Tải bản đầy đủ (.docx) (96 trang)

Thực hiện chính sách phát triển đô thị bền vững tại quận cẩm lệ, thành phố đà nẵng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (431.46 KB, 96 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN THỊ KIỀU TÂM

THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH
PHÁT TRIỂN ĐÔ THỊ BỀN VỮNG TẠI
QUẬN CẨM LỆ, THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH SÁCH CÔNG

HÀ NỘI - năm 2018


VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN THỊ KIỀU TÂM


THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH
PHÁT TRIỂN ĐÔ THỊ BỀN VỮNG TẠI
QUẬN CẨM LỆ, THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

Chuyên ngành: Chính sách công
Mã số: 834.04.02

LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH SÁCH CÔNG


NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. NGUYỄN SONG TÙNG


LỜI CAM ĐOAN
Tôi cam đoan đề tài “Thực hiện chính sách phát triển đô thị bền vững tại quận
Cẩm Lệ, thành phố Đà Nang” là công trình nghiên cứu của riêng tôi.
Các số liệu, kết quả nêu trong luận văn này là trung thực và được trích dẫn rõ
nguồn gốc.
m / _ _ •? 1

>\

y

Tác giả luận văn

Nguyễn Thị Kiều Tâm

TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
CT

Chỉ thị

ĐTBV


Đô thị bền vững

HĐND

Hội đồng nhân dân

LHQ
PGS.TS

Liên Hợp Quốc
Phó giáo sư, tiến sĩ

LĐ, TB & XH
NNL

Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội
Nguồn nhân lực

NS

Ngân sách

NSNN

Ngân sách nhà nước

TU

Thành ủy


UNDP

Chương trình Phát triển Liên hợp quốc

UBND

Ủy ban nhân dân

TW

Trung ương



MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Đà Nẵng cũng như các thành phố khác trong cả nước, mặc dù là thành phố trẻ
và có những thuận lợi trong quy hoạch và phát triển cơ sở hạ tầng nhưng việc thực hiện
chính sách về phát triển đô thị bền vững cũng gặp phải những vấn đề như: quy hoạch
phát triển của các ngành còn chồng lấn, liên tục thay đổi; cơ sở hạ tầng cấp thoát nước,
xử lý nước thải và chất thải chưa hoàn thiện; thiếu nhà ở xã hội và không gian công
cộng; thiếu hài hòa giữa công trình xây dựng và cảnh quan thiên nhiên; ô nhiễm môi
trường; diện tích cây xanh đô thị vẫn chưa đáp ứng tiêu chuẩn đô thị loại I, chưa phát
huy được bản sắc của một đô thị hướng biển, nhìn sông và dựa núi. Mục tiêu xây dựng
Đà Nẵng trở thành thành phố môi trường năm 2020 cũng được thay thế bằng mục tiêu
hướng đến thành phố môi trường. Tuy nhiên, công tác chuẩn bị dự án, hỗ trợ và lồng
ghép BĐKH vẫn chưa thực sự trở thành nhiệm vụ thường xuyên. Nguyên nhân chủ yếu
là do thiếu sự kết nối trong việc ban hành các chính sách phát triển kinh tế - xã hội, xây
dựng cơ sở hạ tầng với các chính sách về môi trường; quá trình thực hiện các chính
sách về bảo vệ môi trường được thực hiện tách biệt so với các ngành khác nên xẩy ra tỷ

lệ nghịch giữa bảo vệ môi trường và phát triển kinh tế - xã hội... Những tồn tại này dẫn
đến hiệu quả tác động của chính sách chưa được như kỳ vọng.
Cẩm Lệ là một quận của thành phố Đà Nẵng được thành lập vào năm 2005, nằm
ở vị trí cửa ngõ phía Tây Nam của thành phố. Cũng như các quận/huyện khác trên địa
bàn thành phố Đà Nẵng, Cẩm Lệ được quan tâm, đầu tư phát triển, mở rộng không gian
đô thị với quá trình đô thị hóa nhanh. Sau 10 năm thành lập, Cẩm Lệ từ một vùng đất
trũng, thấp với tỷ lệ sản xuất nông nghiệp chiếm trên 60% đã chuyển mình trở thành đô
thị với cơ sở hạ tầng tương đối hoàn chỉnh. Tuy nhiên, cũng như thành phố Đà Nẵng,
Cẩm Lệ cũng gặp phải những bất cập như ô nhiễm môi trường, các chính sách phát
triển kinh tế - xã hội chưa có sự gắn kết với nhau, việc ứng phó với biến đổi khí hậu
còn chậm và chưa có nhiều giải pháp hiệu quả... Nhận thấy những vấn đề bức thiết này,
tôi đã chọn đề tài “Thực hiện chính sách phát triển đô thị bền vững tại quận Cẩm Lệ,
thành phố Đà Nẵng” nhằm nghiên cứu và đánh giá lại quá trình thực hiện các chính

6


sách phát triển đô thị bền vững từ thực tiễn quận Cẩm Lệ, từ đó đề xuất các giải pháp
nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách phát triển đô thị bền vững ở Cẩm Lệ nói riêng
và thành phố Đà Nẵng nói chung.
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài
Xây dựng và phát triển đô thị bền vững luôn là đòi hỏi tất yếu đối với một nước
như Việt Nam đang có tỷ lệ đô thị hóa cao với tốc độ nhanh chóng. Phát triển đô thị bền
vững làm cho sự liên kết ngày càng bền chặt trong chuỗi giá trị toàn cầu. Ngày nay, tư
duy phát triển đô thị bền vững cũng đã có sự chuyển biến nhanh chóng, đi vào chiều
sâu và với quy mô ngày càng rộng lớn hơn. Những chính sách phát triển kinh tế - xã
hội không những đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế, đảm bảo đời sống kinh tế của
người dân mà còn quan tâm đến các yếu tố văn hóa, xã hội, tài nguyên và môi trường
tạo cơ sở cho đô thị phát triển theo hướng bền vững. Do đó, phát triển đô thị bền vững
và các nghiên cứu có liên quan đã được nhiều học giả, tổ chức, nhà nghiên cứu trong và

ngoài nước quan tâm.
Phát triển bền vững là đề tài nghiên cứu được nhiều nhà nghiên cứu quan tâm và
thực hiện. Một trong số đó, có thể kể đến công trình “Tổng quan những nghiên cứu về
phát triển bền vững ở Việt Nam ” của tác giả Nguyễn Song Tùng thực hiện năm 2008.
Nghiên cứu phản ánh tổng quan những nghiên cứu về phát triển bền vững, gồm 02
phần phần 1 là tổng quan những nghiên cứu về phát triển bền vững nông nghiệp, nông
thôn ở Việt Nam và phần 2 là tổng quan những nghiên cứu về phát triển bền vững đô
thị và khu công nghiệp ở Việt Nam. Nghiên cứu có giá trị tham khảo rất lớn vì đã cung
cấp hệ thống cơ sở lý luận và tổng quan những công trình về PTBV có giá trị cho các
học giả, nhà nghiên cứu.
Chương trình “Phát triển bền vững môi trường trong các đô thị nghèo” (20052010) do GS.TS. Nguyễn Hữu Dũng, Vụ trưởng Vụ Khoa học và Công nghệ Bộ Xây
dựng là giám đốc kiêm Trưởng ban quản lý Hợp phần. Bộ Xây dựng cam kết lồng ghép
các chương trình bảo vệ môi trường với sự tham gia của cộng đồng trong quá trình đưa
ra quyết định: quản lý quy hoạch về môi trường đô thị, quản lý hạ tầng kỹ thuật môi
trường và cung cấp dịch vụ đô thị. Các hoạt động của hợp phần được gắn kết với các
mục tiêu của Chương trình cũng như các mục tiêu đề ra trong Chiến lược bảo vệ môi
7


trường quốc gia đến năm 2010 và định hướng phát triển bền vững quốc gia ngành Xây
dựng.
Công trình "Phát triển kinh tế bền vững ở Việt Nam" của Nguyễn Hữu Sở
(2012) đã xoay quanh vấn đề phát triển kinh tế bền vững. Nghiên cứu đã nhấn mạnh
đến khả năng phát triển liên tục, lâu dài, không gây ra những hậu quả tai hại khó khôi
phục ở những lĩnh vực khác, nhất là thiên nhiên và xã hội. Phát triển kinh tế mà hủy
hoại đến môi trường là phát triển không bền vững. Phát triển mà chỉ dựa vào lượng tài
nguyên sẵn có là phát triển không thể lâu dài được. Tác giả nên lên hai thành tố nòng
cốt của phát triển là văn hóa và xã hội. Để chuyển hóa khái niệm phát triển kinh tế bền
vững từ cấp độ lý thuyết áp dụng vào thực tiễn, khái niệm cần được làm sáng tỏ sau đó
áp dụng trực tiếp đối với các lĩnh vực khác nhau của đời sống kinh tế, chính trị, văn

hóa, xã hội.
”Phát triển bền vững đô thị: Những vấn đề lý luận và kinh nghiệm của thế giới”
của tác giả Đào Hoàng Tuấn (2008), đã nêu một cách tổng quát các kinh nghiệm phát
triển đô thị bền vững của các nước trên thế giới và rút ra bài học kinh nghiệm cho Việt
Nam. Đây là tài liệu tham khảo quan trọng của nhiều nghiên cứu.
Sách “Đô thị học- Những vấn đề lý luận và thực tiễn” của Nguyễn Minh Hòa,
Nxb Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh, năm 2012. Đây là một tuyển tập 93 bài viết
trong số hàng trăm bài công bố trên các tạp chí, sách chuyên khảo trong và ngoài nước
của tác giả khi nghiên cứu về đô thị hóa trong 20 năm liên tục (1990-2012). Cuốn sách
được tác giả trình bày theo các nội dung: Nhận thức chung về đô thị; văn hóa và xã hội
đô thị; tổ chức không gian sống đô thị; phát triển đô thị trong bối cảnh ở Việt Nam;
phát triển đô thị từ kinh nghiệm quốc tế. Cuốn sách cung cấp những kiến thức về
nguyên lý và quy luật chung của phát triển đô thi, về quy hoạch - kiến trúc, giao thông,
môi trường; đặc biệt là những cách tiếp cận mới về đô thị dưới nhãn quan của đô thị
học.
Năm 2010, đề tài “Quy hoạch đơn vị bền vững” được Bộ Xây dựng xuất bản là
nghiên cứu của Nguyễn Cao Lãnh khẳng định, sự thành công của đơn vị ở hiện nay,
bên cạnh giá trị truyền thống phải là các giá trị bền vững. Nghiên cứu đưa một số quan

8


điểm tương đối có giá trị về cơ cấu và chức năng của “đơn vị ở bền vững” tuy nhiên
tính kết nối và vị thế của khu so với khu vực lân cận chưa được đề cập và phân tích rõ.
Trong lĩnh vực văn hóa đô thị, một nghiên cứu gần đây của tác giả Nguyễn
Thanh Tuấn được xuất bản năm 2006 có tên “Biến đổi văn hóa đô thị Việt Nam hiện
nay ”, nội dung của cuốn sách không mô tả thực trạng văn hóa Việt Nam mà đi thẳng
vào phân tích những biến đổi về văn hóa đô thị Việt Nam hiện nay theo nhiều khía cận
khác nhau từ văn hóa sản xuất kinh doanh cơ cấu dân cư, nhận thức, tổ chức quản lý đô
thị, nếp sống văn hóa đến văn hóa ứng xử của người dân đô thị. Tác giả đã phần nào

đưa ra được bức tranh về văn hóa đô thị Việt Nam hiện nay trong bối cảnh phát triển
giao lưu và hội nhập, nhất là những khía cạnh cơ bản về văn hóa ứng xử trong sản xuất
và sinh hoạt của người dân đô thị hiện nay đối với môi trường xung quanh.
Bên cạnh những nghiên cứu về phát triển đô thị bền vững của Việt Nam, cũng
có rất nhiều những nghiên cứu khác nói về Đà Nẵng. Trong số đó, nghiên cứu “Những
vấn đề đặt ra đối với quy hoạch sử dụng đất đô thị ở Thành phố Đà Nắng hiện nay”
của tác giả Võ Văn Lợi được in trên Tạp chí Tài nguyên và môi trường. - Số
3/2014(185). Bài viết nêu những vấn đề đặt ra đối với quy hoạch sử dụng đất đô thị ở
thành phố Đà Nẵng hiện nay được làm rõ thực trạng quy hoạch sử dụng đất. Từ những
phân tích này, tác giả đã rút ra một số hạn chế, bất cập, từ đó đưa ra hệ thống giải pháp
nâng cao chất lượng quy hoạch sử dụng đất tại thành phố Đà Nẵng hiệu quả hơn.
Như vậy, vấn đề phát triển đô thị bền vững đã được nhận thức đúng đắn và quan
tâm nghiên cứu. Tuy nhiên, cho đến nay chưa có một công trình nghiên cứu một cách
có hệ thống, đầy đủ về việc thực hiện các chính sách phát triển đô thị bền vững trên địa
bàn thành phố Đà Nẵng, đặc biệt trên địa bàn quận Cẩm Lệ. Xuất phát từ lý do trên tôi
chọn đề tài này làm luận văn thạc sĩ của mình. Đề tài luận văn thực hiện có sự kế thừa,
phát triển những thành quả của các tài liệu liên quan trước đó để đánh giá, phân tích, từ
đó đề xuất ra các giải pháp phù hợp với tình hình thực tế và chủ trương phát triển kinh
tế - xã hội của quận trong những năm tới.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu

9


Luận văn được thực hiện với mục tiêu phân tích thực trạng thực hiện chính sách
phát triển đô thị bền vững tại quận Cẩm Lệ, thành phố Đà Nẵng nhằm đề xuất các giải
pháp nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách phát triển đô thị bền vững tại quận Cẩm
Lệ, TP Đà Nẵng trong thời gian tới.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

Để đạt được mục đích này, luận văn thực hiện các nhiệm vụ nghiên cứu sau:
Một là, nghiên cứu những vấn đề lý luận về phát triển đô thị bền vững, chính
sách phát triển đô thị bền vững và các vấn đề thực hiện chính sách;
Hai là, nghiên cứu thực trạng thực hiện các chính sách phát triển đô thị bền
vững tại quận Cẩm Lệ.
Ba là, trên cơ sở phân tích kết quả thực hiện chính sách phát triển đô thị bền
vững tại quận Cẩm Lệ, thành phố Đà Nẵng hiện nay để đề ra những giải pháp nâng cao
hiệu quả việc thực hiện chính sách phát triển đô thị bền vững trên địa bàn quận Cẩm Lệ
thành phố Đà Nẵng trong thời gian tới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Việc thực hiện chính sách phát triển đô thị bền vững trên địa bàn quận Cẩm Lệ,
thành phố Đà Nẵng.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Nghiên cứu việc thực hiện chính sách phát triển đô thị bền vững trên địa bàn
quận Cẩm Lệ từ năm 2012 đến năm 2017.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận
- Tiếp cận tổng hợp: Tiếp cận tổng hợp nghĩa là kết hợp cách tiếp cận từ trên
xuống và từ dưới lên. Đây là cách tiếp cận chủ đạo hiện nay, nó có thể khắc phục được
nhược điểm của cách tiếp cận từ trên xuống (có tính thực tế thấp, không phản ánh được
ý nghĩa xã hội và những ảnh hưởng của các đối tượng cụ thể) và nhược điểm của cách
tiếp cận từ dưới lên (thiếu cái nhìn tổng thể, toàn diện đối với tất cả các vấn đề). Với
cách tiếp cận tổng hợp, các giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách phát triển
đô thị bền vững được xem xét cả cả từ góc độ hiện tại kết hợp với những ưu tiên phát
1
0


triển trong tương lai, đảm bảo được mục tiêu hướng tới là PTBV có tính đến các yếu tố

BĐKH được dự báo một cách khoa học trong tương lai.
-

Cách tiếp cận thể chế: Đề tài tiếp cận hệ thống các chính sách, pháp luật

liên quan đến phát triển đô thị bền vững của Trung ương, của thành phố Đà Nẵng và
của quận Cẩm Lệ.
- Cách tiếp cận khoa học quản lý: Đề tài dựa trên các nghiên cứu về khoa học
quản lý để đề ra các giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về phát triển đô thị
bền vững tạo quận Cẩm Lệ.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp thu thập, phân tích, tổng hợp tư liệu: Luận văn tiến hành thu
thập, phân tích và tổng hợp thông tin liên quan đến đề tài nghiên cứu, bao gồm các văn
kiện, Nghị quyết, Quyết định của Đảng, Nhà nước, bộ ngành ở Trung ương và địa
phương; các tài liệu, công trình nghiên cứu, các báo cáo, thống kê của chính quyền, ban
ngành đoàn thể, tổ chức, cá nhân liên quan trực tiếp hoặc gián tiếp tới vấn đề chính
sách phát triển đô thị bền vững ở nước ta nói chung và thực tế thành phố Đà Nẵng và
quận Cẩm Lệ nói riêng. Đồng thời, thu thập các tài liệu của các tổ chức và học giả quốc
tế liên quan đến đề tài trong thời gian qua.
- Phương pháp điều tra xã hội học: Luận văn đã tiến hành phỏng vấn bằng bảng
hỏi đối với 120 nhân viên các ban, ngành, đoàn thể trên địa bàn quận Cẩm Lệ và thành
phố Đà Nẵng và 100 người dân sống trên địa bàn quận Cẩm Lệ để tìm hiểu các thông
tin liên quan đến nội dung của nghiên cứu.
- Phương pháp chuyên gia: Để luận văn đảm bảo chất lượng hơn, trong quá
trình triển khai, luận văn đã tham vấn ý kiến các chuyên gia trong lĩnh vực phát triển
bền vững, phát triển đô thị... về các vấn đề của đề tài.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
6.1. Ý nghĩa lý luận
Góp phần làm sáng tỏ thêm một số vấn đề lý luận về chính sách công, cụ thể là
chính sách phát triển đô thị bền vững ở Việt Nam. Đồng thời biết cách vận dụng các lý

thuyết về quy trình thực thi chính sách công để đánh giá thực tiễn thực hiện chính sách
phát triển đô thị bền vững của quận Cẩm Lệ, thành phố Đà Nẵng.
1
1


Kết quả nghiên cứu của đề tài minh chứng cho việc vận dụng lý thuyết phân tích
quá trình thực thi chính sách công, đánh giá quá trình thực thi chính sách công là cần
thiết trong quá trình nghiên cứu thực tiễn thực hiện chính sách phát triển đô thị bền
vững, từ đó góp phần nâng cao hiệu quả việc thực hiện chính sách phát triển đô thị bền
vững ở nước ta nhằm nâng cao hiệu lực của chính sách phát triển đô thị bền vững đã
ban hành.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể được sử dụng làm nguồn tài liệu tham
khảo cho việc nghiên cứu các vấn đề về đánh giá thực hiện chính sách công. Đồng thời,
góp phần nâng cao nhận thức về tầm quan trọng của phát triển đô thị bền vững cho các
lãnh đạo Đảng, chính quyền, đoàn thể.
Bên cạnh đó, khi những giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách phát
triển đô thị bền vững phù hợp với thực tế thì chính sách sẽ đem lại hiệu quả thiết thực,
góp phần vào sự nghiệp xây dựng Đà Nẵng thành “thành phố môi trường”, “thành phố
4 an”: an ninh trật tự, an toàn giao thông, an toàn vệ sinh thực phẩm và an sinh xã hội.
7. Cơ cấu của đề tài
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Tài liệu tham khảo, Luận văn được bố cục
gồm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận về phát triển đô thị bền vững và chính sách phát triển
đô thị bền vững;
Chương 2: Đánh giá thực trạng thực hiện chính sách phát triển đô thị bền vững
tại quận Cẩm Lệ, thành phố Đà Nẵng;
Chương 3: Giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách phát triển đô
thị bền vững trên địa bàn quận Cẩm Lệ, thành phố Đà Nẵng.


1
2


CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ PHÁT TRIỂN ĐÔ THỊ BỀN VỮNG
VÀ CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN ĐÔ THỊ BỀN VỮNG
1.1. Những vấn đề lý luận về phát triển đô thị bền vững và chính sách phát triển
đô thị bền vững
1.1.1. Các khái niệm có liên quan
1.1.1.1. Khái niệm đô thị
Đô thị được hiểu là “Nơi dân cư đông đúc, là trung tâm thương nghiệp và có
thể là công nghiệp; thành phố hoặc thị trấn” [31].
Đô thị là một không gian cư trú của cộng đồng người sống tập trung và hoạt
động theo những khu vực kinh tế phi nông nghiệp [31].
Đô thị là điểm tập trung dân cư với mật độ cao, chủ yếu là lao động phi nông
nghiệp, có cơ sở hạ tầng thích hợp, là trung tâm tổng hợp hay trung tâm chuyên ngành
có vai trò thúc đẩy sự phát triển kinh tế xã hội, hệ thống dân cư mà mỗi nước có quy
định riêng tùy theo yêu cầu và khả năng quản lý của mình. Song phần nhiều đều thống
nhất hai tiêu chuẩn cơ bản [31].
- Quy mô và mật độ dân số: Quy mô trên 2000 người sống tập trung, mật độ
trên 3000 người/km2 trong phạm vi nội thị.
- Cơ cấu lao động: trên 65% lao động phi nông nghiệp.
Như vậy, đô thị là các thành phố, thị xã, thị trấn, thị tứ có số dân từ 2000 người
trở lên và trên 65% lao động là phi nông nghiệp.
Việt Nam quy định đô thị là những thành phố, thị xã, thị trấn, thị tứ với tiêu
chuẩn về quy mô dân số cao hơn, nhưng cơ cấu lao động phi nông nghiệp thấp hơn.
Điều đó xuất phát từ đặc điểm nước ta là một nước đông dân, đất không rộng, đi từ một
nước nông nghiệp.

Đô thị Việt Nam được hiểu là một khu dân cư, trong đó lực lượng lao động chủ
yếu là phi nông nghiệp, sống và làm việc theo lối sống thành thị [29]. Ngày nay đô thị
không chỉ đơn thuần là nơi tập trung dân cư đông đúc với các hoạt động mang tính chất
phi nông nghiệp; các trung tâm đơn chức năng về hành chính hoặc thương mại...


mà đô thị đã trở thành một không gian cư trú của dân cư, là kết quả tất yếu của một quá
trình phát triển kinh tế - xã hội của một vùng hay một quốc gia, biểu hiện của nó là tập
trung mật độ dân cư cao với lối sống đô thị và các hoạt động phi nông nghiệp chiếm ưu
thế, cơ sở hạ tầng phát triển ngày càng hiện đại...
1.1.1.2. Khái niệm phát triển bền vững
Nếu Phát triển là khái niệm dùng để sự tăng lên về quy mô, sự thay đổi tích cực
về cơ cấu, tạo ra các khả năng khai thác nguồn lực cho phát triển và qua đó cải thiện
cuộc sống của con người; thì Phát triển bền vững (PTBV) khái niệm dùng để chỉ sự
phát triển đồng bộ về mọi mặt trong hiện tại mà vẫn phải đảm bảo sự tiếp tục phát triển
trong tương lai xa. Theo Ngân hàng phát triển Châu Á (ADB): Phát triển bền vững là
một loại hình phát triển mới lồng ghép một quá trình sản xuất với bảo toàn tài nguyên
và nâng cao chất lượng môi trường. Phát triển bền vững cần phải đáp ứng các nhu cầu
của thế hệ hiện tại mà không phương hại đến khả năng đáp ứng các nhu cầu đó của thế
hệ tương lai. Ba lĩnh vực quan trọng nhất của phát triển bền vững đó là: kinh tế, xã hội,
môi trường.
Hội nghị Thượng đỉnh Trái đất về Môi trường và phát triển tổ chức ở Rio de
Janeiro (Brazin) năm 1992 và Hội nghị Thượng đỉnh Thế giới về Phát triển bền vững tổ
chức ở Johannesburg (Cộng hòa Nam Phi) năm 2002 đã xác định “phát triển bền vững”
là quá trình phát triển có sự kết hợp chặt chẽ, hợp lý và hài hòa giữa ba mặt của sự phát
triển bao gồm: phát triển kinh tế (nhất là tăng trưởng kinh tế), phát triển xã hội (nhất là
thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội; xóa đói giảm nghèo và giải quyết việc làm), và bảo
vệ môi trường (nhất là xử lý, khắc phục ô nhiễm, phục hồi và cải thiện chất lượng môi
trường; phòng chống cháy và chặt phá rừng, khai thác hợp lý và sử dụng tiết kiệm tài
nguyên thiên nhiên). Tiêu chí để đánh giá sự phát triển bền vững là sự tăng trưởng kinh

tế ổn định; thực hiện tốt tiến bộ và công bằng xã hội; khai thác hợp lý, sử dụng tiết
kiệm tài nguyên thiên nhiên, bảo vệ và nâng cao được chất lượng môi trường sống.
1.1.1.3. Khái niệm đô thị bền vững/phát triển đô thị bền vững
Cho đến nay, chưa có một khái niệm thống nhất về phát triển bền vững đô thị.
Rất khó để đưa ra được một định nghĩa hay hệ khái niệm được coi là thống nhất về phát
triển đô thị bền vững vì bản chất đa dạng và đa chiều của đối tượng nghiên cứu. Tùy


thuộc vào mục đích và phương pháp nghiên cứu mà các tác giả sẽ có những quan điểm
khác nhau. Các quan điểm về phát triển đô thị bền vững được trình bày rất đa dạng.
* Trên thế giới:
- Xuất phát từ bản báo cáo của Ủy ban Brundtland, tại hội nghị URBAN21 (tổ
chức tại Berlin tháng 7/2000), người ta đã đưa ra định nghĩa về phát triển đô thị bền
vững: “Cải thiện chất lượng cuộc sống trong một thành phố, bao gồm cả các thành
phần sinh thái, văn hóa, chính trị, thể chế, xã hội và kinh tế nhưng không để lại gánh
nặng cho các thế hệ tương lai,một gánh nặng bị gây ra bởi sự sút giảm nguồn vốn tự
nhiên và nợ địa phương quá lớn. Mục tiêu của chúng ta là nguyên tắc dòng chảy, dựa
trên cân bằng về vật liệu và năng lượng cũng như đầu vào/ra về tài chính, phải đóng
vai trò then chốt trong tất cả các quyết định tương lai về phát triển các khu vực đô thị ”
[13].
- Quan điểm của Ân Độ, một quốc gia đang và sẽ là nước có tốc độ đô thị hóa
hàng đầu châu Á đã đưa ra định nghĩa về phát triển bền vững: “Một cộng đồng sử
dụng bền vững nguồn tài nguyên của mình để đáp ứng nhu cầu hiện tại, trong khi đảm
bảo đủ nguồn lực có sẵn cho các thế hệ tương lai. Nó tìm cách cải thiện sức khỏe cộng
đồng và một cuộc sống chất lượng tốt hơn cho tất cả cư dân của nó bằng cách hạn chế
chất thải, ngăn chặn ô nhiễm, bảo tồn và phát huy tối đa hiệu quả, và phát triển nguồn
lực địa phương để khôi phục nền kinh tế địa phương" [13].
- Quan điểm của Argentina về phát triển đô thị bền vững: “Một thành phố bền
vững kết hợp hài hòa yếu tố môi trường với các ngành kinh tế và xã hội để đáp ứng nhu
cầu của các thế hệ hiện tại mà không ảnh hưởng đến những thế hệ tương lai ” [13].

- Theo Viện Môi Trường Stockholm của Thụy Điển, một thành phố bền vững có
thể được định nghĩa là “một thành phố tại đó tiến hành các hành động được đề ra bởi
các chính sách kế hoạch nhằm bảo tồn nguồn tài nguyên sẵn có và thực hiện tái sử
dụng, ổn định xã hội, phát triển các nguồn vốn chủ sở hữu, đảm bảo phát triển kinh tế
cho các thế hệ tương lai ” [13].
* Ở Việt Nam:
- Theo Viện Quy Hoạch Đô Thị - Nông Thôn - Bộ Xây Dựng (Dự án VIE), trên
cơ sở các khái niệm về phát triển bền vững, một phạm trù phát triển đô thị bền vững


cũng được xây dựng mang tính đặc thù hơn. Nhìn chung phát triển bền vững đô thị tập
trung giải quyết các vần đề sau:
* Phát triển kinh tế đô thị ổn định, tạo công ăn việc làm cho dân cư đô thị, đặc
biệt cho người có thu nhập thấp, người nghèo đô thị.
* Đảm bảo đời sống vật chất văn hóa tinh thần, giữ gìn bản sắc truyền thống dân
tộc, đảm bảo công bằng xã hội.
* Tôn tạo, giữ gìn và bảo vệ môi trường đô thị luôn xanh, sạch, đẹp với đầy đủ ý
nghĩa vật thể và phi vật thể đô thị [25].
Như vậy phát triển đô thị bền vững luôn đồng hành với phát triển bền v ữ ng nói
chung. Đương nhiên, theo ý nghĩa này, phát triển đô thị bền vững không bó hẹp theo
quan điểm và nhiệm vụ của các nhà quy hoạch mà cần mở rộng hơn nhiều lĩnh vực.
Phát triển đô thị cần được lồng ghép và tiếp cận theo cách nhìn nhận mà các tổ chức
Quốc tế đã đồng thuận đề ra đó là:
+ Là nơi ở cho tất cả mọi người, khái niệm này ý chỉ việc cải thiện nơi ở thông
qua việc thực hiện chính sách nhà ở quốc gia. Hình thành thị trường nhà ở với những
chức năng đầy đủ và thích hợp. Huy động sự tham gia của cộng đồng. Cải thiện và đảm
bảo tính pháp lý và an toàn về quyền sử dụng đất. Cải thiện việc huy động tài chính nhà
ở. Và cung cấp đầy đủ cở sở hạ tầng dịch vụ cơ bản.
+ Giảm nghèo đói đô thị ở đây có 3 tiêu chí nghèo đô thị là nghèo tiền, nghèo
bất động sản và nghèo quyền do đó cần có một chính sách toàn diện mới giải quyết

được 3 tiều chí quan trọng này. Muốn vậy cần xây dựng một cơ chế bền vững về phát
triển kinh tế-xã hội và bảo vệ môi trường tại cộng đồng dân cư đặc biệt là đối với người
nghèo. Cung cấp đầy đủ thông tin cho cộng đồng để họ có thể tiếp cận học hỏi thực
hiện và bảo vệ quyền lợi hợp pháp của mình [25].
+ Quản lý môi trường đô thị là cải thiện các điều kiện môi trường và làm giảm
các chất thải sinh hoạt và các chất thải công nghiệp trong đô thị. Cải tiến công tác tiếp
cận đồng bộ trong viêc cung cấp các dịch vụ môi trường. Bảo vệ môi trường, đảm
bảo sức khỏe, an toàn dịch bệnh để hỗ trợ đầy đủ phát triển đô thị bền vững [25].
+ Phát triển kinh tế địa phương cho đến nay, hầu hết các nước trên thế giới đều
công nhận chính sách phi tập trung là cần thiết và có hiệu quả. Điều ấy có nghĩa, các


nhà chức trách địa phương có trách nhiệm cao hơn, nặng nề hơn trong công cuộc phát
triển kinh tế cho địa phương mình, cho đô thị mình. Tuy nhiên, năng lực của chính
quyền địa phương nói chung còn rất hạn chế. Vì thế việc nâng cao năng lực cho chính
quyền địa phương là yếu tố quyết định sự thành công của công cuộc PTBV kinh tế địa
phương [25].
+ Quản lý và điều hành đô thị theo các tiêu chí: Khuyến khích tư vấn thảo luận
và đối thoại giữa cộng đồng, những người có liên quan đến các quyết định, sự ưu tiên
và sở hữu. Sử dụng phương pháp điều tra bằng phiếu hỏi để xây dựng các tiêu chí đánh
giá. Nâng cao năng lực thông qua việc chia sẻ kinh ngiệm và thông tin.Hình thành
mạng lưới truyền thông liên kết người dân với chính quyền địa phương, chính quyền
quốc gia và toàn cầu [25].
- Hội Quy hoạch Phát triển Đô thị Việt Nam (Ashui), đã định nghĩa về phát triển
đô thị bền vững như sau: “Mối quan hệ hữu cơ,mật thiết giữa: A) Kinh tế đô thị;B) Văn
hóa xã hội đô thị;C) Môi trường-Sinh thái đô thị; D) Cơ sở hạ tầng đô thị và E) Quản
lý đô thị" [10].
Từ đó có thể nhận định rằng, một đô thị bền vững trong quá trình phát triển,
theo quan niệm đầy đủ là: Khi nó đạt được sự thống nhất trong một khuôn khổ bền
vững cả ba mặt kinh tế, xã hội và môi trường nhằm nâng cao chất lượng cuộc sống của

thể hệ hiện tại mà không ảnh hưởng tới các nhu cầu phát triển của thế hệ tương lai.
Khuôn khổ đó phải thể hiện thống nhất giữa quy hoạch, kế hoạch, quản lý phát triển và
hành động thực hiện với sự đồng thuận của mọi thành phần xã hội: nhà nước, tư nhân,
cộng đồng; mọi cấp độ: địa phương, thành phố và quốc gia.
Việc “khủng hoảng đô thị ” đặt ra vấn đề phải có đường lối, chính sách phát
triển tổng hợp để định hướng, dẫn dắt và đảm bảo các tiến bộ về cả kinh tế, xã hội, văn
hóa và cải thiện môi trường đô thị phát triển hài hòa, cũng như dự báo được xu hướng
phát triển tương lai của đô thị. Phát triển đô thị bền vững có nghĩa là “cải thiện chất
lượng cuộc sống trong đô thị bao gồm các thành phần cấu thành: sinh thái, văn hóa,
chính trị, chính thể, xã hội và kinh tế mà không trở thành gánh nặng cho thế hệ tương
lai”.
1.1.14. Khái niệm về chính sách


Chính sách là một thuật ngữ được quan tâm và sử dụng nhiều. Chính sách chủ
yếu do nhà nước ban hành nhằm thực hiện những mục đích của nhà nước hướng tới.
Cũng có nhiều quan niệm cho rằng chính sách do nhà nước đưa ra nhằm xác định rõ cái
gì nhà nước làm và tại sao nhà nước lại làm những việc đó mà không làm những việc
khác cũng như cái giá phải trả cho việc làm đó [9].
Cũng có thể hiểu chính sách công như là một sự phân bổ giá trị mang tính quyền
lực của nhà nước cho toàn xã hội và cái mà Chính phủ làm (hay không làm) đều gắn
liền với phân bố giá trị xã hội đó và chỉ có nhà nước mới làm được sự phân bổ đó [9].
Cùng với các nghiên cứu của France Ellis, Tsaint Geouss, các nhà kinh tế học
Việt Nam đã tiếp cận với định nghĩa về khái niệm chính sách “Như là kiểu phương
pháp can thiệp của Nhà nước vào lĩnh vực nào đó theo những mục tiêu và sự can thiệp
cần thiết cũng như mức độ can thiệp thích hợp” [5]
Qua đó có thể thấy một chính sách có các đặc điểm sau:
- Là một phương pháp, biện pháp can thiệp;
- Chủ thể ban hành là Nhà nước;
- Tác động đến các đối tượng cụ thể dựa trên các cơ chế thực thi nhằm đạt được

mục tiêu đề ra.
Chính sách công là sự cụ thể hóa từ chủ trương, quan điểm, định hướng của
Đảng và Nhà nước về phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Các quyết định về chính
sách là những quyết định chính trị bao hàm ý chí chính trị và thực tiễn cuộc sống nhằm
đáp ứng nhu cầu của người dân. Chính sách công tập trung giải quyết vấn đề xã hội
đang đặt ra trong đời sống kinh tế - xã hội theo mục tiêu tổng thể đã xác định, không
chỉ đặt ra mục tiêu và các giải pháp với công cụ hành động thực hiện nhằm giải quyết
một hoặc một số vấn đề có mối quan hệ biện chứng đang đặt ra trong đời sống xã hội,
mà còn giải quyết mối quan hệ giữa các bên tham gia chính sách.
“Chính sách công là một tập hợp các quyết định chính trị có liên quan của Đảng
và Nhà nước nhằm lựa chọn mục tiêu, giải pháp và công cụ thực hiện nhằm giải quyết
các vấn đề của xã hội theo mục tiêu tổng thể đã xác định” [7].
Như vậy, kết hợp các khái niệm trên cho thấy xây dựng chính sách phát triển đô
thị bền vững được hiểu là tập hợp các quyết định chính trị liên quan của Nhà nước về


phát triển đô thị bền vững để lựa chọn các mục tiêu cụ thể, giải pháp và công cụ chính
sách để giải quyết các vấn đề về phát triển đô thị bền vững theo mục tiêu tổng thể của
Đảng và Nhà nước đã xác định.
Về mặt bản chất, chính sách là kết tinh ý chí của chủ thể về phương thức tác
động đến các đối tượng. Tuy nhiên, chính sách chỉ được thực hiện hóa khi nó tham gia
vào quá trình vận động, triển khai thực hiện trong đời sống xã hội [8].
Tổ chức thực hiện chính sách công là một khâu hợp thành chu trình chính sách
công. Tổ chức thực hiện chính sách là toàn bộ quá trình chuyển ý chí của chủ thể chính
sách thành hiện thực với các đối tượng quản lý nhằm đạt mục tiêu định hướng, hiện
thực hóa nội dung chính sách công một cách hiệu quả.
Như vậy, thực hiện chính sách về phát triển đô thị bền vững là toàn bộ quá trình
hoạt động của các chủ thể bằng các cách thức khác nhau nhằm hiện thực hóa các quyết
định chính trị có liên quan của Nhà nước về phát triển đô thị bền vững, với các mục tiêu
cụ thể, giải pháp và công cụ chính sách để giải quyết vấn đề về phát triển đô thị bền

vững theo mục tiêu tổng thể của Đảng và Nhà nước đã xác định thành hiện thực trong
đời sống xã hội.
* Thực hiện chính sách phát triển đô thị bền vững có những đặc điểm sau:
Thứ nhất, tổ chức thực hiện chính sách công nói chung, chính sách phát triển đô
thị bền vững nói riêng là khâu hợp thành chu trình chính sách, nếu thiếu vắng công
đoạn này thì chu trình chính sách không thể tồn tại. Tổ chức thực hiện chính sách công
thành một hệ thống, nhất là với hoạch định chính sách. So với các khâu khác trong chu
trình chính sách, tổ chức thực hiện có vị trí đặc biệt quan trọng, vì đây là bước hiện
thực hóa chính sách trong đời sống xã hội.
Thứ hai, quá trình tổ chức thực hiện chính sách vào thực tiễn cuộc sống là quá
trình phức tạp, đầy biến động, chịu sự tác động của một loạt yếu tố, thúc đẩy hoặc cản
trở thực hiện chính sách.
Thứ ba, thực hiện chính sách phát triển đô thị bền vững là toàn bộ quá trình hoạt
động của các chủ thể với số lượng cá nhân và tổ chức tham gia thực hiện rất lớn, bao
gồm các đối tượng tác động của chính sách, nhân dân thực hiện và bộ máy tổ chức thực
hiện trên lĩnh vực đô thị của nhà nước. Không chỉ có vậy, các hoạt động thực hiện mục


tiêu chính sách phát triển đô thị bền vững diễn ra cũng hết sức phong phú, phức tạp
theo không gian và thời gian, chúng đan xen nhau, thúc đẩy kìm hãm nhau theo quy
luật.
Thứ tư, thực hiện chính sách phát triển đô thị bền vững bằng những cách thức
khác nhau nhằm hiện thực hóa các quyết định chính trị có liên quan của Nhà nước về
phát triển đô thị bền vững là một quá trình phức tạp, diễn ra trong một thời gian dài, vì
thế chúng ta cần được lập kế hoạch, chương trình để các cơ quan nhà nước triển khai
thực hiện một cách chủ động hoàn toàn, có phân công, phối hợp để thực hiện có hiệu
quả các nội dung chính sách trong đời sống xã hội.
1.1.2. Vai trò của việc thực hiện chính sách đô thị bền vững
Chính sách phát triển đô thị bền vững tốt không những mang lại lợi ích to lớn
cho các nhóm đối tượng thụ hưởng, mà còn góp phần làm tăng uy tín của nhà nước

trong quá trình quản lý nhà nước cũng như phát triển đô thị một cách bền vững. Tuy
nhiên, để có được một chính sách phát triển đô thị bền vững tốt, các nhà hoạch định
phải trải qua một quá trình nghiên cứu, tìm kiếm rất công phu. Nhưng dù tốt đến đâu thì
chính sách cũng trở thành vô nghĩa nếu nó không được thực hiện. Những phân tích trên
đây giúp chúng ta nhận thức đúng đắn tầm quan trọng của thực hiện chính sách đô thị
bền vững, từ đó chủ động tích cực thực hiện chính sách phát triển đô thị bền vững một
cách có hiệu quả.
Tổ chức thực hiện chính sách phát triển đô thị bền vững là giai đoạn biến ý đồ
chính sách thành hiện thực, biến thái độ ứng xử của Nhà nước đối với các đối tượng
quản lý thành hiện thực. Qua tổ chức thực hiện để khẳng định tính đúng - sai của chính
sách cũng như giúp cho chính sách ngày càng hoàn thiện. Tổ chức thực hiện chính sách
không tiến hành tốt dễ dẫn đến thiếu tin tưởng thậm chí chống đối của nhân dân đối với
Nhà nước, chẳng hạn việc thực hiện chính sách đền bù đất đai trong thời gian qua.
Hoạt động thực hiện chính sách phát triển đô thị bền vững có vai trò then chốt
trong thúc đẩy phát triển xã hội, phát triển đất nước, cụ thể như sau:
Thứ nhất, thực hiện chính sách phát triển đô thị bền vững nhằm biến ý đồ chính
sách thành hiện thực. Trong quản lý xã hội và quản lý đô thị, công cụ được nhà nước và
chính quyền địa phương dùng để chuyển tải thái độ ứng xử của mình đến các đối tượng


quản lý là chính sách. Tùy theo yêu cầu quản lý, phát triển nền kinh tế, phát triển đô thị
ở từng thời kỳ, nhà nước và chính quyền địa phương chủ động ban hành các chính sách
để thể hiện ý chí trong quan hệ với các thành phần kinh tế theo định hướng. Như vậy,
có thể nói thực hiện chính sách phát triển đô thị bền vững là giai đoạn biến thái độ ứng
xử của nhà nước với các đối tượng quản lý thành hiện thực.
Thứ hai, thực hiện chính sách phát triển đô thị bền vững nhằm từng bước thực
hiện các mục tiêu chính sách phát triển đô thị bền vững và mục tiêu chung. Trong đó,
mục tiêu chính sách phát triển đô thị bền vững có liên quan đến nhiều hoạt động chính
trị, kinh tế, xã hội theo những cấp độ khác nhau, nên không thể cùng một lúc giải quyết
tất cả các vấn đề có liên quan và cũng không thể đốt cháy giai đoạn của mỗi quá trình.

Tổ chức thực hiện chính sách phát triển đô thị bền vững để giải quyết các vấn đề của đô
thị trong mối quan hệ biện chứng với mục tiêu cơ bản nhất để thúc đẩy quá trình vận
động của hệ thống đô thị đến mục tiêu chung.
Thứ ba, thực hiện chính sách phát triển đô thị bền vững nhằm khẳng định tính
đúng đắn của chính sách trong phát triển đô thị. Một khi chính sách phát triển đô thị
bền vững được triển khai thực hiện rộng rãi trong xã hội, thì tính đúng đắn của nó được
khẳng định ở mức cao hơn, tức là được cả xã hội thừa nhận, nhất là các đối tượng thụ
hưởng chính sách phát triển đô thị bền vững.
Thứ tư, thực hiện chính sách phát triển đô thị bền vững nhằm giúp cho chính
sách ngày càng hoàn chỉnh. Do ảnh hưởng của ý chí chủ quan và sự vận động, phát
triển của môi trường nên giữa chính sách phát triển đô thị bền vững và thực tế xã hội
trong giai đoạn tổ chức thực hiện chắc chắn có khoảng cách cần được lấp đầy bằng
những điều chỉnh về chính sách hay các biện pháp tổ chức thực hiện chính sách. Những
điều chỉnh bổ sung về mục tiêu hay biện pháp thực hiện chính sách phát triển đô thị bền
vững trong quá trình thực hiện, chính là hoạt động hoàn chỉnh những chính sách phát
triển đô thị bền vững đang có và góp phần đúc rút những kinh nghiệm cho hoạch định
các chính sách giai đoạn sau [9].
1.1.3. Yêu cầu tổ chức thực hiện chính sách phát triển đô thị bền vững
Tổ chức thực hiện chính sách phát triển đô thị bền vững phải đáp ứng các yêu
cầu sau:


- Bảo đảm mục tiêu thực hiện chính sách phát triển đô thị bền vững. Để có thể
thực hiện, mục tiêu chính sách phát triển đô thị bền vững phải cụ thể, rõ ràng, chính
xác. Đây là vấn đề quan trọng đầu tiêu để thu hút mọi hoạt động thực hiện chính sách
phát triển đô thị bền vững theo một định hướng. Thực hiện chính sách phát triển đô thị
bền vững là những hoạt động cụ thể của các cơ quan quản lý nhà nước và các đối tượng
chính sách nhằm đạt được các mục tiêu trực tiếp.
- Đảm bảo tính hệ thống trong thực hiện chính sách. Tổ chức thực hiện chính
sách phát triển đô thị bền vững là một bộ phận cấu thành trong chu trình chính sách, nó

kết hợp chặt chẽ với các bộ phận khác trong chu trình tạo nên một hệ thống thống nhất.
Nói như vậy không có nghĩa là thực hiện một cách máy móc lộ trình và phương thức
thực hiện chính sách của nhà nước mà cần tùy theo những điều kiện cụ thể để tiến hành
thực hiện các bước cho hợp lý.
- Đảm bảo tính khoa học và pháp lý trong tổ chức thực hiện chính sách.Tính
khoa học thể hiện trong quá trình tổ chức thực hiện chính sách phát triển đô thị bền
vững là việc phối hợp nhịp nhàng giữa các cơ quan quản lý chính sách phát triển đô thị,
việc thu hút các nguồn lực hướng mạnh vào thực hiện mục tiêu chính sách, hình thành
các chương trình, dự án để thực hiện có hiệu quả một chính sách... Tính pháp lý được
thể hiện trong tổ chức thực hiện chính sách là việc chấp hành các chế định về thực hiện
chính sách như: Trách nhiệm, quyền hạn của tổ chức, các cá nhân được giao thực hiện
chính sách, thủ tục giải quyết các mối quan hệ trong thực hiện chính sách, cưỡng chễ
thực hiện chính sách trong trường hợp cần thiết.
1.2. Nội dung thực hiện chính sách phát triển đô thị bền vững
1.2.1. Chủ thể thực hiện chính sách phát triển đô thị bền vững1
Chính sách công hay chính sách phát triển đô thị bền vững là một trong những
công cụ quản lý của Nhà nước để điều hành hoạt động kinh tế - xã hội. Vì vậy, chủ thể
ban hành chính sách công hay chính sách phát triển đô thị bền vững là Nhà nước, cụ thể
là các cơ quan có thẩm quyền cũng là chủ thể tổ chức thực hiện chính sách công, đặc

1 Trấn Tiến Vinh, thực hiện chính sách phát triển đô thị bền vững từ thực tiễn thành Tam Kỳ, tỉnh Quảng Nam, luận
văn thạc sĩ Chính sách công năm 2017,


biệt là có sự tham gia của các tầng lớp nhân dân là những đối tượng thực hiện chính
sách công, vừa trực tiếp thụ hưởng những lợi ích mang lại từ chính sách.
Về phía Nhà nước, chủ thể ban hành chính sách đồng thời là chủ thể tổ chức
thực hiện chính sách phát triển đô thị bền vững, gồm các cơ quan Nhà nước có thẩm
quyền như: Quốc hội, Chính phủ, Bộ Xây dựng và các Bộ có liên quan như Bộ Tài
nguyên và môi trường, Bộ Giao thông vận tài, Bộ Tài chính, Bộ KH&ĐT, UBND các

tỉnh, thành, UBND các thành phố, huyện của các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung
ương. Nhiệm vụ quản lý nhà nước đối với đô thị được pháp luật quy định chức năng,
thẩm quyền quản lý đối với bộ máy công quyền trên địa bàn đô thị, bao gồm:
- Xây dựng khuôn khổ pháp lý cho sự phát triển đô thị bao gồm các văn bản
pháp quy, quy chuẩn, tiêu chuẩn, quy chế quản lý quy hoạch, quản lý phát triển đô thị;
- Lập quy hoạch, kế hoạch thực hiện chương trình đầu tư phát triển đô thị; tổ
chức triển khai thực hiện nhiệm vụ trong quyền hạn và phạm vi quản lý đảm bảo cho
các hoạt động kinh tế xã hội trên địa bàn;
- Xây dựng hệ thống kiểm soát và phát triển đô thị theo quy hoạch và pháp luật
vì mục tiêu phát triển bền vững, chủ yếu về quản lý và sử dụng đất đô thị; quản lý phát
triển cơ sở hạ tầng, phát triển nhà ở; quản lý tài chính đô thị;
- Tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật và thông tin về quản lý phát triển
đô thị;
- Thanh tra, kiểm tra và quản lý trật tự xây dựng và phát triển đô thị; trật tự văn
minh đô thị, gìn giữ, phát huy giá trị di sản văn hóa-kiến trúc cảnh quan đô thị;
- Tổ chức bộ máy quản lý nhà nước về quy hoạch phát triển và xây dựng đô thị;


Cấp quản


Các bên tham gia

Chức năng/nhiệm vụ

Vai trò

Động cơ/thái độ

(chủ thể)


Quốc hội (ủy ban Giám sát việc thực hiện Thấm tra, giám sát

Quan tâm, hỗ trợ

khoa học công nghệ Luật, Nghị quyết của Quốc
và Môi trường)

hội; giám sát hoạt động của
Chính phủ, các Bộ, các cơ
quan ngang bộ... trong việc
thực hiện chính sách phát
triển đô thị

Chính phủ

Thống nhất quản lý PTĐT Quản lý trong phạm

Quan tâm, Hỗ trợ

trong phạm vi cả nước; ban vi cả nước
hành văn bản QPPL, cơ
chế, chính sách cụ thể để
đảm bảo PTĐTBV
Cấp TW

Bộ xây dựng

Là cơ quan chính phủ thực Quản lý cấp Trung


Ảnh hưởng

hiện chức năng quản lý nhà ương
nước về PTĐT (Quy hoạch
Cấp quản


XD; kiến trúc; hoạt động
Chức năng/nhiệm vụ
Các bên tham gia đầu tư xây dựng, phát triển
(chủ thể)
thuộc Chính phủ

đô thị; hạ tầng kỹ thuật đô
vực
theo
sự phân
của
thị và
KCN;
khu công
KT; Khu

Vai trò

vực

Chính
phủ
CN cao;

nhà ở; công sở; thị
Cấp

địa UBND các tỉnh/thành Quản
về PTĐT
trên địa
trườnglýbất
động sản;
vật Quản lý cấp tỉnh,
bàn,
tỉnh,dựng;
thành quản lý nhà thành phố
liệu xây

phương

Phòng kinh tế và hạ Quản
PTĐTvụtrêncông
địa Quản lý cấp huyện,
nước lý
cácvề dịch
tầng

(huyện)

Động cơ/thái độ

Tác động

Tác động


hoặc bàn
phốBộ quản thành phố
tronghuyện/thành
lĩnh vực theo

phòng QLĐT (thành lý theo quy định pháp luật)
phố; thị xã, thành
phố trực thuộc tỉnh)

Cấp cơ sở

Hợp tác
quan Quản lý nhà nước về PTĐT Quản lý PTĐT theo
Đối tượng thực hiện
Mặt
trận
Tham gia thụ hưởng
ngang
bộ,các
cơ đoàn
quan thể trong ngành, lĩnh
ngành, lĩnh
Các

bộ,



và các tầng lớp nhân

dân, doanh nghiệp

Nguồn: Tổng hợp từ các tài liệu và thực tiễn về quản lý và thực hiện chính sách công
1.2.2. Môi trường thể chế chính sách phát triển đô thị bền vững


Thể chế giúp cho mọi hoạt động của đời sống xã hội diễn ra có trật tự theo một
hệ thống nhất định. Vì vậy, hệ thống thể chế thống nhất từ Trung ương đến địa phương
là nền tảng tạo lập môi trường thể chế chính sách PTĐTBV. Hệ thống thể chế chính
sách PTĐTBV phải tuân thủ thể chế chung về quy trình ban hành văn bản quy phạm
pháp luật. Qúa trình thẩm định, phê chuẩn và ban hành phải tuân theo luật định.
Thể chế chính sách PTĐTBV dựa trên hệ thống cơ quan quản lý nhà nước ban
hành theo thẩm quyền:
-Thể chế do cấp Trung ương quản lý bao gồm các văn bản Luật do Quốc hội
ban hành, các văn bản pháp quy do Chính phủ và các Bộ ngành ở Trung ương ban hành.
-Thể chế do chính quyền địa phương quản lý bao gồm các văn bản quy phạm
do HĐND, UBND và các cơ quan chức năng các cấp ở địa phương ban hành.
Hệ thống thể chế

Cấp trung ương

Chủ thể ban hành

Thẩm quyền ban hành

Quốc hội

Hiến pháp/Luật/Nghị quyết

Chính phủ


Nghị định/Nghị quyết

Thủ tướng Chính phủ

Quyết định/Chỉ thị

Bộ XD

Quyết định/Chỉ thị/Thông tư/TT
Liên tịch

Các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan Quyết định/Chỉ thị/Thông tư/TT
thuộc Chính phủ có liên quan
Các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan

Liên tịch
- Nghị quyết

thuộc Chính phủ có liên quan
Cấp tỉnh, thành phố

UBND các tỉnh/thành phố trực thuộc

- Quyết định, Chỉ thị

Trung ương
Sở XD các tỉnh trực thuộc Trung ương

UBND các huyện, quận, thị xã thuộc

Cấp huyện, quận, thị xã

tỉnh, thành phố

- Quyết định

- Quyết định, Chỉ thị

thành phố thuộc tỉnh thành Các phòng Quản lý Đô thị (quận, thị xã
phố

thuộc tỉnh, thành phố), Phòng Kinh tế - Quyết định
và hạ tầng (huyện)

Nguồn: Tổng hợp từ các tài liệu và thực tiễn về chính sách phát triển đô thị bền vững 1.3. Các
bước tổ chức thực hiện chính sách phát triển đô thị bền vững


×