhất để phát triển tính tự tin, tự lập cho trẻ là tạo cơ hội cho trẻ phát huy
khả ngăng của mình, khen ngợi, động viên, khuyến khích của người lớn đối với
trẻ.
Tự lập là một đức tính tốt nhưng nó không tự nhiên mà có, để hình thành là
cả một quá trình rèn luyện, giáo dục và phải bắt đầu ngay từ khi trẻ còn nhỏ. Trẻ
từ khi lọt lòng đến 6 tuổi là giai đoạn phát triển quan trọng - giai đoạn vàng
trong cuộc đời mỗi con người. Đây là giai đoạn của sự tăng trưởng rất nhanh về

thể chất và phát triển các mặt của trí tuệ, tình cảm và ý thức xã hội, giai đoạn tạo
tiền đề quan trọng của sự hình thành nhân cách con người. Nhà giáo dục vĩ đại
A.X Mascrencô đã khẳng định: “Những cơ sở căn bản của nhân cách con
người đã được hình thành từ trước tuổi lên 6. Những điều dạy trẻ trong thời
kỳ này chiếm tới 90% tiến trình giáo dục trẻ, về sau việc giáo dục con người

5


vẫn tiếp tục nhưng lúc đó là lúc bắt đầu nếm quả, còn những nụ và hoa thì
đã được vun trồng từ 6 năm đầu tiên” (2).
Với khả năng tự lập, trẻ biết vị trí của mình trong gia đình, trong lớp học,
sau đó trẻ mới tìm hiểu mối quan hệ giữa những người xung quanh, phát triển
năng lực thực hiện nhiệm vụ một cách có kế hoạch. Từ những biểu hiện trên của
trẻ chúng ta nhận thấy khả năng tự lập có ảnh hưởng mạnh mẽ trực tiếp đến trí
tuệ, cảm xúc của trẻ, bởi vì khi trẻ tự làm một công việc nào đấy trẻ sẽ thể hiện
sự tự tin vào khả năng thực hiện, kiểm tra được công việc của mình sau khi làm
như vậy tự lập quyết định việc hình thành và phát triển trí tuệ, cảm xúc, phẩm
chất và nhân cách của trẻ.
Để hình thành và phát triển toàn diện nhân cách cho trẻ, tạo tiền đề cho các
bậc học tiếp theo thì việc giáo dục tính tự lập cho trẻ ngay từ lứa tuổi mầm non
là việc làm hết sức quan trọng và cấp thiết không thể thiếu được trong chương
trình chăm sóc, giáo dục trẻ.
2.2. Thực trạng
* Thuận lợi:
Địa phương tôi là nơi có điều kiện tiềm năng phát triển về kinh tế. Sự
nghiệp giáo dục luôn nhận được sự quan tâm của các cấp lãnh đạo, chính quyền
địa phương. Trường mầm non tôi đang công tác là một trong những đơn vị có
thành tích cao trong các hoạt động phong trào do ngành tổ chức. Ban Giám hiệu
nhà trường luôn quan tâm, đặt tiêu chí chất lượng giáo dục lên hàng đầu, đội ngũ

giáo viên nhiệt tình, tâm huyết yêu nghề mến trẻ. Với trách nhiệm cao cả và tấm
lòng yêu nghề, là một giáo viên có kinh nghiệm và trình độ chuyên môn trên
chuẩn, tôi luôn nỗ lực phấn đấu để góp phần nâng cao chất lượng dạy và học ở
đơn vị mình.
Phần lớn giáo viên đã sử dụng đa dạng các hình thức giáo dục tính tự lập
cho trẻ, tạo điều kiện cho trẻ phát triển các kỹ năng tự lập của mình.
Đa số trẻ có sức khỏe tốt, nhanh nhẹn tích cực tham gia các hoạt động lao
động của lớp và của nhà trường.
Điều kiện cơ sở vật chất tương đối đầy đủ, đáp ứng với yêu cầu chăm sóc
giáo dục trẻ.
* Khó khăn:
+ Về phía trẻ:
- Kỹ năng hoạt động của trẻ còn hạn chế.
- Trẻ được nuông chiều từ nhỏ nên có thói quen ỷ lại, dựa dẫm vào người khác.
+ Về phía giáo viên:
- Phần lớn giáo viên chưa thường xuyên đánh giá sau mỗi việc làm của trẻ.
6


- Giáo viên chưa nắm vững và hiểu rõ nội dung giáo dục tính tự lập. Điều
đó dẫn đến một số giáo viên chưa kết hợp nội dung giáo dục tính tự lập cho trẻ
vào các hoạt động chăm sóc, giáo dục hàng ngày.
- Giáo viên đã sử dụng các biện pháp giáo dục tính tự lập cho trẻ, nhưng
phần lớn mới chỉ dừng lại ở mức độ thỉnh thoảng.
+ Về phía phụ huynh:
- Nhận thức về sự cần thiết của việc giáo dục tính tự lập cho trẻ còn hạn chế.
- Phụ huynh chưa đánh giá hết được khả năng của trẻ, họ cho rằng trẻ còn
nhỏ, người lớn cần giúp đỡ trẻ trong mọi công việc.
- Do kinh tế gia đình phát triển, điều kiện vật chất không những đầy đủ mà
còn dư thừa, mỗi gia đình chỉ có từ 1 đến 2 con dẫn tới việc phụ huynh nuông

chiều con, dẫn đến việc hình thành thói quen luôn thụ động trong mọi công việc,
ỉ lại, dựa dẫm vào người lớn.
Từ thực trạng trên cho thấy đa số giáo viên đã nhận thức được tầm quan
trọng và có thái độ đúng đắn đối với việc giáo dục tính tự lập cho trẻ. Một số
giáo viên đã thực hiện việc rèn luyện tính tự lập cho trẻ nhưng chưa có kế hoạch
và chưa thường xuyên. Bên cạnh đó, vẫn còn một bộ phận nhỏ giáo viên còn
xem nhẹ việc giáo dục tính tự lập cho trẻ, công tác giáo dục tính tự lập cho trẻ
còn hạn chế.
Trước những băn khoăn trăn trở ấy, bản thân tôi luôn suy nghĩ để tìn ra
những cách làm mới để nhằm giúp trẻ mà lớp tôi chủ nhiệm đạt kết quả cao hơn.
Việc đầu tiên tôi đã tiến hành khảo sát ở trẻ, kết quả cụ thể như sau:
* Kết quả khảo sát đầu năm
T
T

Nội dung khảo sát.

1

Tự rửa tay, rửa mặt, đi vệ sinh.

27

11

41%

16

2 Tự xúc cơm ăn, lấy nước uống


27

12

44%

15

27

13

48%

14

52%

27

11

41%

16

59%

27


8

30%

19

70%

27

10

37%

17

Tự măc, cởi quần áo; đi, tháo
giầy dép; quàng khăn đội mũ.
Tự lấy đồ chơi và cất đồ chơi
4
đúng nơi quy định
Lấy gối, chải chiếu, chăn và
5 cất gối, gấp chiếu, chăn cùng
giáo viên
3

6 Tự chọn góc chơi và vai chơi

Tổng

số trẻ

Đạt
Số trẻ

Chưa đạt

Tỉ lệ % Số trẻ

Tỉ lệ %
59%
56%

63%
7


Từ kết quả thực trạng trên, để nâng cao hiệu quả giáo dục tính tự lập cho trẻ
mẫu giáo 3-4 tuổi trong trường mầm non. Bản thân tôi đã suy nghĩ, tìm ra một
số biện pháp góp phần thực hiện tốt nội dung giáo dục tính tự lập cho trẻ.
2.3. Các biện pháp thực hiện
* Biện pháp 1: Rèn luyện các kỹ năng cần thiết cho trẻ.
Để trẻ tự lập, tự làm lấy, tự giải quyết công việc của mình, tự lo liệu tạo
dựng cho cuộc sống của mình không trông chờ, dựa đẫm, phụ thuộc vào người
khác thì trước tiên trẻ phải có các kỹ năng cần thiết. Từ đó qua quá trình luyện
tập có hệ thống trong các điều kiện giống nhau hoặc tương tự đến một mức độ
nào đó sẽ trở thành thói quen, trở thành nhu cầu của con người và chỉ trên cơ sở
những thói quen tương ứng thì chúng ta mới có thể giáo dục được cho trẻ tính tự
lập tích cực, nếu chưa hình thành được các thói quen thì việc cho trẻ hành động
tự lập chỉ dẫn đến những hành động tự phát mà thôi. Trẻ sẽ không tự lập được

nếu như không có các kỹ năng hoạt động.
Việc rèn luyện các kỹ năng cho trẻ phải được thực hiện ở mọi lúc mọi nơi,
cụ thể như:
* Thông qua hoạt động đón - trả trẻ:
Trẻ mới đến trường thường chưa có thói quen tự cất và lấy đồ dùng cá nhân
của mình như: Tự cất (lấy) cặp, cởi (đội) mũ, tháo (quàng) khăn, cởi (mặc) áo
khoác, cất (đi) giầy dép ... Một mặt là do trẻ chưa được rèn luyện, mặt khác do
phụ huynh quá nuông chiều con cái dẫn đến trẻ luôn bị thụ động trong các hoạt
động.
Thông qua giờ đón - trả trẻ giáo viên rèn luyện các kỹ năng lao động cho
trẻ cho trẻ như: Tự đi giầy dép, tự mặc áo, quàng khăn, đội mũ, đeo cặp,.. và
trao đổi với phụ huynh về nội dung hình thức rèn luyện các kỹ năng thói quen
lao động cho trẻ. Sự thống nhất và phối kết hợp giữa gia đình và nhà trường là
yếu tố quyết định sự thành công trong giáo dục tính tự lập cho trẻ.
* Thông qua hoạt động học có chủ định.
Hoạt động học có chủ định bao giờ cũng có mục đích, yêu cầu cả về kiến
thức, kỹ năng và thái độ cho trẻ. Thông qua các hoạt động có chủ định như: Làm
quen với toán, làm quen với văn học, môi trường xung quanh, thể dục,… trẻ sẽ
học được những kiến thức và kỹ năng cơ bản cần thiết.
Khi trẻ nắm được những kiến thức, kỹ năng cần thiết trẻ sẽ thực hiện được
các hành động một cách dễ dàng, đó là cơ sở cho việc giáo dục tính tự lập cho
trẻ. Rèn cho trẻ thói quen tự lấy vở, đồ dùng học tập và tự cất đúng nơi quy
định. Trong khi thực hiện các yêu cầu của cô trong các hoạt động trẻ phải chủ
động, cố gắng hoàn thành tránh sự lệ thuộc vào sự giúp đỡ của cô giáo.
8


* Thông qua hoạt động vui chơi.
Phần lớn các kỹ năng của trẻ được rèn luyện thông qua hoạt động vui chơi.
Như chúng ta đã biết, hoạt động vui chơi là hoạt động chủ đạo của trẻ mẫu giáo,

mặt khác, vui chơi còn giúp trẻ thỏa mãn nhu cầu “Làm người lớn” ở trẻ. Thông
qua vui chơi hình thành ở trẻ kỹ năng sử dụng đồ vật, đồ chơi từ đó chúng ta
giáo dục cho trẻ tính tự lập thông qua trò chơi một cách thuận lợi, có thể dạy trẻ
tự chuẩn bị đồ dùng, đồ chơi; tự tìm góc chơi phù hợp cho mình; tự cất đồ dùng,
đồ chơi vào đúng nơi quy định ... Thông qua trò chơi, trẻ được nhập vào vai
chơi mà quên mất mình là trẻ con, do đó tính độc lập, tự chủ được thể hiện một
cách rõ ràng nhất.
* Thông qua hoạt động ngoài trời.
Hoạt động ngoài trời bao gồm hoạt động quan sát có chủ định, trò chơi vận
động và chơi tự do. Thông qua hoạt động ngoài trời, trẻ có nhiều cơ hội khám
phá môi trường xung quanh, tích cực hoạt động. Do đó, trẻ nắm bắt được tri
thức và các kỹ năng lao động đơn giản như: Chăm sóc vườn rau, chăm sóc cây,
chăm sóc một số con vật nuôi trong gia đình....
* Thông qua hoạt động ăn - ngủ.
Thói quen tự lập trong ăn - ngủ là một nét tâm lý quan trọng cần phải hình
thành cho trẻ ngay từ nhỏ, vì thói quen này giúp cho trẻ có ý thức chủ động, tự
giác trong ăn uống, vệ sinh cần phải dạy cho trẻ tự xúc ăn, ăn hết xuất, ăn uống
có văn hóa, ngủ đúng giờ. Thông qua hoạt động ăn - ngủ có thể dạy trẻ cách
chuẩn bị những đồ dùng, dụng cụ cần thiết như: Xếp bàn ghế, chia bát, thìa, lấy
khăn lau và đĩa trước khi ăn; dạy trẻ cách xếp bát, thìa vào rổ, lau bàn, xếp ghế
gọn gàng sau khi ăn song, chải chiếu, chia gối trước khi ngủ và gấp chiếu, cất
gối sau khi ngủ dậy ...
Kỹ năng tự phục vụ, làm những công việc vừa sức là cơ sở giáo dục tính tự
lập, lòng yêu lao động cho trẻ. Đó là những tính cách cần thiết được hình thành
trong gia đình cũng như nhà trường và xã hội .
* Giáo viên nên chú trọng luyện cho trẻ các kỹ năng sau:
- Kỹ năng chăm sóc bản thân như: Dạy trẻ tự xúc ăn, lấy nước uống, tự lấy
và cất đồ chơi, tự cởi và mặc quần áo, đi dép, chuẩn bị mũ, áo khoác, khẩu trang
khi đi về….
- Kỹ năng giữ gìn vệ sinh: Dạy trẻ kỹ năng rửa mặt, rửa tay, đánh răng, đi

vệ sinh đúng nơi quy định, lau bàn ghế,...
- Kỹ năng hỗ trợ (giúp đỡ) người khác: Xếp bát, thìa ăn cơm, xếp ghế, cất
giầy dép, sắp xếp đồ dùng đồ chơi, lau giá dựng đồ chơi,…
* Biện pháp 2: Phân công công việc cho trẻ một cách hợp lý.
9


Đối với trẻ cần cho trẻ hiểu rằng mỗi người cần có trách nhiệm với công việc
và hình thành thói quen làm việc cho trẻ. Bởi vì, trẻ mẫu giáo đã làm chủ được
khá nhiều hành vi thuộc các lĩnh vực hoạt động khác nhau và trong mối quan hệ
người - người. Do vậy, trẻ có thể điều chỉnh, điều khiển, kiểm soát các hành vi,
kể cả những thói quen, ý thức và tự ý thức hình thành và củng cố ở trẻ.
Phân công công việc hợp lý cho trẻ sẽ giúp trẻ làm việc có trách nhiệm hơn,
phát huy được tính tích cực, năng động của trẻ. Trẻ sẽ nổ lực, phấn đấu để hoàn
thành tốt nhiệm vụ được giao.
Ví dụ:
- Trong giờ học: Chuẩn bị đồ dùng, đồ chơi học tập trước giờ học và thu
dọn đồ dùng sau giờ học…
- Trong giờ chơi: Sau khi chơi phân loại đồ chơi và cất đồ chơi vào đúng
nơi quy định
- Trong giờ ăn: Lấy ghế, lấy đĩa, lấy khăn ăn, sếp bát, chia thìa,…
- Trong giờ ngủ: Chải chiếu, lấy gối, cất gối, gấp chiếu sau giờ ngủ.…
* Biện pháp 3: Động viên, khích lệ trẻ kịp thời.
Khi người lớn được coi trọng hoặc khen thưởng có thể phát huy tốt hơn tài
năng của mình. Trẻ nhỏ cũng vậy, trẻ rất muốn được người lớn khen ngợi động
viên, đặc biệt là giáo viên. Giáo viên khen ngợi, động viên, đánh giá những công
việc mà trẻ làm được sẽ giúp trẻ hứng thú, tích cực chủ động, tự tin vào bản thân
mình và mong muốn được tiếp tục thực hiện những công việc tiếp theo. Nhưng
nếu sau khi cố gắng để đạt được thành tích, giáo viên lại thờ ơ với trẻ, không kịp
động viên sẽ gây tổn thương cho trẻ. Vì vậy, động viên, khích lệ trẻ kịp thời,

đúng thời điểm là một việc làm rất quan trong và ý nghĩa, nó góp phần hình
thành ở trẻ nổ lực vươn lên hoàn thành tốt công việc của mình.
Khuyến khích kịp thời không phải là một chuyện dễ dàng. Khi thực hiện
biện pháp này giáo viên phải lưu ý, việc khen và chê trẻ cần có tác dụng hướng
dẫn hành động của trẻ, nghĩa là chỉ ra trẻ được khen cái gì hay bị chê cái gì và vì
sao, để định hướng cụ thể cho trẻ phát huy việc làm tốt hay rút kinh nghiệm cho
việc làm chưa tốt.
Người lớn cần tạo cho trẻ cảm giác được quan tâm đầy đủ về mặt tinh thần
như: Tâm sự, hỏi han hoặc chơi cùng trẻ,… cần chấp nhận sản phẩm tự lập của
trẻ, không chê bai trẻ.
Giáo viên không nên tiếc rẻ sự khen ngợi đối với trẻ, chỉ cần xuất phát từ
tấm lòng khen ngợi chân thành, tinh thần trẻ sẽ được khích lệ, trẻ có thể làm tất
cả mọi việc. Do đó, chỉ cần trẻ biểu hiện những điểm đáng khen giáo viên nên
khẳng định thêm.
10


* Biện pháp 4: Tạo môi trường, tình huống để phát huy tính tự lập của trẻ.
Trẻ mẫu giáo hoàn toàn đã có khả năng tự làm một số việc đơn giản, trẻ
cũng ý thức được điều đó và luôn chứng tỏ, thử thách năng lực của mình trong
các hoạt động sinh hoạt hằng ngày. Vì vậy, giáo viên cần tạo ra các tình huống
để thu hút trẻ làm việc nhiều hơn như: Dọn đồ chơi, cất ba lô, túi, cặp, đồ dùng
cá nhân vào ngăn tủ của mình, tự cởi và mặc quần áo, đi và cởi giầy dép, tự xúc
ăn cơm, lấy nước uống,… dần dần sẽ hình thành ở trẻ tính tự giác, tính tự quyết
định, khả năng tự xoay sở của mình.
Phụ huynh và giáo viên cần tạo cho trẻ một môi trường thuận lợi để thực
hiện công việc một cách dễ dàng, an toàn tiện lợi phù hợp với trẻ (về không
gian, thời gian, dụng cụ, đồ dùng,…).
Nếu người lớn không tạo ra được môi trường thuận lợi cho trẻ hoạt động thì
trẻ sẽ khó có thể thực hiện được công việc trẻ mong muốn, sinh ra chán nản, dần

dần trẻ sẽ mất khả năng tự lập.
Ngoài ra, để tạo điều kiện, khích lệ trẻ tự lập, người lớn cần chú ý đến sự
tiện lợi, hình thức, quy cách thẩm mỹ, độ bền của đồ dùng, đồ chơi và tác dụng
của nó.
* Biện pháp 5: Tạo điều kiện để trẻ được vui chơi và chơi với bạn bè.
Hoạt động vui chơi là hoạt động quan trọng nhất, giữ vai trò chủ đạo ở lứa
tuổi trẻ mẫu giáo. Thông qua hoạt động vui chơi làm biến đổi về chất trong toàn bộ
đời sống tâm lý của trẻ. Vì vậy, ở lứa tuổi này, đồ chơi không phải là thứ để nghịch
như trước đây mà bây giờ qua chơi với đồ chơi giúp trẻ khám phá chức năng và
phương thức sử dụng tương ứng với các đồ dùng. Đồng thời khi trẻ sử dụng đồ
chơi thì cũng lĩnh hội được các quy tắc hành vi ứng sử trong xã hội ẩn chứa trong
quá trình hành động đó. Từ đó trẻ sẽ học được và tự lập trong các thao tác hành
động với các đồ dùng, từ đó giúp trẻ tự tin, tự lập hơn trong cuộc sống.
Trong quá trình chơi trẻ còn bắt chước thao tác của người lớn. Trò chơi
thao tác vai cuốn hút trẻ làm xuất hiện nhu cầu có bạn cùng chơi các trò chơi
đóng vai. Thông qua trò chơi đóng vai, trẻ không những thỏa mãn nhu cầu làm
người lớn của mình mà thông qua đó trẻ học được cách giao tiếp ứng xử với mọi
người xung quanh.
Khi sử dụng biện pháp này, giáo viên cần lưu ý:
- Chọn đồ chơi phù hợp, có tác dụng giúp trẻ hoạt động tích cực.
- Hướng dẫn trẻ hành động với đồ chơi theo đúng chức năng và phương
thức sử dụng của chúng, từ đó làm cơ sở để trẻ sử dụng đồ dùng thật.
- Cần hướng dẫn trẻ tỉ mỉ, không nôn nóng.

11


- Chủ động tham gia chơi với trẻ trong các trò chơi, tạo tình huống cho trẻ
chơi, không can thiệp quá sâu vào trò chơi của trẻ, qua đó để trẻ bộc lộ khả năng
của mình.

- Luôn quan tâm làm tăng vốn hiểu biết và làm giàu trí tưởng tượng sáng
tạo của trẻ…
* Biện pháp 6: Chấp nhận và thỏa mãn nhu cầu tự lập của trẻ.
Nhu cầu tự lập của trẻ bắt đầu xuất hiện từ khi trẻ lên 3 và nó không ngừng
phát triển. Khi trẻ tách được mình ra khỏi người lớn và ý thức được khả năng
của mình đồng thời cũng xuất hiện một thái độ đối với người lớn. Trẻ muốn trở
thành người lớn ngay lập tức. Tính độc lập xuất hiện ở trẻ, nhu cầu muốn hành
động độc lập ở trẻ là rất lớn. Nhu cầu tự khẳng định mình là một động lực mạnh
mẽ, thúc đẩy trẻ hành động, đây chính là cơ sở, tiền đề cho sự hình thành và
phát triển tính tự lập của trẻ.
Khi trẻ có nguyện vọng tự lập, mong muốn được tự mình làm, trẻ hay nói
“Để cháu (con) tự làm” người lớn cần kịp thời nhận thấy những khả năng mới
của trẻ, tôn trọng và thỏa mãn tính độc lập của trẻ ở chừng mực cho phép. Đồng
thời hướng dẫn trẻ một số việc tự phục vụ hoặc giúp đỡ người lớn để tính tự lập
của trẻ phát triển.
Người lớn cần thay đổi thái độ cư xử với trẻ, không nên cấm đoán, cho
rằng những đòi hỏi tự lập của trẻ là không thể thực hiện được mà nên tạo điều
kiện để trẻ được tự làm, tự trải nghiệm công việc, thỏa mãn nhu cầu tự lập đó.
Ví dụ: Khi trẻ 3 tuổi đòi tự xúc cơm ăn, vì sợ trẻ làm đổ cơm, dây bẩn và
để trẻ tự xúc ăn sẽ lâu mất thời gian nên người lớn thường không cho trẻ tự xúc
ăn. Thay vào đó người lớn nên để cho trẻ tự xúc ăn và khuyến khích trẻ, đừng sợ
trẻ làm bẩn hay mất chút thời gian như vậy vô tình người lớn không những kìm
hãm sự phát triển của trẻ mà còn tạo cho trẻ thói quen dựa dẫm, ỉ lại, thụ động,
trông chờ vào người khác.
* Biện pháp 7: Luyện tập cho trẻ làm các công việc tự phục vụ vừa sức trẻ.
Trẻ mẫu giáo đã có khả năng thực hiện tốt những hành vi quen thuộc và tạo
dựng được nhiều thói quen hành, những thói quen này trở thành nếp sống hằng
ngày theo trật tự thời gian.
Ví dụ: Tự rửa tay sau khi đi vệ sinh, trước và sau khi ăn, tắm rửa và thay
quần áo hằng ngày,…

- Tự xúc cơm ăn, ăn hết xuất.
- Tự đi và cởi giầy dép, tự mặc và cởi quần áo, mũ, khăn, tự cất đồ dùng cá
nhân, tự lấy đồ chơi chơi và cất đồ chơi sau khi chơi vào đúng nơi quy định.

12


Người lớn cần giáo dục tính tự lập cho trẻ bắt đầu tự thói quen tự phục vụ,
thói quen vệ sinh cá nhân vừa sức, giúp trẻ thấy được khả năng của mình. Để
làm được điều đó là cả một quá trình tác động đến trẻ lâu dài, có hệ thống và
nhất quán.
Khi sử dụng biện pháp này giáo viên cần lưu ý:
- Trước khi đạt được việc tự lập hoàn toàn ở trẻ trong một kỹ năng nào đó,
cần phải trải qua quá trình hướng dẫn. Quá trình hướng dẫn bao gồm hướng dẫn
bằng lời và cả bằng hành động mẫu, vừa nói vừa làm và làm cùng trẻ như: Cùng
dọn đồ chơi, cùng chải chiếu, cùng gấp chăn, cùng lau mặt, cùng đi giầy,...
- Khi làm một việc gì cùng trẻ, nên phân tích, giảng giải cho trẻ biết lý do
và cách thức hành động. Việc giải thích lý do của hành động cho trẻ hiểu còn
quan trọng hơn kết quả của hành động ấy. Bởi vì, lý do của hành động là động
cơ thôi thúc trẻ làm việc.
- Tạo điều kiện cho trẻ tham gia bất kỳ công việc gì trẻ muốn, ở mọi lúc,
mọi nơi và ở mọi thời điểm. Tuy mất chút thời gian, nhưng sự kiên nhẫn của
người lớn sẽ là chìa khóa thành công ở trẻ em.
* Biện pháp 8: Thực hiện tốt công tác phối kết hợp với phụ huynh trong
việc giáo dục tính tự lập cho trẻ.
Để có thể đạt hiệu quả cao nhất trong việc giáo dục tính tự lập cho trẻ thì
việc tuyên truyền, phối kết hợp với phụ huynh là điều vô cùng quan trọng. Trẻ
cần phải tự lập ở mọi lúc mọi nơi, ở nhà cũng như ở trường. Sự thống nhất về
nội dung, phương pháp, biện pháp giáo dục tính tự lâp cho trẻ giữa giáo viên và
phụ huynh sẽ mang lại kết quả tốt hơn.

- Trao đổi với phụ huynh về nội dung giáo dục tính tự lập cho trẻ, cụ thể
như: Tự lập trong lao động tự phục vụ (tự xúc ăn, lấy nước uống; tự rửa tay, rửa
mặt, đi vệ sinh; tự mặc, cởi trang phục…), tự lập trong công việc, tự lập trong
học tập, tự lập trong tư duy, tự lập trong hoạt động sáng tạo, trong vui chơi,…
- Trao đổi với phụ huynh về các phương pháp giáo dục tính tự lập cho trẻ
như: Hướng dẫn, làm cùng trẻ, nhắc nhở, nêu gương, động viên.…
- Trao đổi với phụ huynh về các biện pháp giáo dục tính tự lập cho trẻ: Rèn
luyện các kỹ năng cần thiết cho trẻ; phân công công việc cho trẻ một cách hợp
lý; động viên khích lệ kịp thời; tạo môi trường, tình huống để phát huy tính tự
lập của trẻ; tạo điều kiện để trẻ được vui chơi và chơi với bạn bè; chấp nhận và
thỏa mãn nhu cầu tự lập của trẻ; luyện tập cho trẻ làm các công việc tự phục vụ
vừa sức trẻ.

13


Ngoài ra, còn trao đổi với phụ huynh về đặc điểm tâm sinh lý, khả năng và
mức độ tự lập trẻ đã đạt được ở trường để phụ huynh lựa chọn nội dung, phương
pháp, biện pháp phù hợp của con em mình.
- Tham khảo ý kiến của phụ huynh để có thêm những biện pháp hay, giúp
trẻ phát huy được hết khả năng tự lập của mình.
Tóm lại: Một số biện pháp trình bày trên có mối quan hệ chặt chẽ với nhau.
Trong quá trình giáo dục tính tự lập cho trẻ, giáo viên và phụ huynh cần phối
hợp các biện pháp để tác động đến trẻ bằng nhiều cách thức và phương tiện khác
nhau, phải linh hoạt, mềm dẻo phù hợp với đặc điểm của trẻ để trẻ luôn được
hoạt động tích cực trong trạng thái vui vẻ thoải mái. Quan tâm thỏa đáng đến
nhu cầu và nguyện vọng của trẻ, phát huy tính tích cực chủ động của trẻ trong
giáo dục tính tự lập của trẻ nói riêng và trong các hoạt động khác nói chung,
nhằm giúp trẻ phát triển hài hòa, cân đối về thể chất và tinh thần.
2.4. Hiệu quả của sáng kiến

Sau những biện pháp tôi nghiên cứu và thực hiện chất lượng giáo dục tính
tự lập cho trẻ tăng lên rõ rệt là điều tôi phấn khởi càng thêm gắn bó, yêu nghề,
yêu trẻ nhiều hơn, giúp tôi có thêm nghị lực trong công tác.
* Kết quả khảo sát cuối năm
TT
1
2
3
4
5
6

Nội dung khảo sát.
Tự rửa tay, rửa mặt,
đi vệ sinh.
Tự xúc cơm ăn, lấy
nước uống
Tự măc, cởi quần áo;
đi, tháo giầy dép;
quàng khăn đội mũ.
Tự lấy đồ chơi và cất
đồ chơi đúng nơi quy
định
Lấy gối, chải chiếu
và cất gối, gấp chiếu
cùng giáo viên
Tự chọn góc chơi và
vai chơi

Tổng

Đạt
số
Số trẻ Tỉ lệ %
trẻ

Chưa đạt
Số trẻ

Tỉ lệ %

27

27

100%

0

0%

27

27

100%

0

0%


27

26

96%

1

4%

27

26

96%

1

4%

27

24

89%

3

11%


27

27

100%

0

0%

Thực tế qua khảo sát trẻ đầu năm và cuối năm bằng những biện pháp tích
cực và kiên trì thì chất lượng giáo dục tính tự lập cho trẻ đã tăng lên rõ rệt.
14


Nếu như khảo sát đầu năm tỷ lệ trẻ tự rửa tay, rửa mặt, đi vệ sinh chỉ đạt
41% thì qua đợt khảo sát cuối năm đã đạt 100% tăng 59% so với đầu năm. Ở nội
dung trẻ tự xúc cơm ăn, lấy nước uống chiếm 67% qua đợt khảo sát cuối năm đã
đạt 100% tăng 33%. Tự măc, cởi quần áo; đi, tháo giầy dép; quàng khăn đội mũ
đầu năm chiếm 73% qua đợt khảo sát cuối năm đã đạt 96% tăng 23%. Nội dung
tỷ lệ trẻ tự lấy đồ chơi và cất đồ chơi đúng nơi quy định chiếm 50% khảo sát
cuối năm đã đạt 96% tăng 46%. Tỷ lệ trẻ biết lấy gối, chải chiếu và cất gối, gấp
chiếu cùng giáo viên đầu năm chiếm 59% khảo sát cuối năm đã đạt 89% tăng
30%. Nội dung trẻ chọn góc chơi và vai chơi khảo sát đầu năm chiếm 63% khảo
sát cuối năm đạt 95% tăng 32%.Tỷ lệ còn lại trẻ chưa đạt là do sức khỏe yếu nên
trẻ nghỉ học nhiều, đi học chưa được chuyên cần nên tính tự lập chưa cao bằng
các bạn.
Như vậy: Sau khi áp dụng các biện pháp mà tôi đã nêu ra ở trên và dựa vào
kết quả của bảng thống kê cho thấy trẻ tự rửa tay, rửa mặt, xúc cơm ăn lấy nước
uống, trẻ biết tự mặc, cởi quẩn, áo, đi giầy, dép và tháo giầy, dép, trẻ biết lấy và

cất đồ dùng cá nhân khi ăn và ngủ, biết thu dọn đồ chơi đúng nơi quy định.
Các bậc phụ huynh có những chuyển biến rõ rệt về phương pháp để cùng
rèn tính tự lập cho trẻ và phối hợp nhiệt tình với giáo viên và rất yên tâm khi đưa
con đến lớp.
Bản thân tôi được trao đổi kiến thức và kinh nghiệm dạy trẻ tính tự lập qua
các môn học, các hoạt động được phụ huynh và các đồng nghiệp quý mến và tin
yêu hơn.
+ Bài học kinh nghiệm:
Sau một thời gian nghiên cứu và thực hiện với lòng say mê, kiên trì kết hợp
với việc sử dụng các biện pháp trên một cách linh hoạt. Tôi nhận thấy và rút ra
bài học kinh nghiệm về giáo dục tính tự lập cho trẻ như sau:
Tự lập là một nét tâm lý quan trọng có ảnh hưởng nhiều đến tính cách, lối
sống và sự thành công của con người nói chung và trẻ em nói riêng. Vì vậy, việc
giáo dục tính tự lập cho trẻ cần phải được tiến hành ngay từ khi trẻ còn nhỏ.
Giáo dục tính tự lập cho trẻ là một trong những nội dung quan trọng trong việc
hình thành và phát triển nhân cách toàn diện cho trẻ.
Giáo dục tính tự lập cho trẻ không chỉ thể hiện trong giờ học mà còn được
thể hiện ở tất cả các hoạt động. Do đó, chúng ta cần phải lồng ghép linh hoạt nội
dung giáo dục tính tự lập vào các hoạt động để giáo dục trẻ.
Giáo viên phải nắm vững đặc điểm tâm sinh lý của từng lứa tuổi và từng cá
nhân trẻ biện pháp giáo dục cho phù hợp.

15


Động viên khích lệ trẻ kịp thời, nêu gương, đánh giá kết quả tự lập của
trẻ, khuyến khích trẻ phát huy tính tự lập.
Quan tâm, bao quát trẻ, phát hiện ra những nhu cầu mới của trẻ để đáp ứng
kịp thời.
Chú ý đến việc xây dựng một môi trường hoạt động phù hợp với trẻ, phát

huy tính tự lập cho trẻ.
Cần sử dụng linh hoạt và phối kết hợp giữa các biện pháp.
Rèn thói quen tự lập cho trẻ phải là hoạt động thường xuyên, liên tục. Giáo
viên cần tận dụng mọi thời điểm, mọi cơ hội để hình thành thói quen tự lập cho trẻ.
Giáo viên phối kết hợp với phụ huynh, trao đổi nội dung và phương pháp
giáo dục tính tự lập cho trẻ. Gia đình của trẻ thật sự là mái ấm đầy tình thương,
bố mẹ phải luôn là những tấm gương sáng và mẫu mực về hành vi của mình.
Cô giáo phải thật sự là tấm gương sáng để trẻ noi theo, giàu tình yêu
thương, thận trọng trong mọi hành vi, lời nói của mình, luôn thân thiện để tạo
tâm lý thoải mái, gần gũi giúp trẻ thực hiện tốt mọi hành vi cũng như hoạt động
giao tiếp, từng bước hình thành và phát triển nhân cách cho mình. Bên cạnh đó
môi trường và cảnh quan sư phạm cũng góp phần hình thành cho trẻ những hành
vi văn minh để dần dần hoàn thiện nhân cách tốt đẹp của truyền thống con người
Việt Nam phù hợp với mọi chuẩn mực đạo đức xã hội một cách tự nguyện.
Điều đặc biệt nữa là giáo dục tính tự lập cho trẻ phải có tính kiên trì, bền bỉ
và phải được thực hiện thường xuyên, lặp đi lặp lại nhiều lần để hình thành thói
quen cho trẻ, dần dần trở thành bản năng, giúp trẻ thực hiện tính tự lập một cách
tự nhiên mà không cần nhắc nhỡ.
Việc giáo dục tính tự lập cho trẻ mẫu giáo là vô cùng quan trọng góp phần
cốt lõi cho việc giáo dục nhân cách con người mới xã hội chủ nghĩa có phẩm
chất đạo đức, có tình yêu thương, biết quan tâm, nhường nhịn giúp đỡ mọi
người, biết yêu thích và gìn giữ cái đẹp, trở thành con người giàu lòng nhân
nghĩa khi trưởng thành.
3. Kết luận, kiến nghị
3.1. Kết luận.
Từ những biện pháp tôi tìm tòi nghiên cứu và thực hiện chất lượng giáo dục
tính tự lập ở trẻ tăng lên rõ rệt, đó là điều làm tôi phấn khởi, giúp tôi càng yêu
nghề hơn, giúp tôi càng có nghị lực trong công tác.
* Về phía trẻ:
- Mức tự lập của trẻ cao hơn rất nhiều.

- Trẻ tự giác trong mọi hoạt động.
- Khả năng lao động tự phục vụ của trẻ cao.
16


- Trẻ có kỹ năng, linh hoạt, chủ động.
Nhận thức của trẻ được phát triển do phạm vi tiếp xúc của trẻ được mở
rộng.
- Trẻ khỏe mạnh và tự tin hơn trong mọi hoạt động.
* Về phía giáo viên:
- Giáo viên nắm vững và hiểu rõ nội dung giáo dục tính tự lập, biết tích hợp
nội dung giáo dục tính tự lập cho trẻ vào các hoạt động chăm sóc và giáo dục trẻ
hàng ngày.
- Giáo viên quan tâm đến trẻ, bao quát trẻ, luôn đáp ứng nhu cầu tự lập của trẻ.
- Biết xây dựng môi trường hoạt động phù hợp giúp trẻ phát triển tính tự lập.
* Về phía phụ huynh:
- Nhận thức về sự cần thiết của việc giáo dục tính tự lập cho trẻ được nâng
cao.
- Phụ huynh nắm rõ đặc điểm tâm sinh lý của con mình nói riêng và đặc
tâm sinh lý của trẻ lứa tuổi mẫu giáo 3- 4 tuổi nói chung.
- Kết hợp với giáo viên cùng thực hiện tốt việc giáo dục tính tự lập cho trẻ,
luôn tạo điều kiện để trẻ phát huy tính tự lập.
Các bậc phụ huynh có những chuyển biến rõ rệt về nhận thức và quan tâm
ngày càng nhiều đến con em mình.
Bản thân tôi được trao đổi kiến thức và kinh nghiệm dạy trẻ và giáo dục
tính tự lập qua các môn học, các hoạt động,…được phụ huynh và các đồng
nghiệp quý mến và tin yêu hơn.
Đây là những tiền đề cơ bản nhằm hình thành và phát triển nhân cách toàn
diện cho trẻ.
3.2. Kiến nghị.

Để góp phần nâng cao hiệu quả giáo dục tính tự lập cho trẻ, tôi có một số
kiến nghị sau:
- Cần coi trọng hơn nữa việc giáo dục tính tự lập cho trẻ mẫu giáo thông
qua các hoạt động sinh hoạt hằng ngày của trẻ, giáo dục tính tự lập cho trẻ ở mọi
lúc mọi nơi, trong mọi hoạt động.
+Về phía nhà trường: Cần thường xuyên kiểm tra, đánh giá công tác chăm
sóc và giáo dục trẻ nói chung và công tác giáo dục tính tự lập cho trẻ nói riêng
của giáo viên. Mặt khác, cần tạo điều kiện để giáo viên có cơ hội học hỏi, trau
dồi kinh nghiệm, mua thêm tài liệu giáo dục kỹ năng tự lập cho trẻ để cho giáo
viên tham khảo.
+ Về phía giáo viên: Cần tuyên truyền cho các bậc phụ huynh hiểu rõ tầm
quan trọng của việc giáo dục tính tự lập cho trẻ lứa tuổi mầm non, từ đó có sự
17


phối hợp chặt chẽ giữa nhà trường và gia đình, thống nhất với nhau về nội dung
và biện pháp giáo dục.
+ Về phía phụ huynh: Hãy tạo điều kiên cho trẻ tự làm lấy những công việc
vừa sức, không làm thay trẻ, chỉ giúp đỡ khi trẻ gặp khó khăn dưới hình thức gợi
ý, hướng dẫn từ đó hình thành tính tự lập cho trẻ. Luôn lắng nghe ý kiến,
nguyện vong của trẻ, tôn trong những quyết định của trẻ, giúp trẻ tự tin, năng
động, sáng tạo chủ động trong mọi sinh hoạt hằng ngày.
Trên đây là một số kinh nghiệm trong việc nghiên cứu áp dụng ''Một số
biện pháp nâng cao hiệu quả giáo dục tính tự lập cho trẻ mẫu giáo 3- 4 tuổi
tại trường mầm non''. Với năng lực có hạn, trong thời gian ngắn, không tránh
khỏi thiếu sót, rất mong nhận được sự đánh giá, góp ý của Hội đồng khoa học và
các bạn đồng nghiệp để bản sáng kiến có chiều sâu và thiết thực hơn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ


Hiệu trưởng

Thanh Hóa, ngày 26 tháng 5 năm 2018
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của
mình viết, không sao chép nội dung
của người khác.
Người viết

Lê Thị Dung

18


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Luật Giáo dục- Nhiều tác giả (Nhà xuất bản giáo dục)(1)
2. Tạp chí giáo dục Mầm non số 5 -2014
3. Chương trình giáo dục mầm non- Bộ Giáo dục đào tạo 9 (Nhà xuất bản
giáo dục)
4. Hình thành tính tự lập cho trẻ- Nhiều tác giả (Nhà xuất bản Nhi Đồng)
5. Hướng dẫn tổ chức thực hiện chương trình giáo dục Mầm non- Nguyễn
Thị Ánh Tuyết (Nhà xuất bản đại học sư phạm)
6. Bồi dưỡng thường xuyên Mô đun 39.

19



×