Tải bản đầy đủ (.pdf) (104 trang)

Các nhân tố ảnh hưởng đến khởi sự kinh doanh của sinh viên học viện ngân hàng ( Luận văn thạc sĩ)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (353.41 KB, 104 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
---------------------------

VŨ THỊ MINH HẰNG

CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG TỚI KHỞI SỰ
KINH DOANH CỦA SINH VIÊN HỌC VIỆN NGÂN HÀNG

LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN TRỊ KINH DOANH

HÀ NỘI, 2018


VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
---------------------------

VŨ THỊ MINH HẰNG

CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG TỚI KHỞI SỰ
KINH DOANH CỦA SINH VIÊN HỌC VIỆN NGÂN HÀNG

Ngành: Quản trị kinh doanh
Mã số: 8340101

LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN TRỊ KINH DOANH

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC


PGS.TS BÙI VĂN HUYỀN

HÀ NỘI, 2018


MỤC LỤC

MỞ ĐẦU ........................................................................................................ 1
Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ KHỞI SỰ KINH DOANH ĐỐI
VỚI SINH VIÊN ......................................................................................... 13
1.1. Tổng quan về khởi sự kinh doanh .......................................................... 13
1.2. Cơ sở lý luận và các nhân tố ảnh hưởng đến khởi sự kinh doanh của
sinh viên ....................................................................................................... 23
Chương 226: THỰC TRẠNG NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG26 TỚI
KHỞI SỰ KINH DOANH CỦA SINH VIÊN HỌC VIỆN NGÂN
HÀNG ........................................................................................................... 26
2.1. Giả thuyết và mô hình nghiên cứu ......................................................... 26
2.2. Dữ liệu kiểm định................................................................................... 34
2.3. Phân tích hồi quy .................................................................................... 41
2.4. Thảo luận kết quả kiểm định .................................................................. 49
Chương 354: KIẾN NGHỊ.......................................................................... 54
3.1. Đối với Học viện Ngân hàng ................................................................. 54
3.2. Kiến nghị với Chính phủ và các Bộ/Ngành liên quan ........................... 60
KẾT LUẬN .................................................................................................. 65
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................... 67


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
Từ viết tắt


Ý nghĩa

AEC

Cộng đồng kinh tế ASEAN

APEC

Diễn đàn hợp tác Kinh tế Châu Á Thái Bình Dương

ASEAN

Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á

EFA

Phân tích nhân tố khám phá (Exploratory Factor Analysis)

EVFTA

Hiệp định thương mại tự do Việt Nam – EU

EU

Liên minh châu Âu

GEM

Global Entrepreneurhip Monitor


KSKD

Khởi sự kinh doanh

KNB

Vị trí xã hội của chủ doanh nghiệp

HMDN

Hình mẫu chủ doanh nghiệp

NGK

Ngoại khóa

SEE

Lý thuyết sự kiện khởi sự

SON

Tác động của xã hội

SPSS

Phần mềm Statistic Packages for Social Sciences

TUT


Tự tin Khởi sự kinh doanh


DANH MỤC BẢNG BIỂU
Số

Tên bảng

Trang

2.1

Thang đo về KSKD

31

2.2

Thang đo ý kiến người xung quanh

32

2.3

Thang đo vị trí xã hội của chủ doanh nghiệp

33

2.4


Thang đo kinh nghiệm KSKD

33

2.5

Thang đo tham gia hoạt động ngoại khóa

34

2.6

Thông tin về đối tượng điều tra

37

2.7

Kết quả tính toán độ tinh cậy thang đo

39

2.8

Kết quả phân tích nhân tố khám phá

41

2.9


Tóm tắt kết quả hồi quy phương pháp Enter/Remove

43


DANH MỤC HÌNH
Số

Tên hình

Trang

1.1

Phát triển kinh doanh tại Việt Nam

21

1.2

Khởi sự kinh doanh ở Việt Nam so với các nước trên thế giới

22

1.3

Khởi sự kinh doanh ở Việt Nam theo độ tuổi

22



MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Khởi sự kinh doanh đang là vấn đề thời sự được toàn xã hội quan tâm, tạo
thành một làn sóng mới trong giới trẻ, đặc biệt trong sinh viên với nhiều ý tưởng,
đam mê và khát vọng, cùng khả năng tiếp thu thích ứng và đổi mới sáng tạo.
Những cụm từ như “Thung lũng Silicon” hay “thành phố Bangalore (Ấn Độ) đã
trở nên hết sức quen thuộc đối với những bạn trẻ quan tâm đến khởi nghiệp.
Chúng ta cũng thường nhắc tới Mỹ, Israel hay Singapore như những quốc gia
khởi nghiệp, những điểm sáng nơi những ý tưởng khởi nghiệp được hiện thực
hóa và là điểm đến yêu thích của các nhà đầu tư. Khởi sự kinh doanh không còn
là một khái niệm xa lạ. Sự khuyến khích sáng tạo trong cộng đồng những người
trẻ, sự năng động của một thế hệ sinh viên mới, sự lưu thông dễ dàng của nguồn
vốn trong thời đại toàn câu hóa, sự tiếp sức và hỗ trợ của công nghệ thông tin và
truyền thông, tất cả dần hình thành một cộng đồng khởi nghiệp hội tụ nhiều yếu
tố để dấn thân, chấp nhận thử thách và vươn tới thành công.
Không nằm ngoài xu hướng vận động của thế giới, tại Việt Nam, chính
sách dành cho khởi nghiệp, trong đó có khởi sự kinh doanh trong sinh viên ngày
càng được tạo điều kiện và nhận được sự quan tâm lớn. Năm 2016 đã được
Chính phủ Việt Nam chọn là “Năm quốc gia khởi nghiệp”. Cùng với đó là những
cam kết mạnh mẽ và trách nhiệm rõ ràng của Chính phủ trong Đề án “Hỗ trợ hệ
sinh thái khởi nghiệp đổi mới sáng tạo quốc gia đến năm 2025”. Năm 2016
chứng kiến sự bùng nổ về những dự án khởi nghiệp, khởi sự kinh doanh, đặc biệt
trong giới trẻ - là các bạn sinh viên tại các trường đại học, cao đẳng, học viện,
được tạo thuận lợi bởi làn sóng đầu tư mới vào Việt Nam và tiến trình hội nhập
quốc tế của đất nước, đặc biệt là hội nhập về kinh tế trên cả phương diện song
phương và đa phương, những tác động tích cực, từ cộng đồng kinh tế ASEAN

1



(AEC), Hiệp định thương mại tự do Việt Nam – EU (EVFTA) và sự kiện năm
APEC Việt Nam 2017.
Ở Việt Nam, vai trò của đội ngũ doanh nhân và doanh nghiệp ngày càng
được Đảng và Nhà nước đề cao trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước. Báo cáo của Chính phủ tại kỳ họp thứ 3 Quốc hội khóa 11 đã khẳng
định: “Doanh nhân - Doanh nghiệp là lực lượng chủ lực xung kích trong sự
nghiệp phát triển kinh tế”. Việt Nam đã có được thành công bước đầu với khởi
nghiệp đổi mới sáng tạo và đang có thế hệ khởi nghiệp sáng tạo thứ ba trẻ trung
và sôi nổi hơn. Ngoài lợi thế về sự bùng nổ công nghệ, thị trường mở rộng, tư
duy quản lý thông thoáng hơn, thế hệ doanh nghiệp đổi mới sáng tạo này còn có
lợi thế về thị trường khi Việt Nam mở cửa rộng hơn với thế giới qua hàng loạt
thỏa thuận tự do thương mại. Cơ hội này giúp Thủ đô Hà Nội nói riêng và Việt
Nam nói chung trở thành điểm sáng về phong trào khởi nghiệp trong công nghệ
tại châu Á.
Năm 2016 là năm đánh dấu mốc quan trọng trong việc định hướng, xây
dựng Hà Nội trở thành một thủ đô khởi nghiệp. Hàng loạt các cuộc thi về sáng
tạo khởi nghiệp, các chuỗi hoạt động liên kết giữa các trường đại học của Hà Nội
kết hợp với các viện nghiên cứu trong và ngoài nước, các hội thảo, diễn đàn giúp
khơi gợi, thúc đẩy các ý tưởng khởi sự kinh doanh, phát triển, bồi dưỡng các kỹ
năng, trau dồi các kiến thức cần thiết, giúp các bạn trẻ nói chung và sinh viên nói
riêng có hành trang vững chắc, tự tin thực hiện các ý tưởng khởi sự kinh doanh
của mình.
Chúng ta cần nhận thức được khởi sự kinh doanh từ khi trong trường đại
học là thời điểm thuận lợi nhất và ít sức ép nhất cho các bạn. Đây là thời điểm ít
có cái để mất nhất trong cuộc đời, cũng là thời điểm nhiều nhiệt huyết và nhiều
thời gian nhất. Chính vì vậy, khởi nghiệp ngay từ trường đại học cho sinh viên
cái nhìn xã hội văn minh và tích cực hơn, tích lũ được nhiều kinh nghiệm và kiến

2



thức hơn. Một sinh viên khởi nghiệp từ trong trường đại học không nhất thiết sẽ
là một chủ doanh nghiệp sau này, tuy nhiên, dù làm gì thì những kiến thức công
nghệ thông tin và xã hội các bạn học được cũng nhiều hơn, giúp các bạn trở nên
tôt hơn trong công việc tương lai.
Tuy nhiên, đối với sinh viên muốn khởi sự kinh doanh, hiện tại vẫn còn có
nhiều tư tưởng chưa được tích cực lắm. Rất nhiều sinh viên khởi nghiệp vì muốn
“kiếm tiền”, làm giàu. Ở tuổi đời còn trẻ, ít kiến thức, khi khát khao là tiền thì
thường khó tạo cho mình bệ phóng để phát triển lâu bền. Rất dễ bị nhầm lẫm
giữa “khởi nghiệp” và “buôn”, không tạo ra nhiều giá trị cho xã hội mà chỉ
chuyển các giá trị có sẵn từ nơi này sang nơi khác.
Ngoại ngữ, đặc biệt là tiếng Anh cho khởi nghiệp cần được chú trọng hơn.
Đây là một trong những điểm yếu nhất của khởi nghiệp Việt. Đây cũng là lý do
hầu như 100% các công ty khởi nghiệp thành công ở Việt Nam đều dính yếu tố
nước ngoài (du học sinh nước ngoài về, Việt Kiều, Người nước ngoài, làm cho
công ty nước ngoài ra làm riêng,…)
Bên cạnh đó, để việc khởi sự kinh doanh của mình có thể cạnh tranh với
các công ty lớn mạnh trong thị trường và tìm được chỗ đứng cho mình, những
người sáng lập luôn luôn cần phải làm việc cực nhiều, cực vất vả. Sức khoẻ là
vấn đề liên quan trực tiếp đến thành bại nhiều hơn các em sinh viên nghĩ. Chính
vì vậy, rèn luyện để có một sức khoẻ tốt từ trong môi trường đại học là một trong
những điều sinh viên cần phải làm.
Một trong các vấn đề lớn của các trường đại học hiện nay là không gian
chia sẻ kiến thức, sân chơi giúp sinh viên được thực hiện hóa những ý tưởng của
mình. Sinh viên luôn luôn tìm kiếm môi trường để được tiếp xúc với những
doanh nghiệp đi đầu trong lĩnh vực hoặc những doanh nghiệp khởi nghiệp sáng
tạo với những thành công bước đầu, giúp phần định hình và có lựa chọn đúng
đắn cho nhưng bước đi đầu tiên vào hệ sinh thái khởi nghiệp sáng tạo.


3


Cũng chung tình trạng đó, sinh viên Học viện Ngân hàng – vốn được đánh
giá là một trong những trường dẫn đầu về khối kinh tế và quản trị kinh doanh sau khi ra trường thích nghi rất tốt đối với các công việc trong Ngân hàng như
quản trị rủi ro, quan hệ khách hàng (Tô Kim Ngọc, 2016), song lại rất ngại khởi
nghiệp, vì một số lý do như thiếu vốn, thiếu kỹ năng quản lý, thiếu thị trường…
[7]. Nhằm phục vụ mục tiêu xây dựng chính phủ kiến tạo, đồng thời tăng cường
khả năng kinh doanh của người dân Việt Nam nói chung và sinh viên Học viện
Ngân hàng nói riêng thì ngoài những chính sách hỗ trợ chung của nhà nước, điều
cần thiết là phải tìm hiểu các nhân tố ảnh hưởng đến khả năng khởi sự của bản
thân những người đang ngồi trên ghế nhà trường. Điều này, ngoài giúp ích cho
việc phát triển những kỹ năng của một thế hệ tương lai, còn góp phần giúp nhà
trường thay đổi chiến lược đào tạo để góp phần thích ứng với những nhu cầu của
xã hội. Do đó, đề tài “Các nhân tố ảnh hưởng đến khởi sự kinh doanh của
sinh viên Học viện Ngân hàng” đã được lựa chọn để nghiên cứu.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trên thế giới đã có rất nhiều nghiên cứu về các nhân tố ảnh hưởng tới tiềm
năng KSKD của sinh viên đại học qua 2 khía cạnh mong muốn KSKD và tự tin
KSKD trên các góc độ và quan điểm và phạm vi khác nhau. Các nhân tố tác
động đến KSKD có nhiều, và cũng theo rất nhiều quan điểm khác nhau như
ngành nghề được đào tạo, tuổi tác, giới tính, tôn giáo, tình trạng của cha mẹ…
Về cơ bản thì có một số các yếu tố sau:
Các yếu tố môi trường: Lý thuyết đầu tiên được đề cập đến trong các
nghiên cứu về KSKD là lý thuyết bối cảnh (Hoàng Thị Phương Thảo và cộng sự,
2013; Gnyawani etal, 1994…) [9]; [23]. Nội dung của lý thuyết này cho rằng,
bối cảnh của môi trường xung quanh có tác động lớn đến ý định khởi sự của các
cá nhân, từ đó có tác động đến ý muốn và khả năng sẽ tiến hành KSKD. Môi
trường hoạt động của cá nhân có thể được chia thành 2 nhóm. Nhóm các yếu tố


4


môi trường hoàn cảnh (lý trí) gồm: các yếu tố thực tế diễn ra trên thị trường như
định hướng của chính phủ, khả năng thực tế và tiềm lực kinh tế của người có ý
định khởi nghiệp, ý tưởng về các nhóm ngành sẽ hifnht hành trong tương lai và
những nhân tố khác. Nhóm thứ hai có thể hình thành là yếu tố môi trường cảm xúc
bao gồm hình mẫu chủ doanh nghiệp, ý kiến người xung quanh và vị trí xã hội của
chủ doanh nghiệp (Elfving, 2009) [22]. Lý thuyết này được phát triển bởi lý
thuyết hành vi hợp lý – nhằm xác định các yếu tố ảnh hưởng đến các cá nhân
trên thị trường; và lý thuyết hành vi phù hợp – được sử dụng với các hành vi liên
quan đến ngành công nghệ. Nguyễn Thị Tuyết Mai (2003) còn cho rằng, đối với
các quốc gia có ảnh hưởng bởi Nho giáo và Phật giáo như các nước Đông Á thì ý
tưởng khởi nghiệp còn bị ảnh hưởng bởi các quan điểm phương Đông và tư
tưởng phương Tây [29]. Đây là điểm bổ sung rất tốt cho lý thuyết bối cảnh.
Các yếu tố về đặc điểm cá nhân: Mặc dù được khuyến khích và tạo lập bởi
nhiều nhóm người, song về cơ bản, các đặc điểm của cá nhân như tuổi, công việc
hiện tại, ngành học, tôn giáo, định hướng của người xung quanh sẽ ảnh hưởng
đến KSKD (Lowell, 2003; Susa, 2008) [27], [31]. Lý thuyết này được bổ sung
khá nhiều và khá tốt bởi lý thuyết người đại diện: Cá nhân có tiếng nói trong
nhóm sẽ có ảnh hưởng quyết định đến khởi nghiệp của các cá nhân khác.
Các yếu tố trải nghiệm cá nhân: các trường đại học có đào tạo chương trình
về kinh tế thường được nghiên cứu về các yếu tố trải nghiệm cá nhân đối với
khởi nghiệp (Lüthje and Franke, 2004; Phan Anh Tú và cộng sự, 2015) [28],
[13]. Những nghiên cứu trước đồng thời cho rằng: trải nghiệm trong thực tế cuộc
sống như kinh nghiệm KSKD và kinh nghiệm kinh doanh, vốn xã hội, vốn con
người, kinh nghiệm lãnh đạo có ảnh hưởng đến ý định KSKD của các sinh viên.
Thậm chí, mở rộng hơn, các chương trình thực tế về khởi nghiệp có tác động đến
khả năng của sinh viên sau khi ra trường.


5


Ở Việt Nam cũng có một số nghiên cứu đã chỉ ra động cơ khởi sự của thanh niên
như:
Tác giả Phan Anh Tú (2015), Nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đến ý định
khởi sự doanh nghiệp: Trường hợp sinh viên khoa kinh tế và quản trị kinh doanh
Trường đại học Cần Thơ, Tạp chí Khoa học trường đại học Cần Thơ. Nghiên
cứu này chỉ ra các nhân tố ảnh hưởng đến ý định khởi sự kinh doanh của sinh
viên khoa kinh tế và quản trị kinh doanh trương đại học Cần Thơ. Trong đó có
đề cập đến các nhân tố như: giới tính, thái độ, nhân thức về khởi sự kinh doanh,
nguồn vốn, nền tảng giáo dục trong trường đại học và nhu cầu thành đạt của sinh
viên. [13]. Bài viết này, tác giả cho rằng khởi sự doanh nghiệp là khởi sự kinh
doanh.
Nhóm tác giả Ngô Thị Thanh Tiên và Cao Quốc Việt (2016), Tổng quan lý
thuyết về ý định khởi nghiệp của sinh viên. Nghiên cứu này cũng đưa ra các nhân
tố như giới tính, tính cách, tư duy, thái độ của sinh viên, môi trường kinh doanh,
chương trình giáo dục… tuy nhiên nghiên cứu này chỉ tập trung vào xây dựng
khung lý thuyết các nhân tố ảnh hưởng đến khởi sự kinh doanh mà không đi vào
các nghiên cứu thực tiễn ở một không gian cụ thể. [10]
Nguyễn Ngọc Huyền (2012), Khởi sự kinh doanh, Nhà xuất bản Đại học
Kinh tế quốc dân. Đây được coi như một giáo trình cơ bản dành cho sinh viên
học về khởi sự kinh doanh. Tác giả đã đưa ra những đinh nghĩa cơ bản liên quan
đến khởi sự kinh doanh và các tố chất cần có cho người khởi sự kinh doanh. [5]
Nghiên cứu của Ngô Thắng Lợi (2017), tập trung nghiên cứu đánh giá thực
trạng và đề xuất một số giải pháp nâng cao khả năng tự tạo việc làm cho thanh
niên nói chung. Tuy nhiên, tác giả không nghiên cứu cụ thể về khởi sự kinh
doanh và các giải pháp phát triển hoạt động này ở thanh niên trong bối cảnh hiện
nay. [6]


6


Nghiên cứu của Nguyễn Thu Thủy (2015) về tiềm năng khởi sự kinh doanh của
sinh viên đại học trên địa bàn Hà Nội. Tác giải có đưa ra các nhân tố như kinh
nghiệm thương mại, kinh nghiệm lãnh đạo, đào tạo đại học, truyền cảm hứng khởi
sự… [11]
Nhìn chung nghiên cứu về khởi sự kinh doanh luôn là một đề tài có nhiều nhà
nghiên cứu trong và ngoài nước rất quan tâm. Trong khởi sự kinh doanh thì nghiên
cứu về các nhân tố ảnh hưởng hay yếu tố tác động đến các hoạt động khởi sự của
sinh viên luôn là một nghiên cứu có ý nghĩa thực tiễn và cần thiết. Nó giúp những
người khởi sự kinh doanh nhận diện được các yếu tố cản trở trong quá trình khởi sự
của mình đồng thời giúp nhà trường và xã hội lên những phương án hỗ trợ sinh viên
trong quá trình khởi sự của bản thân.
Các nghiên cứu trên tuy đã đạt được nhiều thành tựu, song vẫn để lại một
số hạn chế lớn như đa phần đều chỉ nghiên cứu định tính, không tập trung vào
các yếu tố định lượng như sử dụng phương pháp hồi quy để tiến hành. Thêm vào
đó, các nghiên cứu trước đây chỉ nghiên cứu mối quan hệ giữa một hoặc một vài
yếu tố tới tiềm năng KSKD, chưa có nghiên cứu nào kết hợp xem xét tác
động của các trải nghiệm cá nhân bao gồm kinh nghiệm tiếp thu qua các hoạt
động đào tạo trong trường đại học, kinh nghiệm từ hoạt động của chính cá
nhân, môi trường cảm xúc tới tiềm năng KSKD của sinh viên. Điều đáng
quan tâm là các yếu tố được đề cập ở các nghiên cứu trên rõ ràng có tác
động đến KSKD của không chỉ sinh viên đại học, song lại chưa có công bố
quốc tế nào liên quan đến việc sẽ sử dụng tất cả các biến đó (Và phát triển
thêm các biến khác) vào một mô hình. Do vậy, đây là khoảng trống nghiên
cứu còn lại rất lớn cho bản thân tác giả trong nghiên cứu về Học viện Ngân
hàng, và những người làm nghiên cứu tiếp theo. Thêm vào đó, với đa phần các
nghiên cứu trước đây, nếu là nghiên cứu ngoài nước thì chỉ tập trung tại các
trường đại học tổng hợp (vì một lý do đơn giản là các trường đại học nước ngoài

không tập trung vào 1 ngành nào cả, ví dụ như khối kinh tế, khối công nghệ
7


thông tin, thậm chí khối Lao động xã hội như Việt Nam) – không có một trường
chuyên biệt nào như đặc trưng của Việt Nam nên không chỉ ra được các nhân
tố cụ thể tác động đến KSKD. Đối với các nghiên cứu trong nước, cũng đa
phần tập trung vào một số ngành như công nghệ thông tin (Phan Anh Tú,
2015; Nguyễn Thị Thanh Tiên, 2016), đồng thời các nghiên cứu này không
đưa ra được tổng quan nghiên cứu cụ thể cũng như các mô hình được sử
dụng trong bài áp dụng trên cơ sở lý thuyết gốc nào [10], [13]. Do đó, có thể
nói, tại Việt Nam, chưa có một nghiên cứu nào chuyên sâu về KSDN đối với
sinh viên nói chung và sinh viên Học viện Ngân hàng nói riêng. Chính vì thế, đề
tài “Các nhân tố ảnh hưởng đến khởi sự kinh doanh của sinh viên Học viện
Ngân hàng” là một đề tài mới, không trùng lắp với các công trình trước đó.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu: Kiểm định nhân tố ảnh hưởng tới tiềm năng khởi
sự kinh doanh ở sinh viên đại học chính quy trong bối cảnh nền kinh tế chuyển
đổi như ở Việt Nam.
Các nhiệm vụ cụ thể gồm: (1) Tìm hiểu các lý thuyết gốc liên quan đến
KSKD và tiềm năng KSKD – trong đó tập trung vào sinh viên đại học ngành
Kinh tế và Công nghệ thông tin có liên quan đến kinh tế. (2) Kiểm định mô hình
dựa trên các giả thuyết đã có trước về KSKD dựa trên những trải nghiệm của cá
nhân và các nhân tố xung quanh của sinh viên Học viện Ngân hàng (3) đưa ra
một số gợi ý giải pháp cho Học viện Ngân hàng và các cơ quan quản lý vĩ mô
trong việc thúc đẩy tiềm năng KSKD của sinh viên Học viện Ngân hàng nói
riêng, các trường đại học tương tự như Kinh tế Quốc dân, Ngoại Thương, Tài
chính… nói chung.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: các nhân tố tác động tới tiềm năng khởi sự kinh

doanh của sinh viên Học viện Ngân hàng.
8


Luận văn đầy đủ ở file:Luận văn Full












×