Tải bản đầy đủ (.doc) (22 trang)

skkn một số biện pháp chỉ đạo nhằm nâng cao chất lượng dạy học môn tập đọc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (515.84 KB, 22 trang )

I. MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài:
Môn Tiếng Việt ở trường phổ thông có nhiệm vụ hình thành năng lực hoạt
động ngôn ngữ cho học sinh. “Năng lực hoạt động ngôn ngữ được thể hiện
trong bốn dạng hoạt động, tương ứng với chúng là bốn kĩ năng nghe, nói, đọc,
viết.”[1] Tập đọc là một phân môn của chương trình Tiếng Việt bậc Tiểu học.
Đây là phân môn có vị trí đặc biệt trong chương trình vì nó đảm nhiệm việc hình
thành và phát triển cho học sinh kĩ năng đọc, một kĩ năng quan trọng hàng đầu
của học sinh ở bậc học đầu tiên trong trường phổ thông.
Dạy đọc có một ý nghĩa to lớn ở tiểu học. Đọc trở thành một đòi hỏi cơ
bản, đầu tiên đối với mỗi người đi học. Trước hết là trẻ phải học đọc, sau đó trẻ
phải đọc để học. Đọc giúp trẻ em chiếm lĩnh một ngôn ngữ để dùng trong giao
tiếp và học tập. Nó là công cụ để học tập các môn học khác. Nó tạo ra hứng thú
và động cơ học tập. Nó tạo điều kiện để học sinh có khả năng tự học và tinh thần
học tập cả đời. Đọc một cách có ý thức cũng sẽ tác động tích cực tới trình độ
ngôn ngữ cũng như tư duy của người đọc.
Nhiệm vụ của dạy đọc là hình thành năng lực đọc cho học sinh; Giáo dục
lòng ham đọc sách, phương pháp làm việc với sách; Làm giàu kiến thức cho học
sinh, phát triển ngôn ngữ và tư duy, giáo dục tư tưởng, tình cảm, thị hiếu thẩm
mĩ cho các em. Việc dạy đọc sẽ giúp học sinh hiểu biết hơn, bồi dưỡng ở các em
lòng yêu cái thiện và cái đẹp, dạy cho các em biết suy nghĩ một cách lôgic cũng
như biết tư duy có hình ảnh. Như vậy, đọc có một ý nghĩa to lớn còn vì nó bao
gồm các nhiệm vụ giáo dưỡng, giáo dục và phát triển. Phương pháp dạy học
đóng vài trò quan trọng và quyết định đến hiệu quả của việc dạy học ở tiểu học.
Dạy học có phương pháp và đúng phương pháp sẽ không chỉ truyền đạt được
kiến thức cho học sinh một cách đầy đủ mà thêm vào đó, khơi gợi được hứng
thú, tinh thần tự giác và chủ động cho học sinh. Trái lại, việc dạy học sai phương
pháp sẽ làm cho việc học trở thành việc nhồi nhét kiến thức, khiến cho học sinh
ngày một thụ động, đối phó, thậm chí ảnh hưởng đến cả lối tư duy và đạo đức
của các em.


Đặc biệt ở bậc học tiểu học vấn đề này được các nhà giáo dục và xã hội
đặc biệt quan tâm, đòi hỏi công tác chỉ đạo các nhà quản lý và giáo viên trường
tiểu học phải có biện pháp quản lý, giảng dạy phù hợp, không ngừng đổi mới
phương pháp dạy học (PPDH) nhằm hướng cho học sinh vào hoạt động học tập
một cách tích cực, tự giác, chủ động sáng tạo.Vì thế, PPDH phải phù hợp với
đặc điểm tâm sinh lí của trẻ đó là: Phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, tư
duy sáng tạo của người học, bồi dưỡng năng lực tự học, lòng say mê học tập và
ý chí vươn lên.
Trong quá trình dự giờ giáo viên dạy Tập đọc lớp 4, tôi thấy bên cạnh
những thành công, còn nhiều hạn chế. Học sinh đọc chưa được như mong muốn.
Kết quả đọc của các em chưa đáp ứng được yêu cầu của việc hình thành kỹ năng
đọc.
Về phía giáo viên còn lúng túng khi dạy tập đọc: Cần đọc bài tập đọc với
giọng như thế nào, làm thế nào để chữa lỗi phát âm cho học sinh, làm thế nào để
1


các em đọc nhanh hơn, hay hơn, diễn cảm hơn; làm thế nào để các em hiểu văn
bản được đọc; làm thế nào để phối hợp đọc thành tiếng và đọc hiểu; làm thế nào
để cho những gì đọc được tác động vào chính cuộc sống của các em…
Đó là những trăn trở khiến tôi tìm tòi nghiên cứu và tìm ra “Một số giải
pháp chỉ đạo nhằm nâng cao chất lượng phân môn Tập đọc lớp 4.”
2. Mục đích nghiên cứu:
- Giúp cho cho giáo viên đổi mới phương pháp dạy học Tập đọc lớp 4.
- Nâng cao chất lượng phân môn Tập đọc nói riêng, môn Tiếng Việt nói
chung, góp phần hình thành nhân cách con người Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
3. Đối tượng nghiên cứu:
Nghiên cứu kỹ các phương pháp dạy học Tập đọc.Tìm các giải pháp chỉ
đạo nhằm nâng cao chất lượng phân môn Tập đọc cho học sinh lớp 4 ở trường
Tiểu học Lam Sơn 3, thị xã Bỉm Sơn.

4. Phương pháp nghiên cứu: Sử dụng kết hợp các phương pháp:
- Phương pháp nghiên cứu lý thuyết.
- Phương pháp điều tra, khảo sát, thống kê.
- Phương pháp thực nghiệm.
- Phương pháp phân tích, tổng hợp.
II. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
1. CƠ SỞ LÍ LUẬN

“Đọc là một hoạt động của con người, dùng mắt để nhận biết các kí hiệu
và chữ viết, dùng trí óc để tư duy và lưu giữ những nội dung mà mình đã đọc và
sử dụng bộ máy phát âm phát ra âm thanh nhằm truyền đạt đến người nghe.
Đối với người đọc phải đọc đúng (chuẩn về mặt chính âm, ngắt nghỉ đúng chỗ,
đúng các hệ thống trong văn bản, đọc đúng giọng điệu), đọc có biêu cảm là sử
dụng ngữ điệu trong khi đọc (tiết tấu, cao độ, điều chỉnh âm lượng). Đọc thành
tiếng tức là hoạt động đọc sử dụng thị giác để tác động lên văn bản từ trên
xuống dưới, từ trái qua phải, đồng thời sử dụng trí óc để phân tích, tư duy, ghi
nhớ. Sau đó sử dụng cơ quan phát âm để phát ra thành tiếng nhằm mục đích
hướng tới một đối tượng nghe nào đó. Đọc thầm tức là hoạt động đọc sử dụng
thị giác để tác động lên văn bản từ trên xuống dưới, từ trái qua phải, đồng thời
sử dụng trí óc để phân tích, tư duy, ghi nhớ. Đọc mang tính chất nghệ thuật về
thực chất là việc đọc trong quá trình hình thành các cơ chế đọc. Đọc hiểu là đọc
kết hợp với sự hình thành năng lực giải thích, phân tích, khái quát, biện luận
đúng sai về logic, tức là kết hợp với năng lực, tư duy và biểu đạt. Nó là khái
niệm bao chùm có nội dung quan trọng trong quá trình dạy văn, là một khái
niệm khoa học chỉ mức độ cao nhất của hoạt động học, đọc hiểu cũng chỉ năng
lực của người đọc.” [1]
Phát triển ngôn ngữ cho học sinh thực chất là phát triển hoạt động lời nói.
Quá trình phát triển lời nói gắn bó rất chặt chẽ với hai cơ chế của hoạt động lời
nói là sản sinh ngôn ngữ và tiếp nhận ngôn ngữ. Quá trình hình thành lời nói ở
học sinh gắn bó rất chặt chẽ với hoạt động của tư duy. Sự mạch lạc trong lời nói

của học sinh thực chất là sự mạch lạc của tư duy. Việc tiếp thu ngôn ngữ có
2


nhiều đặc điểm khác với việc tiếp thu kiến thức trong các lĩnh vực khác. Mặt
khác, quan hệ giữa phương pháp dạy học Tiếng Việt và tâm lý học, đặc biệt là
tâm lý học lứa tuổi rất chặt chẽ, không có những hiểu biết về quá trình tâm lý
con người nói chung, về học sinh tiểu học nói riêng thì không thể dạy học tốt và
phát triển lời nói cho học sinh. Lứa tuổi của các em ở tiểu học là tuổi chơi mà
học, học mà chơi. Các cơ quan trong cơ thể chưa phát triển hoàn thiện nên mức
độ tập trung chú ý chưa lâu, chưa bền, ngồi lâu trong một tiết học nếu không
thay đổi hình thức tổ chức dạy học chắc các em sẽ không thấy thoải mái. Bởi
vậy, cần có những biện pháp tổ chức hoạt động dạy và học linh hoạt để các em
có cơ hội vừa học, vừa vận động cơ thể.
Học phân môn Tập đọc, việc đọc và cảm thụ là hai khâu có quan hệ mật
thiết với nhau, gắn bó hỗ trợ đắc lực cho nhau. Cảm thụ tốt giúp cho việc đọc
diễn cảm được tốt. Ngược lại việc đọc diễn cảm giúp cho cảm thụ bài văn thêm
sâu sắc.
2.THỰC TRẠNG VIỆC DẠY VÀ HỌC TẬP ĐỌC Ở TRƯỜNG TIỂU
HỌC LAM SƠN 3.

2.1, Nội dung Sách giáo khoa Tiếng Việt 4
Trong nội dung phân môn tập đọc lớp 4 gồm có 62 bài tập đọc thuộc các
loại hình văn bản nghệ thuật, báo chí, khoa học, trong đó có 45 bài văn xuôi, 1
vở kịch và 17 bài thơ. Sách giáo khoa có 2 tập, mỗi tập gồm 5 chủ điểm, mỗi
chủ điểm học trong ba tuần.
Bám sát các chủ điểm, nội dung tập đọc phản ánh nhiều lĩnh vực khác
nhau. Phân môn Tập đọc cung cấp cho học sinh những hiểu biết về thiên nhiên,
xã hội và con người; cung cấp vốn từ, tăng khả năng diễn đạt, trang bị một số
hiểu biết ban đầu về tác phẩm văn học (như đề tài, cốt truyện, nhân vật…) và

góp phần rèn luyện nhân cách cho học sinh.
2.2, Thực trạng việc dạy và học của giáo viên và học sinh
Xuất phát từ các thể loại văn bản khác nhau đòi hỏi người giáo viên cần
có biện pháp dạy học ứng với từng kiểu bài, từng thể loại bài. Để nâng cao chất
lượng dạy các thể loại văn bản tôi tiến hành dự giờ mỗi thể loại một bài xem
thực trạng dạy của giáo viên và phỏng vấn trò chuyện với học sinh:
* Dự giờ tiết dạy: Thể loại Thơ
(Tiết 8): Tre Việt Nam ( Sách TV4 - Tập 1 - Trang 19)
- Người dạy : Nguyễn Thị Thoa, dạy lớp 4A. Ngày dạy: 27/ 9/ 2017
- Người dự cùng giáo viên khối 4 - Đơn vị trường tiểu học Lam Sơn 3.
Sau đây là đánh giá nhận xét của tổ chuyên môn:
* Ưu điểm:
- Giáo viên tổ chức các hoạt động dạy- học theo đúng đặc trưng môn học.
- Học sinh thuộc lòng được bài thơ trên lớp.
- Giáo viên đã chú ý thay đổi hình thức dạy học để chống nhàm chán cho
học sinh như: Tổ chức học nhóm, thi đọc giữa các nhóm, …
* Nhược điểm:

3


- GV phân nhóm không đồng đều về trình độ, nhóm 1 phần lớn là học
sinh tiếp thu bài nhanh được đọc nhiều, nhóm 4 phần lớn là học sinh đọc chậm
lại được đọc ít.
- Học sinh được đọc thầm một cách hình thức. Học sinh chỉ chăm chú
đọc thuộc lòng không quan tâm đến việc luyện giọng đọc diễn cảm. Quá trình
đọc từng khổ thơ theo hình thức nối tiếp nhiều học sinh ngồi làm việc riêng.
- Phần đánh giá nhận xét của học sinh còn rụt rè. Chỉ có học sinh khá giỏi
làm việc, học sinh trung bình, yếu hầu như không động não. Điều đó ảnh hưởng
rất lớn đến kĩ năng đọc hiểu của các em.

* Dự giờ tiết dạy: Thể loại Văn xuôi
Dự giờ (tiết 5 ):Bài: Thư thăm bạn ( Sách TV4- Tập 1 -trang 36)
- Người dạy Nguyễn Thị Huyền , dạy 4B. Ngày dạy: 18 / 9 / 2017
- Người dự cùng giáo viên khối 4 - Đơn vị trường tiểu học Lam Sơn 3
Sau đây là đánh giá nhận xét của tổ chuyên môn:
* Ưu điểm:
- Giáo viên tổ chức các hoạt động dạy học theo đúng quy trình của phân
môn Tập đọc. Phong cách sư phạm tương đối tốt.
- Học sinh được luyện đọc nhiều, đọc to, rõ ràng.
- Phần tìm hiểu nội dung bài giáo viên sử dụng những câu hỏi ở sách giáo
khoa để khai thác, giáo viên nêu câu hỏi, học sinh trả lời, học sinh khác nhận
xét.
* Nhược điểm:
-Học sinh phát âm một số tiếng còn lẫn lộn: tr/ch, l/n, thanh hỏi/ thanh
ngã.
- Đa số học sinh ngắt nghỉ chưa hợp lí, khả năng đọc diễn cảm của học
sinh chưa đảm bảo yêu cầu.
- Phần chú giải giáo viên cho học sinh đọc, như thế chỉ là hình thức máy
móc, chắc chắn học sinh sẽ không hiểu sâu nghĩa một số từ mới đó.
* Dự giờ tiết dạy: Thể loại Kịch
Dự giờ: Bài: Ở Vương quốc Tương Lai ( TV 4 - tập 1- trang 70)
- Người dạy: Nguyễn Thu Trang - dạy lớp 4C; - Ngày dạy : 18/ 10 / 2017
- Người dự cùng: giáo viên khối 4 - Đơn vị trường tiểu học Lam Sơn 3
Sau đây là đánh giá nhận xét của tổ chuyên môn:
* Ưu điểm:
- Giáo viên tổ chức các hoạt động dạy học theo đúng quy trình của phân
môn Tập đọc. Giáo viên đã quan tâm đến luyện phát âm cho học sinh.
- Học sinh được luyện đọc nhiều, đọc đúng tốc độ, biết nghỉ hơi đúng sau
dấu phẩy, dấu chấm.
- Giáo viên đã sử dụng công nghệ thông tin vào bài giảng nên học sinh có

hứng thú trong học tập.
* Nhược điểm:
- Học sinh chưa thể hiện được ngữ điệu các câu kể, câu hỏi, câu cảm.
- Việc hướng dẫn luyện đọc của giáo viên còn hạn chế; giọng đọc của giáo
viên chưa tốt.
4


- Tuy có ứng dụng công nghệ thông tin, xong việc sử dụng còn lúng túng
và hiệu quả chưa cao.
Qua quá trình dự giờ thăm lớp, thăm dò ý kiến của giáo viên và trò
chuyện với học sinh tôi nhận thấy :
Một số học sinh còn phát âm sai do ảnh hưởng phương ngữ. Một số học
sinh chưa đảm bảo về tốc độ đọc. Phần đọc diễn cảm học sinh đọc chưa đảm bảo
yêu cầu.
Học sinh chưa chủ động tích cực hoạt động chiếm lĩnh kiến thức. Khả
năng hiểu nghĩa từ còn hạn chế, chỉ đọc phần giải nghĩa trong sách giáo khoa mà
chưa hiểu được nghĩa văn cảnh.
Giáo viên tổ chức học sinh tìm hiểu bài chỉ dựa vào các câu hỏi trong
SGK và thêm câu hỏi phụ với hình thức giáo viên hỏi, học sinh đáp chưa chú
trọng thực sự đến việc rèn cho học sinh cách trả lời các câu hỏi, diễn đạt ý bằng
những câu ngắn gọn, rõ ràng. Giáo viên không nhận xét việc trao đổi học tập
từng nhóm, dẫn đến kĩ năng nghe và nói của học sinh chưa tốt.
Tổ chức các hoạt động tách rời nhau.
Sử dụng đồ dùng dạy học quá đơn điệu chắc chắn không đáp ứng được
nhu cầu đổi mới.
2.3- Kết quả thực trạng:
Bên cạnh việc dự giờ, tôi tiến hành điều tra kết quả học tập của học sinh
khối 4 trường Tiểu học Lam Sơn 3 kết quả đạt được như sau:
Bảng 1 -Thống kê chất lượng đọc của học sinh khối 4 (Tháng 10/2017):

Lớp Sĩ số
4

110

Chất lượng, mức độ đọc
Đọc vừa đủ nghe, rõ ràng
Ngắt nghỉ hơi đúng ở các dấu câu, các
cụm từ rõ nghĩa, đọc đúng tiếng từ.
Đảm bảo tốc độ đọc
Hiểu nội dung văn bản
Giọng đọc có biểu cảm ( đọc diễn cảm)

Số lượng
79/110
75/110

Tỷ lệ
72%
68,2%

74/110
65/110
15/110

67,3%
59,1%
13,6 %

Như vậy chất lượng đọc thực tế cho thấy còn thấp. Đặc biệt là kỹ năng

đọc hiểu và đọc diễn cảm. Để khắc phục tình trạng này, tôi đã tìm ra một số giải
pháp chỉ đạo nhằm nâng cao chất lượng phân môn Tập đọc cho học sinh lớp 4,
giúp cho giáo viên dạy tốt phân môn Tập đọc khối lớp 4 và nhân rộng trong toàn
trường.
3. CÁC GIẢI PHÁP ĐÃ SỬ DỤNG NHẰM NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG
PHÂN MÔN TẬP ĐỌC LỚP 4

* Giải pháp 1: Nâng cao nhận thức cho cán bộ quản lý và giáo viên
Triển khai, quán triệt đầy đủ và kịp thời các văn bản, Chỉ thị của ngành về
việc thực hiện đổi mới phương pháp dạy học, giúp cho cán bộ quản lý, tổ trưởng
chuyên môn, giáo viên và các lực lượng tham gia giáo dục phải có quan điểm
đúng đắn về đổi mới phương pháp dạy học ở tiểu học nói chung và đổi mới

5


PPDH môn Tiếng Việt nói riêng trong đó có phương pháp dạy học phân môn
tập đọc.
Tổ chức có hiệu quả các buổi sinh hoạt chuyên môn, các chuyên đề cấp tổ
và cấp trường. Tăng cường chỉ đạo việc tự học, tự bồi dưỡng thường xuyên, đổi
mới phương pháp dạy học. Tăng cường công tác bồi dưỡng phương pháp dạy học
môn Tiếng việt và xây dựng giờ dạy. Xây dựng các hoạt động nhằm nâng cao
nhận thức của việc đổi mới PPDH góp phần nâng cao hiệu quả chất lượng giáo
dục, tránh tư tưởng ngại khó hoặc đổ lỗi cho các điều kiện khách quan.
Trang bị những kiến thức và kỹ năng chuyên môn cần thiết để đáp ứng yêu
cầu đổi phương pháp dạy học theo hướng phát huy tính tích cực, chủ động, sáng
tạo và khả năng tự học của học sinh.
Tiếp tục phát động giáo viên tự làm đồ dùng dạy học, ứng dụng công nghệ
thông tin vào giảng dạy để nâng cao hiệu quả giờ dạy.
* Giải pháp 2: Chỉ đạo giáo viên nghiên cứu nắm vững mục tiêu, nội

dung chương trình, SGK và các tài liệu dạy học; tìm hiểu trình độ của HS
- Mục tiêu của giờ học là cái đích mà thầy trò cần đạt được sau giờ học.
Để tiến hành dạy một giờ Tập đọc, GV cần có kỹ năng đầu tiên, vô cùng quan
trọng – kĩ năng xác định mục tiêu của giờ học. Ngay từ khi lập kế hoạch dạy
học, GV đã phải hình dung rất rõ sản phẩm mẫu của giờ học: một bài tập đọc
được đọc lên với giọng điệu thế nào, nội dung của nó cần được hiểu ra sao để
xác định cái đích mà giờ tập đọc hướng tới.
Mục tiêu, nội dung dạy học của giờ tập đọc sẽ được dùng để kiểm tra
đánh giá chất lượng giờ dạy. Ngay khi soạn mục đích yêu cầu của giờ dạy, GV
đã hình dung, dự tính được có thể kiểm soát đánh giá nó bằng cách nào.
Mục tiêu của giờ dạy cũng là căn cứ để những người quản lý chuyên môn
xây dựng thành những câu hỏi, bài tập nhằm kiểm tra đánh giá trình độ củ GV,
xây dựng những câu hỏi bài tập cho HS để kiểm tra, đánh giá kết quả của giờ tập
đọc.
Giáo viên cần nắm được mục tiêu dạy môn học và phân môn; nắm được
mục đích, yêu cầu của từng bài dạy thì sẽ lựa chọn được các biện pháp, hình
thức tổ chức phù hợp với tiết dạy, lựa chọn được đồ dùng nào sẽ phục vụ cho
từng hoạt động trong tiết dạy.
-Mỗi giáo viên cần phải nghiên cứu kỹ chương trình và tài liệu dạy học
phân môn tập đọc lớp 4 ( Bao gồm sách giáo khoa( SGK) tiếng việt 4 (Tập 1,
2) , sách hướng dẫn giảng dạy Tiếng việt 4(Tập 1, 2) và được cụ thể hơn trong
sách bài soạn cùng với các tài liệu tham khảo khác) quy định cả nội dung và
PPDH. Mỗi giáo viên cần có những hiểu biết về chương trình, và có ý thức thực
hiện tốt chương trình. Sách giáo khoa là nơi xác định rõ nội dung dạy học, vì
vậy mỗi giáo viên cần nghiên cứu kĩ SGK. Giáo viên cần xác định được vị trí
mỗi bài tập đọc trong hệ thống chương trình, cần trả lời được các câu hỏi: Bài
tập đọc nằm trong chủ điểm nào, Ở chủ điểm đó có những bài nào đã được dạy
trước đó và sau đó; về nội dung và hình thức thể hiện các bài tập đọc này có
điểm gì chung và có điểm gì khác biệt.


6


Mỗi giáo viên cần lập bảng thứ tự tên các chủ điểm, tên bài tập đọc cùng
với nội dung luyện đọc thành tiếng, luyện đọc hiểu cho từng bài tập đọc để có
cái nhìn bao quát, có hệ thống về chương trình và sách giáo khoa dạy tập đọc
lớp 4.
Bên cạnh đó nghiên cứu kĩ sách giáo viên và sách bài soạn để nắm vững
các bước lên lớp, phương pháp dạy học nên đó cũng là những tài liệu người giáo
viên bắt buộc phải tham khảo.
-Giáo viên cần phải tìm hiểu Xác định được đặc điểm và trình độ đọc của
học sinh lớp mình dạy, tìm hiểu đặc điểm và trình độ đọc của học sinh, các em
phát âm có những gì sai chuẩn, khó phát âm những từ ngữ nào trong bài, khó
đọc đúng, đọc hay những câu nào…Để luyện đọc hiểu, chúng ta cần nắm được
học sinh của mình chưa hiểu, khó hiểu những từ ngữ nào, nội dung nào trong
bài…Sự hiểu biết này giúp giáo viên xác định tính vừa sức, tính mức độ của nội
dung và kĩ năng dạy đọc. Chẳng hạn những lỗi phát âm sai của học sinh sẽ giúp
giáo viên xác định được những từ ngữ trong bài cần luyện đọc đúng chính âm.
Với việc nắm được trình độ đọc chung của cả lớp, giáo viên cần biết rõ
giọng đọc của em nào có những lợi thế để đọc hay bài tập đọc này… Đồng thời
giáo viên cũng dự kiến được các tình huống dạy học và điều chỉnh câu hỏi, soạn
thảo những câu hỏi gợi mở, những câu hỏi bài tập dự trữ nhằm giảm độ khó của
câu hỏi và bài tập chính.
Giáo viên cần hiểu học sinh để phân hóa nội dung dạy học, tạo điều kiện
cho việc phát triển năng lực đọc của từng học sinh
* Giải pháp 3- Chỉ đạo giáo viên chuẩn bị trước giờ lên lớp .
3.1- Chỉ đạo giáo viên chuẩn bị đồ dùng, phương tiện dạy học
Đồ dùng, các phương tiện dạy học góp phần không nhỏ để tạo ra hiệu quả
giờ dạy tập đọc. Xác định tốt mục tiêu của bài dạy rồi nhưng để thực hiện tốt
việc tổ chức các hoạt động dạy – học thì phải có phương tiện dạy – học. Hơn

nữa, để đáp ứng với nội dung, phương pháp đổi mới thì đồ dùng dạy- học không
thể thiếu được trong bất kì môn học nào, nhất là phân môn Tập đọc.
Chính vì thế, sau khi đã xác định được mục tiêu bài bài dạy rồi, giáo viên
phải xác định rõ từng hoạt động cụ thể cần sử dụng đồ dùng nào? Đồ dùng nào
đã có sẵn? Đồ dùng nào có thể sưu tầm được? đồ dùng nào cần tự làm? Giáo
viên phải vạch rõ kế hoạch để chuẩn bị đồ dùng dạy- học có chất lượng
Đồ dùng, phương tiện dạy học phải đa dạng như: bảng phụ, phấn màu
Tranh ảnh (vẽ, chụp hoặc máy chiếu), vật thật, câu đố, phiếu học tập, đồ chơi
phụ vụ cho học đọc, bài hát, câu ca dao, băng hình, băng tiếng… Một phương
tiện dạy học có nhiều lợi thế là băng tiếng ghi âm giọng đọc mẫu, đọc nghệ thuật
của một bài tập đọc nào đó, hay giọng ngâm thơ của các nghệ sĩ các bài thơ
được dạy. Một giọng đọc hay của nghệ sĩ sẽ tạo ra cảm súc mạnh mẽ trong lòng
học sinh.
Cần xác định rõ đồ dùng dạy học phục vụ cho hoạt động dạy học nào có
thể sử dụng trong phần giới thiệu bài, trong phần giảng từ hay trong khi giải
nghĩa từ khó hiểu

7


Ví dụ: Bài “Nỗi dằn vặt của An-đrây-ca ” (TV4- Tập 1) để giúp học sinh
hiểu nghĩa từ “dằn vặt ”. Giáo viên nên sử dụng tranh SGK phóng to để giảng từ
giúp học sinh thấy được sự đau đớn, buồn khổ một cách dai dẳng của An-đrâyca….Ngoài ra việc sử tranh trong SGK ở bài này còn sử dụng vào phần giới
thiệu bài.
Hoặc bài “Trung thu độc lập” (TV4- Tập 1) để giúp học sinh hiểu nghĩa
từ “trăng ngàn” giáo viên sử dụng công nghệ thông tin (chức năng
PowerPoint) tạo hiệu ứng để HS thấy trăng chiếu trên vùng núi rừng thật đẹp,
thật sáng và gợi cho anh chiến sĩ nghĩ tới một tương lai tươi sáng vào ngày mai.

.

3.2. Hướng dẫn giáo viên lựa chọn các hình thức tổ chức dạy học
Một tiết học thành công hay không phụ thuộc lớn vào cách thức tổ chức
các hoạt động dạy và học. Học sinh học tập tích cực hay không tùy thuộc vào
các hình thức tổ chức dạy học, việc đổi mới phương pháp dạy học. Trong giờ
học, GV phải linh hoạt trong việc tổ chức các hình thức dạy học, nhưng một
hình thức dạy học không thể thiếu được ở hầu hết các tiết học là học nhóm.
Học trong nhóm có nhiều phẩm chất năng lực khác nhau, đủ trình độ sẽ
tạo điều kiện cho các thành viên trong nhóm hỗ trợ nhau, giúp đỡ nhau, kèm cặp
nhau, bổ sung cho nhau để từng học sinh dần dần hoàn thiện hơn. Chính vì thế
theo tôi trong phân môn Tập đọc cũng như các phân môn khác nên tổ chức phân
nhóm đủ trình độ. Còn nếu muốn dành thời gian cho từng đối tượng, giáo viên
cần phải phân nhóm cùng trình độ.
- Cấu tạo nhóm.
+ Nhóm 2 (cặp): phân kiểu này là hiệu quả vì hai em trao đổi, làm việc
được nhiều lần trong học nhóm.
+ Phân nhóm nhiều học sinh (Học sinh ở hai bàn tạo thành một nhóm hay
học sinh ở một dãy tạo thành nhóm).
8


+ Phần nhóm số lượng người ứng với số lượng nhân vật hoặc số đoạn
trong bài tập đọc, dùng trong hoạt động luyện đọc nhóm, luyện đọc lại.
- Cách phân nhóm:
Cứ ba tuần (ứng với một chủ đề), yêu cầu giáo viên thay đổi học sinh
trong nhóm. Các nhóm thay đổi nhóm trưởng, để học sinh có cơ hội được tiếp
xúc, giao lưu với mọi đối tượng, đồng thời học sinh có cơ hội tốt làm nhóm
trưởng. Có như thế mới đào tạo được nguồn làm lớp trưởng trong mỗi tháng,
mỗi đợt … Nhằm đạt được mục tiêu đào tạo: “Phát triển con người toàn diện,
đáp ứng được nhu cầu cuộc sống hiện đại”.
3.3- Yêu cầu giọng đọc của giáo viên.

Kĩ năng đọc là mục đích cuối cùng của chúng ta muốn có ở học sinh sau
mỗi giờ học. Những kĩ năng này trước hết phải có ở giáo viên. Một trong ba
phương pháp dạy học quan trong nhất ở bậc Tiểu học là phương pháp luyện theo
mẫu. Do đó khi soạn bài, giáo viên phải đọc bài nhiều lần để đọc tốt và hiểu thấu
đáo nội dung bài đọc. Giáo viên có giọng đọc tốt sẽ góp phần đáng kể trong việc
rèn đọc cho học sinh rất nhiều. Bởi vì, các em luôn luôn lấy giọng đọc của thầy
cô giáo làm chuẩn. Bởi vậy, giáo viên phải nghiên cứu nội dung, cách đọc và tập
đọc nhiều lần. Tùy theo từng bài mà giáo viên đọc mẫu (hay học sinh giỏi) đọc
cả bài hay một đoạn, nhưng trước hết người giáo viên phải đọc đúng, ngoài ra
còn phải đọc diễn cảm tốt bài văn, bài thơ. Muốn vậy giáo viên phải rèn luyện
kỹ năng đọc cho mình một cách nghiêm túc. Luyện đọc diễn cảm sao cho mỗi
bài đọc của giáo viên xứng đáng là bài đọc mẫu cho học sinh. Hoặc trong lớp có
học sinh đọc có biểu cảm tốt, giáo viên sẽ chuẩn bị trước là hướng dẫn học sinh
đó giọng đọc của bài để các em đọc thay giáo viên trong tiết học.
Ví dụ: Đọc bài: “Vẽ về cuộc sống an toàn”( TV4-T2). Đây là một bản tin
nên giáo viên đọc với giọng thông báo tin vui, rõ ràng, rành mạch, tốc độ khá
nhanh. Nhấn giọng những từ ngữ: nâng cao, đông đảo, năm mươi nghìn, phong
phú, tươi tắn, rõ ràng, hồn nhiên, trong sáng, sâu sắc, bất ngờ...
- GV có thể đọc mẫu ( Hoặc học sinh giỏi đọc mẫu) trong các trường
hợp:
+ Đọc mẫu toàn bài để gây chú ý cho học sinh.
+ Đọc mẫu âm, vần, tiếng khó.
+ Đọc mẫu câu, đoạn giúp học sinh nhận xét, giải thích tìm ra cách đọc.
Qua việc đọc có biểu cảm sẽ giúp học sinh hứng thú học tập và tự tin hơn
khi đọc.
* Giải pháp 4 - Chỉ đạo giáo viên linh hoạt để rèn các kỹ năng đọc cho
học sinh trong giờ Tập đọc
4.1.Chuẩn bị cho việc đọc:
GV hướng dẫn HS chuẩn bị tâm thế để đọc. Khi ngồi đọc , HS phải ngồi
ngay ngắn, khoảng cách từ mắt đến sách nên nằm trong khoảng từ 30-35 cm, cổ

và đầu thẳng, phải thở thật sâu và thở ra thật chậm để lấy hơi. Ở lớp khi được cô
giáo gọi đọc, HS phải bình tĩnh, tự tin, đứng dậy không hấp tấp đọc ngay để có
thời gian tạo tâm thế. GV cần sửa cho HS tư thế đọc. Tư thế đứng đọc phải vừa
đàng hoàng, vừa thoải mái, sách phải được mở rộng và cầm bằng hai tay.
9


4.2- Đọc đúng
“Đọc đúng là sự tái hiện mặt âm thanh của bài đọc một cách chính xác, không
có lỗi. Đọc đúng là không đọc thừa, không sót từng âm, vần và tiếng. Đọc đúng
bao gồm: Phát âm, ngắt nghỉ hơi đúng chỗ” [1].
* Cách thực hiện:
4.2.1 GV luyện cho HS làm chủ tia mắt khi đọc, không bỏ sót tiếng,
không thêm tiếng, không lạc dòng.
4.2.2 Luyện chính âm cho HS:
+ GV phải dự kiến các lỗi của học sinh trong lớp dễ mắc. Những tiếng, từ,
những câu khó trong bài để hướng dẫn học sinh luyện đọc. Phần dự kiến này
phải dựa vào thực tế phát âm của học sinh trong lớp:
Đọc đúng các phụ âm đầu: có ý thức phân biệt để không đọc sai các phụ
âm đầu là l/n, tr/ch như: lo lắng, nói năng, làm lụng, nũng nịu, trong trẻo,
chiêng trống,…
Đọc đúng các chính âm: HS có ý thức phân biệt để không đọc “ iu tiên”,
“ mua riệu”, “chấm múi”, “ liu luyến”, …
Đọc đúng các tiếng có thanh ngã và thanh hỏi: quyến rũ, nghĩ ngợi, nghỉ
ngơi,… Phần luyện đọc này phải kết hợp luôn trong phần đọc cá nhân.
+ Về cách thức luyên tập GV cần phối hợp nhiều biện pháp cùng một lúc:
Trước hết cần bồi dưỡng cho HS có mong muốn có ý thức nói, đọc đúng
chính âm. GV tập cho HS biết quan sát mặt âm thanh lời nói của người khác và
của bản thân mình để điều chỉnh đọc nói cho tốt.
Tiếp đó GV cần nắm các biện pháp chữa lỗi phát âm, bao gồm biện pháp

luyện theo mẫu, biện pháp cấu âm và biện pháp luyện âm đúng qua âm trung
gian. Tùy thuộc vào âm thanh sai lạc, tùy thuộc vào HS mà GV lựa chọn biện
pháp luyện tập thích hợp.
Ví dụ 1 : Khi dạy bài: “Dế mèn bênh vực kẻ yếu” ( TV4 – T1)
Cho một học sinh đọc đoạn 2, gọi 1 học sinh khác nhận xét: Phát hiện bạn
đọc sai “ mới nột, lức nở, noong”. GV cho học sinh đọc sai đọc lại cho đúng:
“mới lột, nức nở, non”, sau đó GV cho một số em hay mắc lỗi phát âm sai phụ
âm đầu l/n, vần on như trên đọc lại.
4.2.3. Luyện đọc đúng tiết tấu, ngắt nghỉ đúng như nghỉ hơi ở dấu chấm,
ngắt hơi ở chấm phẩy, dấu hai chấm, đặc biệt phải hướng dẫn học sinh ngắt hơi
ở các cụm từ ngữ để tách ý. HS phải biết dựa vào nghĩa, dựa vào quan hệ ngữ
pháp giữa các tiếng, từ để ngắt hơi cho đúng. Trong tiết dạy, giáo viên có nhiều
hình thức để hướng dẫn học sinh, nhưng cần phải linh hoạt, tránh để học sinh
nhàm chán. Có thể ở tiết này dùng hình thức ở ví dụ 1, tiết sau lại dùng hình
thức ở ví dụ 2 hoặc ví dụ 3,4 (dưới đây), tùy vào mức độ khó dễ của câu văn
hoặc vào trình độ của học sinh để hướng dẫn:
Ví dụ 2 : Trong bài : “ Một người chính trực” ( TV4-T1).
Học sinh đọc như sau: “Còn gián nghị đại phu /Trần Trung Tá do bận
nhiều công việc /nên không mấy khi tới thăm /Tô Hiến Thành được.”//.
GV đọc lại câu văn và yêu cầu học sinh lắng nghe, phát hiện chỗ cô giáo
ngắt giọng: “Còn gián nghị đại phu Trần Trung Tá /do bận nhiều công việc /nên
10


không mấy khi tới thăm Tô Hiến Thành được.//” Sau đó giáo viên yêu cầu 3 em
đọc lại câu văn trên. Từ đó giúp học sinh phát hiện cách đọc và ngắt nghỉ đúng.
Đối với những bài thơ GV hướng dẫn HS ngắt nghỉ cần đúng với nhịp thơ.
Với những bài thơ có thể thơ tự do. GV hướng dẫn HS chú ý tới vần nhịp để
ngắt nghỉ đúng và nhấn giọng.
Ví dụ 3:

“Nếu chúng mình có phép lạ
Hoá trái bom / thành trái ngọt
( Nếu chúng mình có phép lạ - TV4 . T1) [4]
Với những bài thơ lục bát, nhịp thơ phổ biến là 2/4 và 4/4, tuỳ vào từng
bài để ngắt cho phù hợp với âm điệu và nhịp:
Ví dụ 4:
“Yêu nhiều/ nắng nỏ trời xanh
Tre xanh/ không đứng khuất mình bóng râm.
Bão bùng/ thân bọc lấy thân
Tay ôm, tay níu/ tre gần nhau hơn//”
( Tre Việt Nam – TV 4 –T1) [4]
Như vậy, từ một số biện pháp trên đã giúp học sinh dần dần có ý thức tìm
hiểu giọng đọc, cách đọc đúng và tự tin hơn khi đọc.
4.3- Tốc độ đọc
Đối với học sinh tiểu học, “đọc lưu loát là nói đến phẩm chất đọc về mặt
tốc độ, đọc không ê a, ngắc ngứ” [1]. Tốc độ đọc thành tiếng của lớp 4 yêu cầu
tối thiểu là 120 tiếng / phút. “Tốc độ đọc truyện kể phải nhanh hơn đọc thơ trữ
tình vì đọc thơ trữ tình cần thời gian để bộc lộ cảm xúc” [1]. Khi đọc văn bản có
nội dung miêu tả một công việc dồn dập, khẩn trương thì phải đọc nhịp nhanh.
Cảm xúc phấn khởi, tự hào cũng cần thể hiện với tốc độ không quá chậm.
Những bài văn xuôi trữ tình, chứa chan cảm xúc cần phải được đọc chậm.
Những chỗ có dấu ba chấm trong văn bản mô phỏng âm thanh kéo dài của giọng
cần phải được đọc kéo dài. Nhiều khi không phải chỉ là đọc chậm mà phải kéo
dài giọng đọc từng tiếng (còn gọi là đọc ngân) để cho câu văn, câu thơ ngân lên
gây sự chú ý.
* Cách thực hiện:
- Giáo viên hướng dẫn cho học sinh làm chủ tốc độ đọc bằng cách giao
viên đọc để học sinh đọc theo tốc độ đã định. Đơn vị để đọc nhanh là cụm từ,
câu, đoạn, bài. Giáo viên điều chỉnh tốc độ đọc bằng cách giữ nhịp đọc.
- Ngoài ra còn có biện pháp đọc tiếp nối trên lớp, đọc nhẩm có sự kiểm

tra của thầy, của bạn để điều chỉnh tốc độ. Giáo viên đo tốc độ đọc bằng cách
chọn sẵn bài có số tiếng cho trước và dự tính sẽ đọc trong bao nhiêu phút. Định
tốc độ như thế nào còn phụ thuộc vào độ khó của bài đọc.
- Giáo viên còn gây hứng thú cho học sinh bằng những trò chơi như: Thi
đọc tiếp sức, đọc thơ truyền điện, thả thơ,… Kết thúc chơi bao giờ giáo viên
cũng cho học sinh chọn và tuyên dương nhóm đọc đúng nhất, nhanh nhất, giỏi
nhất và gợi ý rút kinh nghiệm về cách đọc. Em nào đọc còn chậm giáo viên giúp
học sinh luyện thêm sau giờ học và luyện đọc ở buổi 2.
4.4- Đọc hiểu

11


Để giúp học sinh hiểu văn bản thì trong giờ Tập đọc phải chú ý rèn luyện
khả năng đọc hiểu cho học sinh. Có hiểu nội dung văn bản thì mới có cách đọc
đúng, đọc diễn cảm được. Việc luyện đọc hiểu thường được thực hiện trong
bước đọc thầm. Hiệu quả của đọc thầm được đo bằng khả năng thông hiểu nội
dung văn bản đọc. Do đó, dạy đọc thầm chính là dạy đọc có ý thức, đọc hiểu: kết
quả đọc thầm phải giúp học sinh hiểu nghĩa của từ, cụm từ, câu, đoạn, bài, tức là
toàn bộ những gì được đọc. Giáo viên cần có biện pháp giúp học sinh hiểu bài
đọc, bắt đầu từ việc hiểu nghĩa từ. Việc chọn từ nào để giải nghĩa phụ thuộc
nhiều vào đối tượng học sinh. Giáo viên phải có hiểu biết về từ địa phương cũng
như có vốn từ mẹ đẻ của vùng mình dạy học để chọn từ giải nghĩa cho thích
hợp, đồng thời phải chuẩn bị để sẵn sàng giải đáp cho học sinh về bất cứ từ nào
trong bài mà các em yêu cầu.
* Cách thực hiện:
- Trong quá trình lên lớp, giáo viên phải kết hợp chặt chẽ việc tìm hiểu bài
với luyện đọc. Giáo viên cho học sinh đọc đến đâu tìm hiểu bài đến đó, không
tách rời hai khâu tìm hiểu bài và rèn đọc.
Ví dụ: Khi dạy bài: “Ông Trạng thả diều” (TV4-T1). Sau khi cho 1 học sinh

đọc đoạn 1, cả lớp đọc thầm và trả lời câu hỏi 1 trong sách giáo khoa. Từ đó học
sinh hiểu được nội dung của đoạn là ca ngợi tư chất thông minh của Nguyễn
Hiền qua chi tiết “ Chú học đến đâu hiểu ngay đến đó và có trí nhớ lạ thường.”
Giáo viên yêu cầu cả lớp đọc thầm toàn bài, thảo luận cặp đôi để giải thích vì
sao chú bé Nguyễn Hiền được gọi là “ ông Trạng thả diều”? HS đã đọc, thảo
luận và tìm được câu trả lời :Vì ông đỗ Trạng Nguyên ở tuổi 13, khi vẫn còn là
một chú bé ham thích chơi diều.
- Kết hợp đọc thành tiếng với đọc thầm nhiều lần và được xuyên suốt trong
cả tiết dạy để học sinh hiểu nội dung bài đọc. Khi đọc thầm giáo viên phải giao
nhiệm vụ để kiểm tra kỹ năng đọc hiểu của học sinh.
+ Đọc thầm lần 1: Đọc thầm kết hợp khi đọc nối tiếp từng đoạn.
+ Đọc thầm lần 2 : Đọc thầm kết hợp khi 1 bạn đọc to cả bài.
+ Đọc thầm lần 3: Khi giáo viên đọc diễn cảm.
+ Đọc thầm lần 4 : Kết hợp với đọc thành tiếng khi tìm hiểu bài.
+ Đọc thầm lần 5 : Kết hợp với khi đọc diễn cảm.
Việc đọc thầm kết hợp với việc đọc cá nhân thành tiếng được luyện nhiều
lần, kết hợp nhuần nhuyễn trong một tiết học Tập đọc đã giúp học sinh nắm
được nội dung văn bản và từ đó có cách đọc đúng. Khi học sinh đọc cá nhân
toàn bài hoặc một khổ thơ, một đoạn văn giáo viên đều nhắc cả lớp đọc thầm
theo.
- GV giúp học sinh hiểu nghĩa của từ, cụm từ, câu, đoạn,…để học sinh
hiểu nội dung bài đọc. Sử dụng đồ dùng dạy một cách hiệu quả để giúp học sinh
hiểu nghĩa từ, cụm từ.
Ví dụ: Sử dụng công nghệ thông tin trong bài “Điều ước của vua MiĐát”:
Giáo viên giúp học sinh hiểu nghĩa từ “khủng khiếp” bằng hình ảnh kết hợp
với lời gợi ý của giáo viên. GV trình chiếu hình ảnh về nhà vua Mi- Đát ngồi
12


trước một bàn ăn, tạo hiệu ứng để đồ ăn chuyển sang màu vàng lấp lánh khi vua

đụng tay vào, giúp học sinh hiểu được nhà vua Mi- Đát xin được điều ước
khủng khiếp (Có nghĩa là hoảng sợ ở mức độ cao – GV cho học sinh quan sát
thái độ hoảng sợ của nhà vua).
Qua bức tranh sinh động được giáo viên trình chiếu giúp học sinh không
những hiểu về từ ngữ mà còn giúp học sinh rõ được sự tham lam của nhà vua.
Rõ ràng học sinh phải động não và nói bằng lời của mình, thông qua đó, giáo
dục các em rằng những ước muốn tham lam không mang lại hạnh phúc cho con
người.
- Ngoài ra để giúp học sinh đọc hiểu tốt, GV phải chuẩn bị hệ thống câu
hỏi, có thể bổ sung thêm nội dung câu hỏi ngoài trong sách giáo khoa sao cho
phù hợp với từng bài học để học sinh nêu được nội dung, nghệ thuật, cách đọc,
giọng đọc từng bài.
Ví dụ: Khi học bài : “Tuổi ngựa” ( TV 4 – T1) có 3 câu thơ:
“Gió xanh miền Trung du
Gió hồng vùng đất đỏ
Gió đen hút đại ngàn…” [4]
GV hướng dẫn học sinh tìm và phát hiện ra từ “xanh”, “hồng” và “đen”, ở
đây tác giả đã sử dụng không phải là tính từ mà đã trở thành động từ nói lên tác
dụng, hoạt động của ngọn gió. Đó là giá trị của biện pháp nghệ thuật. Từ đó giúp
học sinh thấy được vẻ đẹp của ngôn từ, vẻ đẹp của cách nói văn chương, hướng
dẫn các em phát hiện những tín hiệu nghệ thuật và đánh giá được giá trị của
chúng trong việc biểu đạt nội dung.
Như vậy, tất cả những cách thực hiện trên nhằm giúp cho học sinh hiểu nội
dung, nghệ thuật của văn bản để có cách đọc đúng và vươn tới mức độ cao hơn
đó là đọc diễn cảm.
4.5- Đọc diễn cảm.
Đọc diễn cảm là một yêu cầu đặt ra khi đọc những câu văn hoặc các yếu tố
của ngôn ngữ nghệ thuật. Đó là việc đọc thể hiện ở kỹ năng làm chủ ngữ điệu,
chỗ ngừng, nghỉ, cường độ…..để biểu đạt đúng ý nghĩa và tình cảm mà tác giả
đã gửi gắm trong bài đọc. Đồng thời thể hiện được sự thông hiểu, cảm thụ của

người đọc đối với tác phẩm. Đọc diễn cảm thể hiện năng lực đọc ở trình độ cao
và chỉ thực hiện được trên cơ sở đọc đúng và đọc lưu loát.
Cách tiến hành:
- Nội dung của bài đọc đã quy định ngữ điệu của nó nên giáo viên không
được áp đặt sẵn giọng đọc của mỗi bài mà cần khuyến khích học sinh tự tìm
hiểu và nêu cách đọc và đọc trên cơ sở hiểu từ, hiểu nghĩa. Giáo viên chỉ là
người lắng nghe, sửa cách đọc cho từng học sinh. GV cũng luôn khuyến khích,
động viên học sinh cố gắng đọc diễn cảm dưới nhiều hình thức khác nhau để tạo
sự hứng thú cho các em.
Ví dụ: Khi dạy bài: “Trong quán ăn Ba cá bống” ( TV4 – T1).
GV yêu cầu học sinh đọc nối tiếp và tự phát hiện ra giọng đọc toàn bài và giọng
của mỗi nhân vật như sau :
+ Toàn bài: Giọng khá nhanh, bất ngờ, hấp dẫn.
13


+ Lời người dẫn chuyện: Chậm rãi (phần đầu), nhanh hơn, bất ngờ, li kỳ
(phần sau)
+ Lời Bu-ra-ti-nô:thét, dọa nạt.
+ Lời lão Ba-ra-ba: Lúc đầu hùng hổ, sau ấp úng, khiếp đảm.
+ Lời lão A-li-xa: chậm rãi, ranh mãnh. [3]
Như vậy để hướng dẫn học sinh luyện đọc đúng giọng nhân vật, giáo
viên phải giúp các em tìm hiểu bài tốt để nắm được đặc điểm, tính cách nhân
vật.Từ đó luyện cho các em có giọng đọc tốt, phù hợp với từng nhân vật, thay
đổi và đan xen cách đọc để tạo không khí sinh động hào hứng cho giờ học.
- Đọc diễn cảm chỉ có được trên cơ sở hiểu thấu đáo bài đọc. Đọc diễn
cảm yêu cầu đọc đúng với nội dung văn bản như giọng vui, buồn, giận dữ, trang
nghiêm… với kiểu câu, thể loại, đọc có cảm xúc cao, biết nhấn giọng ở từ ngữ
biểu cảm, gợi tả, phân biệt lời nhân vật, lời tác giả. "Đọc diễn cảm, người đọc
phải làm chủ được chỗ ngắt giọng làm chủ được tốc độ đọc, làm chủ được

cường độ và ngữ điệu”[1] Vậy ở mỗi bài tập đọc giáo viên cần quan tâm hướng
dẫn học sinh phát hiện những chỗ ngắt giọng, nhấn giọng, phát hiện ý đồ nghệ
thuật bằng cách tự các em tìm tòi, khám phá và tranh luận.
Ví dụ : Trong bài: “Dòng sông mặc áo” ( TV 4 – T2)[5]
Học sinh cảm nhận được vẻ đẹp của hình ảnh, của nghệ thuật dùng từ mà tác
giả đã tạo nên sự bất ngờ của dòng sông mặc áo hoa ướp hương bưởi, “làm
ngẩn ngơ” lòng người qua cách thể hiện:
“Sáng ra / thơm đến ngẩn ngơ
Dòng sông đã mặc bao giờ / áo hoa
Ngước lên / bỗng gặp la đà
Ngàn hoa bưởi đã nở nhoà áo ai …//” [6]
Hay trong bài: Bài “Chợ Tết” (TV 4 – T2). Các em đã ngắt nhịp và nhấn
giọng như sau:
“Sương trắng / rỏ đầu cành như giọt sữa
Tia nắng tía / nháy hoài trong ruộng lúa
Núi uốn mình / trong chiếc áo the xanh
Đồi thoa son nằm dưới ánh bình minh…”[6]
Với cách đọc như thế, học sinh cảm nhận được“dưới ánh hồng bình minh”
mọi vật đều trở nên long lanh, tráng lệ. Từ những giọt sương, tia nắng đến núi
đồi tất cả đều cựa quậy, náo nức sáng bừng lên. Cảnh“Chợ Tết” càng thêm đẹp.
Đọc diễn cảm còn thể hiện ở cách đọc đúng ở những kiểu câu chia theo mục
đích nói. Mỗi kiểu câu chia theo mục đích nói đều có ngữ điệu riêng, hạ giọng
cuối câu kể, lên giọng ở câu hỏi, nhấn giọng ở những từ chỉ cảm xúc trong câu
cảm.
Ví dụ: Chao ôi ! Cảnh nghèo đói đã gặm nát con người đau khổ kia thành
xấu xí biết nhường nào! ( Người ăn xin – TV 4 . T1)
Đây là câu cảm thán, các em đọc như một lời than, nhấn giọng ở từ “Ôi
chao!” “gặm nát!” thể hiện sự ngậm ngùi, xót thương của tác giả đối với ông
lão ăn xin.
Như vậy, để luyện đọc diễn cảm, GV cần làm các công việc sau:

14


- Cho HS làm quen với toàn tác phẩm, xác định giọng đọc chung của cả
bài.
- GV tổ chức cho HS đàm thoại, nhận ra thể loại của văn bản, hiểu ý đồ của
tác giả, thảo luận với HS để xác định giọng điệu chung của cả bài.
- HS phân tích và xác định giọng đọc của từng đoạn.
- HS tập luyện để thể hiện giọng đọc của từng câu, đoạn, bài hoặc nhân vật.
- Ngoài ra, cứ cuối mỗi giờ tập đọc GV cần hỏi học sinh:
+ Em hãy đọc đoạn văn (hoặc khổ thơ) mà em thích nhất và nói lên lí do vì
sao mình lại thích đoạn văn, khổ thơ đó.
+ Em hãy đọc diễn cảm cả bài văn ( hoặc bài thơ ).
+ Hoặc tổ chức các hình thức thi đọc diễn cảm, đọc phân vai, đóng kịch…
Giáo viên chỉ là người lắng nghe, sửa cách đọc của từng học sinh, luôn kích
thích, động viên học sinh cố gắng đọc diễn cảm.
* Giải pháp 5. Phát huy tính tích cực của học sinh trong tổ chức các hoạt
động dạy học.
Tổ chức các hoạt động dạy- học là một trong những yếu tố quyết định sự
thành bại quá trình dạy- học.
Theo tôi, tổ chức các hoạt động dạy- học tốt trước hết phải chủ động phân bố
thời gian trong một tiết dạy như đã phân rõ từng hoạt động cụ thể ở trong thiết
kế bài dạy, tránh tình trạng dạy theo quán tính, hoạt động này quá nhiều thời
gian, hoạt động khác quá ít thời gian. Đồng thời cũng phải linh hoạt trong việc
sử dụng thời gian trong từng tiết dạy. Nếu hoạt động luyện đúng mà học sinh ít
phạm lỗi thì theo tôi nên chuyển bố trí bớt 1-2 phút của hoạt động này cho hoạt
động tìm hiểu bài.
Tổ chức các hoạt động dạy- học theo thiết kế bài học đã lập nhưng chưa có
thể thay đổi một số tình huống sư phạm thì không nhất thiết phải tiến hành y rắp
như thiết kế đã vạch.

Chẳng hạn trong tiết “ Người ăn xin ” trong thiết kế GV dự kiến sẽ luyện
đọc từ khó “ông lão, lọm khọm” (Do ảnh hưởng phương ngữ nên hay phát âm
sai tiếng lão, lọm) nhưng trong quá trình tổ chức dạy- học, các em không phát
âm sai từ đó thì giáo viên không nên dừng lại luyện đọc từ đó nữa mà học sinh
lại phát âm sai “ khản đặc” (Lẫn an/ang) thì giáo viên ghi từ đó lên bảng luyện
đọc cho các em.
Như vậy đòi hỏi tài năng sư phạm của giáo viên và vốn kiến thức về ngữ âm
học, ngôn ngữ học của giáo viên phải chắc để hướng dẫn cho học sinh phát âm,
phải chỉ rõ được vị trí của các bộ phận phát âm. Hướng dẫn học sinh cách mở
miệng, lưỡi đặt ở vị trí nào?... Đặc biệt khi phát âm, giáo viên phải đứng ở vị trí
trước lớp, ở giữa để học sinh có thể nhìn cô phát âm… Nếu trong lớp có nhiều
học sinh phát âm chuẩn thì có những từ luyện đọc gọi học sinh đó phát âm mẫu
để cả lớp lắng nghe, quan sát, học tập. Đặc biệt khi cho học sinh đọc nối tiếp
đoạn theo tôi nên chọn học sinh yếu, trung bình đọc bài còn học sinh khá giỏi
cùng cô giáo phát hiện và chữa lỗi nhằm phát huy năng lực của tất cả các đối
tượng học sinh. Tránh trường hợp học sinh này phát âm sai, giáo viên lại luyện
phát âm lỗi sai đó cho học sinh đã phát âm đúng.
15


Về thao tác giải nghĩa từ theo tôi ngoài các từ đã chú giải trong SGK, giáo
viên cần dự đoán trước một số từ ngữ học sinh có thể hỏi thêm và đoán trước
một số từ ngữ cần giải thích tùy theo từng nội dung bài học đó.
Ví dụ: Trong bài “ Kéo co” phần chú giải chỉ giải nghĩa từ: “Giáp”, nhưng
trong bài vẫn còn một số từ ngữ khó hiểu nữa như: “thượng võ”, “keo”. Giáo
viên phải dự kiến ý giải nghĩa và các ý kiến có thể học sinh sẽ đưa ra.
Trong quá trình tổ chức các hoạt động dạy- học ở tiết dạy Tập đọc cần có
những câu chuyển tiếp từ hoạt động này sang hoạt động khác, nhằm thu hút sự
ham học hỏi của học sinh, tránh tách bạch các hoạt dộng trong tiết dạy, tạo nên
sự khô khan, tẻ nhạt.

Ví dụ: Trong bài “Ông Trạng thả diều” nên tiến hành giúp học sinh hiểu từ:
“Trạng” trong phần giới thiệu bài để học sinh hiểu được “Trạng” tức Trạng
nguyên, người đỗ đầu kì thi cao nhất thời xưa, điều đó giúp học sinh hiểu và gây
ấn tượng ngay từ đầu vào bài đọc.
Trong hoạt động tìm hiểu bài nên kết hợp với luyện đọc. Đặc biệt chú ý, để
thực sự đổi mới phương pháp dạy- học trong việc sử dụng đồ dùng dạy – học,
theo tôi phải biết lựa chọn đúng thời điểm để sử dụng, sử dụng triệt để. Đặc biệt
đối với học sinh tiểu học, tư duy trực quan chiếm ưu thế việc giúp học sinh hiểu
nghĩa của từ mới trong bài tốt nhất là sử dụng đồ dùng dạy học, tất nhiên là có
thể dùng nhiều biện pháp khác nhau.
Trong quá trình tổ chức các hoạt động dạy- học, giáo viên phải tạo không
khí lớp học thoải mái, vui vẻ ngay từ đầu cho đến kết thúc tiết học, tránh gây
không khí nặng nề, gây áp lực cho học sinh. Trong giờ học sinh khoanh tay nghe
giảng bài là tiết học đó thất bại, vì thế giáo viên phải khéo léo tổ chức làm việc
với SGK, đồ dùng dạy học, lắng nghe bạn đọc để nối tiếp, nhận xét bạn đọc, trả
lời câu hỏi. Học trong nhóm, học thông qua trò chơi, học qua phiếu… Mời học
sinh tự đánh giá, đánh giá bạn đọc, giáo viên quan tâm những mặt mạnh của học
sinh để khen kịp thời, đúng lúc, tránh chê học sinh trước lớp.
* Giải pháp 6. Chỉ đạo dạy thực nghiệm và dạy đại trà
Chỉ đạo giáo viên khối 4 thực hiện những biện pháp trên để tiến hành dạy
thực nghiệm và tiến tới dạy đại trà.
6.1- Mục đích dạy thực nghiệm: Tôi tiến hành thực nghiệm là nhằm mục
đích kiểm nghiệm các biện pháp trên qua thực tiễn giảng dạy, quá trình thực
nghiệm là quá trình áp dụng việc tổ chức các hoạt động dạy- học linh hoạt, sáng
tạo trên tiết dạy Tập đọc lớp 4. Từ đó rút kinh nghiệm và có thể vận dụng trong
việc dạy học phân môn Tập đọc khối lớp 4,5.
6.2- Xây dựng kế hoạch bài học
-Tổ chức cho tổ chuyên môn lập kế hoạch bài học trước khi dạy thực
nghiệm.
+ Xác định rõ mục đích yêu cầu bài dạy.

+ Chuẩn bị chu đáo phương tiện, đồ dùng phục vụ tiết dạy.
+ Xác định lỗi phát âm do phương ngữ, tiếng khó, câu khó. (Đó thường là
những tiếng khó, những chỗ ngắt giọng biểu cảm hoặc câu quá dài).

16


+ Giọng điệu chung của cả bài như thế nào? Đoạn nào cần nhấn mạnh, cần
đọc diễn cảm, cần bộc lộ cảm xúc gì? Bài cần được đọc trong thời gian bao lâu?
(Xác định tốc độ).
+ Trong mỗi kế hoạch bài học cần đặt tình huống sư phạm có thể xảy ra,
phải chú ý đến mọi đối tượng nhằm tích cực hoá việc học tập của học sinh và
quan tâm đối tượng những học sinh có kỹ năng đọc diễn cảm và cảm thụ tốt văn
bản.
- Tuỳ vào nội dung bài, kế hoạch bài học cần vạch ra trò chơi phục vụ cho
việc học tiết tập đọc đó, để gây hứng thú cho học sinh, đồng thời giúp học sinh
thư giãn và thông qua trò chơi, học sinh nắm được kiến thức mới hay củng cố
kiến thức đã học… Chính vì thế, cần có dự kiến cụ thể trò chơi có thể sắp xếp ở
phần giới thiệu bài, hay trước phần tìm hiểu bài hay củng cố, dặn dò.
-Thảo luận và thống nhất kế hoạch bài học: Bài:“Điều ước của vua MiĐát”
6.3- Dạy thực nghiệm và rút kinh nghiệm
a) Tiến hành dạy mẫu theo kế hoạch bài học đã thiết kế
- Lớp thực nghiệm: Lớp 4B; Phân công GV dạy: Nguyễn Thị Huyền
- Bài dạy thực nghiệm bài: “Điều ước của vua Mi-Đát ” (Theo thần thoại
Hi-Lạp TV4 - Tập I- Trang 90); Ngày dạy: 02 / 11/ 2017.
- Tiến hành dạy để chỉ đạo điểm, thể hiện giáo án đã thiết kế: Chuẩn bị chu
đáo các thiết bị dạy học, hỗ trợ giáo viên dạy thực nghiệm .
- Tất cả cán bộ quản lý và giáo viên đều tham gia dự giờ.
b) Rút kinh nghiệm giờ dạy thực nghiệm
- Tổ chức dự giờ, rút kinh nghiệm của tổ chuyên môn: Sau khi vận dụng

các giải pháp thực hiện trong tiết dạy Tập đọc đã nêu trên, tôi chỉ đạo tổ chuyên
môn dự giờ, nhận xét và rút kinh nghiệm, tổ chuyên môn đã kết luận:
+ Ở phần giới thiệu bài GV tiến hành cho học sinh quan sát tranh SGK (Sử
dụng máy chiếu chụp hình ảnh SGK), yêu cầu học sinh quan sát tranh, trả lời
câu hỏi và từ đó GV đặt vấn đề giúp các em đi vào bài học một cách nhẹ nhàng.
+Giáo viên tổ chức các hoạt động dạy – học theo kế hoạch đã vạch sẵn
nhưng không dập khuôn máy móc mà đã linh hoạt trong giờ dạy.
+ Các hoạt động được tổ chức diễn ra một cách nhẹ nhàng, các kỹ năng rèn
đọc được lồng ghép vào nhau, hỗ trợ cho nhau.
+ Trong mọi hoạt động, học sinh tự đọc, tự học sinh phát hiện ra từ khó
đọc, tự nêu ra cách đọc, thể hiện giọng đọc. Giáo viên chỉ là người điều khiển, tổ
chức các em học. Chính vì thế, tiết học sôi nổi, học sinh rất thích học, tập trung
hoàn toàn vào việc học, tự các em chiếm lĩnh tri thức.
+ Hoạt động “hướng dẫn luyện đọc” có kết hợp luyện đọc đoạn, luyện phát
âm. Hướng dẫn học sinh hiểu nghĩa một số từ mới, giúp học sinh hiểu nghĩa từ
khó trong bài. GV không yêu cầu HS đọc từ chú giải trong SGK mà giáo viên đã
cho HS phát hiện từ khó giúp học sinh hiểu trong quá trình học sinh luyện đọc
đoạn: Bài này đề cập tới 2 từ khó và hỏi để HS trả lời: điều ước, quả nhiên; các
từ còn lại chuyển sang hoạt động “Tìm hiểu bài”.

17


+ Hoạt động tìm hiểu bài, tổ chức học sinh dựa vào hệ thống câu hỏi SGK
và bổ sung thêm ý nhằm giúp học sinh phát hiện rõ và minh bạch trong câu trả
lời qua phiếu học tập, qua việc thảo luận theo nhóm bàn. Sử dụng máy chiếu
trình một số hình ảnh của nhà vua như vẻ mặt “Khủng khiếp” của nhà vua khi
ngồi trước bàn ăn mà không thể ăn được vì mọi đồ vật vua đụng đến đều hóa
thành vàng, giúp học sinh hiểu ý nghĩa câu chuyện.
+ Hoạt động tiếp nối, tổ chức học sinh tham gia trò chơi: Chọn tiếng “ước”

đứng đầu, đặt tên cho truyện theo nghĩa nhằm giúp học sinh hiểu sâu sắc bài học
hơn.
6.4- Chỉ đạo dạy học đại trà.
- Giáo viên tự thiết kế kế hoạch bài học (giáo án) : Mỗi người 2 tiết theo
tinh thần chỉ đạo.
- Tổ chức phân công dự giờ đến từng lớp.
- Sau mỗi tiết dự đều đánh giá, rút kinh nghiệm và chỉ ra những cái đã làm
được, những cái chưa làm được để từ đó điều chỉnh uốn nắn kịp thời theo hướng
đổi mới.
-Trao đổi những kinh nghiệm giảng dạy trong khối, tập trung đi sâu vào
phân từng phân môn, từ phương pháp dạy học tới các hình thức tổ chức của từng
bài dạy với từng kiểu loại văn bản cho phù hợp với đối tượng học sinh.
* Giải pháp 7. Đảm bảo về điều kiện, cơ sở vật chất và sự phối kết hợp
giữa các tổ chức trong nhà trường và địa phương:
7.1.Đảm bảo về cơ sở vật chất, trang thiết bị, đồ dùng, sách giáo khoa:
- Học sinh phải có đầy đủ sách giáo khoa đây là điều kiện tối thiểu giúp các
em học tốt môn tập đọc.
- Tham mưu với các cấp uỷ Đảng, chính quyền địa phương phải đảm bảo
phòng học và bàn ghế đúng qui cách cho học sinh, phòng học đủ về ánh sáng,
bàn ghế phải đảm bảo để tạo điều kiện tốt nhất cho học sinh học theo nhóm một
cách dễ dàng.
- Đầu tư về đồ dùng dạy học như bảng phụ, tranh ảnh, đồ vật…đầu tư trang
thiết bị như máy chiếu đa năng, máy vi tính giúp giáo viên sử dụng có hiệu quả
các loại đồ dùng này phù hợp với từng tiết dạy, các tiết dạy sẽ nhẹ nhàng hơn,
sinh động hơn nâng cao chất lượng hiệu quả tiết học.
Khuyến khích giáo viên tự chuẩn bị đồ dùng dạy học phù hợp cho từng tiết
dạy.
7. 2- Xây dựng tốt mối quan hệ giữa nhà trường, gia đình và xã hội.
Thông báo và nhận xét kết quả học tập của học sinh tới phụ huynh học sinh
thông qua sổ liên lạc, trao đổi với phụ huynh nắm bắt tình hình học tập ở nhà

của học sinh để có biện pháp phối kết hợp với gia đình bồi dưỡng học sinh.
Phối hợp với Hội khuyến học, hội phụ nữ… của khu phố để nắm bắt tình
hình gia đình các em để tìm hiểu thêm về những nguyên nhân dẫn đến nhưng em
đọc còn yếu, chưa chăm học, từ đó giáo viên chủ nhiệm có đề xuất với nhà
trường tìm giải pháp để giúp đỡ các em.
4/ HIỆU QUẢ CỦA SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

18


Trong một khoảng thời gian không dài, với các biện pháp chỉ đạo nêu trên,
tôi thấy kÕt qu¶ thËt kh¶ quan, hiệu quả giờ dạy của đội ngũ giáo viên
được nâng lên rõ rệt. Các tiết dạy của giáo viên đã thực sự đổi mới. Học sinh
hứng thú học tập tích cực hơn, các em mạnh dạn tự tin hơn khi đọc bài. Số em
đọc chưa đạt yêu cầu không còn nữa. Số em đọc đúng, đọc diễn cảm và hiểu
văn bản được tăng lên rất nhiều so với đầu năm. Qua việc đánh giá từ những tiết
Tập đọc trên lớp, kết quả tập đọc của khối 4 do tôi trực tiếp chỉ đạo đã đạt như
sau:
Bảng 2 -Thống kê chất lượng đọc của học sinh khối 4 vào tháng 3/2018
Lớp Sĩ số
Chất lượng, mức độ đọc
Số lượng
Tỷ lệ
Đọc vừa đủ nghe, rõ ràng
108/110
98,2%
4
110 Ngắt nghỉ hơi đúng ở các dấu câu, các 107/110
97,3,1
cụm từ rõ nghĩa, đọc đúng tiếng từ.

%
Đảm bảo tốc độ đọc
106/110
96,4%
Hiểu nội dung văn bản
105/110
95,5%
Giọng đọc có biểu cảm ( Đọc diễn cảm)
75/110
68,2 %
Qua bảng tổng hợp chất lượng cho thấy chất lượng của khối 4 được tăng
lên rõ rệt so với thời điểm chưa triệt để thực hiện các giải pháp trên. Điều đó
chứng tỏ rằng để năng cao chất lượng dạy- học phân môn Tập đọc lớp 4 cần
phải tổ chức các hoạt động dạy- học linh hoạt, sáng tạo áp dụng vào thực tiễn
dạy- học.
Kết quả trên cho thấy, những biện pháp mà tôi đã áp dụng phần nào có giá
trị ứng dụng trong thực tế. Để chất lượng đạt cao, giáo viên phải biết kết hợp các
biện pháp và sử dụng có hiệu quả, có hệ thống kế hoạch đã vạch ra.
Từ kết quả thực nghiệm trên, tôi tiếp tục chỉ đạo nhân rộng các biện pháp
trên ở phân môn Tập đọc lớp 4,5 trong thời gian tiếp theo để nâng cao chất
lượng đọc trong toàn trường.
III. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ

1. Kết luận
Để nâng cao chất lượng dạy - học phân môn Tập đọc lớp 4, bản thân tôi
rút ra trong công tác chỉ đạo như sau:
- Nâng cao nhận thức về đổi mới phương pháp dạy học cho giáo viên. Tăng
cường dự giờ, rút kinh nghiệm và tìm ra phương pháp dạy học có hiệu quả.
- Giáo viên phải coi trọng việc rèn kỹ năng đọc cho học sinh.Trong giờ Tập
đọc không biến giờ Tập đọc thành tiết giảng văn mà chú ý rèn đọc cho học sinh,

tạo cho các em tính tự tin và ý thức rèn đọc. Coi trọng khâu đọc hiểu và đọc diễn
cảm. Không cảm thụ hộ học sinh, không áp đặt cách đọc, giọng đọc mà các em
tự tìm ra cái hay, cái đẹp trong từng văn bản, tự các em tìm ra cách đọc hay nhất
phù hợp với nội dung từng bài.
- Muốn tổ chức các hoạt động dạy học đạt kết quả cao thì giáo viên cần tổ
chức linh hoạt các hoạt động, tổ chức hoạt động này lồng trong hoạt động kia.
Các hoạt động chuyển tiếp bằng những câu nhẹ nhàng cuốn hút sự tò mò của
học sinh. Trong mỗi hoạt động phải có sự lựa chọn hình thức, biện pháp đa dạng
19


để học sinh tiếp thu bằng nhiều giác quan, đồng thời cần sử dụng đồ dùng dạy
học: Tranh ảnh, vật thật, câu đố, bài hát, phiếu học tâp, trang thiết bị dạy học
hiện đại như máy chiếu, đèn chiếu…Việc sử dụng đồ dùng dạy học phải linh
hoạt, phù hợp và mang tính hiệu quả.
- Hoạt động dạy học của học sinh tập trung hướng vào người học, phát huy
tính tích cực của học sinh, học sinh tự tìm, phát hiện ra từ khó, tự tập phát âm
mẫu, học sinh tự nêu được cách ngắt nghỉ hơi đúng, tự luyện đọc … Giáo viên
có nghệ thuật sư phạm để hướng dẫn mỗi cá nhân học sinh tự mình chiếm lĩnh
tri thức.
- Một điều quan trọng phải nghiên cứu kĩ nội dung chương trình của từng
bài, cả môn học, lập ra kế hoạch cụ thể có thể cải tiến sáng tạo, lựa chọn và thêm
bớt câu hỏi phụ để học sinh nắm bài tốt hơn, thiết kế phiếu học tập …Dự đoán
được câu trả lời của học sinh để lập ra nhiều phương án khác nhau, có định
hướng cụ thể cho từng phương án.
- Trong bất kỳ một tiết dạy nào giáo viên tổ chức ít nhất một trò chơi (chơi
để học), trò chơi liên quan đến nội dung bài học,tổ chức đúng lúc, đúng mục
đích và hào hứng, không nhất thiết phải chơi thư giãn giữa tiết học.
- Thật đáng tiếc nếu như bỏ qua việc tạo không khí thi đua trong việc tham
gia đóng góp ý kiến, trao đổi thảo luận. Sau mỗi hoạt động, cuối tiết học, tổ chức

học sinh tự bình xét cá nhân, nhóm đọc tốt (tìm hiểu bài tốt, thắng cuộc trong trò
chơi…) Học sinh tự đánh giá bản thân, nhận xét bạn, vừa thể hiện được sự công
bằng, công khai, kích thích sự ham học tập của các em.
2. Kiến nghị:
+ Phòng GD& ĐT nên tổ chức thường xuyên những hội thảo chuyên đề đi
sâu vào từng phân môn.
Trên đây là những giải pháp của bản thân trong quá trình chỉ đạo nhằm
nâng cao chất lượng phân môn Tập đọc ở lớp 4. Tôi rất mong nhận được sự
đóng góp ý kiến của các cấp lãnh đạo, của các bạn đồng nghiệp để đề tài được
hoàn chỉnh hơn và các giải pháp trên mang tính khả thi hơn.
Xin chân thành cảm ơn!
XÁC NHẬN
CỦA THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ

Trương Thị Trang

Thanh Hóa, ngày 10 tháng 4 năm 2018
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình
viết, không sao chép nội dung của người
khác..
Người thực hiện
Phạm Thị Hân

XÁC NHẬN CỦA HĐSK CẤP THỊ XÃ
……………………………………………………………………………............
……………………………………………………………………………………
20


…………………………………………………………………………………

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. [1] Phương pháp dạy học Tiếng Việt ở tiểu học.
Tác giả: Lê Phương Nga – Đặng Kim Nga; Nhà xuất bản Giáo dục
2. [2] Chuẩn kiến thức kĩ năng môn Tiếng Việt lớp 4
Theo công văn hướng dẫn số 5842/BGD&ĐT ngày 01/9/2011
3.[3] Sách giáo viên Tiếng Việt Lớp 4 - Tập 1 - Nhà xuất bản Giáo dục
Tác giả: Nguyễn Minh Thuyết ( Chủ biên)
4.[4] Sách giáo khoa Tiếng Việt Lớp 4 - Tập 1- Nhà xuất bản Giáo dục
Tác giả: Nguyễn Minh Thuyết ( Chủ biên)
5.[5] Sách giáo khoa Tiếng Việt Lớp 4 - Tập 2 - Nhà xuất bản Giáo dục
Tác giả: Nguyễn Minh Thuyết ( Chủ biên)
6.[6] Sách giáo viên Tiếng Việt Lớp 4 - Tập 2 - Nhà xuất bản Giáo dục
Tác giả: Nguyễn Minh Thuyết ( Chủ biên)

21


22



×