Tải bản đầy đủ (.docx) (87 trang)

Phân chia di sản thừa kế theo quy định bộ luật dân sự năm 2005

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (355.57 KB, 87 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

LÊ VĂN MINH

PHÂN CHIA DI SẢN THỪA KẾ
THEO QUY ĐỊNH BỘ LUẬT DÂN SỰ NĂM 2005
Chuyên ngành: LUẬT DÂN SỰ
Mã số: 60 38 30

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Cán bộ hướng dẫn khoa học: PGS.TS PHÙNG TRUNG TẬP

HÀ NỘI - 2012


LỜI CAM ĐOAN


Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết
quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số
liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực.
Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính
theo quy định của Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy, tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể bảo
vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN

Lê Văn Minh




Trang bìa phụ
Lời cam đoan
Mục lục
MỞ ĐẦU ................................................................................................................ 1
1. Tính cấp thiết của đề tài.................................................................................1
2. Mục tiêu nghiên cứu của đề tài.....................................................................2
3. Tính mới và những đóng góp của đề tài.......................................................3
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu................................................................3
5. Nội dung và phương pháp nghiên cứu..........................................................3
Chương 1: MÔT SÔ VAN ĐE CHUNG VE PHÂN CHIA DI SAN
THỪA KE...................................................................................................5
1.1. Khái niệm thừa kế và quyền thừa kế...........................................................5
1.1.1.........................................................................................Khái niệm thừa kế
5
1.1.2...............................................................................Khái niệm quyền thừa kế
9
1.2. Khái niệm di sản thừa kế và cơ cấu của di sản thừa kế.............................14
1.2.1...............................................................................Khái niệm di sản thừa kế
14
1.2.2..............................................................................Cơ cấu của di sản thừa kế
17
1.3. Xác định di sản thừa kế.............................................................................22
1.4. Căn cứ để phân chia di san thưa kê...........................................................25
1.4.1.......................................Theo sự thoả thuận của tất cả những người thừa kế
25
1.4.2...................................................Theo ý chí định đoạt của người lập di chúc
26



1.4.3..........................................................................Theo quy định của pháp luật
28
1.5. Khái lược quy định của pháp luật về phân chia di san thưa kê
32C h ư ơ n g 2 : PHÂN CHIA DI SẢN THỪA KẾ, THỰC TRẠNG ÁP
DỤNG PHÁP LUẬT VÀ ĐỊNH HƯỚNG HOÀN THIỆN....................39
2.1. Khái niệm phân chia di sản thừa kế..........................................................39
2.2. Nguyên tắc phân chia di

san thừa kê..................................................39

2.2.1.Nguyên tắc phân chia di

sản thừa kế theo di chúc..............................39

2.2.2.Nguyên tắc phân chia di

sản thừa kế theo pháp luật...........................42

2.3.................................................................................Phân chia theo di chúc
................................................................................................................ 45
2.3.1......................................Phân chia di sản trong trừờng hợp có di tăng
........................................................................................................... 45
2.3.2.

Phân chia di san t hừa kê theo di chuc trong trừơng hợp co di

sản dùng vào việc thờ cúng.....................................................................46
2.3.3.


Phân chia di san thừa kê theo di chuc trong trừợng hợp co

ngừợi thừa kê không phụ thuộc vào nội dung của di chúc......................48
2.4..............................................................................Phân chia theo phap luật
................................................................................................................ 51
2.4.1.

Phân chia theo phap luât trong trừợng hợp xuât hiên ngừợi

thừa kê mợi..............................................................................................51
2.4.2...........................................Phân chia di sản cho ngừời thừa kế thế vị
........................................................................................................... 52
2.5.............................................................................Hạn chế phân chia di sản
................................................................................................................ 54
2.6..........................Thừc trạng ap dung phap luât vê phân chia di san thừa kê
................................................................................................................ 56


2.6.1..................................Phân chia di san la quyên sừ dung đât và nha ợ
........................................................................................................... 61
2.6.2..............................................Phân chia di san thừa kê là tài sản khác
........................................................................................................... 69
2.7.

Đinh hừợng hoan thiên các quy định về phân chia di sản thừa .k. 76

2.7.1................................................................Về khai niêm di san thừa kê
........................................................................................................... 76
2.7.2........................................................................................Về thời hiệu
........................................................................................................... 77

2.7.3........Về thời điểm phân chia di sản theo di chúc chung của vợ chồng
........................................................................................................... 80
2.7.4.

Thợi điêm xac lâp quyên sợ hừu cho ngừợi thừa kê va nhừng

ngừợi hừợng di san thừa kê khác.............................................................81
KẾT LUẬN.............................................................................................................83
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.................................................................85


MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Khi còn sống và lao động có ích, con người tạo ra của cải cho xã hội, vì vậy
họ không chỉ muốn mình có quyền năng đối với khối tài sản của mình khi còn sống,
mà còn muốn chi phối nó ngay cả khi đã chết. Khi họ chết, các tài sản của họ để lại
sẽ trở thành di sản và được phân chia cho các thế hệ con cháu. Và nếu như con cháu
chính là sự hóa thân của ông bà, bố mẹ, là sự kéo dài nhân thân của mỗi người thì sự
chuyển dịch di sản theo chế định thừa kế chính là sự nối tiếp về quyền sở hữu. Vì
vậy, một người coi là đã chết nhưng chết chưa hẳn là đã chấm dứt mà một phần con
người đó còn hiện hữu, tồn tại trong con cháu, trong những di sản mà họ để lại. Pháp
luật công nhận quyền thừa kế của cá nhân đã đáp ứng một phần mong mỏi của con
người là tồn tại mãi mãi. Chính vì thế, pháp luật thừa kế trên thế giới nói chung và
pháp luật thừa kế ở Việt Nam nói riêng đã không ngừng phát triển và hoàn thiện.
Trong hệ thống pháp luật Việt Nam, sau Hiến pháp 1992, Bộ Luật Dân sự
chiếm vị trí đặc biệt quan trọng, tạo lập hành lang pháp lý cho các cá nhân khi thực
hiện quyền thừa kế. Được quy định tại phần thứ tư, bao gồm 4 chương, 56 điều, từ
Điều 631 đến Điều 687 của Bộ luật Dân sự năm 2005 chế định thừa kế đã tạo chuẩn
mực pháp lý cho cách ứng xử của các chủ thể khi tham gia quan hệ thừa kế, góp

phần làm lành mạnh hóa các quan hệ xã hội. Chế định quyền thừa kế trong Bộ luật
Dân sự đã kết tinh những thành tựu của khoa học pháp lý nhân loại góp phần giữ gìn
bản sắc văn hóa dân tộc, kế thừa và phát huy những phong tục tập quán truyền thống
tốt đẹp đã ăn sâu vào tiềm thức và lưu truyền qua bao đời của dân tộc Việt Nam.
Hiện nay các tranh chấp về thừa kế có xu hướng ngày càng gia tăng và trở
nên phức tạp hơn. Sự nhận thức không đầy đủ về pháp luật của các cá

1


nhân, việc áp dụng pháp luật không thống nhất giữa các cấp Tòa án là những yếu tố
làm cho các vụ kiện gặp nhiều khó khăn, thời gian giải quyết kéo dài, ảnh hưởng
không tốt đến truyền thống đạo đức tốt đẹp vốn có từ lâu đời của dân tộc Việt Nam.
Đặc biệt, một trong những khó khăn vướng mắc lớn khi áp dụng các quy định của
pháp luật để giải quyết tranh chấp thừa kế chính là vấn đề phân chia di sản thừa kế.
Trước tình hình đó, việc nghiên cứu, phân tích, kiến nghị để làm sáng tỏ một
số nội dung về " P h â n c h i a d i s ả n t h ừ a k ế t h e o q u y đ ị n h B ộ L u ậ t
D â n s ự n ă m 2 0 0 5 " để làm đề tài luận văn thạc sĩ Luật học. Đây là một đề tài có
ý nghĩa quan trọng, cấp bách cả về phương diện lý luận cũng như thực tiễn.
2. Mục tiêu nghiên cứu của đề tài
Do tầm quan trọng của vấn đề thừa kế nên nội dung này đã được rất nhiều
nhà khoa học pháp lý quan tâm, nghiên cứu. Tiến sĩ Phùng Trung Tập đã giới thiệu
với bạn đọc tác phẩm " Thừa kế theo pháp luật của công dân Việt Nam từ năm 1945
từ trước đến nay"; Tiến sĩ Nguyễn Ngọc Điện là tác giả của cuốn "Bình luận khoa
học về thừa kế trong Bộ luật dân sự Việt Nam" ; Phó giáo sư, Tiến sĩ Đinh Văn
Thanh - Trần Hữu Biền có tác phẩm " Hỏi đáp về pháp luật thừa kế" . . . Tuy nhiên,
tất cả các công trình nghiên cứu trên có phạm vi rộng, mang tính toàn diện, bao quát
cả chế định pháp luật về thừa kế, và đưa ra những kiến nghị để ngày càng hoàn thiện
hơn hệ thống pháp luật về thừa kế. Riêng với đề tài "P h â n c h i a d i s ả n t h ừ a
k ế t h e o q u y đ ị n h B ộ L u ậ t D â n s ự n ă m 2 0 0 5 ", tác giả tập trung đi sâu

nghiên cứu, làm sáng tỏ nội dung, bản chất củ a phân chia di sản thừa kế được quy
định trong hệ thống pháp luật của Việt Nam, trên cơ sở đó đưa ra một số kiến nghị
mang tính giải pháp để ngày càng hoàn thiện hơn những quy định về nội dung này
trong Luật.


3. Tính mới và những đóng góp của đề tài
Từ trước đến nay đã có rất nhiều công trình nghiên cứu liên quan đến lĩnh
vực thừa kế. Có những công trình khoa học nghiên cứu vấn đề nội dung này một
cách toàn diện, bao quát, nhưng cũng có những công trình chỉ nghiên cứu một khía
cạnh nhỏ của chế định thừa kế trong Luật. Tuy nhiên, chưa có công trình nào nghiên
cứu cụ thể về phân chia di sản thừa kế theo quy định của pháp luật dân sự hiện hành.
Đây là luận văn ở cấp độ Thạc sĩ nghiên cứu chi tiết quy định về phân chia di sản
thừa kế. Trên cơ sở đó, tác giả nghiên cứu làm sáng tỏ những quy định của pháp luật
hiện hành, tìm ra những vướng mắc còn tồn tại trên thực tế và đề xuất một số kiến
nghị góp phần hoàn thiện pháp luật về thừa kế trong Bộ Luật Dân sự.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
* Đ ố i t ư ợ n g : Các quy định của pháp luật về phân chia di sản thừa kế hiện
nay.
* P h ạ m v i : Đề tài tập trung nghiên cứu các vấn đề lý luận, bản chất quy
định của pháp luật về thừa kế nhằm làm rõ những quy định về phân chia di sản thừa
kế. Khi nghiên cứu đề tài, tác giả đã tham khảo toàn bộ các quy định hiện hành của
pháp luật nước ta về phân chia di sản thừa kế gắn với nghiên cứu các sách chuyên
khảo và những tài liệu liên quan đến vấn đề này.
5. Nội dung và phương pháp nghiên cứu
* N ộ i d u n g : Nghiên cứu các quy định của pháp luật về thừa kế nói chung,
và phân chia di sản nói riêng để đánh giá thực trạng pháp luật về thừa kế ở Việt
Nam. Trên cơ sở đó, nêu lên những quan điểm, giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật
về thừa kế ở nước ta hiện nay.
* Phương pháp.

Việc nghiên cứu luận văn dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác- Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, đường lối của Đảng và Nhà nước về pháp luật.


Đặc biệt là các quan điểm của Đảng và Nhà nước về thừa kế trong thời kỳ đổi mới,
mở cửa và hội nhập.
Đề tài được hoàn thành dựa trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện chứng
và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác-Lênin. Ngoài ra, tác giả còn sử dụng một số
phương pháp khoa học chuyên ngành khác như: phương pháp logic, phương pháp
phân tích, phương pháp tổng hợp...


Chương 1
MÔT SÔ VẤN ĐẾ CHUNG VẾ PHẢN CHIA
DI SAN THỪA KẾ
1.1. Khái niệm thừa kế và quyền thừa kế
1.1.1. Khái niệm thừa kế
Khi sống, con người khai thác công dụng của tài sản để thoả mãn cho nhu cầu
của mình, khi chết, tài sản còn lại của họ được dịch chuyển cho người còn sống. Quá
trình dịch chuyển tài sản đó từ thế hệ này sang thế hệ khác được gọi là thừa kế. Nhìn
nhận một cách tổng quan thì “thừa kế là việc dịch chuyển tài sản của người đã chết
cho người còn sống”. Theo Từ điển Tiếng Việt đã định nghĩa: “Thừa kế là hưởng của
người chết để lại cho" . Về mặt nội dung thì thừa kế là quá trình dịch chuyển di sản
từ người chết cho người còn sống.
Quá trình dịch chuyển tài sản của người đã chết cho người còn sống được
hình thành ở bất cứ một xã hội nào và dĩ nhiên, khi chưa có Nhà nước và pháp luật,
thì nó được thực hiện theo tập tục xã hội nên được gọi là thừa kế. Khi Nhà nước xuất
hiện, bằng pháp luật, Nhà nước tác động đến quá trình dịch chuyển tài sản nói trên;
Trong đó, quyền để lại tài sản cũng như quyền hưởng di sản của các chủ thể được
Nhà nước ghi nhận và đảm bảo thực hiện bằng pháp luật nên từ đó, quá trình dịch

chuyển di sản được gọi là quyền thừa kế.
Nghiên cứu tiến trình phát triển của lịch sử xã hội loài người thấy rằng, từ
thời sơ khai của xã hội loài người, quan hệ sở hữu và quan hệ thừa kế đã xuất hiện
như một tất yếu khách quan, một đòi hỏi của xã hội và có mối liên quan ràng buộc,
qua lại giữa chúng với nhau. Ngay từ thời kỳ đầu hình thành chế độ cộng sản nguyên
thủy, chế độ thị tộc, bộ lạc, khi đó mọi tài sản có được của xã hội đều thuộc về thị
tộc, bộ lạc. Chế độ thị tộc, bộ lạc theo mẫu hệ đã áp đặt quyền thống trị chung đối
với cả những tài sản do những người đàn ông làm ra, mặc dù có thể một người đàn


ông trong thị tộc này là chồng của một người đàn bà, là cha của những đứa con ở thị
tộc khác. Ngoài ra, cũng trong chế độ thị tộc, bộ lạc theo mẫu hệ, các con không
thuộc thị tộc của người cha, do đó khi mà con cái chết, tài sản mà chúng làm ra cũng
không thuộc về thị tộc, bộ lạc của người cha mà thuộc về thị tộc, bộ lạc của người
mẹ.
Như vậy, chế độ thị tộc, bộ lạc theo mẫu hệ đã tạo ra mối quan hệ về quyền
kế thừa, hưởng dụng sản của các con và những người thân thuộc về huyết thống
trong thị tộc, bộ lạc của người mẹ, không thừa nhận quyền kế thừa, hưởng dụng tài
sản của các con theo người cha. Ngược lại, nếu người đàn ông chết đi thì tài sản của
họ làm ra lại thuộc thị tộc mà người mẹ của người cha đó là thành viên và những
người thân thuộc về huyết thống trong thị tộc, bộ lạc này được kế thừa, hưởng dụng
các tài sản đó.
Thừa kế nguyên thủy trong xã hội thị tộc, bộ lạc theo mẫu hệ đã đặt nền
móng ban đầu cho sự hình thành và phản ánh tính tất yếu của quan hệ thừa kế tài sản
theo huyết thống, cho dù theo huyết thống của người mẹ. Có thể nhận thấy rằng, dù
cho xã hội loài người mới chỉ phát triển ở trình độ sơ khai, quan hệ kinh tế cơ bản
cũng chưa phát triển rõ nét, nhưng trong một chừng mực nào đó khi tài sản đã có sự
dư thừa, thì việc kế thừa, hưởng dụng tài sản do các thành viên của thị tộc, bộ lạc
làm ra khi họ chết đã thể hiện như một phạm trù kinh tế, một tất yếu của xã hội.
Cùng với sự phát triển của lực lượng sản xuất, của cải xã hội ngày càng được làm ra

nhiều hơn, không những bảo đảm cho sinh hoạt và đời sống của cộng đồng thị tộc,
bộ lạc, mà còn có nhiều của cải dư thừa. Khi mà tư liệu sản xuất đóng vai trò quan
trọng trong quá trình làm ra của cải vật chất và quan hệ xã hội cũng có sự phân hóa...
thì việc chiếm hữu tư liệu sản xuất và của cải vật chất dư thừa đã trở thành nguyên
nhân của việc phân hóa giữa các tầng lớp người trong mỗi thị tộc, bộ lạc. Sự phân
hóa này về cơ bản dựa theo mức độ, giá trị tài sản, tư liệu sản xuất mà họ chiếm hữu


được khác nhau, từ đó hình thành nên chế độ tư hữu về tài sản đối với tư liệu sản
xuất.
Chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất được xác lập đã phá vỡ tính cộng đồng của
thị tộc, bộ lạc trong việc chiếm hữu, sử dụng và định đoạt đối với tài sản chung và
đương nhiên kết quả cuối cùng của sự phân hóa này chính là việc phân chia xã hội
thành các giai cấp thống trị và bị trị. Chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất được xác lập
cũng đương nhiên phá vỡ việc kế thừa, hưởng dụng chung của thị tộc, bộ lạc đối với
tài sản của người chết để lại và như vậy việc kế thừa, hưởng dụng chung của thị tộc,
bộ lạc đối với tài sản của người chết để lại cũng không thể còn môi trường để tồn tại.
Có chế độ tư hữu về tài sản tất dẫn đến nhu cầu bảo vệ quyền tư hữu đó khi chủ sở
hữu tài sản chết.
Khi giai cấp đã xuất hiện, có giai cấp thống trị và có giai cấp bị trị, đương
nhiên đối kháng giai cấp trong xã hội là điều không tránh khỏi. Kết quả của sự đối
kháng giai cấp là nhà nước của chế độ tư hữu ra đời và trở thành công cụ chuyên chế
của giai cấp thống trị. Nhà nước của chế độ tư hữu đã phải sử dụng sức mạnh áp chế
để bảo vệ quyền, lợi ích của giai cấp mình. Song song với quyền sở hữu tài sản,
quyền thừa kế tài sản cũng được bảo vệ bằng những sức mạnh đó. Những trật tự
trong quan hệ về sở hữu tài sản nói chung và trong quan hệ về thừa kế nói riêng được
nhà nước của chế độ tư hữu thiết lập trong giai đoạn này phù hợp với tính tất yếu
khách quan, nhưng mang bản chất giai cấp sâu sắc. Quyền lợi của giai cấp thống trị
luôn được bảo vệ bằng chính những thiết chế của sức mạnh trấn áp hay sức mạnh
kinh tế.

Để duy trì những tài sản của cá nhân sau khi qua đời được chuyển dịch cho
người còn sống không phải theo phương thức đương nhiên như thời kỳ chế độ cộng
sản nguyên thủy, ngoài việc thiết lập ra một tổ chức đặc biệt để thống trị xã hội - đó
là Nhà nước, giai cấp thống trị đã ban hành pháp luật nhằm duy trì quyền lực kinh tế,
nền tảng của quyền lực chính trị từ đời này sang đời khác. Trên cơ sở chế độ tư hữu


về tài sản đã được pháp luật bảo vệ, pháp luật về thừa kế được hình hành, phát triển
như một tất yếu khách quan và là nhu cầu của xã hội có giai cấp.
Như vậy, do sự phân công lao động, ở thời kỳ này xã hội đã có nhiều biến đổi
sâu sắc. Cùng với sự phân công lao động xã hội, chăn nuôi và trồng trọt ngày càng
phát triển, năng xuất lao động ngày một nâng cao đã xuất hiện sự dư thừa sản phẩm.
Quá trình phân hoá của cải trong xã hội được hình thành và dẫn đến sự phân biệt kẻ
giàu người nghèo trong xã hội. Những người có quyền hành trong thị tộc, bộ lạc tìm
mọi thủ đoạn để chiếm hữu số của cải dư thừa đó làm của riêng. Chế độ tư hữu xuất
hiện và từ đó chế độ thị tộc, chế độ cộng sản nguyên thuỷ dần dần bị phá vỡ và hoàn
toàn tan rã, nhường chỗ cho một chế độ xã hội mà trong đó đã có sự phân hoá giai
cấp.
Nếu trước đây tổ chức thị tộc đã sinh ra từ một xã hội không biết đến mâu
thuẫn nội tại, trong đó mọi thành viên xã hội hầu như hoàn toàn “hoà tan” vào cuộc
sống cộng đồng thì xã hội mới ra đời đã có sự phân chia giai cấp, trong đó các giai
cấp có quyền lợi đối lập nhau, “luôn luôn mâu thuẫn và đấu tranh gay gắt với nhau
để bảo vệ lợi ích của giai cấp mình”. Trước bối cảnh đó, dĩ nhiên tổ chức thị tộc trở
thành bất lực trước xã hội, không thể phù hợp được nữa. Lúc này, “ xã hội đó đòi hỏi
phải có một tổ chức mới đủ sức để dập tắt cuộc xung đột công khai giữa các giai cấp
ấy, hoặc cùng lắm là để cho cuộc đấu tranh giai cấp diễn ra trong lĩnh vực kinh tế,
dưới một hình thức gọi là hợp pháp. Tổ chức đó là nhà nước và nhà nước đã xuất
hiện.”
Khi chưa xuất hiện Nhà nước, thừa kế được dịch chuyển theo phong tục, tập
quán của các thị tộc, bộ lạc, thì khi Nhà nước xuất hiện, quá trình dịch chuyển tài sản

từ một người đã chết cho người còn sống đã có sự tác động bằng ý chí của Nhà nước.
Giai cấp thống trị thông qua quyền lực nhà nước để áp dụng các phương pháp cưỡng
chế nhằm tác động đến các quan hệ xã hội làm cho các quan hệ đó phát sinh, phát
triển theo hướng có lợi cho giai cấp mình. Nghĩa là khi có Nhà nước thì mọi quan hệ


cũng như mọi sự kiện xẩy ra trong đời sống xã hội đều được pháp luật điều chỉnh.
Thừa kế trong xã hội đã có nhà nước cũng không nằm ngoài sự điều chỉnh của pháp
luật.
Quan hệ pháp luật về thừa kế có tính khả biến. Tính khả biến được thể hiện
bằng các quy phạm pháp luật, mà các quy phạm này không những phụ thuộc vào sự
thay đổi của quan hệ sở hữu trong các chế độ xã hội khác nhau, mà còn phụ thuộc
vào mức độ phát triển trong một chế độ xã hội nhất định, nghĩa là trong mỗi giai
đoạn phát triển kinh tế - xã hội của chế độ xã hội đó pháp luật cũng có quy định khác
nhau trong việc điều chỉnh mối quan hệ về thừa kế. Quan hệ thừa kế khi đó không
những là phạm trù pháp luật, mà còn được hiểu như là một phạm trù lịch sử, bởi vì
nó thể hiện rõ nét sự phát triển kinh tế - xã hội của các chế độ xã hội khác nhau và
của một chế độ xã hội trong từng giai đoạn phát triển nhất định.
Với những phân tích trên đây, quan hệ thừa kế cần được hiểu là một loại quan
hệ pháp luật phát sinh từ sự kiện chết của một cá nhân - chủ sở hữu tài sản và khi có
người thừa kế thực hiện quyền thừa kế của họ, theo đó tài sản và quyền sở hữu tài
sản (di sản) của người chết được chuyển giao cho người (cá nhân hoặc tổ chức) thừa
kế.
1.1.2. Khái niệm quyền thừa kế
Quyền thừa kế là một chế định của ngành luật dân sự bao gồm một tổng hợp
các quy phạm pháp luật do Nhà nước đặt ra hoặc thừa nhận nhằm điều chỉnh quá
trình dịch chuyển những lợi ích vật chất từ người chết cho những người còn sống
khác.
Việc ghi nhận và xác định các quyền, nghĩa vụ nói trên không phải hoàn toàn
do ý chí chủ quan tuyệt đối của giai cấp lãnh đạo xã hội, dù rằng pháp luật là ý chí

của giai cấp đó. Bằng ý chí chủ quan của mình trên cơ sở dựa vào điều kiện vật chất
của xã hội, Nhà nước ta đã ghi nhận các quyền cũng như xác định các nghĩa vụ trong
lĩnh vực thừa kế cho các cá nhân và các chủ thể khác.


Pháp luật của bất kỳ nhà nước nào cũng phải xuất phát từ cơ sở kinh tế, phù
hợp với thực tế khách quan và do cơ sở kinh tế của xã hội quyết định. Khi chế độ
kinh tế thay đổi sẽ dẫn đến sự thay đổi tương ứng trong sự quy định của pháp luật. Vì
vậy, dẫu rằng pháp luật là ý chí của Nhà nước (do Nhà nước đặt ra) nhưng nó vẫn
mang tính khách quan. Như vậy, khi xem xét quyền thừa kế dưới góc độ một chế
định pháp luật thì có nghĩa là xem xét, nhìn nhận ở phương diện khách quan. Ngoài
ra, quyền thừa kế còn được xem xét ở một phương diện khác, phương diện chủ quan.
- Về phương diện khách quan, quyền thừa kế được hiểu là tổng hợp các quy
định pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong việc chuyển dịch tài sản
và quyền sở hữu tài sản (di sản) của người chết cho người còn sống, đồng thời bảo vệ
quyền của người để lại tài sản và quyền của người hưởng thừa kế di sản.
Mặc dù, mỗi thời kỳ pháp luật thừa kế của nước ta có những quy định khác
nhau, nhưng bản chất của các quy định pháp luật thừa kế của nước ta không những
bảo đảm quyền tự do cá nhân trong việc thể hiện ý chí của mình, mà còn kết hợp hài
hòa với những truyền thống tốt đẹp trong nhân dân được thể hiện trong quan hệ gia
đình, trong dòng tộc và quan niệm về đạo đức mang nội dung mới.
Cùng với việc tôn trọng ý chí của cá nhân người có tài sản trong việc lập di
chúc để định đoạt tài sản của họ sau khi họ chết, chế định thừa kế trong
Bộ luật Dân sự còn ghi nhận quyền của vợ chồng trong việc lập di chúc để định đoạt
tài sản chung của họ và các quy định có liên quan đến di chúc chung đó, như vấn đề
về sửa đổi, bổ sung, thay thế, hủy bỏ di chúc chung và hiệu lực pháp luật của di chúc
chung của vợ chồng. Đây là điểm mới trong chế định thừa kế mà Bộ luật Dân sự quy
định so với chế định thừa kế quy định trong Pháp lệnh thừa kế và cũng là điểm khác
biệt của pháp luật thừa kế Việt Nam so với pháp luật thừa kế của các nước khác. Nó
phản ánh đầy đủ quyền bình đẳng của vợ chồng trong quan hệ hôn nhân Xã hội chủ

nghĩa mà Luật Hôn nhân và Gia đình đã quy định.


Ngoài việc mở rộng quyền lập di chúc để cá nhân định đoạt tài sản của mình
sau khi chết, thừa kế theo quan hệ huyết thống vẫn được duy trì và theo đó số người
thuộc diện thừa kế theo pháp luật cũng được mở rộng theo từng thời kỳ phát triển
kinh tế - xã hội của đất nước. Từ Pháp lệnh thừa kế, pháp luật đã thừa nhận hàng
thừa kế thứ ba, không còn những tư tưởng bảo vệ quyền thừa kế của những người có
quan hệ huyết thống theo quan niệm đích tử, đích tôn, đồng tông, đồng tộc... như
trong pháp luật thừa kế dưới thời thực dân, phong kiến trước đây. Pháp luật thừa kế
của chế độ mới đã kết hợp hài hòa việc bảo vệ quyền lợi của những người có quan hệ
huyết thống, quan hệ hôn nhân và quan hệ nuôi dưỡng với người để lại di sản trong
việc xác định người thừa kế theo diện và các hàng thừa kế. Quan hệ hôn nhân và
quan hệ nuôi dưỡng được đặt ngang hàng với quan hệ huyết thống trong việc xác
định các hàng thừa kế trong số những người thuộc diện thừa kế theo pháp luật. Đây
là điểm khác biệt cơ bản của pháp luật thừa kế dưới chế độ mới ở nước ta so với các
quy định thừa kế dưới chế độ thực dân, phong kiến.
Dưới chế độ mới, quan hệ hôn nhân được coi trọng theo nguyên tắc vợ chồng
bình đẳng trong việc để lại di sản và quyền thừa kế tài sản của nhau khi một bên chết
trước. Người vợ góa hoặc người chồng góa có quyền thừa kế theo pháp luật cùng
hàng với cha, mẹ và các con của người để lại di sản. Đây là một nét khác biệt cơ bản
của pháp luật thừa kế Việt Nam so với pháp luật thừa kế của một số nước trong khu
vực và trên thế giới.
Quyền thừa kế về phương diện khách quan còn được thể hiện ở việc pháp luật
bảo đảm cho công dân có quyền bình đẳng trong việc hưởng di sản thừa kế, không
phân biệt giới tính, già trẻ, có năng lực hành vi dân sự hay không có năng lực hành vi
dân sự.
- Về phương diện chủ quan, quyền thừa kế được hiểu là quyền dân sự cơ bản
của công dân được để lại tài sản của mình cho những người còn sống và quyền của
công dân được nhận di sản theo sự định đoạt của người có tài sản (bằng di chúc)



hoặc theo một trình tự và thủ tục pháp luật nhất định (thừa kế theo pháp luật). Theo
phương diện này thì mọi công dân đều có quyền như nhau trong việc để lại tài sản
của mình cho những người thừa kế và đều có quyền như nhau trong việc nhận di sản
thừa kế do người khác để lại. Tuy nhiên, quyền thừa kế của công dân do pháp luật
quy định chỉ là khả năng khách quan để công dân thực hiện quyền để lại di sản và
hưởng di sản thừa kế phù hợp với những quy định của pháp luật. Quyền thừa kế
được bảo đảm khi một người được xác định có quyền thừa kế hợp pháp hoặc theo di
chúc hoặc theo pháp luật, nhưng trên thực tế, quyền của người thừa kế hoặc không
được thực hiện đầy đủ hoặc không thực hiện được do di sản không còn đầy đủ hay
hoàn toàn không còn để chia cho những người thừa kế...
Quyền định đoạt tài sản bằng di chúc của cá nhân được pháp luật ưu tiên bảo
vệ thực hiện. Khi cá nhân thực hiện quyền thừa kế của mình bằng việc lập di chúc,
thì quyền định đoạt ý chí của người lập di chúc phải phù hợp với pháp luật và không
trái đạo đức xã hội.
Pháp luật quy định, cá nhân có quyền định đoạt tài sản của mình bằng việc
lập di chúc để lại tài sản cho những người thừa kế theo ý chí của họ, ý chí của người
định đoạt tài sản bằng di chúc được pháp luật bảo hộ, nhưng không phải được bảo hộ
một cách tuyệt đối. Bằng việc quy định và bảo vệ quyền của những người thừa kế
không phụ thuộc vào nội dung của di chúc (bao gồm cha, mẹ, vợ, chồng, các con vị
thành niên của người để lại di sản và các con tuy đã trưởng thành nhưng không có
khả năng lao động), pháp luật nước ta đã thể hiện rõ bản chất nhân đạo của pháp luật
Xã hội chủ nghĩa, không thể chấp nhận việc người lập di chúc tự do định đoạt tài sản
của họ mà truất quyền thừa kế của những người mà theo quy định của pháp luật họ
phải được người lập di chúc thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng theo quy định của Luật
Hôn nhân và Gia đình.
Quyền của người hưởng di sản cũng thấy những đặc thù riêng của pháp luật
thừa kế ở nước ta từ năm 1945 đến nay. Quyền của người hưởng di sản được bảo



đảm khi "người thừa kế là cá nhân phải là người còn sống vào thời điểm mở thừa kế
hoặc sinh ra và còn sống sau thời điểm mở thừa kế nhưng đã thành thai trước khi
người để lại di sản chết" [6, Đ. 638].
Quyền thừa kế của công dân còn được pháp luật bảo vệ trong những trường
hợp riêng biệt khác như thừa kế thế vị, thừa kế giữa con riêng với cha kế, mẹ kế...
khi thỏa mãn các điều kiện do pháp luật quy định. Người thừa kế theo di chúc hoặc
theo pháp luật đều có quyền hưởng di sản và quyền từ chối hưởng di sản. Người thừa
kế hưởng di sản là những người có quyền và nghĩa vụ liên quan đến di sản thừa kế và
trong phạm vi giá trị di sản thừa kế. Người thừa kế có quyền từ chối nhận di sản theo
thời hạn, hình thức pháp luật đã quy định [6, Đ. 645].
Quyền định đoạt của người thừa kế được pháp luật bảo hộ trong việc từ chối
hưởng di sản, nếu việc từ chối đó không nhằm mục đích trốn tránh việc thực hiện
nghĩa vụ tài sản của người đó đối với người khác [6, Đ. 645].
Quyền thừa kế của công dân còn quy định những người thừa kế (kể cả thừa
kế theo di chúc và thừa kế theo pháp luật) không được hưởng di sản do đã có hành vi
trái pháp luật mà hành vi đó là nguyên nhân làm triệt tiêu quyền thừa kế. Những
người bị pháp luật tước quyền thừa kế chỉ được thừa kế trong trường hợp người để
lại di sản đã biết hành vi trái pháp luật của người đó, nhưng vẫn cho họ hưởng di sản
theo di chúc [6, Đ. 646]. Quyền thừa kế còn bị triệt tiêu trong trường hợp những
người có quyền thừa kế của nhau cùng chết vào một thời điểm.
Với những phân tích trên đây, có thể xác định rằng: Quyền thừa kế là một
phạm trù pháp luật phản ánh quan hệ kinh tế - xã hội nói chung và lịch sử phát triển
kinh tế xã hội nói riêng, nó xuất hiện và tồn tại cùng với sự xuất hiện và phát triển
của xã hội có phân chia giai cấp dựa trên cơ sở tư hữu về tài sản (từ chế độ chiếm
hữu nô lệ đến xã hội hiện đại ngày nay). Với tư cách là một phạm trù pháp luật, thừa
kế chính là sự chuyển dịch tài sản và quyền sở hữu tài sản của cá nhân người đã chết


cho những người còn sống theo điều kiện, hình thức, trình tự và thủ tục do pháp luật

quy định.
1.2. Khái niệm di sản thừa kế và cơ cấu của di sản thừa kế
1.2.1. Khái niệm di sản thừa kế
Từ xa xưa người Việt Nam ta đã có truyền thống lao động cần cù, chịu
thương chịu khó dành dụm chắt chiu cho con cháu, điều đó thể hiện tình cảm gia
đình và trách nhiệm của thế hệ trước đối với thế hệ sau. Khi người cha, người mẹ về
nơi suối vàng họ để lại gia tài cho con cái kế tục. Để nói về những gì đời trước,
người trước để lại cho đời sau, người sau người ta sử dụng thuật ngữ “ d i s ả n ” .
Di sản là toàn bộ tài sản có giá trị vật chất hoặc giá trị tinh thần cùng với các
nghĩa vụ về tài sản được lưu truyền, tiếp nối từ thế hệ này sang thế hệ khác, từ đời
này sang đời khác, được bảo hộ về mặt pháp lý [2. Tr 21].
Thuật ngữ “ d i s ả n ” được sử dụng khá phổ biến trong nhiều lĩnh vực của
đời sống. Song, trong từng lĩnh vực cụ thể như: văn hóa - xã hội, kinh tế... thì thuật
ngữ này lại được hiểu với những nghĩa khác nhau. Trên lĩnh vực pháp luật, thuật ngữ
di sản được các nhà làm Luật sử dụng để chỉ di sản thừa kế trong pháp luật Dân sự.
Nó được hiểu như phần tài sản thuộc sở hữu hợp pháp của người chết để lại cho
những người còn sống khác.
Ở Việt Nam từ trước đến nay chưa có một văn bản pháp luật nào đưa ra định
nghĩa thế nào là di sản thừa kế mà chỉ liệt kê về di sản thừa kế. Điều 634 Bộ luật Dân
sự năm 2005 quy định: “Di sản bao gồm tài sản riêng của người chết, phần tài sản
của người chết trong tài sản chung với người khác”. Mà: “Tài sản bao gồm vật, tiền,
giấy tờ có giá và các quyền tài sản” (Điều 163 Bộ luật Dân sự năm 2005). Như vậy,
di sản có thể là hiện vật, tiền, giấy tờ trị giá được thành tiền, quyền tài sản thuộc sở
hữu của người để lại di sản.
Khi xem xét về vấn đề di sản thừa kế hiện nay còn nhiều quan điểm khác
nhau, cụ thể là:


- Quan điểm thứ nhất: Di sản thừa kế bao gồm các tài sản và các nghĩa vụ tài
sản của người chết để lại. Tức là, người để lại di sản thừa kế khi còn sống ngoài

những tài sản mà họ có thì còn có các khoản nợ (nghĩa vụ tài sản) khác. Những nghĩa
vụ này phát sinh từ các quan hệ dân sự như: nghĩa vụ bồi thường thiệt hại, nghĩa vụ
trả nợ trong hợp đồng vay, nghĩa vụ trả tiền thuê nhà... Các nghĩa vụ về tài sản họ để
lại khi chết đi sẽ được dịch chuyển cho những người thừa kế thực hiện đồng thời với
việc dịch chuyển các tài sản. Pháp luật nói chung và pháp luật thừa kế Việt Nam nói
riêng trong thời kỳ phong kiến phổ biến với quan điểm này vì luật tục “phụ trái tử
hoàn”. Người thừa kế sẽ phải thực hiện việc thanh toán nợ của người chết để lại kể
cả trong trường hợp tài sản của người chết để lại không đủ để trả hết nợ và phải chịu
trách nhiệm vô hạn với nghĩa vụ đó. Quan điểm này đã không còn phù hợp với sự
phát triển của đất nước, cho thấy sự bất công của chế độ cũ, chế độ bóc lột người dân
của bọn cường hào, địa chủ. Quy định của Sắc lệnh số 97/SL ngày 22/5/1950 đã xóa
bỏ quy lệ bất công này.
- Quan điểm thứ hai: Di sản thừa kế chỉ bao gồm các tài sản của người chết để
lại mà không bao gồm các nghĩa vụ tài sản. Đây là quan điểm phù hợp với những
quy định của Bộ luật Dân sự năm 1995 và Bộ luật Dân sự năm 2005. Vì thừa kế là
thừa hưởng của cải của người đã khuất. Theo từ điển Tiếng Việt, thì thừa kế được
định nghĩa là: “ hưởng của người chết để lại cho ” [11, Tr 972]. Với ý nghĩa này thì
không thể nói người thừa kế “ được hưởng nghĩa vụ tài sản ” hay “ được hưởng các
tài sản nợ". Những “giá trị” không mang đến lợi ích cho người tiếp nhận thì không
được coi là di sản.Vì vậy, không thể coi các nghĩa vụ là được thừa hưởng.
Mặt khác, về phương diện đạo đức truyền thống, theo suy nghĩ của người Việt
Nam cha mẹ sinh con thì có nghĩa vụ chăm lo, nuôi nấng con nên người. Những việc
làm mang tính “bổn phận” không chỉ là trong hiện tại mà còn cho cả tương lai sau
này của người con, tạo ra “tiền đề vật chất” ban đầu cho con, cho cháu. Người con,
người cháu được thừa hưởng tài sản khi cha mẹ chết đi, dựa vào đó mà làm ăn phát


triển cuộc sống và sau này lại tích lũy tài sản cho con cái của họ. Và tất nhiên những
tài sản mà người chết để lại cho người được hưởng phải thuộc quyền sở hữu của họ,
không trái với các quy định của pháp luật. Quyền thừa kế và quyền sở hữu có mối

quan hệ mật thiết với nhau. Do tính chất vĩnh viễn và tuyệt đối của quyền sở hữu mà
nguyên tắc liên tục của việc đảm nhận tư cách chủ sở hữu đối với tài sản được đặt ra:
“ Thừa kế là việc dịch chuyển tài sản của người chết sang cho những người còn
sống khác” [2. Tr 33]. Như vậy, với ý nghĩa trên thì di sản chỉ là tài sản của người
chết mà không bao gồm các nghĩa vụ về tài sản.
Về phương diện pháp luật thì: “Những người hưởng thừa kế có trách nhiệm
thực hiện nghĩa vụ tài sản trong phạm vi di sản do người chết để lại...” (Khoản 1
Điều 637 Bộ luật Dân sự năm 2005). Cùng với việc nhận di sản thừa kế thì người
thừa kế có trách nhiệm thanh toán các khoản nợ mà người chết để lại. Cần phải hiểu,
ở đây người thừa kế khi thực hiện nghĩa vụ tài sản do người chết để lại không phải
với tư cách là một chủ thể mới, họ không thay thế vị trí của chủ thể. Họ thực hiện
nghĩa vụ tài sản bằng tài sản của người chết. Khi thực hiện nghĩa vụ trả nợ do người
chết để lại và nhưng chi phí liên quan đến di sản thừa kế sẽ xảy ra các trường hợp:
Một là, nghĩa vụ tài sản và các chi phí khác nhỏ hơn khối tài sản mà người
chết để lại, trong trường hợp này tài sản vẫn còn để chia thừa kế.
Hai là, nghĩa vụ tài sản và các chi phí khác lớn hơn hoặc bằng đúng khối tài
sản mà người chết để lại, trong trường hợp này tài sản không còn để chia thừa kế. Và
vì thế sẽ không có quan hệ nhận di sản.
Ngoài ra, theo quy định tại Điều 642 Bộ luật Dân sự năm 2005, người thừa kế
có quyền từ chối nhận di sản. Nếu nhận di sản thì người thừa kế phải thực hiện các
nghĩa vụ tài sản do người chết để lại và ngược lại nếu họ không nhận di sản thì họ
không phải thực hiện các nghĩa vụ tài sản do người chết để lại. Rõ ràng ở đây người
thừa kế không bắt buộc phải nhận di sản để sau đó phải thực hiện các nghĩa vụ tài
sản của người chết cho chủ nợ.


Tóm lại, di sản thừa kế được hiểu là tài sản, các quyền tài sản mà người đã
chết có được một cách hợp pháp, không bao gồm các nghĩa vụ tài sản của người đó
để lại cho người hưởng thừa kế.
1.2.2. Cơ cấu của di sản thừa kế

Chế độ sở hữu, mà đặc biệt là sở hữu đất đai và các tư liệu sản xuất quan
trọng khác ở Việt Nam luôn được ghi nhận trong các Hiến pháp 1946, 1959, 1980,
1992. Tuy nhiên, do tình hình lịch sử và hoàn cảnh đất nước nên trong mỗi giai đoạn
lịch sử, hiến pháp và pháp luật Việt Nam quy định chủ thể, phạm vi, nội dung của
chế độ sở hữu tài sản không giống nhau và cơ chế thực hiện, bảo vệ các quyền sở
hữu cũng khác nhau.
Hiến pháp năm 1946: Dưới chế độ phong kiến thực dân, ruộng đất tập trung
trong tay địa chủ phong kiến, nông dân phải cày thuê cuốc mướn, cuộc sống vô cùng
khó khăn nên sau khi Cách mạng tháng Tám năm 1945 ở Việt Nam thành công, Nhà
nước Việt Nam đã ban hành Hiến pháp năm 1946 để quy định, bảo hộ các quyền
công dân của nước Việt Nam dân chủ cộng hoà mà quan trọng hơn cả là quyền sở
hữu tài sản và các quyền tài sản khác để thực hiện khẩu hiệu “Người cày có ruộng”.
Bởi, quyền sở hữu là tiền đề phát sinh các quyền kinh tế, dân sự khác như quyền
thừa kế tài sản, quyền tham gia các giao dịch... Điều 12 Hiến pháp năm 1946 ghi:
“Quyền tư hữu tài sản của công dân Việt Nam được bảo đảm ". Tài sản là quyền lợi
mà thần thánh không thể xâm phạm được, trừ khi có những nhu cầu xã hội cần thiết
và với điều kiện được bồi thường một cách thoả đáng. Quy định này của Hiến pháp
năm 1946 thật sự dân chủ, nhân quyền, xuất phát từ thực tiễn, yêu cầu nhiệm vụ của
cách mạng khi đó là: “bảo toàn lãnh thổ, giành độc lập hoàn toàn và kiến thiết quốc
gia trên nền tảng dân chủ”.
Hiến pháp năm 1959: Sau chiến thắng Điện Biên Phủ, miền Bắc Việt Nam
được giải phóng, nhân dân miền Bắc xây dựng hậu phương vững mạnh để chi viện
sức người, sức của cho đồng bào miền Nam tiếp tục thực hiện cách mạng dân tộc,


dân chủ nhân dân ở miền Nam. Để tạo cơ sở pháp lý cho các chủ thể trong các thành
phần kinh tế khác nhau trong xã hội, Nhà nước công nhận và bảo hộ quyền sở hữu
của người lao động riêng lẻ và quyền sở hữu của các nhà tư bản đối với các tư liệu
sản xuất họ đang được phép sản xuất kinh doanh. Điều 11 Hiến pháp năm 1959 quy
định: “Ở nước Việt Nam dân chủ cộng hòa trong thời kỳ quá độ, các hình thức sở

hữu chủ yếu về tư liệu sản xuất hiện nay là: hình thức sở hữu của Nhà nước tức là
của toàn dân, hình thức sở hữu của hợp tác xã tức là hình thức sở hữu tập thể của
nhân dân lao động, hình thức sở hữu của người lao động riêng lẻ, và hình thức sở
hữu của nhà tư sản dân tộc".
Khi cách mạng Việt Nam chuyển sang hình thế mới, xây dựng Chủ nghĩa xã
hội ở miền Bắc, đấu tranh giải phóng miền Nam, tiến tới thống nhất đất nước, thì
Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hoà đã phát triển và cải tạo nền kinh tế quốc dân
theo hướng Xã hội chủ nghĩa. Do vậy, Điều 12 Hiến pháp năm 1959 quy định: “Các
hầm mỏ, sông ngòi và những rừng cây, đất hoang, tài nguyên khác mà pháp luật quy
định là của Nhà nước, đều thuộc quyền sở hữu của toàn dân ". Trong thời kỳ này, xã
hội có nhiều thành kiến đối với những người làm ăn riêng lẻ, tuy vậy, pháp luật vẫn
bảo hộ quyền sở hữu đối với các tư liệu sản xuất và tài sản của họ, cho phép họ để lại
thừa kế. Các Điều 14, 15, 16, 18, 19 Hiến pháp năm 1959 quy định: “Nhà nước Việt
Nam chiếu theo pháp luật bảo hộ quyền sở hữu đất đai, các tư liệu sản xuất khác,
của cải, thu nhập hợp pháp, quyền về thừa kế tài sản tư hữu của nông dân, người
làm nghề thủ công, người lao động riêng lẻ, nhà tư sản dân tộc, công dân... ”.
Hiến pháp năm 1959 xác định chế độ sở hữu, thành phần kinh tế, nguyên tắc
quản lý nền kinh tế là chính sách kinh tế của Nhà nước Xã hội chủ nghĩa nhưng phù
hợp với điều kiện đất nước có chiến tranh. Chế độ công hữu về tư liệu sản xuất được
xác lập cùng với nó là quan hệ sản xuất Xã hội chủ nghĩa. Vì vậy, Hiến pháp năm
1959 thừa nhận sự tồn tại của bốn hình thức sở hữu chủ yếu về tư liệu sản xuất, bao
gồm sở hữu toàn dân, sở hữu hợp tác xã, sở hữu của những người lao động riêng lẻ


và sở hữu của nhà tư sản dân tộc. Nhà nước chỉ trưng mua, trưng dụng, trưng thu khi
cần thiết vì lợi ích chung nhưng có bồi thường thích đáng.
Hiến pháp năm 1980: Sau khi đất nước thống nhất, năm 1980, Nhà nước ban
hành Hiến pháp mới. Điều 19 Hiến pháp năm 1980 quy định: “Đất đai, rừng núi,
sông hồ, hầm mỏ, tài nguyên thiên nhiên trong lòng đất, ở vùng biển và thềm lục địa,
các xí nghiệp công nghiệp, nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp, thương nghiệp

quốc doanh; ngân hàng và tổ chức bảo hiểm; công trình phục vụ lợi ích công cộng;
hệ thống đường sắt, đường bộ, đường sông, đường biển, đường không; đê điều và
công trình thuỷ lợi quan trọng; cơ sở phục vụ quốc phòng; hệ thống thông tin liên
lạc, phát thanh, truyền hình, điện ảnh; cơ sở nghiên cứu khoa học, kỹ thuật, cơ sở
văn hoá và xã hội cùng các tài sản khác mà pháp luật quy định là của Nhà nước đều thuộc sở hữu toàn dân
Nếu như Hiến pháp năm 1959 ghi nhận sở hữu riêng là quyền cơ bản của
công dân thì ở Hiến pháp năm 1980, nó không còn được thừa nhận. Điều 27 của
Hiến pháp chỉ quy định: “Nhà nước bảo hộ quyền sở hữu của công dân về thu nhập
hợp pháp, của cải để dành, nhà ở, tư liệu sinh hoạt, những công cụ sản xuất dùng
trong những trường hợp được phép lao động riêng lẻ. Pháp luật bảo hộ quyền thừa
kế tài sản của công dân ”. Như vậy, Nhà nước không thừa nhận sự tồn tại của sở
hữu tư nhân và các thành phần kinh tế tương ứng, coi nó là kinh tế phi Xã hội chủ
nghĩa và tìm cách thủ tiêu. Tư duy làm chủ tập thể, bao cấp bao trùm hầu hết các quy
định của Hiến pháp năm 1980, do vậy, tuy Hiến pháp quy định cho công dân có rất
nhiều quyền, nhưng trên thực tế chỉ có một số quyền được thực hiện đối với một số
người.
Hiến pháp quy định cá nhân, hộ gia đình không có quyền sở hữu về đất đai
nhưng có quyền sử dụng khai thác đất đai, có quyền chuyển nhượng tài sản trên đất.
Nếu trên đất không có tài sản thì không có quyền chuyển nhượng quyền sử dụng đất,
kể cả việc thừa kế quyền sử dụng đất. Trường hợp người được giao đất chết thì


×