Tải bản đầy đủ (.pdf) (90 trang)

Điều tra vụ án vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ theo pháp luật Tố tụng hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Quảng Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.16 MB, 90 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

TRẦN DUY PHƯƠNG

ĐIỀU TRA VỤ ÁN VI PHẠM QUY ĐỊNH
VỀ THAM GIA GIAO THÔNG ĐƯỜNG BỘ
THEO PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM
TỪ THỰC TIỄN TỈNH QUẢNG NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI, năm 2018


VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

TRẦN DUY PHƯƠNG

ĐIỀU TRA VỤ ÁN VI PHẠM QUY ĐỊNH
VỀ THAM GIA GIAO THÔNG ĐƯỜNG BỘ
THEO PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM
TỪ THỰC TIỄN TỈNH QUẢNG NAM

Chuyên nghành: Luật Hình sự và Tố tụng hình sự
Mã số: 838.01.04

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC



NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS TRƯƠNG QUANG VINH

HÀ NỘI, NĂM 2018


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan số liệu và kết quả nghiên cứu trong luận văn Thạc sĩ
Luật học “Điều tra vụ án vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ
theo pháp luật Tố tụng hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Quảng Nam” là
hoàn toàn trung thực và không trùng lặp với các đề tài khác trong cùng lĩnh
vực. Các thông tin trình bày trong luận văn đã được ghi rõ nguồn gốc. Luận
văn là công trình nghiên cứu của cá nhân tôi dưới sự hướng dẫn khoa học
của PGS.TS Trương Quang Vinh.
Tác giả xin chịu hoàn toàn trách nhiệm về lời cam đoan này.
Tác giả luận văn

Trần Duy Phương


LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành khóa học và Luận văn thạc sĩ Luật học của mình, trước
hết tác giả xin gửi lời cảm ơn chân thành đến Ban Giám đốc, các khoa, phòng
và quý Thầy, Cô trong Học viện Khoa học Xã hội đã nhiệt tình truyền đạt
những kiến thức quý báu cho tác giả trong suốt quá trình học tập và hoàn
thành luận văn Thạc sĩ Luật học.
Tác giả xin gửi lời cảm ơn sâu sắc đến PGS.TS Trương Quang Vinh đã
trực tiếp hướng dẫn, định hướng chuyên môn, quan tâm giúp đỡ tận tình và
tạo điều kiện thuận lợi nhất cho tác giả trong quá trình thực hiện Luận văn.

Bên cạnh đó, tác giả xin được gửi lời cảm ơn đến đơn vị, bạn bè, đồng
nghiệp luôn quan tâm tạo điều kiện, chia sẽ, động viên tác giả trong suốt thời
gian học tập và thực hiện Luận văn.
Mặc dù đã cố gắng trong quá trình thực hiện, nhưng Luận văn không
tránh khỏi những thiếu sót. Tác giả mong nhận được sự góp ý của quý Thầy,
Cô và bạn bè, đồng nghiệp
Tác giả luận văn

Trần Duy Phương


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ............................................................................................................... 1
Chương 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ ĐIỀU TRA VỤ ÁN VI PHẠM
QUY ĐỊNH VỀ THAM GIA GIAO THÔNG ĐƯỜNG BỘ THEO PHÁP
LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM ............................................................ 6
1.1. Lý luận chung về tội phạm vi phạm quy định về tham gia giao thông đường
bộ ............................................................................................................................ 6
1.2. Điều tra vụ án vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ theo pháp
luật Tố tụng hình sự Việt Nam .............................................................................11
Chương 2. THỰC TIỄN ĐIỀU TRA VỤ ÁN VI PHẠM QUY ĐỊNH VỀ
THAM GIA GIAO THÔNG ĐƯỜNG BỘ THEO PHÁP LUẬT TỐ TỤNG
HÌNH SỰ VIỆT NAM TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH QUẢNG NAM....................34
2.1. Tình hình, đặc điểm có liên quan đến điều tra vụ án vi phạm quy định về
tham gia giao thông đường bộ trên địa bàn tỉnh Quảng Nam ..............................34
2.2. Điều tra tội phạm vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ theo
pháp luật Tố tụng hình sự của lực lượng Công an tỉnh Quảng Nam ...................45
2.3. Nhận xét, đánh giá về điều tra vụ án vi phạm quy định về tham giao thông
đường bộ theo pháp luật Tố tụng hình sự của lực lượng Công an tỉnh Quảng Nam
..............................................................................................................................58

Chương 3. GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ ĐIỀU TRA VỤ ÁN VI
PHẠM QUY ĐỊNH VỀ THAM GIA GIAO THÔNG ĐƯỜNG BỘ THEO
PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH
QUẢNG NAM .....................................................................................................62
3.1. Dự báo tình hình, đặc điểm có liên quan đến điều tra vụ án vi phạm quy định
về tham gia giao thông đường bộ theo pháp luật Tố tụng hình sự Việt Nam trên
địa bàn tỉnh Quảng Nam trong những năm tới. ...................................................62


3.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động điều tra vụ án vi phạm quy định về
tham gia gia thông đường bộ theo pháp luật Tố tụng hình sự Việt Nam trên địa
bàn tỉnh Quảng Nam ............................................................................................65
KẾT LUẬN .........................................................................................................76
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
BLHS

: Bộ luật hình sự

BLTTHS

: Bộ luật Tố tụng hình sự

CSĐT

: Cảnh sát điều tra

CSGT


: Cảnh sát giao thông

CSND

: Cảnh sát nhân dân

ĐKPTGTĐB

: Điều khiển phương tiện giao thông đường bộ

ĐTV

: Điều tra viên

KNHT

: Khám nghiệm hiện trường

KSV

: Kiểm sát viên

TGGTĐB

: Tham gia giao thông đường bộ

TNGT

: Tai nạn giao thông


TTATGT

: Trật tự an toàn giao thông

TTHS

: Tố tụng hình sự

VKS

: Viện kiểm sát

VPQĐ

: Vi phạm quy định


DANH MỤC CÁC BẢNG

Số hiệu

Tên bảng

bảng

Trang

Tình hình tai nạn giao thông đường bộ trên địa bàn
2.1.


tỉnh Quảng Nam từ năm 2013 đến tháng 02 năm

38

2018
Số vụ án tai nạn giao thông đường bộ trên địa bàn
2.2.

tỉnh Quảng Nam được khởi tố điều tra từ năm 2013

38

đến tháng 02 năm 2018
Độ tuổi tội phạm VPQĐ về ĐKPTGTĐB và VPQĐ
2.3.

về TGGTĐB trên địa bàn tỉnh Quảng Nam từ 2013

39

đến tháng 02 năm 2018
Thời gian xảy ra vụ án vi phạm quy định về
2.4.

ĐKPTGTĐB và VPQĐ về TGGTĐB trên địa bàn

40

tỉnh Quảng Nam từ 2013 đến tháng 02 năm 2018

Địa điểm xảy ra các vụ án VPQĐ về ĐKPTGTĐB
2.5.

và VPQĐ về TGGTĐB trên địa bàn tỉnh Quảng

41

Nam từ 2013 đến tháng 02 năm 2018
Nguyên nhân các vụ án tai nạn giao thông đường
2.6.

bộ trên địa bàn tỉnh Quảng Nam từ 2013 đến tháng
02 năm 2018

42


1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước, việc phát triển và bảo đảm
trật tự an toàn giao thông (TTATGT) nói chung và giao thông đường bộ nói
riêng có ý nghĩa rất quan trọng trong tất cả các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn
hóa, xã hội nhất là trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất
nước, thời kỳ hội nhập kinh tế thế giới. Vì vậy, công tác bảo đảm TTATGT
đường bộ luôn được Đảng và Nhà nước ta xác định là một trong những nhiệm vụ
trọng tâm. Trong những năm qua, Chính phủ đã có nhiều nỗ lực trong việc áp
dụng các biện pháp kiềm chế tai nạn giao thông (TNGT) và ùn tắc giao thông.
Tuy nhiên, bên cạnh những thành tích đã đạt được, vấn đề TNGT và tội phạm vi
phạm quy định (VPQĐ) về tham gia giao thông đường bộ (TGGTĐB) vẫn đang

diễn biến phức tạp gây tác động xấu đến mọi mặt của đời sống xã hội, làm thiệt
hại nghiêm trọng về tính mạng, sức khỏe, tài sản của con người cũng như gây ra
những hậu quả tiêu cực khác cho xã hội. “Tai nạn giao thông, đặc biệt tai nạn giao
thông đường bộ đã gây ra những thiệt hại to lớn về người, tài sản của Nhà nước
và nhân dân, đang là vấn đề xã hội hết sức bức xúc, nghiêm trọng” [7, tr.1]
Quảng Nam là một tỉnh ven biển thuộc miền Nam Trung Bộ của nước ta,
phía Bắc giáp với thành phố Đà Nẵng và tỉnh Thừa Thiên Huế, phía Nam giáp với
tỉnh Quảng Ngãi và tỉnh Kon Tum, phía Đông giáp với biển Đông, phía Tây tiếp
giáp với tỉnh Sêkông của nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào. Quảng Nam nằm
trong vùng quan trọng của miền Nam Trung bộ, có tốc độ phát triển kinh tế xã hội
cao đang thu hút nhiều vốn đầu tư nước ngoài và phát triển công nghiệp, là nơi
trung chuyển giữa hai miền Bắc - Nam của nước ta, có tuyến quốc lộ 1A đi qua
dài 85km và nhiều tuyến quan trọng khác như quốc lộ Hồ Chí Minh dài 175km;
quốc lộ 14B dài 42km; quốc lộ 14D dài 74,4km; quốc lộ 14E dài 78,4km; 18
tuyến tỉnh lộ dài 420,9km; 179 tuyến huyện lộ và nội thị dài 1.150km; đường liên


2
thôn, liên xã dài 4.230km và tuyến đường ven biển dài 125km.
Với cơ sở hạ tầng giao thông dàn trải và số lượng phương tiện giao thông
trên địa bàn tỉnh đang gia tăng với tốc độ cao như hiện nay, tình hình tai nạn giao
thông đường bộ diễn ra ngày càng phức tạp. Từ năm 2013 đến tháng 02/2018 trên
địa bàn tỉnh xảy ra tai nạn giao thông xảy ra 1389 vụ, làm chết làm chết 877
người, bị thương 1.347 người và gây thiệt hại tài sản ước tính khoảng trên 20 tỷ
đồng. Nguyên nhân gây TNGT rất đa dạng nhưng chủ yếu là do người tham gia
giao thông chiếm tỷ lệ khoảng 80%.
Để làm rõ nguyên nhân của tình trạng trên, trong những năm gần đây Công an
tỉnh Quảng Nam đã có nhiều cố gắng, triển khai nhiều biện pháp để đấu tranh phòng
chống tội phạm liên quan đến giao thông đường bộ, đã có tác dụng tích cực, góp phần
làm giảm TNGT, phát hiện xử lý được nhiều vụ phạm tội VPQĐ về điều khiển

phương tiện giao thông đường bộ, được quy định tại điều 202, Bộ luật hình sự năm
1999, và được thay thế bằng điều 260 Bộ luật hình sự 2015 với tội danh “vi phạm
quy định về tham gia giao thông đường bộ”. Tuy nhiên, tỷ lệ khởi tố điều tra, truy tố,
xét xử còn ít so với số vụ TNGT gây hậu quả nghiêm trọng, rất nghiêm trọng và đặc
biệt nghiêm trọng xảy ra, nên tính răn đe của pháp luật đối với loại tội phạm VPQĐ
về ĐKPTGTĐB chưa được phát huy triệt để, một số vụ TNGT không làm rõ được
tội phạm đã gây ảnh hưởng xấu đến TTATGT. Bên cạnh đó, đến nay chưa có công
trình nghiên nào đề cập đến vấn đề điều tra tội phạm VPQĐ về TGGTĐB trên địa
bàn tỉnh Quảng Nam.
Xuất phát từ yêu cầu đòi hỏi cả trên phương diện lý luận và thực tiễn nêu trên,
tác giả lựa chọn đề tài “Điều tra vụ án vi phạm quy định về tham gia giao thông
đường bộ theo pháp luật Tố tụng hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Quảng Nam” để
nghiên cứu luận văn thạc sĩ luật học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu
Nghiên cứu tội phạm VPQĐ về ĐKPTGTĐB hiện nay ở nước ta đã có một số
công trình, bài viết của các nhà khoa học:


3
- Nguyễn Minh Hiệp (2004), Điều tra tội phạm vi phạm quy định về điều
khiển phương tiện giao thông đường bộ của lực lượng Cảnh sát điều tra tội
phạm về trật tự xã hội Công an tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu, Luận văn thạc sĩ luật
học, Học viện Cảnh sát nhân dân, Hà Nội;
- Nguyễn Xuân Trường (2009), Phối hợp trong phòng ngừa, điều tra tội
phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ của lực lượng
Cảnh sát nhân dân Công an tỉnh Đắk Lắk, Luận văn thạc sĩ luật học, Trường Đại
học Cảnh sát nhân dân, TP. Hồ Chí Minh...
- Huỳnh Tiến Mạnh (2009), Điều tra vụ án vi phạm quy định về điều khiển
phương tiện giao thông đường bộ của lực lượng Cảnh sát nhân dân Công an
tỉnh Đồng Nai, Luận văn thạc sĩ luật học, Trường Đại học Cảnh sát nhân dân,

TP. Hồ Chí Minh;
Tuy vậy, những công trình trên đều đã diễn ra cách đây khá lâu và áp dụng
các quy định theo pháp luật hình sự năm 1999. Hiện nay, việc ban hành Bộ luật
hình sự 2015, Bộ luật TTHS 2015 đã có những thay đổi về quy định tội danh này
và quy trình thực hiện điều tra vụ án hình sự cũng đã có những thay đổi nhất
định. Do đó, với nội dung đề tài “Điều tra vụ án vi phạm quy định về tham gia
giao thông thông đường bộ theo pháp luật Tố tụng hình sự Việt Nam từ thực tiễn
tỉnh Quảng Nam" là nội dung mới và phù hợp với thực tế hiện nay.
3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục tiêu nghiên cứu
Làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn công tác điều tra vụ án VPQĐ về
TGGTĐB theo pháp luật TTHS trên địa bàn tỉnh Quảng Nam. Trên cơ sở đó, đề
xuất giải pháp nâng cao hiệu quả công tác điều tra vụ án VPQĐ về TGGTĐB
theo pháp luật TTHS trên địa bàn tỉnh.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được các mục tiêu đề tài đề ra, cần giải quyết các nhiệm vụ cụ thể
sau:


4
+ Nghiên cứu làm rõ những vấn đề nhận thức lý luận về tội phạm VPQĐ
về TGGTĐB và điều tra vụ án VPQĐ về TGGTĐB.
+ Phân tích làm rõ thực tiễn điều tra vụ án VPQĐ về TGGTĐB theo pháp
luật TTHS trên địa bàn tỉnh Quảng Nam từ năm 2013 đến tháng 2 năm 2018 do
cơ quan CSĐT Công an tỉnh và Cơ quan điều tra Công an các huyện, thị xã,
thành phố trên địa bàn tỉnh thực hiện.
+ Dự báo tình hình tội phạm VPQĐ về TGGTĐB, đề xuất giải pháp nâng
cao hiệu quả công tác điều tra vụ án VPQĐ về TGGTĐB
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu

Những vấn đề lý luận và thực tiễn điều tra các vụ án VPQĐ về TGGTĐB
theo quy định của pháp luật TTHS từ thực tiễn tỉnh Quảng Nam.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu tình hình tội phạm VPQĐ về TGGTĐB
trên địa bàn tỉnh Quảng Nam và thực tiễn công tác điều tra các vụ án này theo
pháp luật TTHS trong giai đoạn từ năm 2013 đến tháng 02 năm 2018
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận
Luận văn được nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận biện chứng duy
vật của Chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; đường lối, chính sách
của Đảng; pháp luật của Nhà nước; Nghị quyết, Chỉ thị của Ngành Công an
trong công tác điều tra tội phạm.
5.2.Phương pháp nghiên cứu
Quá trình nghiên cứu tác giả sử dụng các phương pháp cụ thể như:
+ Phương pháp nghiên cứu tài liệu.
+ Phương pháp phân tích, so sánh, tổng hợp.
+ Phương pháp chứng minh, đánh giá, khái quát hóa, hệ thống hóa
+ Phương pháp lấy ý kiến chuyên gia.


5
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
6.1. Ý nghĩa lý luận của luận văn
Kết quả nghiên cứu của đề tài là tài liệu khoa học góp phần làm phong
phú thêm lý luận và thực tiễn điều tra vụ án VPQĐ về TGGTĐB.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn của luận văn
Đề tài là tài liệu tham khảo cho cán bộ, chiến sỹ đang trực tiếp làm công tác
điều tra vụ án VPQĐ về TGGTĐB trên địa bàn tỉnh Quảng Nam nói riêng và cả
nước nói chung, nhằm nâng cao hiệu quả công tác điều tra loại tội phạm này.
7. Cấu trúc của luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
được bố cục thành 3 chương.
Chương 1. Những vấn đề lý luận về điều tra vụ án vi phạm quy định tham
gia giao thông đường bộ theo pháp luật Tố tụng hình sự Việt Nam
Chương 2. Thực tiễn điều tra vụ án vi phạm quy định về tham gia giao thông
đường bộ theo pháp luật Tố tụng hình sự Việt Nam trên địa bàn tỉnh Quảng Nam
Chương 3.Giải pháp nâng cao hiệu quả điều tra vụ án vi phạm quy định về
tham gia giao thông đường bộ theo pháp luật Tố tụng hình sự Việt Nam từ thực
tiễn tỉnh Quảng Nam


6
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ ĐIỀU TRA VỤ ÁN
VI PHẠM QUY ĐỊNH VỀ THAM GIA GIAO THÔNG ĐƯỜNG BỘ
THEO PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM
1.1. Lý luận chung về tội phạm vi phạm quy định về tham gia giao
thông đường bộ
1.1.1. Khái niệm tội phạm vi phạm quy định về tham gia giao thông giao
thông đường bộ
Từ điển Bách khoa Công an nhân dân 2005 định nghĩa: “Vi phạm pháp luật
là hành vi không tuân theo hoặc làm trái pháp luật”; từ khái niệm trên ta có thể
hiểu: vi phạm quy định (VPQĐ) tham gia giao thông đường bộ (TGGTĐB) là
hành vi không tuân theo hoặc làm trái các quy định của Luật Giao thông đường
bộ và các văn bản pháp luật trên lĩnh vực an toàn giao thông đường bộ của người
tham gia giao thông.
Vi phạm quy định về tham gia giao thông thông đường bộ là một trong
những nguyên nhân dẫn đến các vụ tai nạn giao thông (TNGT) đường bộ gây
thiệt hại về người, tài sản hoặc đe dọa gây thiệt hại về người, tài sản của cơ quan,
tổ chức và cá nhân. Qua nghiên cứu các quy định của pháp luật giao thông

đường bộ cho thấy hình thức biểu hiện của loại hành vi vi phạm rất đa dạng như:
chạy quá tốc độ qui định, vượt ẩu, lạng lách, đánh võng, đi sai phần đường, tránh
vượt sai qui định hoặc sử dụng các chất kích thích khác khi điều khiển phương
tiện giao thông… và là cơ sở nảy sinh trách nhiệm pháp lý đối với người vi
phạm. Tùy theo tính chất, mức độ hậu quả (khả năng thực tế sẽ thể gây ra hậu
quả) do hành vi vi phạm gây ra, người vi phạm có thể bị xử lý hành chính hoặc
truy cứu trách nhiệm hình sự.
Điều 8 Bộ luật hình sự (BLHS) năm 2015 quy định:
Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật
hình sự, do người có năng lực trách nhiệm hình sự hoặc pháp nhân thương


7
mại thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống
nhất và toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc, xâm phạm chế độ chính trị, chế độ kinh tế,
nền văn hoá, quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội, quyền, lợi ích hợp
pháp của tổ chức, xâm phạm quyền con người, quyền, lợi ích hợp pháp khác
của công dân, xâm phạm những lĩnh vực khác của trật tự pháp luật xã hội chủ
nghĩa mà theo quy định của Bộ luật này phải bị xử lý hình sự.[19]
Điều 260, BLHS năm 2015 đã được sửa đổi bổ sung một số điều theo luật
số 12/2017/QH 14 quy định về Tội vi phạm quy định tham gia giao thông đường
bộ, cụ thể:
1. Người nào tham gia giao thông đường bộ mà vi phạm quy định về an
toàn giao thông đường bộ thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt
tiền từ 30.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến
03 năm hoặc phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:
a) Làm chết 01 người;
b) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 01 người mà tỷ lệ
tổn thương cơ thể 61% trở lên;
c) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở lên mà

tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể của những người này từ 61% đến 121%;
d) Gây thiệt hại về tài sản từ 100.000.000 đồng đến dưới 500.000.000đ.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 03
năm đến 10 năm:
a) Không có giấy phép lái xe theo quy định;
b) Trong tình trạng có sử dụng rượu, bia mà trong máu hoặc hơi thở có
nồng độ cồn vượt quá mức quy định, có sử dụng chất ma túy hoặc các chất kích
thích mạnh khác;
c) Bỏ chạy để trốn tránh trách nhiệm hoặc cố ý không cứu giúp người bị nạn;
d) Không chấp hành hiệu lệnh của người điều khiển hoặc hướng dẫn giao
thông;


8
đ) Làm chết 02 người;
e) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở lên mà
tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể của những người này từ 122% đến 200%trở lên;
h) Gây thiệt hại về tài sản từ 500.000.000 đồng đến dưới 1.500.000.000đ.
3. Phạm tội thuộc một trong các trường sau đây, thì bị phạt tù từ 07 năm
đến 15 năm:
a) Làm chết 03 người trở lên;
b) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 03 người trở lên mà
tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể của những người này 201% trở lên;
c) Gây thiệt hại về tài sản 1.500.000.000 đồng trở lên.
4. Vi phạm quy định về an toàn giao thông đường bộ trong trường hợp có
khả năng thực tế dẫn đến hậu quả quy định tại các điểm a,b,c khoản 3 Điều này
nếu không được ngăn chặn kịp thời, thì bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến
50.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 01 năm hoặc phạt tù từ 03
tháng đến 01 năm.
5. Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề

hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm. [19]
Dựa vào các quy định Bộ luật hình sự nêu trên và qua học tập, nghiên cứu tài
liệu, có thể đưa ra khái niệm tội phạm VPQĐ về TGGTĐB như sau:
“Tội phạm VPQĐ về TGGTĐB là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy
định trong BLHS, do người có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện một cách
vô ý, gây ra những thiệt hại nhất định đến tính mạng, sức khoẻ của con người
hoặc tài sản của cơ quan, tổ chức, cá nhân hoặc tuy chưa gây ra thiệt hại nhất
định nhưng đã đặt khách thể cần bảo vệ trong tình trạng đặc biệt nghiêm trọng,
cần thiết phải truy cứu trách nhiệm hình sự”.
1.1.2. Dấu hiệu pháp lý của tội phạm vi phạm quy định về tham gia giao
thông đường bộ
Trong hoạt động điều tra, việc làm rõ cấu thành tội phạm có ý nghĩa hết


9
sức quan trọng. Bởi các dấu hiệu pháp lý trong cấu thành tội phạm mang tính
chất đặc trưng của một tội danh cụ thể, nó vừa cho phép xác định tính chất và
mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, vừa cho phép phân biệt
giữa tội phạm này với tội phạm khác. Đồng thời nó còn là cơ sở để xác định
trách nhiệm hình sự và định tội danh một cách chính xác, đúng pháp luật.
Từ khái niệm về tội phạm VPQĐ về TGGTĐB và căn cứ vào quy định của
Bộ luật hình sự, ta có thể xác định dấu hiệu pháp lý của Tội VPQĐ về TGGTĐB
như sau:
1.1.2.1. Khách thể của tội phạm
Khách thể của tội phạm là quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ. Đối với
Tội VPQĐ về TGGTĐB, “khách thể của tội phạm là những quy định của Nhà
nước về an toàn giao thông đường bộ, đó là những quy định nhằm đảm bảo an
toàn giao thông vận tải, đảm bảo cho hoạt động giao thông đường bộ được thông
suốt, được tiến hành bình thường, và bảo vệ an toàn tính mạng, sức khỏe của công
dân, bảo vệ tài sản của Nhà nước, của các tổ chức và của công dân” [2, tr 419]

1.1.2.2. Mặt khách quan của tội phạm
- Hành vi nguy hiểm cho xã hội của tội phạm thể hiện qua việc vi phạm các
quy định của Nhà nước về TTATGT đường bộ được quy định trong Luật giao
thông đường bộ và các văn bản quy phạm pháp luật về giao thông đường bộ, làm
mất TTATGT, gây ra những thiệt hại nhất định đến tính mạng, sức khỏe của con
người, tài sản của người khác, hoặc tuy chưa gây ra những thiệt hại vật chất cụ
thể nhưng có khả năng thực tế dẫn đến hậu quả đặc biệt nghiêm trọng ngay tức
khắc nếu không được ngăn chặn kịp thời. Người phạm tội đã vi phạm các nhóm
quy định của Luật giao thông đường bộ tại điều 8, chương I, các quy định về
quy tắc giao thông tại chương II, các điều 53,56,57...chương IV, điều
58,59,60,62… chương V Luật giao thông đường bộ… [16]
Các nhóm vi phạm cụ thể như sau:
+ Vi phạm các quy định đối với đối tượng tham gia giao thông như người


10
đi bộ, người điều khiển phương tiện giao thông thô sơ, người điều khiển phương
tiện giao thông cơ giới;
+ Vi phạm các quy tắc an toàn giao thông đường bộ, như các quy định về đỗ,
dừng, tốc độ, tránh vượt, phần đường, làn đường, biển báo, tín hiệu đèn…;
+ Vi phạm các quy định về thể lệ vận tải, như: quy định về xếp hàng
hóa trên phương tiện, trọng tải của phương tiện (chở quá người, quá tải); chở
các chất cháy, chất độc, chất nổ... không có các thiết bị chuyên dụng an toàn
theo quy định;
+ Vi phạm các quy định về tiêu chuẩn kỹ thuật an toàn của phương tiện
giao thông như: Phương tiện không kiểm định kỹ thuật an toàn, bảo vệ môi
trường; không đảm bảo các tiêu chuẩn về đèn chiếu sáng, về điều khiển, về
phanh hãm; về động cơ, hệ thống truyền lực…;
Người thực hiện hành vi VPQĐ về TGGTĐB chỉ bị coi là tội phạm và bị
truy cứu trách nhiệm hình sự khi gây ra hậu quả nghiêm trọng, rất nghiêm trọng,

đặc biệt nghiêm trọng.
Khi xác định về thiệt hại tài sản của người khác thì chỉ tính những tài sản
do hành vi VPQĐ về TGGTĐB trực tiếp gây ra. Những thiệt hại gián tiếp không
tính là thiệt hại để xác định trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội như: các
chi phí mai táng, chi phí quá trình điều trị do bị thương trong vụ TNGT. Các
thiệt hại này người phạm tội vẫn phải bồi thường nhưng không tính để xác định
trách nhiệm hình sự đối với hành vi phạm tội.
Thiệt hại về tính mạng, sức khỏe, tài sản... mà người phạm tội gây ra
phải là thiệt hại đối với người khác, không tính thiệt hại mà người phạm tội
gây ra cho chính mình.
- Giữa hành vi VPQĐ về TGGTĐB và hậu quả thiệt hại xảy ra phải có
mối quan hệ nhân quả, hậu quả xảy ra phải do chính hành vi VPQĐ về
TGGTĐB gây ra. Đối với hành vi VPQĐ về TGGTĐB có khả năng thực tế
dẫn đến hậu quả thiệt hại đến mức đặc biệt nghiêm trọng nếu không được
ngăn chặn kịp thời vẫn phải chịu trách nhiệm hình sự.


11
1.1.2.3. Mặt chủ quan của tội phạm
“Mặt chủ quan của tội phạm là mặt bên trong của tội phạm, là thái độ
tâm lý của người phạm tội đối với hành vi nguy hiểm cho xã hội do họ thực
hiện và với hậu quả do hành vi đó gây ra cho xã hội hoặc đối với khả năng
gây ra hậu quả đó”[34, tr 197]
Tội phạm VPQĐ về TGGTĐB được thực hiện dưới hình thức lỗi vô ý,
bao gồm vô ý vì quá tự tin hoặc vô ý vì cẩu thả trong việc chấp hành các quy
định về TGGTĐB. Mặc dù, trong nhiều trường hợp người tham gia giao
thông cố tình vi phạm các quy định về TTATGT đường bộ, họ có đủ điều
kiện để nhận thức và pháp luật buộc họ phải nhận thức được hành vi nguy
hiểm nhưng do cẩu thả hoặc chủ quan cho rằng hậu quả sẽ không xảy ra, nên
khi những thiệt hại vật chất xảy ra là điều họ không mong muốn, không cố ý

gây ra thiệt hại.
Đây là dấu hiệu pháp lý đặc trưng, là cơ sở khoa học để phân biệt giữa
tội VPQĐ về TGGTĐB với một số tội khác như tội giết người, cố ý gây
thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác, huỷ hoại hoặc cố
ý làm hư hỏng tài sản… bằng các phương tiện giao thông.
1.1.2.4. Chủ thể của tội phạm
Theo quy định tại Điều 12 BLHS năm 2015, thì chủ thể của tội phạm
này là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, đạt độ tuổi từ đủ 16 tuổi
trở lên; người phạm tội thực hiện hành vi vi phạm các quy định về TGGTĐB
dưới hình thức lỗi vô ý.
1.2. Điều tra vụ án vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ
theo pháp luật Tố tụng hình sự Việt Nam
1.2.1. Khái niệm, đặc điểm điều tra vụ án vi phạm quy định về tham gia
giao thông đường bộ
1.2.1.1. Khái niệm điều tra vụ án vi phạm quy định về tham gia giao thông
đường bộ
Điều tra là quá trình phát hiện, tìm kiếm, thu thập thông tin, tài liệu, số liệu


12
phản ánh khách quan về bản chất của một sự vật, hiện tượng, về tổ chức, con
người. Điều tra vụ VPQĐ về TGGTĐB là hình thức điều tra công khai, dựa trên
các quy định của pháp luật tố tụng hình sự. Quá trình tiến hành trong những
trường hợp nhất định có thể tiến hành hoạt động điều tra trinh sát để hỗ trợ.
Điều tra theo tố tụng hình sự là hoạt động của Cơ quan điều tra và cơ quan
được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra nhằm xác định tội phạm
và người đã thực hiện hành vi phạm tội, lập hồ sơ đề nghị truy tố, tìm ra nguyên
nhân và điều kiện phạm tội, yêu cầu các cơ quan, tổ chức hữu quan áp dụng các
biện pháp khắc phục, phòng ngừa. Hoạt động điều tra phải tôn trọng sự thật, tiến
hành một cách khách quan, toàn diện, đầy đủ, làm rõ những chứng cứ xác định

có tội và những chứng cứ xác định vô tội, những tình tiết tăng nặng và tình tiết
giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị can. Mọi hoạt động điều tra phải tuân theo
pháp luật, chấp hành các nguyên tắc và thủ tục do Bộ luật TTHS và Luật Tổ
chức cơ quan điều tra hình sự năm 2015 quy định. Chủ thể điều tra phải tuân thủ
nghiêm ngặt theo các quy định của Bộ luật TTHS và Luật Tổ chức cơ quan điều
tra hình sự. Điều tra là hoạt động nhận thức đặc biệt của chủ thể điều tra về một
vụ phạm tội. Nếu không tôn trọng sự thật khách quan, không tiến hành một cách
toàn diện, đầy đủ các biện pháp điều tra theo đúng quy định của Bộ luật TTHS
thì chủ thể điều tra dễ mang tính chủ quan, dẫn đến làm sai lệch bản chất vụ án.
Điều tra TNGT cũng là một hoạt động điều tra không tách rời với điều tra tội
phạm VPQĐ về TGGTĐB. Thông thường điều tra TNGT là tiền đề của điều tra
vụ án VPQĐ về TGTGTĐB. Trong thực tế khi một vụ TNGT xảy ra mặc dù
chưa rõ dấu hiệu của hành vi phạm tội nhưng lực lượng CSGT cũng phải tiến
hành điều tra như đối với một vụ phạm tội đã xảy ra. Quá trình điều tra đến một
thời điểm khi xác định có dấu hiệu phạm tội thì tài liệu điều tra ban đầu này sẽ
trở thành căn cứ để khởi tố vụ án hình sự. Do đó, điều tra TNGT rất gần gũi với
điều tra vụ án VPQĐ về TGGTĐB, trong nhiều trường hợp hai hoạt động này
chuyển hóa cho nhau và lúc đó ranh giới giữa chúng gần như không còn nữa.


13
Tuy nhiên không thể thống nhất hai khái niệm này với nhau.
Như vậy điều tra TNGT là hoạt động công khai của lực lượng CSND, được
tiến hành trên cơ sở những quy định của pháp luật, nhằm phát hiện thu thập tài liệu,
chứng cứ để chứng minh sự thật của vụ TNGT đã xảy ra; làm rõ mức độ thiệt hại,
kết luận chính xác về lỗi, nguyên nhân dẫn đến vụ tai nạn, cũng như vai trò trách
nhiệm của các bên có liên quan. Trên cơ sở đó để có quyết định xử lý bằng biện
pháp hành chính, dân sự hoặc ra quyết định khởi tố vụ án hình sự.
Từ những cơ sở lý luận như đã trình bày ở trên, ta có thể rút ra khái niệm:
Điều tra vụ TNGT là hoạt động điều tra công khai của lực lượng Cảnh sát nhân

dân nhằm làm rõ tai nạn đã xảy ra, có kết luận chính xác về nguyên nhân, diễn
biến vụ TNGT, mức độ lỗi và trách nhiệm của từng người có liên quan đến vụ tai
nạn, làm cơ sở cho việc xử lý đúng người vi phạm trước pháp luật, góp phần làm
giảm TNGT đến mức thấp nhất.
Điều tra vụ án VPQĐ về TGGTĐB là hoạt động điều tra được tiến hành
theo quy định của Bộ luật TTHS nhằm phát hiện, thu thập tài liệu, chứng cứ
chứng minh tội phạm và người thực hiện hành vi phạm tội đối với vụ TNGT
đường bộ đã xảy ra có đủ dấu hiệu của một tội phạm được quy định trong BLHS.
Trong quá trình điều tra vụ án VPQĐ về TGGTĐB, theo quy định của Bộ
luật TTHS năm 2015, Luật Tổ chức cơ quan điều tra hình sự năm 2015, Thông
tư số 76/2011/TT-BCA ngày 22/11/2011 của Bộ trưởng Bộ Công an về việc Quy
định phân công trách nhiệm và quan hệ phối hợp trong công tác điều tra, giải
quyết tai nạn giao thông của lực lượng Cảnh sát nhân dân thì lực lượng CSĐT có
thẩm quyền điều tra các vụ án xâm phạm TTATGT, trật tự công cộng, bao gồm
nhiều tội danh trong đó có tội VPQĐ về ĐKPTGTĐB (theo luật hình sự 1999)
và nay là tội VPQĐ về TGGTĐB (theo luật hình sự 2015). Theo các văn bản
trên, CSĐT được tiến hành chủ trì điều tra từ đầu đến kết khi kết thúc các vụ
TNGT đường bộ có người chết tại hiện trường, hoặc chết trên đường đi cấp cứu.
Riêng các vụ án thuộc thẩm quyền điều tra ban đầu của CSGT, thì CSĐT có


14
trách nhiệm phối hợp CSGT trong giai đoạn điều tra ban đầu và thụ lý điều tra
tiếp theo sau khi lực lượng CSGT chuyển giao hồ sơ.
Như vậy, từ kết quả nghiên cứu nêu trên có thể đưa ra khái niệm về điều tra
vụ án VPQĐ về TGGTĐB như sau:
Điều tra vụ án VPQĐ về TGGTĐB là hoạt động điều tra được tiến hành
trên cơ sở chức năng, nhiệm vụ được giao và theo quy định của Bộ luật TTHS
nhằm phát hiện, thu thập tài liệu, chứng cứ chứng minh tội phạm, người thực
hiện hành vi phạm tội đối với vụ TNGT đường bộ do VPQĐ về TGGTĐB đã xảy

ra có đủ dấu hiệu của một tội phạm và các yêu cầu khác nhằm làm rõ sự thật vụ
án theo qui định của pháp luật.
1.2.1.2. Đặc điểm điều tra vụ án vi phạm quy định về tham gia giao thông
đường bộ
Điều tra vụ án VPQĐ về TGGTĐB là một dạng điều tra cụ thể của điều tra
hình sự, do vậy quá trình điều tra luôn thể hiện rõ các đặc điểm cơ bản của điều
tra hình sự. Tuy nhiên, do tính chất của hoạt động giao thông và các yếu tố cấu
thành tội phạm VPQĐ về TGGTĐB có những đặc điểm khác biệt, nên ngoài các
đặc điểm chung của điều tra hình sự, quá trình điều tra tội phạm VPQĐ về
TGGTĐB có những đặc điểm đặc thù sau:
- Là hoạt động nhận thức đặc biệt của chủ thể điều tra về một vụ án VPQĐ
về TGGTĐB đã xảy ra được tiến hành trên cơ sở các quy định của pháp luật.
Trong điều tra, nhận thức của chủ thể điều tra chịu sự ảnh hưởng, tác động
của các quy luật khách quan, quy luật hình thành dấu vết, quy luật phản ánh và
chứng minh… Ngoài ra, còn chịu sự ảnh hưởng của các nhân tố chủ quan và
khách quan khác như: tự nhiên, môi trường, con người… cũng như sự tác động,
ràng buộc bởi các quy định pháp lý về xác định tội phạm VPQĐ về TGGTĐB,
về thời gian, phân công, phân cấp và trình tự tổ chức tiến hành điều tra.
Trên thực tế, khi vụ án xảy ra, công tác điều tra thường được bắt đầu từ
việc xem xét hiện trường vụ án. Dựa vào các dấu vết để lại ở hiện trường, trên


15
phương tiện, trên người bị hại… các chủ thể điều tra (CSGT hoặc CSĐT) sử
dụng các biện pháp nghiệp vụ, biện pháp điều tra và phối hợp với các lực
lượng nghiệp vụ khác để phân tích làm rõ các vấn đề về thời gian, trình tự,
đặc điểm, cơ chế hình thành từng loại dấu vết trong vụ án và mối quan hệ
giữa chúng. Tuỳ thuộc vào tính chất của vụ việc mang tính hình sự mà chủ thể
điều tra có trách nhiệm phối hợp với lực lượng Kỹ thuật hình sự, Cảnh sát
phòng cháy chữa cháy, Cảnh sát 113… để điều tra làm rõ vụ tai nạn. Mặt

khác, để đảm bảo tính pháp lý của các tài liệu, chứng cứ việc thu thập phải
tiến hành đúng trình tự, thủ tục và bằng các biện pháp điều tra theo luật định.
Quá trình đó luôn diễn ra đan xen, ràng buộc và ảnh hưởng rất lớn đến quá trình
nhận thức của chủ thể điều tra.
- Điều tra vụ án VPQĐ về TGGTĐB là một hoạt động điều tra cụ thể của
điều tra hình sự.
Đây là đặc điểm cơ bản của công tác điều tra, nó thể hiện qua việc kế thừa
những kiến thức cơ bản của khoa học điều tra hình sự, từ việc nghiên cứu đặc
tính, đặc điểm của các vụ án, xác định những vấn đề cần chứng minh làm rõ
trong quá trình điều tra cho đến việc lựa chọn để sử dụng có hiệu quả những
phương pháp, chiến thuật điều tra hình sự nhằm làm rõ sự thật vụ án theo quy
định của pháp luật.
- Điều travụ án VPQĐ về TGGTĐB đòi hỏi chủ thể điều tra phải có hiểu
biết nhất định về kỹ thuật an toàn giao thông.
Khi tiến hành điều tra các vụ án VPQĐ về TGGTĐB các chủ thể thường
phải kiểm tra đánh giá tình trạng kỹ thuật của phương tiện có liên quan và khám
nghiệm cầu, đường hầm… nhằm xác định nguyên nhân, điều kiện vụ TNGT có
liên quan đến kỹ thuật phương tiện hoặc cầu đường. Vì vậy, đòi hỏi chủ thể điều
tra ngoài việc nắm vững về pháp luật, chiến thuật và kỹ thuật điều tra tội phạm,
còn phải có sự hiểu biết nhất định về kỹ thuật an toàn giao thông. Biết phân tích,
đánh giá chính xác các yếu tố kỹ thuật của phương tiện giao thông đường bộ


16
trong các hệ thống, như: phanh hãm, chuyển hướng, gầm, động cơ, còi, đèn,
truyền động, hoặc các yếu tố kỹ thuật của cầu, đường bộ… nhằm phát hiện các
sự cố, hư hỏng đóng vai trò là nguyên nhân xảy ra tội phạm.
- Điều tra vụ án VPQĐ về TGGTĐB đòi hỏi sự phối hợp chặt chẽ giữa lực
lượng CSĐT với các lực lượng CSGT, lực lượng kỹ thuật hình sự, Cảnh sát phòng
cháy chữa cháy, Cảnh sát trật tự, Cảnh sát 113, Cảnh sát khu vực…

Mặc dù trên thực tế lực lượng CSGT chỉ được tiến hành điều tra ban đầu theo
quy định của pháp luật TTHS đối với các vụ án xâm phạm TTATGT gây hậu quả
nghiêm trọng không có người chết. Còn các vụ án xâm phạm TTATGT hậu quả
nghiêm trọng có người chết trở lên do CSĐT thụ lý điều tra từ đầu. Song, trong bất
kỳ trường hợp nào, lực lượng CSGT phối hợp với lực lượng CSĐT, trường hợp cần
thiết thì có thể có lực lượng Kỹ thuật hình sự, lực lượng Cảnh sát phòng cháy chữa
cháy, Cảnh sát trật tự, Cảnh sát 113, Cảnh sát khu vực đều phải có trách nhiệm có
mặt sớm nhất tại hiện trường để thực hiện các biện pháp cấp bách tại hiện trường khi
vụ án mới xảy ra. Các hoạt động như: bảo vệ hiện trường, xác định người, phương
tiện có liên quan, người biết việc; thu giữ, bảo quản giấy tờ, tư trang hành lý, hàng
hoá tài sản, phương tiện có liên quan; cấp cứu người bị nạn, truy đuổi theo dấu vết
nóng; đảm bảo TTATGT nơi xảy ra vụ án… tuy không phải là các biện pháp điều tra
theo tố tụng, nhưng nó lại có ý nghĩa đặc biệt quan trọng để tiến hành các biện pháp
điều tra theo luật định được tiến hành đan xen hoặc diễn ra ngay sau đó. Việc thực
hiện không tốt các biện pháp cấp bách nêu trên trong nhiều vụ án là nguyên nhân trực
tiếp dẫn đến tình trạng xáo trộn hiện trường, xoá bỏ dấu vết… làm cho vụ án bị câu
dầm bế tắc trong điều tra.
Điều 9, Thông tư 76/2011/TT- BCA nêu rõ : “ Trong phạm vi chức năng,
nhiệm vụ, quyền hạn của mình, các lực lượng Cảnh sát cơ động, Cảnh sát khu vực,
Cảnh sát trật tự, Cảnh sát phòng cháy chữa cháy, Kỹ thuật hình sự; Công an xã,
phường, thị trấn và các lực lượng Công an khác có trách nhiệm thực hiện yêu cầu
của Cảnh sát giao thông, Cảnh sát điều tra trong quá trình điều tra, giải quyết tai
nạn giao thông” [5]


17
1.2.2. Những vấn đề cần chứng minh trong vụ án vi phạm quy định về
tham gia giao thông đường bộ
Căn cứ Điều 85 Bộ luật TTHS 2015 và thực tiễn điều tra vụ án VPQĐ về
TGGTĐB thì quá trình điều tra cần chứng minh làm rõ những vấn đề sau đây:

Một là, có hay không có vụ án VPQĐ về TGGTĐB xảy ra?
Để thực hiện yêu cầu nhiệm vụ trên, đòi hỏi cán bộ thụ lý vụ án trước tiên
phải xác định hậu quả của vụ TNGT và mối quan hệ nhân quả giữa hành vi
VPQĐ về TGGTĐB với những thiệt hại trong vụ TNGT. Vì đây là yếu tố rất
quan trọng để xác định quy mô tổ chức tiến hành điều tra, chủ thể tiến hành điều
tra và là cơ sở để xác định trách nhiệm đền bù dân sự hoặc truy cứu trách nhiệm
hình sự. Đây là nhiệm vụ quan trọng được tiến hành xuyên suốt trong quá trình
điều tra.
Việc chứng minh hành vi VPQĐ về TGGTĐB phải thuộc một trong năm nhóm
hành vi vi phạm TTATGT đã được phân tích ở mặt khách quan của tội phạm. Các
hành vi này đã gây ra những thiệt hại nghiêm trọng về người và tài sản. Trường hợp
chưa gây ra những thiệt hại vật chất cụ thể thì phải chứng minh được nó đã đặt
quan hệ xã hội cần bảo vệ trong tình trạng đặc biệt nguy hiểm như thế nào? nếu
không được ngăn chặn kịp thời thì hậu quả của vụ phạm tội chắn chắn xảy ra. Và
đặc biệt phải xác định rõ mối quan hệ nhân quả giữa hành vi VPQĐ về
TGGTĐB với những thiệt hại về vật chất xảy ra trong vụ án.
Hai là, thời gian, địa điểm xảy ra vụ án.
Trên cơ sở các dấu hiệu pháp lý để xác định có hay không có vụ án VPQĐ
về TGGTĐB xảy ra, cơ quan thụ lý điều tra phải xác định chính xác thời gian,
địa điểm xảy ra vụ án, ghi rõ ngày, giờ, tháng, năm, đoạn đường, km số, phố,
làng, xã, huyện, tỉnh và một số tình tiết khác như tình trạng đường, tổ chức giao
thông, biển báo, ánh sáng, phương tiện giao thông, thời tiết khi xảy ra tai nạn…
để làm sáng tỏ được tính chất hoạt động giao thông lúc xảy ra vụ án, như: mật độ
người, phương tiện tham gia giao thông, thời tiết, ánh sáng, chất lượng đường sá,


×