Tải bản đầy đủ (.pdf) (93 trang)

Xử lý vi phạm hành chính trong hoạt động kê biên tài sản để thi hành án dân sự từ thực tiễn tỉnh Bình Định

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (682.21 KB, 93 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN TRỌNG TÀI

XỬ LÝ VI PHẠM HÀNH CHÍNH TRONG
HOẠT ĐỘNG KÊ BIÊN TÀI SẢN ĐỂ THI HÀNH ÁN
DÂN SỰ TỪ THỰC TIỄN TỈNH BÌNH ĐỊNH

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI, năm 2018


VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN TRỌNG TÀI

XỬ LÝ VI PHẠM HÀNH CHÍNH TRONG
HOẠT ĐỘNG KÊ BIÊN TÀI SẢN ĐỂ THI HÀNH ÁN
DÂN SỰ TỪ THỰC TIỄN TỈNH BÌNH ĐỊNH

Chuyên ngành : Luật Hiến pháp và Luật Hành chính
Mã số
:
838.01.02

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC



NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS. VŨ THƯ

HÀ NỘI, năm 2018


LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành khóa học và Luận văn Thạc sỹ của mình, trước hết em
xin gửi lời cảm ơn chân thành tới Ban Giám đốc, các khoa, phòng, thầy cô
giáo Học viện Khoa học Xã hội đã nhiệt tình truyền đạt những kiến thức quý
báu cho em trong suốt quá trình học tập và hoàn thành Luận văn Thạc sỹ.
Em xin trân trọng cám ơn PGS. TS. Vũ Thư - Thầy hướng dẫn khoa
học, đã tận tình giúp đỡ em hoàn thành Luận văn này.


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan rằng số liệu và kết quả nghiên cứu trong Luận văn
Thạc sỹ Luật học “Xử lý vi phạm hành chính trong hoạt động kê biên tài sản
để thi hành án dân sự từ thực tiễn tỉnh Bình Định” là hoàn toàn trung thực và
không trùng lặp với các đề tài khác trong cùng lĩnh vực. Các thông tin, tài liệu
trình bày trong luận văn đã được ghi rõ nguồn gốc. Luận văn này là công trình
nghiên cứu của cá nhân tôi dưới sự hướng dẫn khoa học của PGS. TS. Vũ Thư.
Tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm về lời cam đoan này.
Tác giả luận văn

Nguyễn Trọng Tài


MỤC LỤC

MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ XỬ
LÝ VI PHẠM HÀNH CHÍNH TRONG HOẠT ĐỘNG KÊ BIÊN TÀI
SẢN ĐỂ THI HÀNH ÁN ................................................................................ 7
1.1. Khái niệm, đặc điểm và vai trò của xử lý vi phạm hành chính trong
hoạt động kê biên tài sản để thi hành án dân sự ................................................ 7
1.2. Các yếu tố cấu thành xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực kê biên
tài sản để thi hành án dân sự ........................................................................... 15
1.3. Các yếu tố tác động đến hoạt động xử lý vi phạm hành chính trong
hoạt động kê biên tài sản để thi hành án dân sự.............................................. 30
CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG XỬ LÝ VI PHẠM HÀNH CHÍNH
TRONG HOẠT ĐỘNG KÊ BIÊN TÀI SẢN ĐỂ THI HÀNH ÁN DÂN
SỰ TỈNH BÌNH ĐỊNH ................................................................................. 37
2.1. Các đặc điểm của xử lý vi phạm hành chính trong hoạt động kê biên
tài sản để thi hành án dân sự tại tỉnh Bình Định ............................................. 37
2.2. Quy định pháp luật hiện hành về xử lý vi phạm hành chính trong hoạt
động kê biên tài sản để thi hành án dân sự...................................................... 42
2.3. Thực tiễn xử lý vi phạm hành chính trong hoat động kê biên tài sản để
thi hành án dân sự tại tỉnh Bình Định ............................................................. 45
CHƯƠNG 3. QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ
XỬ LÝ VI PHẠM HÀNH CHÍNH TRONG HOẠT ĐỘNG KÊ BIÊN
TÀI SẢN ĐỂ THI HÀNH ÁN DÂN SỰ ...................................................... 64
3.1. Nhu cầu nâng cao hiệu quả xử lý vi phạm hành chính trong hoạt động
kê biên tài sản để thi hành án dân sự ............................................................... 64
3.2. Quan điểm nâng cao hiệu quả xử lý vi phạm hành chính trong hoạt
động kê biên tài sản để thi hành án dân sự...................................................... 66


3.3. Giải pháp nâng cao hiệu quả xử lý vi phạm trong hoạt động kê biên tài
sản để thi hành án dân sự ................................................................................ 68

KẾT LUẬN .................................................................................................... 80
TÀI LIỆU THAM KHẢO


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
Chữ viết tắt

Chữ viết đầy đủ

CHV

Chấp hành viên

QLHCNN

Quản lý hành chính nhà nước

QLNN

Quản lý Nhà nước

TA

Tòa án

TAND

Tòa án nhân dân

THADS


Thi hành án dân sự

UBND

Ủy ban nhân dân

VKSND

Viện kiểm sát nhân dân

XLVPHC

Xử lý vi phạm hành chính

XHCN

Xã hội chủ nghĩa


DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 2.1. Tổng số vụ việc bị áp dụng biện pháp cưỡng chế kê biên tài sản
của người phải thi hành án từ năm 2015 – 2017 ............................................. 40
Bảng 2.2. Số vụ việc vi phạm và số đối tượng bị xử phạt vi phạm hành
chính từ năm 2015 đến 2017 ........................................................................... 49
Bảng 2.3. Kết quả thi hành Quyết định xử phạt vi phạm hành chính từ năm
2015 đến năm 2017 ......................................................................................... 50
Bảng 2.4. Tổng số Quyết định XPVPHC và số tiền xử phạt từ năm 2015
đến 2017 .......................................................................................................... 59



MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Một trong những nhiệm vụ quan trọng hàng đầu đối với công cuộc đổi
mới của Đảng và Nhà nước là tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp
quyền XHCN Việt Nam, thực sự của dân, do dân, vì dân; vì mục tiêu dân
giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Nói đến Nhà nước
pháp quyền là nói đến phương thức tổ chức quyền lực nhà nước, trong đó vai
trò của pháp luật trực tiếp thể hiện ý chí của Nhà nước, kết tinh quyền lực của
nhân dân; pháp luật phải được tôn trọng và bảo đảm thực hiện. Vì vậy, yêu
cầu hàng đầu là phải coi trọng pháp luật và pháp chế trong quản lý xã hội,
QLNN, pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh.
Hiến pháp năm 2013, tại Điều 106 khẳng định: “Bản án, quyết định của
Tòa án nhân dân có hiệu lực pháp luật phải được cơ quan, tổ chức, cá nhân
tôn trọng; cơ quan, tổ chức, cá nhân hữu quan phải nghiêm chỉnh chấp hành”
[37]. Đây chính là thể hiện của đòi hỏi thượng tôn pháp luật, bảo đảm pháp
chế trong Nhà nước pháp quyền XHCN. Hoạt động THADS có một ý nghĩa
quan trọng thực hiện quy định Hiến pháp và trực tiếp góp phần giữ vững kỷ
cương phép nước, bản án, quyết định của TA và các quyết định của cơ quan
tài phán khác được thi hành nghiêm chỉnh chính là lúc công lý được thực hiện
trong cuộc sống.
Thực trạng công tác xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực Thi hành
án nói chung và trong hoạt động kê biên tài sản để thi hành án dân sự nói
riêng, ở nước ta trong những năm qua, bên cạnh những kết quả đã đạt được,
vẫn còn một số tồn tại như: Thực tiễn, khi phát hiện hành vi vi phạm hành
chính trong hoạt động THADS, một số người có thẩm quyền còn nhiều lúng
túng khi áp dụng các quy định của pháp luật để xử phạt. Trong khi đó, ý thức
chấp hành pháp luật của một bộ phận những người phải thi hành án và người
1



có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong các hoạt động THADS, nhất là trong
hoạt động kê biên tài sản để thi hành án dân sự còn chưa cao; tại nhiều địa
phương, đã để xảy ra tình trạng chống đối cơ quan thi hành án dân sự bằng
nhiều hình thức như tẩu tán hoặc làm hư hỏng tài sản thuộc diện kê biên để
không thực hiện nghĩa vụ thi hành án, thậm chí là phá huỷ niêm phong, huỷ
hoại tài sản đã kê biên... Thực tế đó đã chứng tỏ vi phạm hành chính trong
lĩnh vực này hàng năm không những chưa giảm mà còn có xu hướng ngày
càng nhiều hơn và phức tạp hơn.
Mặt khác, thực tế cho thấy, các qui định về XPVPHC trong hoạt động
kê biên tài sản để thi hành án dân sự thời gian qua vẫn chưa phát huy hiệu
quả, việc phòng ngừa, xử lý vi phạm vẫn còn nhiều hạn chế, nhiều hành vi vi
phạm trong THADS diễn ra phổ biến nhưng chưa được xử lý kịp thời. Người
có thẩm quyền xử lý vi phạm hành chính của cơ quan THADS còn “ngại”
việc xử phạt vi phạm hành chính, chưa nêu cao tinh thần trách nhiệm trong
việc xử phạt. Thống kê cho thấy một số địa phương trong nhiều năm không
thực hiện việc XPVPHC trong hoạt động kê biên tài sản để thi hành án dân
sự; Chấp hành viên và các cơ quan THADS không thực hiện việc XPVPHC
hoặc né tránh XPVPHC do ngại phải tổ chức thi hành quyết định XPVPHC.
Nhiều hành vi vi phạm xảy ra thường xuyên nhưng rất ít khi bị xử lý hành
chính, điển hình như những hành vi: Đã nhận giấy báo, giấy triệu tập lần thứ
hai nhưng không đến địa điểm mà không có lý do chính đáng, không cung cấp
thông tin, không thực hiện quyết định khấu trừ thu nhập của người có thẩm
quyền… Ngoài ra còn có quan điểm còn cho rằng nếu ra quyết định XPVPHC
thì việc xử phạt không có tính khả thi, số tiền phải thi hành tăng dẫn đến
người phải thi hành án sẽ tiếp tục chống đối, cản trở việc thi hành án, không
thực hiện quyết định XPVPHC, trong khi việc tổ chức cưỡng chế để thi hành
quyết định XPVPHC không hề dễ dàng …
Để góp phần giải pháp những đòi hỏi của thực tiễn công tác XLVPHC
2



trong hoạt động kê biên tài sản để thi hành án dân sự trên toàn quốc nói chung
và tại tỉnh Bình Định nói riêng đạt hiệu quả cao, phù hợp với tình hình thực tế
như hiện nay; tác giả lựa chọn nghiên cứu đề tài "Xử lý vi phạm hành chính
trong hoạt động kê biên tài sản để thi hành án dân sự từ thực tiễn tỉnh Bình
Định" làm đề tài luận văn thạc sỹ, chuyên ngành luật hành chính.
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài
Những năm gần đây, trước những đòi hỏi khách quan của công tác
THADS, đã có một số công trình khoa học nghiên cứu về vấn đề này, cụ thể là:
- Đề tài nghiên cứu cấp Bộ: "Mô hình quản lý thống nhất công tác thi
hành án", mã số 96-98- 027/ĐT (Cục Thi hành án dân sự - Bộ Tư pháp chủ trì
thực hiện 1996);
- Đề tài cấp Nhà nước đang thực hiện: "Luận cứ khoa học của việc đổi
mới tổ chức và hoạt động thi hành án ở Việt Nam trong giai đoạn mới", (Bộ Tư
pháp chủ trì, 2000);
- Luận văn thạc sỹ luật học của tác giả Hoàng Kim Chiếm "Quản lý nhà
nước về thi hành án dân sự" (Viện nghiên cứu Nhà nước và Pháp luật, 1997);
- Luận văn thạc sỹ luật học của tác giả Nguyễn Công Long về "Các
biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự, thực tiễn áp dụng và hướng hoàn
thiện", (Trường Đại học Luật Hà Nội, năm 2000);
- Luận văn thạc sỹ luật học của tác giả Lê Xuân Hồng về "Xã hội hóa thi
hành án dân sự ở Việt Nam", (Trường Đại học Luật Hà Nội 2002);
- Luận văn thạc sỹ luật học của tác giả Nguyễn Quang Thái về "Đổi mới
tổ chức và hoạt động thi hành án dân sự ở Việt Nam"(2003);
- Luận văn thạc sỹ luật học của tác giả Lê Anh Tuấn về "Đổi mới thủ tục
thi hành án dân sự ở Việt Nam" (Trường Đại học Luật Hà Nội, 2004);
- Luận văn tiến sỹ luật học của tác giả Nguyễn Thanh Thủy về "Hoàn
thiện pháp luật thi hành án dân sự ở Việt Nam hiện nay" (Học viện Chính trị Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, 2008);
3



- Luận văn thạc sỹ luật học của tác giả Đậu Thị Thủy "Quản lý nhà nước
về thi hành án dân sự qua thực tế ở Thanh Hóa", (Viện Nhà nước và Pháp luật,
2008);
- Luận văn thạc sỹ luật học của tác giả Nguyễn Thế Ánh về "Thực hiện
pháp luật về thi hành án dân sự qua thực tiễn tỉnh Hưng Yên” (Học viện khoa
học Xã hội, 2011);
- Luận văn thạc sỹ luật học của tác giả Trần Phương Hồng về "Hoàn thiện
pháp luật thi hành án dân sự đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp", (Học viện khoa học
Xã hội, 2012).
- Luận văn thạc sỹ luật học của tác giả Lê Văn Hữu về ”Quản lý Nhà nước về
công tác Thi hành án dân sự thực tiễn tại tỉnh Quảng Nam”, (Học viện khoa học xã
hội năm 2014).
Bên cạnh đó là Giáo trình môn Luật tố tụng dân sự, Giáo trình chuyên
ngành Luật Hành chính của trường Đại học Luật Hà Nội và các trường Đại
học có chuyên ngành luật; Sổ tay Nghiệp vụ THADS của Tổng Cục THADS
và một số bài viết đăng trên các Tạp chí Dân chủ và pháp luật, Tạp chí Luật
học, Tạp chí Nhà nước và pháp luật…
Các công trình nêu trên đã có nội dung nghiên cứu về THADS ở những
góc độ, khía cạnh và mức độ khác nhau. Tuy nhiên chưa có một công trình
nào nghiên cứu về XLVPHC trong hoạt động kê biên tài sản để thi hành án
dân sự, luận văn này tập trung nghiên cứu vấn đề đó qua thực tiễn ở tỉnh Bình
Định để đề xuất các biện pháp thực hiện có hiệu quả hơn.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn XLVPHC trong
hoạt động kê biên tài sản để thi hành án dân sự ở tỉnh Bình Định, luận văn đề
xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động XLVPHC trong lĩnh vực kê
biên tài sản để thi hành án dân sự ở tỉnh Bình Định.

4


3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để thực hiện mục đích trên, nhiệm vụ đặt ra cho luận văn là:
- Hệ thống hóa các vấn đề lý luận xung quanh hiện tượng pháp lý
XLVPHC.
- Trên cơ sở các quy định pháp luật hiện hành về XLVPHC trong hoạt
động kê biên tài sản để thi hành án dân sự và đánh giá đầy đủ, toàn diện kết
quả hoạt động XLVPHC trong hoạt động kê biên tài sản để thi hành án dân sự
và tình hình vi phạm hành chính trong lĩnh vực kê biên tài sản trên địa bàn
tỉnh Bình Định, tìm ra những hạn chế và nguyên nhân.
- Đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu lực, hiệu quả XLVPHC trong
hoạt động kê biên tài sản để thi hành án dân sự trên địa bàn tỉnh Bình Định
trong thời gian tới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn xung quanh hoạt
động XLVPHC trong hoạt động kê biên tài sản để thi hành án dân sự trên địa
bàn tỉnh Bình Định.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiêm cứu của luận văn: Chỉ tập trung nghiên cứu, phân tích
các số liệu từ các vụ vi phạm hành chính trong lĩnh vực hoạt động kê biên tài
sản để thi hành án dân sự trên địa bàn tỉnh Bình Định từ năm 2015 đến năm
2017.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận
Luận văn được thực hiện trên cơ sở lý luận của Chủ nghĩa Mác - Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh và các quan điểm của Đảng cộng sản và Nhà nước
Việt Nam về nhà nước và pháp luật; về QLNN và cưỡng chế nhà nước dưới

chủ nghĩa xã hội; về đấu tranh với vi phạm hành chính.
5


5.2. Phương pháp nghiên cứu
Các phương pháp nghiên cứu chủ yếu được sử dụng trong luận văn:
Phương pháp luật học so sánh, phương pháp xã hội học, phương pháp thống
kê, phương pháp tổng hợp ...
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
6.1. Ý nghĩa lý luận
Luận văn góp phần hệ thống các vấn đề lý luận về XLVPHC liên quan
đến khái niệm, đặc điểm của việc thực hiện, đảm bảo thực hiện và các yêu
cầu, yếu tố ảnh hưởng đến việc đảm bảo thực hiện pháp luật XLVPHC trong
hoạt động kê biên tài sản để thi hành án dân sự.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Luận văn góp phần hoàn thiện cơ chế thực hiện và bảo vệ pháp luật,
giáo dục pháp luật theo chủ trương, đường lối của Đảng. Luận văn có thể
được sử dụng làm tài liệu tham khảo để nghiên cứu xây dựng pháp luật
XLVPHC trong hoạt động kê biên tài sản để thi hành án dân sự ở Việt Nam
hiện nay; đồng thời, bổ sung những tài liệu cần thiết cho cán bộ, sinh viên
trong công tác, học tập và nghiên cứu khoa học; Luận văn có thể là tài liệu
tham khảo của các cơ quan quản lý THADS, cơ quan THADS.
7. Cơ cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục, luận văn có
cơ cấu như sau:
Chương 1. Những vấn đề lý luận về xử lý vi phạm hành chính trong
hoạt động kê biên tài sản để thi hành án.
Chương 2. Thực trạng xử lý vi phạm hành chính trong hoạt động kê
biên tài sản để thi hành án dân sự tỉnh Bình Định.
Chương 3. Quan điểm và giải pháp nâng cao hiệu quả xử lý vi phạm

hành chính trong hoạt động kê biên tài sản để thi hành án dân sự.

6


CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ XỬ LÝ VI
PHẠM HÀNH CHÍNH TRONG HOẠT ĐỘNG KÊ BIÊN TÀI SẢN
ĐỂ THI HÀNH ÁN
1.1. Khái niệm, đặc điểm và vai trò của xử lý vi phạm hành chính
trong hoạt động kê biên tài sản để thi hành án dân sự
1.1.1. Khái niệm xử lý vi phạm hành chính trong hoạt động kê biên
tài sản để thi hành án dân sự
1.1.1.1. Khái niệm về thi hành án dân sự
Để làm sáng tỏ nội hàm của khái niệm xử lý vi phạm hành chính trong
hoạt động kê biên tài sản để thi hành án dân sự, trước hết cần làm rõ khái
niệm THA và THADS. Theo từ điển Luật học thì THA là "giai đoạn kết thúc
trình tự tố tụng, là khâu cuối cùng kết thúc một vụ án được xét xử nhằm làm
cho phán quyết của toà án nhất định có hiệu lực pháp luật" [51, tr.464].
Theo GS.TS Võ Khánh Vinh, THA là một giai đoạn mang tính hành
chính - tư pháp. Bởi lẽ hoạt động THA có tính chất chính trị, pháp lý, xã hội
của nó. Về bản chất, hoạt động THA được thể hiện ở ba phương diện chủ yếu
như: xác định quyền và nghĩa vụ của các chủ thể tham gia quá trình THA;
tính đặc thù trong tổ chức và hoạt động của các cơ quan THA; đặc thù trong
các quan hệ về thủ tục THA (đây là một vấn đề có thể dẫn đến sự nhầm lẫn
với quan hệ tố tụng). Quan hệ thủ tục THA có thể bao gồm cả quan hệ tố tụng
và quan hệ khác mang tính hành chính - tư pháp, nhưng các quan hệ mang
tính hành chính tư pháp chủ yếu hơn. THA là hoạt động của cơ quan nhà
nước. Tuy nhiên, ở một số lĩnh vực, một số công việc, Nhà nước có thể xây
dựng hành lang pháp lý để thực hiện xã hội hóa hoạt động này. Đây là điểm

khác so với hoạt động tố tụng, hoạt động tố tụng mang tính quyền lực Tư
pháp, không thể xã hội hóa [49, tr.10,11].

7


Như vậy, THA có thể được hiểu là thực hiện bản án, quyết định của TA
trên thực tế. Bản án, quyết định của TA được hiểu là là văn bản pháp lý của
TA nhân danh Nhà nước tuyên tại phiên tòa, giải quyết về các vấn đề trong vụ
án hình sự, dân sự, hôn nhân và gia đình, lao động, kinh tế, hành chính. Việc
thực hiện bản án, quyết định của TA có hiệu quả, một mặt bảo đảm thực hiện
quyền tư pháp của Nhà nước, thể hiện sự tôn trọng của xã hội và công dân đối
với phán quyết của cơ quan nhân danh Nhà nước là TA, mặt khác nó là biện
pháp hữu hiệu để khôi phục các quyền, lợi ích hợp pháp của Nhà nước, tổ chức
và công dân bị xâm hại.
Từ sự phân tích ở trên, có thể THADS là hoạt động hành chính - Tư
pháp do cơ quan, tổ chức, người có thẩm quyền tiến hành theo trình tự, thủ
tục do pháp luật qui định để đưa bản án, quyết định của TA hoặc các quyết
định khác theo qui định của pháp luật, được thực hiện trên thực tế, nhằm bảo
đảm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của các công dân, tổ chức,
bảo vệ trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa.
Đối với lĩnh vực THADS, có thể hiểu THADS là thực hiện các bản án,
quyết định dân sự của TA hoặc các quyết định khác do pháp luật quy định,
trên thực tế. Về nguyên tắc, bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của
TA được những người, đơn vị liên quan, còn gọi là những người được THA
và người phải THA tự nguyện thi hành. Trường hợp các đương sự không tự
nguyện, bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật sẽ được cơ quan THADS thi
hành theo quy định của pháp luật THADS.
Các bản án, quyết định được cơ quan THADS đưa ra thi hành đó là Bản
án, quyết định dân sự; hình phạt tiền, tịch thu tài sản, truy thu tiền, tài sản thu

lợi bất chính xử lý vật chứng, tài sản, án phí và quyết định dân sự trong bản
án, quyết định hình sự; phần tài sản trong bản án, quyết định hành chính của
TA và quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh có liên quan đến tài sản của bên
phải THA của Hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh và Quyết định của Trọng tài
thương mại. Ngoài ra, pháp luật về THADS còn quy định các bản án, quyết
8


định được cơ quan THADS đưa ra thi hành, bao gồm các bản án, quyết định
đã có hiệu lực pháp luật và một số bản án, quyết định của TA tuy chưa có
hiệu lực pháp luật (có thể vẫn bị kháng cáo hoặc kháng nghị) nhưng vẫn được
đưa ra thi hành để bảo vệ quyền lợi cấp thiết của người được THA đó là, bản
án, quyết định về cấp dưỡng, trả lương, trả công lao động, trợ cấp thôi việc,
trợ cấp mất việc làm, trợ cấp mất sức lao động hoặc bồi thường thiệt hại về
tính mạng, sức khỏe, tổn thất về tinh thần, nhận người lao động trở lại làm
việc và quyết định khẩn cấp tạm thời của TA.
Có thể nói THADS là giai đoạn độc lập, giai đoạn kết thúc quá trình
bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự, bao gồm tổng hợp các hành vi
pháp lý nhằm thi hành các bản án, quyết định của TA, các quyết định của cơ
quan khác do Nhà nước quy định và có những nét đặc trưng riêng xuất phát từ
việc các bản án, quyết định được đưa ra thi hành tuy rất đa dạng, nhưng chủ
yếu là những quyết định mang tính tài sản đặc trưng của quan hệ dân sự, xuất
phát từ nguyên tắc tôn trọng quyền tự định đoạt của các đương sự trong quá
trình giải quyết tranh chấp dân sự.
Tóm lại, từ sự phân tích ở trên, “THADS là hoạt động mang tính hành
chính- Tư pháp do cơ quan THA, CHV tiến hành theo trình tự, thủ tục do
pháp luật qui định để đưa bản án, quyết định dân sự của TA hoặc các quyết
định khác theo qui định của pháp luật, được thực hiện trên thực tế, nhằm bảo
đảm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của các công dân, tổ chức,
bảo vệ trật tự pháp luật XHCN”

1.1.1.2. Khái niệm kê biên tài sản để thi hành án dân sự
Hoạt động thi hành án là công đoạn cuối cùng, bảo đảm cho bản án,
quyết định của Toà án được chấp hành, góp phần bảo đảm tính nghiêm minh
của pháp luật và pháp chế xã hội chủ nghĩa; bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp
của tổ chức, cá nhân và Nhà nước, góp phần giữ vững ổn định chính trị - xã
hội, tăng cường hiệu lực, hiệu quả của bộ máy nhà nước. Quá trình tổ chức thi

9


hành án, Chấp hành viên cơ quan Thi hành án dân sự sử dụng nhiều biện pháp
theo quy định của pháp luật, trong đó có các biện pháp cưỡng chế nói chung
và biện pháp cưỡng chế kê biên tài sản của người phải thi hành án nói riêng,
nhằm mục đích đảm bảo cho việc thi hành án, mang lại quyền và lợi ích hợp
pháp cho các bên có quyền và nghĩa vụ liên quan.
Cưỡng chế thi hành án là một biện pháp thi hành án thể hiện rõ nhất
bản chất của việc Nhà nước sử dụng quyền lực của mình mà cụ thể là thông
qua hoạt động của Chấp hành viên cơ quan Thi hành án dân sự để tác động
đến người phải thi hành án để đảm bảo hiệu lực trên thực tế của các Bản án,
quyết định đã có hiệu lực pháp luật.
Từ những nội dung phân tích trên, có thể khái niệm: Kê biên tài sản để
thi hành án dân sự là một trong các biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự,
là cơ chế thi hành án do pháp luật quy định, theo đó Chấp hành viên của Cơ
quan Thi hành án dân sự sử dụng quyền lực Nhà nước để buộc bên phải thi
hành án thi hành nghĩa vụ mà bản án, quyết định của Tòa án đã tuyên hoặc
các quyết định của cơ quan tài phán khác.
1.1.1.3. Khái niệm xử lý vi phạm hành chính trong hoạt động kê biên
tài sản để thi hành án dân sự
Vào những năm đầu của thập kỷ 90, các quy định của Pháp lệnh Xử lý
vi phạm hành chính năm 1989, sửa đổi, bổ sung 1995 và các văn bản pháp

luật có liên quan mới chỉ dừng lại ở mức quy định có tính chất định hướng
cho việc XPVPHC. Thời điểm đó, chưa có quy định chi tiết và hướng dẫn cụ
thể để tiến hành xử phạt các vi phạm hành chính trong lĩnh vực Tư pháp nói
chung, trong hoạt động THADS nói riêng.
Luật xử lý vi phạm hành chính được Quốc hội thông qua ngày
20/6/2012, có hiệu lực thi hành 01/7/2013; Nghị định số 67/2015/NĐ-CP
ngày 14/8/2015 sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 110/2013/NĐCP. Đây là văn bản tạo cơ sở pháp lý chi tiết, cụ thể nhất và trực tiếp nhất

10


hiện nay cho việc tiến hành xử phạt các hành vi vi phạm hành chính trong
hoạt động THADS.
XLVPHC trong hoạt động kê biên tài sản để thi hành án có nhiều hoạt
động vi phạm hành chính khác nhau như: Hành vi đã nhận giấy báo, giấy triệu
tập lần thứ hai của người có thẩm quyền thi hành án nhưng không đến địa
điểm ghi trong giấy báo, giấy triệu tập mà không có lý do chính đáng; hành vi
không cung cấp thông tin, không giao giấy tờ liên quan đến tài sản bị xử lý để
thi hành án theo yêu cầu của người có thẩm quyền thi hành án mà không có lý
do chính đáng; trì hoãn thực hiện nghĩa vụ thi hành án trong trường hợp có
điều kiện thi hành án; không thực hiện đúng cam kết đã thỏa thuận theo quyết
định công nhận sự thỏa thuận của Tòa án nhân dân; cung cấp chứng cứ giả
cho cơ quan Thi hành án dân sự; làm hư hỏng tài sản để không thực hiện
nghĩa vụ thi hành án hoặc để trốn tránh việc kê biên tài sản; phá hủy niêm
phong tài sản đã kê biên…
XLVPHC trong hoạt động kê biên tài sản để thi hành án dân sự bao quát
lĩnh vực rộng, nhưng thực chất chỉ là được dùng để chỉ việc xử lý vi phạm hành
chính trong hoạt động kê biên tài sản để thi hành án. Từ đó, có thể quan niệm:
Xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt động kê biên tài sản để thi
hành án là việc người có thẩm quyền xử phạt áp dụng hình thức xử phạt, biện

pháp khắc phục hậu quả đối với cá nhân, tổ chức thực hiện hành vi vi phạm
hành chính theo quy định của pháp luật về XPVPHC. XPVPHC Trong hoạt
động kê biên tài sản để thi hành án dân sự, là một trong những chế định quan
trọng của pháp luật nhằm đấu tranh phòng và chống các vi phạm hành chính,
giữ vững an ninh, trật tự an toàn xã hội, góp phần đưa các bản án, quyết định
có hiệu lực của Toàn án được thực thi trên thực tế, bảo đảm quyền và lợi ích
hợp pháp cho cá nhân, tổ chức.
1.1.2. Đặc điểm của xử lý vi phạm hành chính trong hoạt động kê
biên tài sản để thi hành án dân sự
XLVPHC trong hoạt động kê biên tài sản để thi hành án dân sự có các
11


đặc điểm như sau:
Thứ nhất, XLVPHC là việc áp dụng trách nhiệm pháp lý do Nhà nước
quy định đối với các loại vi phạm pháp luật khác nhau tuỳ theo tính chất, mức
độ của vi phạm và được Nhà nước bảo đảm thực hiện. Cưỡng chế hành chính
là biện pháp cưỡng chế Nhà nước do cơ quan, người có thẩm quyền quyết
định áp dụng đối với cá nhân, tổ chức có hành vi vi phạm hành chính hoặc đối
với một số cá nhân, tổ chức nhất định nhằm mục đích ngăn chặn hay phòng
ngừa, vì lý do an ninh quốc phòng hoặc vì lợi ích quốc gia.
Thứ hai, XLVPHC là việc áp dụng trách nhiệm hành chính (bao gồm
xử phạt vi phạm hành chính, các biện pháp khắc phục hậu quả) đối với đối
tượng vi phạm hành chính do chủ thể nhất định áp dụng theo trình tự, thủ tục
được pháp luật quy định. Chủ thể có thẩm quyền áp dụng các chế tài xử phạt
hành chính hoặc các biện pháp xử lý hành chính là những chức danh thuộc cơ
quan hành chính Nhà nước do pháp luật quy định cụ thể. Vi phạm hành chính
mức độ nguy hiểm cho xã hội thấp hơn tội phạm, do đó các biện pháp, chế tài
áp dụng có mức độ nghiêm khắc thấp hơn.
Thứ ba, việc áp dụng pháp luật về xử phạt vi phạm pháp luật hành chính

trong hoạt động kê biên tài sản để thi hành án dân sự do nhiều cơ quan, nhiều
người có thẩm quyền thực hiện (ví dụ như: Tổng Cục trưởng cục Thi hành án
dân sự - Bộ Tư pháp; Thanh tra viên, người được giao thực hiện nhiệm vụ
thanh tra chuyên ngành về công tác Thi hành án dân sự; Cục trưởng Cục Thi
hành án, Chi cục trưởng Chi cục Thi hành án cấp huyện, Chấp hành viên ...).
Thứ tư, đối tượng bị XLVPHC bao gồm cá nhân, tổ chức đã cố ý hoặc
vô ý vi phạm pháp luật về QLNN. Như vậy, đối tượng bị áp dụng xử lý hành
chính có thể là cá nhân hoặc tổ chức đã thực hiện vi phạm hành chính (cũng
có thể là pháp nhân đối với việc xử lý vi phạm pháp luật dân sự, như quy định
về trách nhiệm dân sự đối với pháp nhân). Trong khi đó, đối tượng bị xử lý do
vi phạm pháp luật hình sự chỉ là cá nhân. Đối tượng bị XLVPHC trong hoạt
động kê biên tài sản để thi hành án dân sự là các cá nhân, tổ chức đã cố ý hoặc
12


vô ý vi phạm pháp luật về QLNN trong lĩnh vực Thi hành án dân sự
Thứ năm, Pháp luật quy định hành vi đó phải bị xử phạt vi phạm hành
chính. Việc XLVPHC được thực hiện theo một trình tự, thủ tục riêng do pháp
luật hành chính quy định. Các loại xử lý vi phạm pháp luật khác cũng theo
trình tự, thủ tục riêng tương ứng đối với mỗi loại xử lý vi phạm pháp luật (Ví
dụ, trình tự, thủ tục áp dụng xử lý vi phạm pháp luật hình sự được thực hiện
theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Trình tự, thủ tục áp dụng xử lý vi
phạm pháp luật dân sự được thực hiện theo quy định của Bộ luật tố tụng dân
sự. Đối với việc XLVPHC trong lĩnh vực Thi hành án dân sự thì được thực
hiện theo Luật xử lý vi phạm hành chính 2012 và Nghị định số 110/2013/NĐCP ngày 24 tháng 9 năm 2013 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành
chính trong lĩnh vực bổ trợ tư pháp, hành chính tư pháp, hôn nhân và gia đình,
thi hành án dân sự, phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã có hiệu lực kể từ ngày
11 tháng 11 năm 2013, được sửa đổi, bổ sung bởi Nghị định số: 67/2015/NĐCP ngày 14 tháng 8 năm 2015 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều
của Nghị định số 110/2013/NĐ-CP;
1.1.3. Vai trò của xử lý vi phạm hành chính trong hoạt động kê biên

tài sản để thi hành án dân sự
XLVPHC có vai trò hết sức quan trọng, vì nó là phương tiện, công cụ
không thể thiếu để duy trì, bảo vệ trật tự xã hội (trong đó có trật tự, an toàn
giao thông), tạo điều kiện và định hướng cho sự phát triển xã hội. Vai trò của
XLVPHC trong lĩnh vực hoạt động kê biên tài sản để thi hành án dân sự, thể
hiện trên những điểm sau:
Thứ nhất, XLVPHC có vai trò quan trọng trong việc bảo vệ các quy
tắc, trong hoạt động kê biên tài sản để thi hành án dân sự, được xác định trong
các quy phạm pháp luật hành chính. Ví dụ: Hành vi vi phạm quy định trong
hoạt động thi hành án dân sự, được quy định tại Điều 52 Nghị định số
67/2015/NĐ-CP ngày 14/8/2015 Nghị định sửa đổi, bổ sung một số điều của
Nghị định số 110/2013/NĐ-CP ngày 14/9/2013 của Chính phủ quy định xử
13


phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bổ trợ Tư pháp, hành chính tư pháp,
hôn nhân và gia đình, Thi hành án dân sự, phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã,
với rất nhiều hình thức khác nhau (cảnh cáo, phạt tiền, biện pháp khắc phục
hậu quả), mức độ khác nhau phù hợp với các vi phạm hành chính trong
THADS rất đa dạng.
Đối với mỗi hành vi vi phạm hành chính trong hoạt động thi hành án
dân sự nói chung và trong hoạt động kê biên tài sản để thi hành án dân sự nói
riêng, nếu cá nhân, tổ chức vi phạm phải chịu một trong các hình thức xử phạt
chính là cảnh cáo hoặc phạt tiền; tùy theo tính chất, mức độ vi phạm, cá nhân,
tổ chức có hành vi vi phạm hành chính trong hoạt động Thi hành án dân sự
còn có thể bị áp dụng một hoặc nhiều hình thức xử phạt bổ sung; ngoài hình
thức xử phạt chính, xử phạt bổ sung, cá nhân, tổ chức vi phạm hành chính còn
có thể bị áp dụng một hoặc nhiều biện pháp khắc phục hậu quả.
Thứ hai, thông qua việc áp dụng các biện pháp XLVPHC có tác dụng
tuyên truyền giáo dục pháp luật, nhằm răn đe, giáo dục ý thức pháp luật cho

chủ thể vi phạm và những người khác về sự đúng đắn, công bằng, hợp đạo
đức của biện pháp được áp dụng, giáo dục cho mọi công dân tri thức pháp
luật, tình cảm pháp luật, tâm trạng tích cực đối với nhà nước, đối với pháp
luật, hình thành ở họ lối sống tuân theo pháp luật. Qua đó, bảo đảm trật tự
pháp luật nói chung, trật tự QLNN trong lĩnh vực kê biên tài sản để thi hành
án dân sự nói riêng.
Thứ ba, XLVPHC có vai trò trong việc trừng phạt các chủ thể vi phạm
pháp luật qua đó gây tác động đến nhận thức của người vi phạm về ý thức về
tính chính đáng của biện pháp trách nhiệm được áp dụng, răn đe người vi
pháp luật và những người không vững vàng, dễ vi phạm pháp luật khác.
Luật hành chính có vai trò quan trọng trong giữ gìn an ninh chính trị và
bảo đảm trật tự an toàn xã hội bằng cách đặt ra trong một loạt luật và pháp
lệnh những quy chế đặc biệt, như: Quy chế biên giới quốc gia; quy chế bảo vệ
bí mật Nhà nước; quy chế xử dụng vũ khí, súng săn; chế độ quản lý cư trú...
14


Thứ tư, XLVPHC có vai trò quan trọng trong việc phòng ngừa các vi
phạm của các chủ thể. Thông qua việc xử lý các hành vi vi phạm và tác dụng
giáo dục của biện pháp trách nhiệm được áp dụng pháp luật các chủ thể vi
phạm và những người khác kiềm chế không thực hiện hành vi trái pháp luật.
Các quy phạm của Luật hành chính định ra những giới hạn, những hình
thức và phương pháp tác động của cơ quan hành chính nhà nước đối với
những đối tượng bị quản lý. Các quy định này là kết quả của sự tìm kiếm tối
ưu, có ý nghĩa rất quan trọng bảo đảm hiệu quả hoạt động của mọi mắt xích
trong cơ chế quản lý về kinh tế, văn hóa - xã hội và hành chính - chính trị.
Thứ năm, XLVPHC là công cụ bổ trợ cho QLNN trong lĩnh vực hoạt
động kê biên tài sản để thi hành án dân sự.
1.2. Các yếu tố cấu thành xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực
kê biên tài sản để thi hành án dân sự

1.2.1. Vi phạm hành chính
Khi đề cập đến pháp luật xử phạt vi phạm hành chính thì một trong
những vấn đề cần được quan tâm hàng đầu là cơ sở của việc xử phạt hành
chính. Cơ sở của việc xử phạt vi phạm hành chính là có hành vi vi phạm hành
chính được pháp luật quy định. Việc nghiên cứu về khái niệm hành vi vi
phạm hành chính vừa có ý nghĩa lý luận quan trọng vừa mang tính thực tiễn
sâu sắc, bởi lẽ, chỉ khi định nghĩa được đúng về hành vi vi phạm hành chính
mới có thể xác định được các vi phạm hành chính cụ thể trong từng lĩnh vực
quản lý nhà nước. Xác định được đúng hành vi vi phạm hành chính, tức là xác
định đúng cơ sở xử phạt, thì việc thực hiện xử phạt hành chính mới bảo đảm
chính xác, bảo đảm được quyền và lợi ích hợp pháp của Nhà nước, của tổ
chức và cá nhân, phát huy được hiệu quả và mục đích của việc xử phạt hành
chính là nhằm lập lại trật tự quản lý Nhà nước bị xâm hại, góp phần giáo dục,
người vi phạm và răn đe, phòng ngừa vi phạm trong tương lai, tránh được sự
tuỳ tiện trong xử phạt hành chính.
Ở một số nước trên thế giới, vi phạm hành chính thường được hiểu
15


chung là các hành vi vi phạm pháp luật mà không phải là tội phạm, bị xử phạt
bằng các chế tài hành chính. Ví dụ Pháp lệnh của Hội đồng bang Milaca,
Minnesota (Bang Minesota, Hoa Kỳ) định nghĩa VPHC là hành vi vi
phạm quy định của Pháp lệnh này và phải chịu các hình thức xử phạt hành
chính theo quy định…”. Luật về xử phạt hành chính của Cộng hòa nhân dân
Trung Hoa năm 1996 (Điều 3) định nghĩa vi phạm hành chính là “hành vi vi
phạm trật tự hành chính của công dân và pháp nhân hoặc các tổ chức khác,
bị áp dụng các hình thức phạt hành chính được quy định bởi pháp luật theo
quy định của Luật này và các hình thức xử phạt này được giao cho các cơ
quan hành chính áp dụng theo thủ tục do Luật này quy định” [28]. Trong khi
đó, theo quy định của Bộ luật xử phạt vi phạm hành chính của Cộng hòa liên

bang Nga, cụ thể tại Điều 2.1. Bộ luật xử phạt hành chính của Cộng hòa liên
bang Nga, thì vi phạm hành chính được định nghĩa là “hành động (không
hành động) của thể nhân hoặc pháp nhân, trái pháp luật, có lỗi và bị Bộ luật
này hoặc các luật của Cộng hòa liên bang Nga quy định phải chịu trách
nhiệm hành chính” [4].
Đối với pháp luật Việt Nam, thì khái niệm “vi phạm hành chính” lần
đầu tiên được định nghĩa một cách chính thức tại Pháp lệnh Xử phạt vi phạm
hành chính ngày 30/11/1989, Điều 1 của Pháp lệnh này quy định “vi phạm
hành chính là hành vi do cá nhân, tổ chức thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý,
xâm phạm quy tắc quản lý Nhà nước mà không phải là tội phạm hình sự và
theo quy định của pháp luật phải bị xử phạt hành chính” [48]. Định nghĩa
này sau đó đã được áp dụng rộng rãi trong thực tiễn thi hành pháp luật và đưa
vào các giáo trình giảng dạy về pháp luật.
Luật xử lý vi phạm hành chính 2012 quy định “Vi phạm hành chính là
hành vi có lỗi do cá nhân, tổ chức thực hiện, vi phạm quy định của pháp luật
về quản lý Nhà nước mà không phải là tội phạm và theo quy định của pháp
luật phải bị xử phạt vi phạm hành chính” [38].
Từ quy định trên đây có thể hiểu, những vi phạm do pháp luật quy định
16


trong các lĩnh vực quản lý Nhà nước nhưng chưa đến mức bị xử lý hình sự
theo quy định của quy định pháp luật hình sự thì được coi là vi phạm hành
chính và chúng ta thấy rằng, vi phạm hành chính có các dấu hiệu sau:
- Tính xâm hại các quy tắc QLNN: Đây là một đặc điểm riêng của vi
phạm hành chính. Tính chất, mức độ xâm hại khác với tính nguy hiểm cho xã
hội theo quan niệm của luật hình sự. Do đó, có thể khẳng định vi phạm hành
chính không phải là tội phạm mà là hành vi xâm hại hoặc có nguy cơ xâm hại
các quan hệ xã hội trong QLNN. Khi nói đến tính xâm hại quy tắc quản lý
Nhà nước tức là nói đến khả năng vi phạm đến trật tự QLNN, làm tổn hại đến

các quan hệ xã hội được pháp luật hành chính bảo vệ. Tính xâm hại các quy
tắc QLNN là một dấu hiệu của vi phạm hành chính. Điều này thể hiện rõ ý chí
của Nhà nước trong quan niệm về vi phạm hành chính, nó nói lên tính giai
cấp, tính xã hội của pháp luật hành chính trong việc đưa ra các quy định về xử
phạt vi phạm hành chính.
- Tính có lỗi của vi phạm hành chính: Lỗi là trạng thái tâm lý, thái độ
của người vi phạm đối với hành vi, hậu quả của hành vi đó tại thời điểm thực
hiện hành vi. Những người bình thường đạt tới độ tuổi nhất định đều có khả
năng điều khiển, nhận thức được tính chất nguy hại cho xã hội. Không có lỗi
thì không coi là vi phạm hành chính. Như vậy, lỗi là dấu hiệu cơ bản trong
mặt chủ quan của vi phạm hành chính, là dấu hiệu bắt buộc phải có trong mọi
hành vi do cá nhân thực hiện. Hành vi vi phạm được coi là có lỗi thể hiện ở ý
thức của người vi phạm tức là người vi phạm biết được tính xâm hại cho quan
hệ xã hội của hành vi trái pháp luật. Nếu không nhận thức được tính xâm hại
cho cho quan hệ xã hội của hành vi thì không có lỗi.
- Tính trái pháp luật hành chính: Là hành động thực hiện ngược lại với
quy định của pháp luật, hành động bị pháp luật cấm thực hiện hoặc không
thực hiện hành động mà pháp luật hành chính buộc phải thực hiện. Hay nói
cách khác: Vi phạm hành chính là hành vi xâm hại các quy tắc quản lý Nhà
nước các quy tắc này do pháp luật hành chính quy định. Do đó, vi phạm hành
17


×