1
LỜI CẢM ƠN
Được sự quan tâm chỉ đạo của Ủy ban nhân dân tỉnh Quảng Nam, Trường
Chính trị tỉnh đã tổ chức lớp “Bồi dưỡng kiến thức quản lý Nhà nước chương
trình chuyên viên”. Đây là cơ hội để cán bộ, công chức trong toàn tỉnh tham dự
khóa học.
Nhân dịp này, tôi xin bày tỏ lời cảm ơn tới Lãnh đạo Ủy ban nhân dân
tỉnh Quảng Nam; Ban Giám hiệu Trường Chính trị tỉnh đã tạo điều kiện để tôi
có thể học tập, bồi dưỡng kiến thức về quản lý nhà nước phục vụ cho công tác
chuyên môn nói riêng và công tác quản lý nhà nước của ngành nói chung.
Bên cạnh đó, tôi cũng rất biết ơn sự chỉ dạy, truyền đạt kinh nghiệm, kiến
thức của quý thầy, cô giáo Trường Chính trị tỉnh và việc tạo điều kiện của Ban
Lãnh đạo Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh Quảng Nam và cán bộ,
công chức Văn phòng Sở để tôi được tham gia khóa học và hoàn thành tiểu luận
này.
Xin chân thành cảm ơn!
Tam Kỳ, ngày.... tháng.... năm ......
Học viên: .........................
Sở Nông nghiệp và PTNT tỉnh Quảng Nam
1
LỜI NÓI ĐẦU
Để chuẩn hóa nguồn cán bộ nhằm bồi dưỡng kiến thức và nâng cao trình
độ, kỹ năng quản lý hành chính Nhà nước trong công tác chuyên môn, tôi đã
được Lãnh đạo Văn phòng Sở, Sở Nông nghiệp và PTNT Quảng Nam tạo điều
kiện đăng ký đi học lớp “Bồi dưỡng kiến thức quản lý Nhà nước chương trình
chuyên viên” tại Trường Chính trị tỉnh Quảng Nam trong thời gian 02 tháng.
Qua thời gian 02 tháng học tập bồi dưỡng kiến thức Quản lý nhà nước
chương trình chuyên viên, tôi đã được tiếp thu sự chỉ dạy, truyền đạt của quý
thầy, cô giáo Trường Chính trị về những kiến thức và kỹ năng quản lý hành
chính Nhà nước. Đây là những nội dung hết sức bổ ích và cần thiết cho người
cán bộ, công chức trong việc thực thi nhiệm vụ của ngành đang công tác gồm:
- Nhà nước và pháp luật;
- Hành chính nhà nước và công nghệ hành chính;
- Quản lý nhà nước đối với ngành, lĩnh vực.
Với những chuyên đề đã học trên giúp cho bản thân tôi cùng các học viên
nhận thức được nhiều vấn đề về lý luận và thực tiễn trong công tác quản lý Nhà
nước. Đồng thời, cũng nhận thức được rằng muốn đạt được hiệu quả cao trong
công tác quản lý, cần phải nhạy bén nắm chắc các văn bản quy phạm pháp luật
và các văn bản dưới Luật, vận dụng sáng tạo, kết hợp linh hoạt với thực tiễn
cuộc sống để giải quyết các vấn đề liên quan đến nhiệm vụ được giao.
Tiểu luận tình huống quản lý Nhà nước là bài kiểm tra cuối khoá nhằm
đánh giá khả năng vận dụng kiến thức lý luận vào thực tiễn của hoạt động quản
lý Nhà nước hiện hành. Thông qua đó, học viên có vai trò như là người cán bộ,
công chức có chức năng, thẩm quyền đưa ra phương hướng xử lý thực sự phù
hợp với điều kiện thể chế; phong tục tập quán Việt Nam, phong tục từng vùng,
miền. Song, những yêu cầu của tiểu luận tình huống quản lý Nhà nước không
đơn giản chỉ là việc giải quyết đơn thuần mà trong đó phải hàm chứa đầy đủ khả
2
năng phân tích cơ sở lý luận, các quy định; đánh giá ưu, khuyết điểm của từng
vấn đề… làm cơ sở cho việc đề xuất những kiến nghị theo từng nội dung.
Xuất phát từ yêu cầu trên và tình hình thực tiễn trong công tác quản lý nhà
nước, với vốn kiến thức đã học được qua lớp bồi dưỡng quản lý nhà nước ngạch
chuyên viên, tôi mạnh dạn chọn đề tài nghiên cứu “Xử lý vi phạm pháp luật
trong hoạt động khai thác khoáng sản ở xã Bình Sơn, huyện Hiệp Đức” liên
quan đến hoạt động khai thác khoáng sản (vàng gỉ) trên đất lâm nghiệp có chức
năng phòng hộ để làm tiểu luận cuối khóa.
Nhằm phân tích tình huống, tìm ra và lựa chọn phương án xử lý tối ưu
nhất, đảm bảo sự nghiêm minh của pháp luật, đồng thời phù hợp với điều kiện
tình hình kinh tế - xã hội của nước ta trong giai đoạn hiện nay.
Do bài viết được thực hiện trong một thời gian có hạn, tính phức tạp của
tình huống có liên quan đến nhiều vấn đề trong xã hội và đặc biệt còn mang tính
chủ quan của người viết nên không tránh khỏi những thiếu sót, hạn chế. Tôi rất
mong nhận được những ý kiến đóng góp chân thành của quý thầy, cô và những
người có quan tâm đến công tác quản lý Nhà nước về lĩnh vực nông nghiệp với
công tác tài nguyên môi trường để bài tiểu luận hoàn chỉnh hơn.
1
Phần I: MÔ TẢ TÌNH HUỐNG
Tình huống được mô tả sau đây là một vụ việc xảy ra trong hoạt động quản
lý Nhà nước về lĩnh vực tài nguyên và môi trường, liên quan đến việc khai thác
khoáng sản trên đất rừng tại một địa phương thuộc tỉnh Quảng Nam.
Vụ việc này đã và đang đặt ra những đòi hỏi buộc cán bộ, công chức Nhà nước liên
quan và có thẩm quyền phải xem xét, phân tích và tìm ra phương pháp giải quyết.
Tình huống xảy ra thuộc lĩnh vực quản lý Nhà nước về khoáng sản trên
đất lâm nghiệp có rừng. Cơ quan quản lý Nhà nước của tỉnh trong lĩnh vực này
là sự phối hợp giữa các ngành: ngành Nông nghiệp và Phát triển nông thôn với
ngành Tài nguyên & Môi trường; vấn đề đặt ra ở đây là phải giải quyết đúng
thẩm quyền, trách nhiệm của từng ngành, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
các bên, thấu tình đạt lý, bên cạnh đó tăng cường được kỷ cương phép nước, bảo
vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa.
Tình huống như sau:
Ngày 28/10/2013, Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Quảng Nam
có Công văn số 2068/SNN-KHTC, đề nghị Sở Tài nguyên & Môi trường Quảng
Nam, UBND huyện Hiệp Đức xem xét kiểm tra, đình chỉ việc khai thác khoáng
sản trên đất lâm nghiệp có rừng bên sông Vu Gia, tại địa bàn thôn Xuân Hòa 2,
xã Bình Sơn của huyện Hiệp Đức do việc khai thác khoáng sản đã ảnh hưởng
xấu đến hiện trạng rừng ở bên bờ sông, gây sạt lở, trũng xoáy nghiêm trọng và ô
nhiễm nguồn nước…
Trước đó, qua nghiên cứu, Sở Nông nghiệp và PTNT Quảng Nam có cuộc
điều tra sơ bộ và xác định trên địa bàn xã Bình Sơn, huyện Hiệp Đức chưa có
một tổ chức, cá nhân nào được cơ quan có thẩm quyền cấp phép khai thác
khoáng sản ở khu vực này. Vì vậy, rất có thể đây là việc khai thác khoáng sản
trái phép, việc này là làm trái với quy định của Luật Bảo vệ và phát triển rừng
2004 và Luật Khoáng sản 2010.
Ngày 13/12/2013, đoàn kiểm tra của Sở Nông nghiệp và Phát triển nông
thôn Quảng Nam đã phối hợp với đại diện của Sở Tài nguyên & Môi trường,
2
UBND huyện Hiệp Đức tiến hành kiểm tra khu vực khai thác khoáng sản của
Công ty TNHH khoáng sản Phúc Thuận và làm việc với UBND xã Bình Sơn để
xác minh vụ việc.
Qua kiểm tra, Đoàn kiểm tra đã phát hiện như sau:
Ngày 11/02/2009, UBND xã Bình Sơn ký hợp đồng số 04/HĐ-TĐ về việc
cho Công ty TNHH khoáng sản Phúc Thuận thuê đất lâm nghiệp (rừng phòng hộ)
để khai thác vàng gỉ thuộc địa phận thôn Xuân Hòa 2 của xã Bình Sơn. Diện tích
khai thác khoáng sản là 1,5 ha (rộng 50m, dài 300m) dọc theo bờ sông Vu Gia.
Với điều kiện, Công ty TNHH khoáng sản Phúc Thuận có trách nhiệm
hằng năm nộp cho ngân sách UBND xã Bình Sơn với số tiền 50.000.000
đồng/ha/năm để UBND xã sử dụng vào mục đích xây dựng các công trình phúc
lợi tại địa phương và hỗ trợ một số gia đình chính sách của thôn Xuân Hòa 2.
Bên cạnh đó, Công ty tạo điều kiện giải quyết công ăn việc làm cho một số hộ
dân vùng ven sông.
Trong các năm qua, Công ty TNHH khoáng sản Phúc Thuận vẫn khai thác
khoáng sản tại khu vực trên và đã thực hiện đúng điều kiện của hợp đồng đã ký
với UBND xã Bình Sơn. Cụ thể, từ năm 2009 đến năm 2013, Công ty TNHH
khoáng sản Phúc Thuận đã nộp cho ngân sách UBND xã Bình Sơn với số tiền là
375.000.000 đồng và giải quyết được khoảng 50 lao động phổ thông, góp phần
xóa đói, giảm nghèo, ổn định kinh tế; riêng năm 2014 Công ty TNHH khoáng
sản Phúc Thuận mới nộp 40.000.000 đồng.
Hiện tại, Công ty TNHH khoáng sản Phúc Thuận đang khai thác khoáng
sản bằng máy đào tại sông Vu Gia thuộc thôn Xuân Hòa 2, xã Bình Sơn, tuy
nhiên đại diện Công ty đã không cung cấp được các giấy phép khai thác khoáng
sản do cơ quan có thẩm quyền cấp phép ngoài hợp đồng thuê đất lâm nghiệp do
UBND xã Bình Sơn ký cho phép, đồng thời việc khai thác khoáng sản của Công
ty TNHH khoáng sản Phúc Thuận cũng gây sạt lở nghiêm trọng (cụ thể: sạt lở
200 m2 đất rừng, mép trái bờ sông Vu Gia, kể từ thượng nguồn), đôi chỗ bị đào
thành hố sâu tạo thành dòng xoáy nguy hiểm và ảnh hưởng môi trường nước tại
3
khu vực khai thác. Đoàn kiểm tra đã lập biên bản vụ việc của Công ty TNHH
khoáng sản Phúc Thuận và đại diện Công ty đã ký xác nhận.
Làm việc với UBND xã Bình Sơn, Chủ tịch UBND xã Bình Sơn đã xác
nhận có hợp đồng cho Công ty TNHH khoáng sản Phúc Thuận khai thác 1,5 ha
bao gồm cả sông Vu Gia, thuộc thôn Xuân Hòa 2 và nhiệm vụ Công ty TNHH
khoáng sản Phúc Thuận phải nộp cho ngân sách xã 50.000.000 đồng/ha/năm để
xây dựng các công trình phúc lợi tại địa phương và hỗ trợ các gia đình chính
sách. Việc này đã được HĐND xã Bình Sơn thông qua bằng Nghị quyết số
23/NQ-HĐND ngày 27/12/2008.
Những vấn đề đặt ra:
1. Việc Công ty TNHH khoáng sản Phúc Thuận khai thác khoáng sản trên
sông Vu Gia như vậy có vi phạm pháp luật không ?
2. Trách nhiệm của chính quyền địa phương trong vụ việc này, những
việc làm hợp lý và bất hợp lý ?
3. Phương pháp xử lý tình huống ?
4
Phần II: GIẢI QUYẾT TÌNH HUỐNG
2.1. Xác định mục tiêu nghiên cứu giải quyết tình huống
Hiện nay, sự việc này đang diễn ra ở nhiều huyện miền núi của tỉnh, mục
đích khai thác khoáng sản là để phục vụ kinh tế, tận thu nguồn tài nguyên có sẵn
tại địa phương tạo nguồn thu cho xã. Tuy nhiên, về góc độ quản lý nhà nước thì
việc làm trên đã vi phạm các quy định về quản lý hoạt động khoáng sản, vi
phạm thẩm quyền, đặc biệt là việc khai thác khoáng sản trái phép không đúng
quy hoạch, không đúng quy trình gây sạt lở bờ sông, nguy cơ ảnh hưởng đến các
công trình thủy lợi, đời sống sản xuất của dân, nguy hiểm hơn là ảnh hưởng đến
tài sản, tính mạng của người dân ở bên bờ sông khi mùa mưa lũ đến.
Có thể xác định các mục tiêu để giải quyết tình huống này là:
Thứ nhất, đảm bảo pháp chế xã hội chủ nghĩa trong việc quản lý và khai
thác tài nguyên khoáng sản, bảo vệ môi trường và bảo vệ sự an toàn của người
dân: Đây là mục tiêu cơ bản nhất, bao trùm nhất để đoàn kiểm tra xử lý tình
huống này. Nếu không đảm bảo được mục tiêu này thì việc việc chấp hành pháp
luật của các cơ quan thực thi pháp luật ở cơ sở và các tổ chức, cá nhân khác
không nghiêm minh.
Để thực hiện được mục tiêu này, các cơ quan hành chính Nhà nước và cán
bộ, công chức hành chính có thẩm quyền giải quyết vụ việc phải thực sự am
hiểu chính sách, pháp luật về lĩnh vực tài nguyên khoáng sản và bảo vệ môi
trường của Đảng và Nhà nước ta, nắm chắc các lý do thực tế của tình huống để
phân tích, lựa chọn và ra văn bản áp dụng quy phạm pháp luật đúng đắn, đồng
thời phải có biện pháp tổ chức thi hành nghiêm chỉnh quyết định xử lý vi phạm.
Vì vậy, với việc cho phép khai thác khoáng sản trái phép, vượt thẩm
quyền thì cần phải xử lý để đảm bảo trật tự trong hệ thống pháp luật. Việc khai
thác khoáng sản gây sạt lở, ô nhiễm môi trường thì phải xử lý vi phạm hành
chính và bắt buộc khắc phục môi trường.
Thứ hai, đảm bảo lợi ích của người dân: đây là mục tiêu được xác định
nhằm đảm bảo cho việc giải quyết vụ việc được hợp tình, hợp lý, giảm bớt nguy
5
cơ người dân có thể khiếu kiện vượt cấp, dẫn đến xảy ra các điểm nóng tương tự
các vụ việc tranh chấp về đất đai ở Tiên Phước, Phú Ninh.
Để thực hiện được mục tiêu này, các cơ quan và cán bộ, công chức hành
chính có thẩm quyền cần phải nghiên cứu các chính sách của Nhà nước đối với
người dân và địa phương nơi có mỏ khoáng sản; các quy định phân cấp quản lý
nhà nước về tài nguyên khoáng sản cho địa phương các cấp, nhằm tuyên truyền
các quy định pháp luật về địa phương và nhân dân trong khu vực cùng phối hợp
với cơ quan nhà nước các cấp trong trong tác quản lý nhà nước về khoáng sản.
Thứ ba, đảm bảo tính khả thi của quyết định xử lý hành chính, các yêu
cầu của cơ quan cấp trên: Đây là yêu cầu đặt ra nhằm đảm bảo hiệu lực thực tế
của quyết định giải quyết, đảm bảo thi hành được quyết định trong thực tế.
Điều này đỏi hỏi cán bộ, công chức có thẩm quyền giải quyết phải điều
tra, nghiên cứu toàn diện các quy định của pháp luật liên quan đến hoạt động
khoáng sản, cũng như tìm ra các nguyên nhân khách quan, chủ quan để từ đó
đưa ra được giải pháp vừa hợp tình, vừa hợp lý có đầy đủ các phương tiện thực
hiện và điều kiện để thực thi quyết định và phải đảm đúng nguyên tắc, đúng
thẩm quyền pháp luật.
Các mục tiêu trên có mối quan hệ chặt chẽ, biện chứng với nhau, không
thể vì đạt được mục tiêu này mà loại trừ mục tiêu khác. Trong đó, mục tiêu thứ
nhất phải là mục tiêu hàng đầu, bắt buộc phải thực hiện được.
2.2. Phân tích tình huống
2.2.1. Tóm tắt những tình huống nổi bật
- Cuối năm 2008, UBND xã Bình Sơn thông qua Nghị quyết về việc cho
phép Công ty TNHH khoáng sản Phúc Thuận khai thác khoáng sản trên sông Vu
Gia, thuộc thôn Xuân Hoà 2, xã Bình Sơn, huyện Hiệp Đức ;
- Năm 2009, UBND xã Bình Sơn, huyện Hiệp Đức ký hợp đồng với Công
ty TNHH khoáng sản Phúc Thuận về việc khai thác vàng trên sông Vu Gia trong
địa phận rừng phòng hộ do Sở Nông nghiệp và PTNT quản lý;
- Từ khi việc khai thác vàng được triển khai, đã giải quyết được một số
lượng lao động thất nghiệp và đóng góp một phần không nhỏ vào việc xây dựng
6
công trình phúc lợi, thực hiện chế độ chính sách tại địa phương. Tuy nhiên, việc
khai thác vàng gây sạt lở, trũng xoáy ảnh hưởng xấu đến rừng phòng hộ, môi
trường nước và đe dọa sạt lở một số công trình ven sông gây tâm lý hoang mang
cho người dân;
- Trong quá trình khảo sát hiện trạng rừng, phát hiện được vấn đề gây sạt
lở rừng phòng hộ ở đoạn sông Vu Gia, Sở Nông nghiệp và PTNT đề nghị được
phối hợp với Sở Tài nguyên & Môi trường và UBND huyện Hiệp Đức xác
minh, giải quyết vụ việc.
2.2.2. Phân tích nguyên nhân và hậu quả
a) Về nguyên nhân của vụ việc
Có nhiều nguyên nhân dẫn đến việc khai thác khoáng sản trái phép trên
sông Vu Gia, gây sạt lở, ảnh hưởng môi trường, trong đó có thể xác định một số
nguyên nhân khách quan và chủ quan cơ bản sau:
Thứ nhất: Do lợi nhuận kinh tế mang lại cao, tài nguyên sẵn có.
Thứ hai: Do UBND xã Bình Sơn chưa nắm rõ các quy định của pháp luật về
khoáng sản, thiếu sự phối hợp giữa các cơ quan chức năng dẫn đến việc làm vượt
cấp, trái thẩm quyền. Trong đó cũng phải kể đến năng lực chuyên môn, tham mưu
của cán bộ, công chức cấp xã dẫn đến việc cho phép khai thác khoáng sản trái phép.
Thứ ba: Do sự thiếu quản lý, kiểm tra giám sát của UBND huyện Hiệp Đức.
Thứ tư: Do công tác tuyên truyền pháp luật về công tác khai thác tài
nguyên chưa được sâu rộng đến các tầng lớp nhân dân.
Cuối cùng, là do sự không thường xuyên kiểm tra, khảo sát hiện trạng
rừng của Sở Nông nghiệp và PTNT dẫn đến việc phát hiện sự việc chậm trễ.
b) Về hậu quả của vụ việc khai thác khoáng sản trái phép
Việc khai thác khoáng sản trái phép trên đã gây ra một số hậu quả như sau:
Một là, Công ty TNHH khoáng sản Phúc Thuận đã khai thác khoáng sản
trên sông Vu Gia không có giấy phép là vi phạm pháp luật, việc khai thác
khoáng sản gây sạt lở nghiêm trọng bờ sông, gây trũng xoáy nhiều chỗ, đe dọa
sụt lún rừng phòng hộ và các công trình bên bờ sông, ảnh hưởng xấu đến môi
sinh, môi trường; gây tâm lý hoang mang, bất bình trong nhân dân.
7
Hai là, việc UBND xã Bình Sơn ký hợp đồng cho Công ty TNHH khoáng
sản Phúc Thuận khai thác khoáng sản trên địa bàn rừng phòng hộ, không thông
qua cơ quan chức năng quản lý (UBND huyện Hiệp Đức, Sở Nông nghiệp và
PTNT) vừa tạo sự thiếu thống nhất trong hoạt động quản lý nhà nước, vừa là
tiền lệ cho một số người dân khác có thể làm theo Công ty TNHH khoáng sản
Phúc Thuận chỉ xin phép với Ủy ban nhân dân xã, không lập hồ sơ xin phép khai
thác khoáng sản trình cơ quan có thẩm quyền cấp phép theo quy định. Điều này
sẽ rất nguy hiểm, bởi việc khai thác khoáng sản trái phép tràn lan, không đúng
quy hoạch, đúng quy trình khai thác khoáng sản sẽ gây các hiện xâm thực bờ
sông, ảnh hưởng trực tiếp đến hiện trạng rừng và người dân sống bên bờ sông.
Ba là, niềm tin của nhân dân địa phương đối với chính sách pháp luật về khoáng
sản có thể bị ảnh hưởng, cho rằng các cơ quan nhà nước đã cấp phép khai thác khoáng
sản cho Công ty TNHH khoáng sản Phúc Thuận đã gây ảnh hưởng tài nguyên rừng, sạt
lở bờ sông và việc đó đã được các cơ quan nhà nước bao che, dung túng.
Tóm lại, có thể thấy rằng sự việc khai thác khoáng sản của Công ty TNHH
khoáng sản Phúc Thuận đã để lại những người tham gia trong công tác quản lý
nhà nước về khoáng sản nhiều suy nghĩ. Việc quản lý tài nguyên khoáng sản ở
cấp cơ sở chưa được chú trọng nhưng có sự vượt thẩm quyền để việc khai thác
khoáng sản xảy ra trái luật và ảnh hưởng môi trường. Tuy nhiên có những nguyên
nhân chủ quan và khách quan. Do vậy, cần thiết phải có biện pháp giải quyết kịp
thời, đúng đắn, đảm bảo đúng pháp luật, nhưng cũng phải vừa có tính tuyên
truyền, phổ biến pháp luật vừa hợp tình vừa hợp lý để giải quyết vụ việc trên.
2.3. Cơ sở pháp lý của tình huống
Với tình huống nêu trên, dựa vào tình tiết xảy ra, nội dung vấn đề, áp dụng
những căn cứ pháp lý sau để xác định hành vi vi phạm và cơ sở giải quyết vấn đề:
- Luật Bảo vệ và Phát triển rừng năm 2004;
- Luật Khoáng sản 2010;
- Luật Bảo vệ môi trường 2005;
8
- Nghị định số 23/2006/NĐ-CP ngày 03/3/2006 của Chính phủ về thi
hành Luật Bảo vệ và phát triển rừng;
- Quyết định số 186/2006/QĐ-TTg ngày 14/8/2006 của Thủ tướng Chính
phủ về ban hành Quy chế quản lý rừng;
- Nghị định số 157/2013/NĐ-CP ngày 11/11/2013 của Chính phủ về xử
phạt vi phạm hành chính về quản lý rừng, phát triển rừng, bảo vệ rừng và quản
lý lâm sản;
- Chỉ thị số 20/2012/CT-UBND ngày 21/8/2012 của UBND tỉnh Quảng
Nam về tăng cường các biện pháp quản lý phương tiện dụng cụ đưa vào rừng
trên địa bàn tỉnh;
2.4. Xử lý tình huống
2.4.1. Ý kiến của bản thân đối với sự việc xảy ra tình huống
Qua các thông tin điều tra và xác nhận của đoàn kiểm tra từ UBND xã Bình
Sơn, Công ty TNHH khoáng sản Phúc Thuận, tôi nhận định việc khai thác khoáng
sản của Công ty TNHH khoáng sản Phúc Thuận là trái phép; việc ra Nghị quyết và
ký hợp đồng cho khai thác khoáng sản của UBND xã Bình Sơn là không đúng
thẩm quyền và quy định của pháp luật. Để chứng tỏ nhận định trên, chúng ta căn cứ
vào một số quy định của văn bản quy phạm pháp luật liên quan, cụ thể:
Tại khoản 13, Điều 12 của Luật Bảo vệ và Phát triển rừng, ngày
03/12/2004 có quy định hành vi bị nghiêm cấm: Khai thác trái phép tài nguyên
sinh vật, tài nguyên khoáng sản và các tài nguyên thiên nhiên khác; làm thay đổi
cảnh quan thiên nhiên, diễn biến tự nhiên của rừng; làm ảnh hưởng xấu đến đời
sống tự nhiên của các loài sinh vật rừng; mang trái phép hoá chất độc hại, chất
nổ, chất dễ cháy vào rừng.
Tại khoản 1, khoản 2 và khoản 4, Điều 4, Luật Khoáng sản năm 2010 quy
định: Hoạt động khoáng sản phải phù hợp với chiến lược, quy hoạch khoáng
sản, gắn với bảo vệ môi trường, cảnh quan thiên nhiên, di tích lịch sử - văn hoá,
danh lam thắng cảnh và các tài nguyên thiên nhiên khác; bảo đảm quốc phòng,
an ninh, trật tự, an toàn xã hội; Chỉ được tiến hành hoạt động khoáng sản khi
9
được cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền cho phép; Khai thác khoáng sản
phải lấy hiệu quả kinh tế - xã hội và bảo vệ môi trường làm tiêu chuẩn cơ bản để
quyết định đầu tư; áp dụng công nghệ khai thác tiên tiến, phù hợp với quy mô,
đặc điểm từng mỏ, loại khoáng sản để thu hồi tối đa khoáng sản.
Điều 30, Luật Khoáng sản 2010: Tổ chức, cá nhân hoạt động khoáng sản
phải sử dụng công nghệ, thiết bị, vật liệu thân thiện với môi trường; thực hiện các
giải pháp ngăn ngừa, giảm thiểu tác động xấu đến môi trường và cải tạo, phục hồi
môi trường theo quy định của pháp luật; Tổ chức, cá nhân hoạt động khoáng sản
phải thực hiện các giải pháp và chịu mọi chi phí bảo vệ, cải tạo, phục hồi môi
trường. Giải pháp, chi phí bảo vệ, cải tạo, phục hồi môi trường phải được xác
định trong dự án đầu tư, báo cáo đánh giá tác động môi trường, bản cam kết bảo
vệ môi trường được cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền phê duyệt; Trước
khi tiến hành khai thác khoáng sản, tổ chức, cá nhân khai thác khoáng sản phải ký
quỹ cải tạo, phục hồi môi trường theo quy định của Chính phủ.
Tại điểm a, đ, e, g, k, khoản 1, Điều 81, Luật Khoáng sản 2010: Ủy ban
nhân dân cấp tỉnh trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm:
Ban hành theo thẩm quyền văn bản hướng dẫn thực hiện các quy định của Nhà
nước về quản lý, bảo vệ khoáng sản và quản lý hoạt động khoáng sản tại địa
phương; Cấp, gia hạn, thu hồi Giấy phép thăm dò khoáng sản, Giấy phép khai
thác khoáng sản, Giấy phép khai thác tận thu khoáng sản; chấp thuận trả lại Giấy
phép thăm dò khoáng sản, Giấy phép khai thác khoáng sản, Giấy phép khai thác tận
thu khoáng sản, trả lại một phần diện tích khu vực thăm dò, khai thác khoáng sản;
tổ chức đấu giá quyền khai thác khoáng sản thuộc thẩm quyền; Giải quyết theo
thẩm quyền việc cho thuê đất hoạt động khoáng sản, sử dụng hạ tầng kỹ thuật và
các vấn đề khác có liên quan cho tổ chức, cá nhân được phép hoạt động khoáng sản
tại địa phương theo quy định của pháp luật; Thực hiện các biện pháp bảo vệ môi
trường, khoáng sản chưa khai thác, tài nguyên thiên nhiên khác theo quy định của
pháp luật; bảo đảm an ninh, trật tự an toàn xã hội tại khu vực có khoáng sản; Thanh
tra, kiểm tra, xử lý vi phạm pháp luật về khoáng sản theo thẩm quyền.
10
Tại điểm a, b, c,d, đ, khoản 2, Điều 81, Luật Khoáng sản 2010. Ủy ban
nhân dân cấp huyện, Ủy ban nhân dân cấp xã trong phạm vi nhiệm vụ, quyền
hạn của mình có trách nhiệm: Giải quyết theo thẩm quyền cho thuê đất hoạt
động khoáng sản, sử dụng hạ tầng kỹ thuật và các vấn đề khác có liên quan cho
tổ chức, cá nhân được phép hoạt động khoáng sản tại địa phương theo quy định
của pháp luật; Thực hiện các biện pháp bảo vệ môi trường, khoáng sản chưa
khai thác, tài nguyên thiên nhiên khác theo quy định của pháp luật; bảo đảm an
ninh, trật tự an toàn xã hội tại khu vực có khoáng sản; Báo cáo Ủy ban nhân dân
cấp trên trực tiếp tình hình hoạt động khoáng sản trên địa bàn; Tuyên truyền,
phổ biến, giáo dục pháp luật về khoáng sản; Thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm
pháp luật về khoáng sản theo thẩm quyền.
Tại khoản 1, 2, Điều 82, Luật Khoáng sản 2010. Thẩm quyền cấp Giấy
phép thăm dò khoáng sản, Giấy phép khai thác khoáng sản: Ủy ban nhân dân
cấp tỉnh cấp Giấy phép thăm dò khoáng sản, Giấy phép khai thác khoáng sản
làm vật liệu xây dựng thông thường, than bùn, khoáng sản tại các khu vực có
khoáng sản phân tán, nhỏ lẻ đã được Bộ Tài nguyên và Môi trường khoanh định
và công bố; Giấy phép khai thác tận thu khoáng sản. Bộ Tài nguyên và Môi
trường cấp Giấy phép thăm dò khoáng sản, Giấy phép khai thác những khoáng
sản còn lại.
Tại khoản 1, Điều 5, Luật Khoáng sản 2010. Quyền lợi của địa phương và
người dân nơi có khoáng sản được khai thác: Địa phương nơi có khoáng sản
được khai thác được Nhà nước điều tiết khoản thu từ hoạt động khai thác
khoáng sản để hỗ trợ phát triển kinh tế - xã hội theo quy định của pháp luật về
ngân sách nhà nước.
Tại khoản 2, Điều 5, Luật Khoáng sản 2010. Tổ chức, cá nhân khai thác
khoáng sản có trách nhiệm: Hỗ trợ chi phí đầu tư nâng cấp, duy tu, xây dựng hạ
tầng kỹ thuật sử dụng trong khai thác khoáng sản và xây dựng công trình phúc
lợi cho địa phương nơi có khoáng sản được khai thác theo quy định của pháp
luật; Kết hợp khai thác với xây dựng hạ tầng kỹ thuật, bảo vệ, phục hồi môi
trường theo dự án đầu tư khai thác khoáng sản; nếu gây thiệt hại đến hạ tầng kỹ
11
thuật, công trình, tài sản khác thì tùy theo mức độ thiệt hại phải có trách nhiệm
sửa chữa, duy tu, xây dựng mới hoặc bồi thường theo quy định của pháp luật;
Ưu tiên sử dụng lao động địa phương vào khai thác khoáng sản và các dịch vụ
có liên quan; Cùng với chính quyền địa phương bảo đảm việc chuyển đổi nghề
nghiệp cho người dân có đất bị thu hồi để khai thác khoáng sản.
Đồng thời, hiện nay UBND tỉnh Quảng Nam đã ban hành Chỉ thị số
20/2012/CT-UBND ngày 21/8/2012 về tăng cường các biện pháp quản lý
phương tiện dụng cụ đưa vào rừng trên địa bàn tỉnh Quảng Nam. Vì vậy, UBND
xã Bình Sơn không có động thái nào xử lý về hoạt động khai thác khoáng sản
trên sông Vu Gia hiện nay là trái với quy định.
Qua đó cho thấy đã có một số tổ chức, cá nhân vi phạm như sau:
Việc Hội đồng nhân dân xã Bình Sơn đã thông qua Nghị quyết 23/NQHĐND ngày 27/12/2008 và UBND xã Bình Sơn đã ký hợp đồng số 04/HĐTĐ ngày 11/02/2009 cho Công ty TNHH khoáng sản Phúc Thuận khai thác thác
khoáng sản trên đất lâm nghiệp có chức năng phòng hộ là trái quy định của Luật
Bảo vệ và phát triển rừng 2004 và Luật Khoáng sản 2010.
Công ty TNHH khoáng sản Phúc Thuận khai thác khoáng sản tại sông Vu
Gia, thuộc thôn Xuân Hòa 2, xã Bình Sơn mà không có giấy phép của cơ quan
có thẩm quyền cấp là vi phạm quy định của Luật Khoáng sản 2010, trong quá
trình khai thác khoáng sản đã gây sạt lở, trũng xoáy, ảnh hưởng xấu đến môi
trường, đe dọa đến rừng phòng hộ và cuộc sống của người dân là vi phạm các
quy định của Luật Bảo vệ môi trường 2005.
Trong thời gian qua, một số doanh nghiệp khai thác khoáng sản trên địa
bàn tỉnh Quảng Nam đã hoạt động không đúng quy định của pháp luật
về khoáng sản, đặc biệt là vi phạm các quy định về môi trường đã gây nhiều bức
xúc cho nhân dân tại một số địa phương của tỉnh, trở thành điểm nóng.
Trên các con sông tại địa bàn tỉnh Quảng Nam hầu hết xảy ra nạn khai
thác khoáng sản trái phép, nhiều đoạn sông đã bị sạt lở, ô nhiễm nguồn nước
nghiêm trọng phá hủy đất canh tác của người dân. Điều này cũng do việc chạy
12
theo lợi ích kinh tế, đồng thời có sự buông lỏng quản lý, tiếp tay của chính
quyền địa phương.
Trở lại vụ việc khai thác khoáng sản của Công ty TNHH khoáng sản Phúc
Thuận tại sông Vu Gia, được Hội đồng nhân dân xã Bình Sơn ra Nghị quyết cho
phép khai thác khoáng sản và UBND xã Bình Sơn ký hợp đồng cho khai thác
khoáng sản trái quy định. Vì vậy cần phải xử lý các tổ chức, cá nhân vi phạm để
đảm bảo sự nghiêm minh của pháp luật, đồng thời tuyên truyền các quy định
pháp luật xuống cơ sở, đến người dân.
2.4.2. Xây dựng các phương án giải quyết tình huống
a) Các phương án xử lý
Sau vụ việc xảy ra, căn cứ trên cơ sở quy định của pháp luật về góc độ
lĩnh vực nông nghiệp tôi xin mạnh dạn đề xuất các phương án xử lý là:
1. Đình chỉ việc khai thác khoáng sản, tịch thu tang vật là xe đào và xử lý
vi phạm hành chính đối với Công ty TNHH khoáng sản Phúc Thuận.
2. Đình chỉ việc khai thác khoáng sản, buộc Công ty TNHH khoáng sản
Phúc Thuận khắc phục vi phạm; đồng thời có biện pháp tuyên truyền, hướng
dẫn việc đăng ký thủ tục và khai thác tài nguyên đúng quy trình, quy định của
pháp luật.
3. Thu hồi hợp đồng ký cho khai thác khoáng sản số 04/HĐ-TĐ ngày
11/02/2009 của UBND xã Bình Sơn đã ký với Công ty TNHH khoáng sản Phúc
Thuận, đề nghị UBND huyện Hiệp Đức kiểm điểm UBND xã Bình Sơn cho
khai thác khoáng sản trái thẩm quyền, đề nghị Hội đồng nhân dân huyện Hiệp
Đức hủy bỏ Nghị quyết số 23/NQ-HĐND ngày 27/12/2008 của Hội đồng nhân
dân xã Bình Sơn.
4. Áp dụng kết hợp cả 2 phương án xử lý (2) và (3) nêu trên.
Riêng việc UBND xã Bình Sơn thu tiền từ khai thác khoáng sản của Công
ty TNHH khoáng sản Phúc Thuận không đúng quy định, tuy nhiên UBND xã
Bình Sơn đã sử dụng các khoản tiền trên là đúng mục đích, đúng tinh thần theo
khoản 2, Điều 5 của Luật Khoáng sản và Nghị quyết số 23/NQ-HĐND ngày
27/12/2008 của Hội đồng nhân dân xã Bình Sơn. Vì vậy, qua xem xét đoàn kiểm
13
tra đã nhắc nhở, đề nghị UBND xã Bình Sơn rút kinh nghiệm và không yêu cầu
UBND xã Bình Sơn nộp lại số tiền đã thu được vào ngân sách Nhà nước.
Phân tích các phương án trên:
- Phương án 1: Đình chỉ việc khai thác khoáng sản, tịch thu tang vật là xe
đào và xử lý vi phạm hành chính đối với Công ty TNHH khoáng sản Phúc
Thuận.
Việc đình chỉ việc khai thác khoáng sản của Công ty TNHH khoáng sản
Phúc Thuận là cần thiết. Tuy nhiên việc tịch thu phương tiện vi phạm cần phải
xem xét lại tình huống thực tế tại địa phương. Việc khai thác khoáng sản của
Công ty TNHH khoáng sản Phúc Thuận mặc dù không có giấy phép của cơ quan
có thẩm quyền cấp phép nhưng đã được UBND xã Bình Sơn ký hợp đồng cho
khai thác và Công ty TNHH khoáng sản Phúc Thuận vẫn thực hiện đúng hợp
đồng với UBND xã Bình Sơn, cụ thể từ các năm 2009 đến năm 2014 Công ty
TNHH khoáng sản Phúc Thuận đã nộp vào ngân sách xã với số tiền là
415.000.000 đồng.
- Về ưu điểm:
Chấm dứt ngay được tình trạng khai thác khoáng sản trái phép, răn đe
được một số cá nhân, tổ chức đang có ý định khai thác trái phép nguồn tài
nguyên.
- Về nhược điểm:
+ Không triệt để do chỉ xử phạt Công ty TNHH khoáng sản Phúc Thuận
mà không xử lý chính quyền địa phương và các cấp có liên quan, tạo tâm lý
không phục cho nhân dân;
+ Không tiến hành khắc phục hậu quả gây nguy hiểm cho người dân và
rừng phòng hộ.
+ Nảy sinh nhiều vấn đề sau khi tịch thu phương tiện khai thác như: ai quản
lý? quản lý như thế nào? kéo theo một bộ phận dân cư bị thất nghiệp tạm thời.
Phương án 2: Đình chỉ việc khai thác khoáng sản và buộc khắc phục hậu
quả; đồng thời có biện pháp tuyên truyền, hướng dẫn việc đăng ký thủ tục và
khai thác tài nguyên đúng quy trình, quy định của pháp luật.
14
Tại khoản 2, Điều 30, Luật Khoáng sản quy định: Tổ chức, cá nhân hoạt
động khoáng sản phải thực hiện các giải pháp và chịu mọi chi phí bảo vệ, cải
tạo, phục hồi môi trường. Giải pháp, chi phí bảo vệ, cải tạo, phục hồi môi trường
phải được xác định trong dự án đầu tư, báo cáo đánh giá tác động môi trường,
bản cam kết bảo vệ môi trường được cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền
phê duyệt.
Yêu cầu Công ty khai thác dừng ngay việc khai thác trên sông Vu Gia và
đồng thời dùng các biện pháp khắc phục việc sạt lở bờ sông, gây ô nhiễm nguồn
nước, san lấp các hố sâu gây ra các dòng xoáy nguy hiểm trên sông…. Bên cạnh
đó, bộ phận chức năng về tài nguyên & môi trường tổ chức tuyên truyền, hướng
dẫn nhân dân các thủ tục đăng ký khai thác khoáng sản, phổ biến thẩm quyền
cấp giấy đăng ký khai thác khoáng sản đối với từng loại khoáng sản … giúp cá
nhân, tổ chức hiểu rõ hơn về quy định của pháp luật trong lĩnh vực khai thác
khoáng sản. Phương pháp này là đúng với pháp luật, tuy nhiên về trách nhiệm
của các cơ quan liên quan như UBND xã Bình Sơn, Hội đồng nhân dân xã Bình
Sơn không làm rõ trong quá trình vi phạm pháp luật trong công tác tài nguyên
khoáng sản.
- Về ưu điểm:
+ Chấm dứt được hoạt động khai thác trái phép;
+ Khắc phục hậu quả, đảm bảo an toàn cho rừng phòng hộ, các công trình
ven sông tạo tâm lý an tâm cho người dân; hồi phục môi sinh, môi trường.
+ Không tịch thu phương tiện khai thác tạo điều kiện cho Công ty duy trì
hoạt động đúng pháp luật, giải quyết công ăn việc làm cho người lao động.
+ Giúp cá nhân, tổ chức hiểu rõ hơn về quy định của pháp luật trong lĩnh
vực khai thác khoáng sản, hạn chế được việc khai thác khoáng sản trái phép.
- Về nhược điểm:
Phương pháp này chưa làm sáng tỏ trách nhiệm của chính quyền địa
phương, cũng như đảm bảo việc thực thi pháp luật của Nhà nước ở cấp cơ sở.
Phương án 3: Thu hồi hợp đồng ký cho khai thác khoáng sản số 04/HĐTĐ ngày 11/02/2009 của UBND xã Bình Sơn đã ký với Công ty TNHH khoáng
15
sản Phúc Thuận. Kiểm điểm sự tắc trách về điều hành quản lý của UBND huyện
Hiệp Đức và UBND xã Bình Sơn về việc thiếu sự phối hợp giữa các ban ngành,
thiếu trách nhiệm và hiểu biết trong việc quản lý tài nguyên, môi trường; đồng
thời đề nghị Hội đồng nhân dân huyện Hiệp Đức hủy bỏ Nghị quyết số 23/NQHĐND ngày 27/12/2008 của Hội đồng nhân dân xã Bình Sơn.
- Về ưu điểm:
+ Phát hiện được các hạn chế trong sự quản lý, chỉ đạo điều hành của địa
phương nhằm sớm có phương pháp điều chỉnh;
+ Phương pháp này cần thiết, đúng quy định của Luật Tổ chức HĐND và
UBND 2003 (khoản 4, Điều 25);
- Về nhược điểm:
Đối với phương pháp này thì việc khai thác khoáng sản của Công ty
TNHH khoáng sản Phúc Thuận đã gây sạt lở, trũng xoáy, ảnh hưởng xấu đến
môi trường nhưng không xử lý, sẽ gây bất bình trong nhân dân, không đảm bảo
kỷ cương của pháp luật.
Phương án 4: Kết hợp hai phương án (2) và (3) trên là có cơ sở cở pháp
lý, hội đủ điều kiện đáp ứng được nhiều các mục tiêu, có tính khả thi cao, giải
quyết thấu lý đạt tình, đảm bảo sự nghiêm minh của pháp luật. Theo tôi, phương
án xử lý này là tối ưu, vì nó có các ưu điểm sau:
Đình chỉ việc khai thác khoáng sản: Điều này là cần thiết, đảm bảo đúng
quy định của pháp luật. Theo quy định của Luật khoáng sản 2010 thì mọi
tổ chức cá nhân khai thác khoáng sản phải được cơ quan có thẩm quyền cấp
phép, Công ty TNHH khoáng sản Phúc Thuận được UBND xã Bình Sơn cho
phép khai thác khoáng sản là trái luật.
Buộc khắc phục vi phạm: Yêu cầu Công ty TNHH khoáng sản Phúc
Thuận khắc phục lại hiện trạng đất rừng ban đầu chống xói mòn, sạt lở, trũng
xoáy, ô nhiễm dòng sông đảm bảo đúng theo quy định của Luật Bảo vệ và phát
triển rừng 2004, Luật Khoáng sản 2010 và Luật Bảo vệ môi trường 2005. Đồng
thời, có biện pháp tuyên truyền phổ biến pháp luật trong lĩnh vực khai thác tài
nguyên không chỉ giúp cho Công ty TNHH khoáng sản Phúc Thuận hiểu ra,
16
nắm rõ vấn đề về lĩnh vực khai khoáng mà còn giúp tổ chức, công dân – những
người đã và đang có ý định khai thác tài nguyên thực hiện đúng trình tự thủ tục
quy định của Nhà nước. Trên cơ sở đó, triển khai và duy trì hoạt động khai thác
tài nguyên đúng pháp luật, giúp mang lại hiệu quả phát triển kinh tế xã hội, xóa
đói giảm nghèo, giảm tỷ lệ thất nghiệp cho đất nước.
Thu hồi hợp đồng ký cho khai thác khoáng sản số 04/HĐ-TĐ ngày
11/02/2009 của UBND xã Bình Sơn đã ký với Công ty TNHH khoáng sản Phúc
Thuận. Luật Khoáng sản 2010 đã quy định thẩm quyền cấp phép khai thác
khoáng sản (vàng gỉ) là thuộc thẩm quyền của UBND cấp tỉnh, UBND cấp xã đã
ra hợp đồng cho khai thác khoáng sản là vượt thẩm quyền, cần phải thu hồi, hủy
hợp đồng cho khai thác khoáng sản của UBND xã Bình Sơn.
Đề nghị UBND huyện Hiệp Đức tự kiểm điểm và chỉ đạo kiểm điểm
UBND xã Bình Sơn cho khai thác khoáng sản trái thẩm quyền là đúng quy định
về Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân 2003.
Đề nghị Hội đồng nhân dân huyện Hiệp Đức hủy bỏ Nghị quyết
số 23/NQ-HĐND ngày 27/12/2008 của Hội đồng nhân dân xã Bình Sơn: do
Hội đồng nhân dân xã Bình Sơn ban hành về việc cho Công ty TNHH khoáng
sản Phúc Thuận khai thác khoáng sản là vi phạm Luật Khoáng sản 2010 và Luật
tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân 2003.
Qua việc phân tích những ưu, nhược điểm của bốn phương án xử lý tình
huống nêu trên, thì phương án 4 là phương án tối ưu. Vì phương án 4 thể hiện
được tính nghiêm minh của pháp luật, đồng thời cũng thể hiện được “cái tình”
trong cách xử lý, đồng thời nếu chúng ta chỉ xem nặng về tình mà không cân
nhắc kỹ về lý thì việc thực thi pháp luật của Nhà nước sẽ không có tác dụng cao.
Do đó, đối với vụ vi phạm về hoạt động khai thác khoáng sản ở xã Bình Sơn,
huyện Hiệp Đức là trường hợp điển hình nhất để cho chính quyền và người dân
tại các vùng miền núi hiểu rõ hơn về pháp luật nói chung và đồng thời làm
gương để giáo dục, răn đe cho mọi người thay đổi dần tư tưởng tích cực hơn
trong công tác bảo vệ tài nguyên và môi trường sinh thái, kết hợp với công tác
17
tuyên truyền sâu rộng đến người dân, làm cho người dân hiểu và có trách nhiệm
thực hiện tốt các quy định của pháp luật trên địa bàn.
b) Tổ chức thực hiện phương án đã lựa chọn để giải quyết tình
huống:
Căn cứ biện pháp tối ưu đã chọn, việc tổ chức thực hiện phương án được
triển khai như sau:
1. Yêu cầu Công ty TNHH khoáng sản Phúc Thuận chấm dứt ngay việc
khai thác khoáng sản trên sông Vu Gia thuộc địa phận thôn Xuân Hòa 2, xã
Bình Sơn, huyện Hiệp Đức.
2. Trong thời hạn 15 ngày, Công ty TNHH khoáng sản Phúc Thuận phải
khắc phục lại hiện trạng đất rừng ban đầu, chống xói mòn, sạt lở, trũng xoáy, ô
nhiễm dòng sông. Giao UBND xã Bình Sơn giám sát việc thực hiện khắc phục
vi phạm của Công ty TNHH khoáng sản Phúc Thuận và có báo cáo kết quả cho
UBND huyện Hiệp Đức, Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn và Sở Tài
nguyên & Môi trường.
3. Đoàn kiểm tra Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn sẽ báo cáo
Giám đốc Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn để có văn bản kiến
nghị UBND tỉnh Quảng Nam chỉ đạo một số vụ việc như sau:
- Yêu cầu UBND huyện Hiệp Đức tự kiểm điểm, chỉ đạo tổ chức kiểm
điểm UBND xã Bình Sơn và các cá nhân sai phạm trong việc cho phép Công ty
TNHH khoáng sản Phúc Thuận khai thác khoáng sản trên đất lâm nghiệp trái
thẩm quyền, chậm nhất trong vòng 30 ngày kể từ ngày UBND tỉnh ra văn bản và
có báo cáo kết quả về UBND tỉnh.
- Đề nghị hội đồng nhân dân huyện Hiệp Đức tổ chức hủy bỏ Nghị quyết
số 23/NQ-HĐND ngày 27/12/2008 của Hội đồng nhân dân xã Bình Sơn.
- Yêu cầu Ủy ban nhân dân huyện Hiệp Đức; Ủy ban nhân dân xã Bình
Sơn thực hiện các quy định được quy định tại khoản 2, Điều 81, Luật Khoáng
sản 2010:
18
+ Giải quyết theo thẩm quyền cho thuê đất hoạt động khoáng sản, sử dụng
hạ tầng kỹ thuật và các vấn đề khác có liên quan cho tổ chức, cá nhân được phép
hoạt động khoáng sản tại địa phương theo quy định của pháp luật;
+ Thực hiện các biện pháp bảo vệ môi trường, khoáng sản chưa khai thác,
tài nguyên thiên nhiên khác theo quy định của pháp luật; bảo đảm an ninh, trật
tự an toàn xã hội tại khu vực có khoáng sản;
+ Báo cáo Ủy ban nhân dân cấp trên trực tiếp tình hình hoạt động khoáng
sản trên địa bàn;
+ Tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về khoáng sản;
+ Thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm pháp luật về khoáng sản theo thẩm quyền.
2.5. Kết luận
Tình huống đã nêu trên, hiện nay đang là vấn đề nổi bật, phổ biến đang
được các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền quan tâm và tìm hướng giải quyết.
Việc giải quyết theo phương án được cho là tối ưu sẽ chuyển biến tích cực nhận
thức pháp luật về quản lý nhà nước ở cấp cơ sở, cụ thể là trên địa bàn xã Bình
Sơn, huyện Hiệp Đức.
19
Phần 3: KIẾN NGHỊ VÀ GIẢI PHÁP
Qua nghiên cứu vụ việc trên và tình hình tại địa phương, để quản lý nhà
nước tốt về công tác quản lý và bảo vệ tài nguyên thiên nhiên, đặc biệt trong
tình hình vi phạm pháp luật trong lĩnh vực quản lý, bảo vệ rừng với hoạt động
khai thác khoáng sản là một trong những vấn đề nóng ở các địa phương miền
núi của tỉnh hiện nay, đòi hỏi phải có những giải pháp giải quyết một cách nhanh
chóng, kịp thời, không thể chậm trễ hay đơn nhất mà cần có các biện pháp đồng
bộ. Tôi xin nêu một số vấn đề kiến nghị và giải pháp như sau:
Về mặt thể chế: Đề nghị đơn giản hóa thủ tục hành chính trong công tác
cấp phép khai thác khoáng sản. Đơn giản hóa để người dân có điều kiện khai
thác khoáng sản lập đúng thủ tục cấp phép theo quy định, tránh trình trạng người
dân ngại thủ tục cấp phép khai thác khoáng sản từ cơ quan quản lý nhà nước, mà
chuyển sang lách luật, né tránh dẫn đến vi phạm quy định pháp luật về tài
nguyên khoáng sản.
Về việc giải quyết yếu tố con người: Hiện nay cán bộ phục trách trong
công tác quản lý tài nguyên và môi trường ở cấp xã hầu như rất mỏng, chỉ có
cán bộ địa chính, thậm chí kiêm nhiệm về quản lý xây dựng, giao thông, thủy
lợi... nên trong việc tham mưu cho UBND cấp xã đôi lúc còn thiếu sót, không
kịp thời. Với tình hình phát triển kinh tế xã hội của nước ta hiện nay, vấn đề
quản lý và bảo tài nguyên là rất cấp thiết, Bộ Chính trị đã ra Nghị quyết 41-NQTW ngày 15/11/2004 về bảo vệ môi trường trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước. Vì vậy, cần thể chế hóa Nghị quyết này thành các
văn bản pháp luật, trong đó mục tiêu tăng cường nhân lực về quản lý nông
nghiệp trong công tác tài nguyên phải được chú trọng, nâng cao, đảm bảo thực
hiện hiệu quả từ trung ương đến cơ sở.
Về công tác quản lý nhà nước trong công tác quản lý và bảo vệ rừng,
khai thác tài nguyên của các cấp: Cần phải tăng cường tuyên truyền, phổ biến
pháp luật trong công tác khai thác tài nguyên; thường xuyên kiểm tra, giám sát
việc thực thi pháp luật trong công tác khai thác tài nguyên của cấp dưới và các
20
tổ chức, cá nhân; hướng dẫn, chỉ đạo xử lý kịp thời các vụ việc vi phạm tránh
trình trạng xảy ra các điểm nóng trên địa bàn tỉnh như trong thời gian qua.
Trên đây là những nội dung và phương pháp xử lý tình huống, xảy ra
trong quá trình thực hiện chức năng quản lý nhà nước, mà tác giả rút ra được
trong quá trình công tác và học tập chương trình Bồi dưỡng kiến thức Quản lý
nhà nước ngạch chuyên viên năm 2014 của Trường Chính trị tỉnh Quảng Nam tổ
chức. Do kiến thức và kinh nghiệm thực tiễn có hạn, nên tiểu luận này không thể
tránh khỏi những thiếu sót, rất mong quý thầy, cô giáo Trường Chính trị tỉnh
Quảng Nam quan tâm góp ý để tôi học hỏi, tiếp thu, rút kinh nghiệm./.
MỤC LỤC
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Tài liệu bồi dưỡng quản lý hành chính nhà nước (chương trình chuyên
viên) do Trường Chính trị Quảng Nam phát hành;
2. Luật Tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân, số hiệu
11/2003/QH11, ngày 26/11/2003;
3. Luật Bảo vệ và Phát triển rừng năm 2004, số hiệu 29/2004/QH11 ngày
03/12/2004;
4. Luật Bảo vệ môi trường, số hiệu 52/2005/QH11 ngày 12/12/2005;
5. Nghị định số 23/2006/NĐ-CP ngày 03/3/2006 của Chính phủ về thi
hành Luật Bảo vệ và phát triển rừng;
6. Quyết định số 186/2006/QĐ-TTg ngày 14/8/2006 của Thủ tướng Chính
phủ về ban hành Quy chế quản lý rừng;
7. Luật Khoáng sản, số hiệu 60/2010/QH12, ngày 17/11/2010;
8. Chỉ thị số 20/2012/CT-UBND ngày 21/8/2012 của UBND tỉnh Quảng
Nam về việc tăng cường các biện pháp quản lý phương tiện dụng cụ đưa vào
rừng trên địa bàn tỉnh;
9. Nghị định số 157/2013/NĐ-CP ngày 11/11/2013 của Chính phủ về xử
phạt vi phạm hành chính về quản lý rừng, phát triển rừng, bảo vệ rừng và quản
lý lâm sản;