Tải bản đầy đủ (.pdf) (89 trang)

Chính sách bảo vệ môi trường biển của Thành phố Đà Nẵng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.02 MB, 89 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

TRẦN TUYẾT THƢƠNG

CHÍNH SÁCH BẢO VỆ MÔI TRƢỜNG BIỂN
CỦA THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH SÁCH CÔNG

HÀ NỘI, năm 2018


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1
CHƢƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ KINH NGHIỆM THỰC TIỄN VỀ THỰC
HIỆN CHÍNH SÁCH BẢO VỆ MÔI TRƢỜNG BIỂN ........................................8
1.1. Cơ sở lý luận về thực hiện chính sách bảo vệ môi trường biển ...........................8
1.2. Cơ sở thực tiễn về thực hiện chính sách bảo vệ môi trường biển và bài học cho
Đà Nẵng.....................................................................................................................17
CHƢƠNG 2. THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH BẢO VỆ MÔI TRƢỜNG BIỂN
CỦA THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG .............................................................................28
2.1. Điều kiện tự nhiên và điều kiện kinh tế xã hội Thành phố Đà Nẵng .................28
2.2. Thực trạng môi trường biển Đà Nẵng ................................................................32
2.3. Chủ trương và chính sách bảo vệ môi trường biển của thành phố Đà Nẵng .....38
2.4. Đánh giá việc thực hiện chính sách bảo vệ môi trường biển ở Đà Nẵng...........51
CHƢƠNG 3. MỘT SỐ QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP TĂNG CƢỜNG THỰC
HIỆN CHÍNH SÁCH BẢO VỆ MÔI TRƢỜNG BIỂN CỦA THÀNH PHỐ ĐÀ
NẴNG .......................................................................................................................61
3.1. Quan điểm và mục tiêu bảo vệ môi trường biển của Thành phố Đà Nẵng ........61


3.2. Các giải pháp tăng cường thực hiện chính sách bảo vệ môi trường biển của
Thành phố Đà Nẵng trong thời gian tới. ...................................................................68
KẾT LUẬN ..............................................................................................................75
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

BVMT

Bảo vệ môi trường

CLB

Câu lạc bộ

CNH, HĐH

Công nghiệp hóa, Hiện đại hóa

HĐND

Hội đồng nhân dân

KCN

Khu công nghiệp

MT


Môi trường

QLNN

Quản lí nhà nước

TNMT

Tài nguyên môi trường

UBND

Ủy ban nhân dân


DANH MỤC CÁC BẢNG

Số hiệu bảng
2.1.

Tên bảng
Kết quả phân tích chất lượng nước biển ven bờ
Đà Nẵng

Trang
33


DANH MỤC CÁC HÌNH


Số hiệu

Tên hình

hình
2.1.

2.2.

2.3.

2.4.

Sơ đồ Tổ chức Bộ máy quản lý Nhà nước về Bảo
vệ môi trường tại ĐN
Sơ đồ tổ chức bộ máy Sở Tài nguyên và môi
trường Đà Nẵng
Sơ đồ tổ chức bộ máy của Chi cục Bảo vệ môi
trường Thành phố Đà Nẵng
Sơ đồ cơ cấu bộ máy Chi Cục Biển và Hải đảo
Thành phố Đà Nẵng

Trang

43

44

46



MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Việt Nam nằm ở trung tâm Biển Đông, vì vậy biển có vị trí vô cùng quan
trọng đối với Việt Nam về các mặt chiến lược, kinh tế, xã hội, an ninh quốc phòng
trước mắt và lâu dài. Vùng biển và thềm lục địa thuộc chủ quyền và quyền tài phán
quốc gia của Việt Nam chứa đựng nhiều tài nguyên thiên nhiên đa dạng và phong
phú, trong đó trước hết là cá biển với trữ lượng khoảng 3 triệu tấn, cho phép khai
thác từ 1,2 đến 1,4 triệu tấn /năm; dầu khí với trữ lượng khoảng 10 tỷ tấn dầu, 250300 tỷ m3 khí đồng hành. Với diện tích và vị trí địa lý thuận lợi về biển, biển Việt
Nam vừa là điều kiện để liên kết kinh tế giữa các vùng, các miền trong nước, vừa là
cửa ngõ thông thương giữa Việt Nam với các nước trong khu vực và trên thế giới.
Thành phố Đà Nẵng nằm tại vị trí trung độ của Việt Nam, phía bắc giáp tỉnh
Thừa Thiên Huế, phía nam và tây giáp tỉnh Quảng Nam, phía đông giáp biển Đông,
với diện tích tự nhiên: 1.256,54 km2, đường bờ biển trải dài 92km với nhiều bãi tắm
đẹp lý tưởng như: Mỹ Khê, Non Nước, Bắc Mỹ An, Nam Ô, Xuân Thiều…Các bãi
tắm ở Đà Nẵng đều có bãi cát trắng, mực nước nông, có độ mặn vừa phải và quanh
năm trong xanh. Việc sở hữu đường bờ biển dài cùng những bãi biển hoàn hảo, Đà
Nẵng luôn là điểm đến du lịch hàng đầu của các du khách trong và ngoài nước.
Tuy nhiên, hiện nay vấn đề ô nhiễm môi trường biển Đà Nẵng vẫn đang báo
động vì một số lí do như: Đà Nẵng có 29 cửa cống xả nước ra biển kể cả thu gom
và xả nước thải tính từ quận Liêu Chiểu về quận Thanh Khê, Hải Châu rồi đến cầu
Thuận Phước. Tại khu vực biển phía Đông từ quận Sơn Trà đến quận Ngũ Hành
Sơn có 15 cửa xả nước ra biển, trong đó trên địa bàn quận Sơn Trà có 7 cửa và ở
quận Ngũ Hành Sơn có 8 cửa. Tất cả hệ thống cống thoát này bao gồm cả cống xả
và hệ thống thu gom nước mưa và nước thải. Về mặt nguyên tắc, nước thải đều phải
được thu gom, xử lý trước khi chảy thải ra môi trường. Và khi trời không mưa thì
nước phải được thu gom bơm về trạm xử lý tập trung hiện có để đảm bảo thu gom
và xử lý, nhưng khi mùa mưa đến, nước thải theo nước mưa đổ tràn ra các cửa cống
xả này và đổ ra biển. Bên cạnh đó vẫn có một số tác động gây ô nhiễm môi trường


1


biển như: đất đai bị xói mòn, thoái hoá; chất lượng các nguồn nước suy giảm mạnh,
tài nguyên thiên nhiên trong nhiều trường hợp bị khai thác quá mức, đa dạng sinh
học bị đe dọa nghiêm trọng; điều kiện vệ sinh môi trường... Đỉnh điểm nhất là sự cố
môi trường biển miền Trung tháng 4 năm 2016 vừa qua diễn ra trên diện rộng (4
tỉnh miền trung) do việc vi phạm trong hoạt động xả thải của Công ty TNHH Gang
Thép Hưng Nghiệp Formosa (Khu kinh tế Vũng Áng), đã gây ra hậu quả lớn về
kinh tế, xã hội, môi trường trước mắt và lâu dài; ảnh hưởng trực tiếp đến các ngành
đánh bắt, nuôi trồng, chế biến thuỷ, hải sản, làm muối, dịch vụ hậu cần nghề cá, du
lịch; làm xáo trộn, gây mất an ninh trật tự, tâm lý bức xúc, bất an trong nhân dân.
Để xây dựng Thành phố Đà Nẵng trở thành Thành phố đáng sống, có đô thị du
lịch, dịch vụ kiểu mẫu và là trung tâm về giáo dục - đào tạo, y tế chất lượng cao, phát
triển kinh tế tri thức công nghệ cao, phát huy thế mạnh về dịch vụ - du lịch; có môi
trường tự nhiên và môi trường xã hội lành mạnh theo Nghị quyết Đại hội đại biểu
Đảng bộ Thành phố lần thứ XXI, nhiệm kỳ 2015-2020 đã đề ra và xây dựng thương
hiệu “Thành phố môi trường” cần phải rà soát, đánh giá lại tình hình thực hiện các
chính sách bảo vệ môi trường trong thời gian qua, những thành tựu cũng như những
tồn tại, hạn chế chưa khắc phục được. Từ đó đề ra các giải pháp nhằm thực hiện có
hiệu quả các chính sách bảo vệ môi trường trên địa bàn Thành phố Đà Nẵng.
Xuất phát từ yêu cầu đó, cùng với những kiến thức đã học, bản thân tôi nhận thấy
nguyên nhân dẫn tới ô nhiễm môi trường biển cả nước nói chung và biển Đà nẵng
nói riêng có nhiều. Nhưng một trong những nguyên nhân chính gây ô nhiễm môi
trường biển tại Đà Nẵng là do việc thiếu chính sách bảo vệ môi trường biển, việc
thực hiện chính sách bảo vệ môi trường biển chưa nghiêm, chính sách khi triển khai
thực hiện còn nhiều bất cập chưa phù hợp với thực tiễn... Vì vậy, tôi chọn đề tài
“Chính sách bảo vệ môi trường biển của Thành phố Đà Nẵng” làm luận văn thạc sĩ
của mình.

2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trong những năm qua, có rất nhiều nhà khoa học trong và ngoài nước đã
nghiên cứu về bảo vệ môi trường (BVMT) biển và chính sách bảo vệ môi trường
biển. Tiêu biểu có các công trình sau:

2


2.1. Các công trình nghiên cứu về bảo vệ môi trường biển của Việt Nam
“Ô nhiễm môi trường biển Việt Nam luật pháp và thực tiễn” của tiến sĩ
Nguyễn Hồng Thao đã đề cập đến nhiều nội dung như: Khái niệm môi trường biển
và BVMT biển, tầm quan trọng của vấn đề BVMT biển, định nghĩa ô nhiễm môi
trường biển, các nguồn gây bô nhiễm môi trường biển; các điều ước quốc tế và khu
vực Đông Nam Á về môi trường biển và ô nhiễm môi trường biển; TN&MT và ô
nhiễm biển tại Việt Nam: TN&MT biển Việt Nam, Thực trạng ô nhiểm biển Việt
Nam, Các yếu tố khí tượng thủy văn ảnh hưởng đến ô nhiễm biển; chiến lược và
hoạt động liên quan đến BVMT biển, phòng chống ô niễm môi trường biển.
Công trình “ ảo vệ môi trường biển vấn đề và giải pháp” của tiến sĩ Nguyễn
Hồng Thao đề cập đến: Những vấn đề chung, có tính cấp thiết của việc BVMT biển
cùng những công ước quốc tế quan trọng liên quan đến vấn đề này. Đề cập tình hình
ô nhiễm môi trường biển Việt Nam hiện nay, việc tổ chức phòng chống, hạn chế ô
nhiễm. Đặc biệt cuốn sách còn giới thiệu một số văn bản luật quan trọng của Việt
Nam về bảo vệ, phòng chống, ô nhiễm môi trường biển.
“Chính sách, pháp luật biển của Việt Nam và chiến lược phát triển bền vững”
là công trình khoa học do PGS.TS. Nguyễn Bá Diến chủ biên, Trung tâm Luật biển
và Hàng hải quốc tế (Khoa Luật, ĐHQGHN) được thực hiện trong khuôn khổ Dự
án “Các nguyên tắc trong thực tiễn quản lý biển và đới bờ” (Principles in Practice:
Ocean and Coastal Governance) giữa Đại học Quốc gia Hà Nội, Trường Đại học
Dalhousie (Canada) và Trường Đại học Visayas (Philippines) dưới sự tài trợ của Cơ
quan hợp tác phát triển quốc tế Canada (CIDA). Nội dung cuốn sách trình bày tổng

quan về: Chính sách, pháp luật về biển và nguyên tắc phát triển bền vững; phân tích
17 thực trạng và đề xuất một số kiến nghị, giải pháp hoàn thiện chính sách biển của
Việt Nam trong giai đoạn hiện nay; giới thiệu về một số hoạt động hợp tác quốc tế
trong khai thác, quản lý biển giữa Việt Nam và các nước trong khu vực.
Luận án tiến sĩ Hà Văn Hòa "Quản lý Nhà nước về bảo vệ môi trường biển ven
bờ trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh" tại Học viện Hành chính Quốc gia. Luận án
nghiên cứu những vấn đề lý luận về môi trường biển, ô nhiễm môi trường biển;
thực trạng ô nhiễm môi trường biển ven bờ, nguyên nhân và công tác quản lý nhà

3


nước để khắc phục tình trạng ô nhiễm môi trường ở Quảng Ninh thời gian qua. Trên
cơ sở đó, đề xuất các giải pháp để nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về bảo vệ
môi trường biển ven bờ ở Quảng Ninh.
“Chính sách bảo vệ môi trường biển từ thực tiễn tỉnh Quảng Nam” là Luận
văn Thạc sĩ chuyên ngành chính sách công , Học viện Khoa học xã hội của tác giả
Phạm Ngọc Hà Ny đã nêu lên được nhiều nội dung về chính sách bảo vệ môi trường
biển như: chính sách bảo vệ môi trường; chính sách bảo vệ môi biển phải là sự thể
chế hóa chủ trương, đường lối lãnh đạo của Đảng về công tác bảo vệ môi trường,
phải bám sát thực trạng môi trường của đất nước, chính sách bảo vệ môi trường
biển đóng vai trò quyết định cho sự phát triển bền vững của quốc gia; thực trạng của
việc bảo vệ môi trường biển ở tỉnh Quảng Nam, nguyên nhân và các giải pháp hoàn
thiện chính sách bảo vệ môi trường biển của tỉnh Quảng Nam.
2.2. Các công trình nghiên cứu về bảo vệ môi trường biển của Đà Nẵng
Bài viết: “Nghiên cứu khảo sát hiện trạng ăn mòn phá huỷ của các công
trình bê tông cốt thép và khả năng xâm thực của môi trường vùng ven biển Thành
phố Đà Nẵng” của tác giả Trương Hoài Chính, Trần Văn Quang, Nguyễn Phan
Phú – Trường Đại học Bách khoa Đà Nẵng và tác giả Huỳnh Quyền trường Đại
học Bách khoa Hồ Chí Minh được đăng trong Tạp chí Khoa học và Công nghệ,

Đại học Đà Nẵng. Bài viết nhằm nêu ra cơ sở dữ liệu để minh chứng cho khả năng
xâm thực mạnh của môi trường ven biển Đà Nẵng, là cơ sở cho việc đánh giá đưa ra
những biện pháp, công nghệ phù hợp nhằm bảo vệ chống ăn mòn xâm thực, nâng
cao tuổi thọ cho các công trình vùng ven biển Đà Nẵng, đặc biệt là các công trình
cầu cảng, góp phần vào sự phát triểnbền vững kinh tế của thành phố.
Bài viết: “Đà Nẵng bảo vệ môi trường trong phát triển du lịch biển” của
Thạc sĩ Nguyễn Thanh Tưởng được đăng trong Tạp chí Du lịch. Bài viết chỉ ra thực
trạng các bãi biển Đà Nẵng đang bị ô nhiễm nghiêm trọng bởi nước thải, rác thải từ
các nguồn sinh hoạt, dịch vụ du lịch, công nghiệp... của thành phố và đề ra những
giải pháp cụ thể, lâu dài nhằm bảo vệ môi trường du lịch biển Đà Nẵng.
Các nghiên cứu này là nguồn tài liệu tham khảo hữu ích và đã nêu ra được
những tồn tại và giải pháp trong việc bảo vệ môi trường biển. Tuy nhiên, các nghiên

4


cứu trên chỉ mới đề cập tới các lĩnh vực riêng, chưa có bài viết nào đánh giá một cách
toàn diện về tình hình thực hiện các chính sách về bảo vệ môi trường biển của địa
phương. Hiện nay, chúng ta đã có các văn bản, quy định về bảo vệ môi trường biển,
nhưng do con người (cá nhân, tổ chức) chưa tuân thủ hoặc tuân thủ chưa đúng quy định
này nên dẫn đến ô nhiễm môi trường biển.
Xuất phát từ lý do trên, tôi chọn đề tài “Chính sách bảo vệ môi trường biển
Thành phố Đà Nẵng” làm luận văn thạc sĩ của mình, luận văn có sự kế thừa, phát
triển những thành quả của các đề tài liên quan trước đó để đánh giá, phân tích, từ đó
đề xuất các giải pháp phù hợp với tình hình thực tế và chủ trương Thành phố Đà
Nẵng đến năm 2020 trở thành “Thành phố môi trường”.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu làm rõ những cơ sở lý luận và thực tiễn về thực hiện
chính sách bảo vệ môi trường biển, đánh giá việc thực hiện chính sách bảo vệ môi

trường biển trên địa bàn Thành phố Đà Nẵng, trên cơ sở đó đề xuất các giải pháp
tăng cường thực hiện chính sách bảo vệ môi trường biển của thành phố Đà Nẵng.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích nghiên cứu trên, luận văn có nhiệm vụ:
Thứ nhất, hệ thống hóa cơ sở lý luận và thực tiễn về thực hiện chính sách bảo
vệ môi trường biển.
Thứ hai, phân tích và đánh giá thực trạng thực hiện chính sách bảo vệ môi
trường biển của Thành phố Đà Nẵng, từ đó xác định những mặt được, những hạn
chế cùng các nguyên nhân.
Thứ ba, đề xuất những giải pháp tăng cường thực hiện chính sách bảo vệ môi
trường biển của Thành Phố Đà Nẵng.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn xoay quanh về thực hiện chính sách bảo vệ môi trường biển ở Thành
Phố Đà Nẵng hiện nay dưới góc độ chính sách công.

5


4.2. hạm vi nghiên cứu
- Thời gian: từ năm 2010 đến nay
- Không gian: các chính sách bảo vệ môi trường biển tại Đà Nẵng
5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu của luận văn
5.1. Cơ sở lý luận
Luận văn được nghiên cứu dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin
và tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, đường lối của Đảng và chính sách pháp luật
bảo vệ môi trường biển của Nhà nước Việt Nam, của Thành Phố Đà Nẵng hiện nay.
5.2. hương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu định tính và định lượng:
- Phương pháp phân tích và tổng hợp: được sử dụng để phân tích thực trạng và

đánh giá kết quả thực hiện chính sách bảo vệ môi trường;
- Phương pháp thống kê: được sử dụng để tập hợp thành các chu i số liệu
phản ảnh thực trạng, phục vụ cho việc phân tích và đánh giá kết quả thực hiện chính
sách bảo vệ môi trường biển.
- Phương pháp quan sát thực địa: được sử dụng nhằm kiểm nghiệm thực tế
môi trường Biển ở địa bàn để nghiên cứu như một chứng cứ về kết quả thực hiện
chính sách ở địa bàn.
6. Những đóng góp mới về khoa học của luận văn
6.1.

ngh a lý luận

Đề tài này có ý nghĩa về mặt lý luận, người học nghiên cứu và biết vận dụng
các kiến thức về đánh giá chính sách công để đánh giá thực hiện chính sách bảo vệ
môi trường nói chung và môi trường biển nói riêng. Kết quả nghiên cứu đề tài minh
chứng cho việc vận dụng lý luận về đánh giá chính sách công trong quá trình triển
khai thực hiện nhằm phát hiện các vấn đề bảo vệ môi trường biển và định hướng
cho việc giải quyết.
6.2.

ngh a thực tiễn

Các phân tích, đánh giá về thực hiện chính sách bảo vệ môi trường tại vùng biển
Đà Nẵng giúp nhìn nhận rõ hơn những kết quả, những tồn tại và qua đó gợi ý, kiến
nghị những giải pháp thúc đ y cũng như khác phục tồn tại. Bên cạnh đó, kết quả

6


nghiên cứu s đóng góp những luận cứ từ thực tiễn ở vùng Biển Đà Nẵng liên quan

đến các giải pháp quản lý môi trường, thực hiện chính sách bảo vệ môi trường Biển.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn kết cấu 3
chương.
Chương 1. Cơ sở lý luận và kinh nghiệm thực tiễn về chính sách bảo vệ môi
trường (BVMT) biển.
Chương 2. Thực hiện chính sách bảo vệ môi trường biển của Thành phố Đà
Nẵng.
Chương 3. Một số quan điểm và giải pháp tăng cường thực hiện chính sách
bảo vệ môi trường biển của Thành phố Đà Nẵng.

7


Chƣơng 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ KINH NGHIỆM THỰC TIỄN VỀ
THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH BẢO VỆ MÔI TRƢỜNG BIỂN
1.1. Cơ sở lý luận về thực hiện chính sách bảo vệ môi trƣờng biển
1.1.1. Một số khái niệm cơ bản
Khái niệm về môi trường biển: Môi trường biển được định nghĩa trên nhiều
phương diện khác nhau, nếu xét về phương diện phạm vi địa lý, môi trường biển là
toàn bộ vùng nước biển của trái đất với tất cả những gì có trong đó. Theo Điều 1,
khoản 4 Công ước của Liên hợp quốc tế Luật biển năm 1982, môi trường biển được
hiểu bao gồm các tài nguyên sinh vật, các hệ sinh thái biển và chất lượng nước biển,
cảnh quan biển [12]. Năm 1992, tại Hội nghị thượng đỉnh trái đất về bảo vệ môi
trường họp tại Rio De Janeiro (Brazill), là chương trình hành động phát triển bền
vững. Ở chương 17 trong chương hành động 21 (Agenda 21) định nghĩa: “Môi
trường biển là vùng bao gồm các đại dương và các biển, các vùng ven biển tạo
thành một tổng thể, một thành phần cơ bản của hệ thống duy trì cuộc sống toàn cầu
và là tài sản hữu ích tạo cơ hội cho sự phát triển bền vững”. Định nghĩa này được

coi là định nghĩa chính thức về “môi trường biển”.
Ô nhiễm môi trường biển: Pháp luật Việt Nam không có định nghĩa riêng về
từng thành phần của môi trường mà Luật bảo vệ môi trường năm 2005 chỉ đưa ra
định nghĩa: “Môi trường bao gồm các yếu tố tự nhiên và vật chất nhân tạo bao
quanh con người, có ảnh hưởng đến đời sống, sản xuất, sự tồn tại, phát triển của con
người và sinh vật” [5]. Căn cứ vào định nghĩa ô nhiễm môi trường của Luật bảo vệ
môi trường thì, ô nhiễm môi trường biển là sự biến đổi trạng thái lý – hoá – sinh
học của môi trường biển khi thả vào môi trường biển những chất độc hại, vi phạm
tiêu chu n môi trường biển những chất độc hại, vi phạm tiêu chu n môi trường, gây
ảnh hưởng xấu đến con người và sinh vật.
Theo tác giả, nên định nghĩa: Ô nhiễm môi trường biển là việc con người trực
tiếp hoặc gián tiếp đưa các chất liệu hoặc năng lượng vào môi trường biển, bao
gồm từ các cửa sông, đất liền, trên không trung, đáy biển hoặc do những biến đổi
bất thường của tự nhiên, từ đó gây ra hoặc có thể gây ra những tác hại như gây

8


nguy hiểm cho sức khoẻ con người, gây trở ngại cho các hoạt động ở biển, kể cả
việc đánh bắt hải sản và các việc sử dụng biển một cách hợp pháp khác, làm biến
đổi chất lượng nước biển về phương diện sử dụng nó và giảm sút các giá trị mỹ
cảm của biển.
Bảo vệ môi trường biển: Luật Bảo vệ môi trường năm 2014 có một chương
quy định về bảo vệ môi trường biển và hải đảo nhằm bảo đảm tính thống nhất và
toàn diện, đây là văn bản quy phạm pháp luật quan trọng góp phần tăng cường hiệu
lực, hiệu quả công tác quản lý tổng hợp, thống nhất nhà nước về tài nguyên, môi
trường biển và hải đảo.Song trong các điều của Luật Bảo vệ môi trường năm 2014
không chỉ ra thế nào là bảo vệ môi trường biển. Từ đó, có thể định nghĩa: bảo vệ
môi trường biển là những chủ trương, chính sách và hoạt động thực tiễn của Đảng,
Nhà nước, nhân dân nhằm giữ gìn, khai thác, bảo vệ, cải tạo, phục hồi các yếu tố

cấu thành môi trường biển gồm:nước biển, các sinh vật thủy, hải sản trong lòng
biển, rêu rong tảo trong nước biển và các tài nguyên thiên nhiên có trong lòng biển.
Chính sách bảo vệ môi trường biển: Trước khi tìm hiểu khái niệm chính sách
môi trường biển, cần làm rõ một số khái niệm sau:
Chính sách: là tập hợp các chủ trương và hành động về phương diện nào đó
của Chính phủ nó bao gồm các mục tiêu mà chính phủ muốn đạt được và cách làm
để thực hiện các mục tiêu đó. Những mục tiêu này bao gồm sự phát triển toàn diện
trên các lĩnh vực kinh tế - văn hóa - xã hội - môi trường.
Chính sách bảo vệ môi trường: là những chủ trương, biện pháp mang tính
chiến lược, thời đoạn, nhằm giải quyết một nhiệm vụ bảo vệ môi trường cụ thể nào
đó, trong một giai đoạn nhất định.
Chính sách bảo vệ môi trường biển: Chính sách bảo vệ môi trường biển là một
loại chính sách công nhằm bảo vệ môi trường biển, là bộ phận của chính sách bảo
vệ môi trường, tập trung vào các vấn đề môi trường biển và có liên quan chặt ch
với các bộ phận khác của chính sách bảo vệ môi trường.Theo PGS.TS Đ Phú Hải
thì “Chính sách công là tập hợp các Quyết định chính trị có liên quan của Nhà nước
nhằm lựa chọn mục tiêu, giải pháp và công cụ thực hiện nhằm giải quyết các vấn đề
của xã hội theo mục tiêu tổng thể đã xác định”.

9


Như vậy, chính sách bảo vệ môi trường biển là một tập hợp các quy định,
quyết định quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường biển nhằm lựa ch n các mục
tiêu, giải pháp và công cụ thực hiện nhằm giải quyết các vấn đề môi trường biển
theo mục tiêu tổng thể đ xác định [17].
Tài nguyên biển và hải đảo bao gồm tài nguyên sinh vật và tài nguyên phi sinh
vật thuộc khối nước biển, đáy biển, lòng đất dưới đáy biển, vùng đất ven biển và
quần đảo, đảo, bãi cạn lúc chìm lúc nổi, bãi ngầm thuộc chủ quyền, quyền chủ
quyền, quyền tài phán quốc gia của Việt Nam. Nhà nước ta có những chính sách về

bảo vệ môi trường biển là bảo vệ tài nguyên, môi trường biển và hải đảo cụ thể:
Một là, nhà nước bảo đảm bảo vệ môi trường biển, tài nguyên biển và hải đảo
được quản lý, bảo vệ, khai thác, sử dụng hợp lý, hiệu quả, bền vững theo chiến
lược, quy hoạch, kế hoạch phục vụ phát triển kinh tế - xã hội, bảo vệ chủ quyền
quốc gia, bảo đảm quốc phòng, an ninh.
Hai là, nhà nước huy động các nguồn lực, khuyến khích đ y mạnh công tác
điều tra cơ bản, nghiên cứu khoa học về tài nguyên, môi trường biển và hải đảo; ưu
tiên cho vùng biển sâu, biển xa, hải đảo, vùng biển quốc tế liền kề và các tài nguyên
mới có tầm quan trọng trong phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an
ninh; có chính sách khuyến khích tổ chức, cá nhân tham gia khai thác, sử dụng bền
vững tài nguyên, bảo vệ môi trường biển và hải đảo.
Ba là, tăng cường kiểm soát ô nhiễm môi trường biển và hải đảo; nâng cao
hiệu quả công tác phối hợp trong việc kiểm soát ô nhiễm, phòng ngừa, ứng phó sự
cố môi trường biển và hải đảo, biến đổi khí hậu, nước biển dâng; quản lý chặt ch
hoạt động nhận chìm ở biển.
ốn là, đầu tư nâng cao năng lực quan trắc, giám sát, dự báo về tài nguyên,
môi trường biển và hải đảo; thiết lập hệ thống thông tin, cơ sở dữ liệu tổng hợp,
đồng bộ về tài nguyên, môi trường biển và hải đảo phục vụ phát triển kinh tế biển,
quốc phòng, an ninh.
Năm là, mở rộng và nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế trong quản lý, khai
thác, sử dụng tài nguyên, bảo vệ môi trường biển và hải đảo trên nguyên tắc giữ
vững độc lập, chủ quyền quốc gia.

10


1.1.2. Các yếu tố ảnh hưởng tới việc thực hiện chính sách bảo vệ môi
trường biển
Thứ nhất, yếu tố tự nhiên:
- Các vi sinh vật gây hại: các loại vi sinh vật biển, vi tảo biển gây hại cho biển

gia tăng về số lượng, tham gia vào hiện tượng thuỷ triều đỏ, làm suy giảm các sinh
vật biển có lợi.
- Các hoạt động địa chất như: núi lửa dưới lòng đất, bão, các cơn địa chấn,
song thần…làm chết hàng loạt vi sinh vật biển, xác của chúng không được xử lý đã
gây ô nhiễm vùng biển đới bờ. Bên cạnh đó sự đứt gãy của vỏ trái đất làm rò rỉ
những mỏ dầu ở đáy đại dương cũng đã góp phần gây ra tình trạng ô nhiễm môi
trường biển.
- Không khí ô nhiễm: Các hoạt động tương tác biển - khí cũng kéo theo hiện
tượng lắng đọng các chất gây ô nhiễm xuống biển. Loại này khó theo dõi và quản lý
vì thường phát tán trên diện rộng. Nồng độ CO2 được hoà tan vào trong nước biển
tăng lên nhanh chóng cùng với nhiều chất gây nguy hại và bụi kim loại nặng được
không khí mang ra biển. Sự gia tăng nhiệt độ trong khí quyển của trái đất do hiệu
ứng nhà kính đã kéo theo sự dâng cao của mực nước biển và thay đổi môi trường
sinh thái biển.
Thứ hai, yếu tố con người
- Dân số gia tăng, nghèo đói: Biển và vùng bờ thường là nơi rất giàu có và đa
dạng các loại hình tài nguyên, cũng như ở đây chứa đựng tiềm năng to lớn để phát
triển nền kinh tế biển đa dạng. Bởi vậy nơi đây rất sôi động các hoạt động phát triển
kinh tế như dịch vụ, thương mại của con người có trên 50% số đô thị lớn, gần 60%
dân số tính theo đơn vị cấp tỉnh, phần lớn các khu công công nghiệp và khu chế
xuất, các vùng nuôi thuỷ sản, các hoạt động cảng biển - hàng hải và du lịch s được
xây dựng đến năm 2020 [21].
- Tỷ lệ gia tăng dân số ở vùng này cũng thường cao đột biến, cao hơn trung
bình cả nước. Chính vì hoạt động kinh tế phát triển nên sự gia tăng di dân tự do,
tăng nhu cầu sử dụng tài nguyên thiên nhiên và hình thành thói quen tiêu thụ tài
nguyên lãng phí. Kết quả, gây sức ép lớn đến môi trường biển, khu dân cư ven biển,

11



làm suy giảm, suy thoái tài nguyên biển ở những vùng ven bờ. Trong khi vùng biển
gần bờ nước ta còn rất ít tôm c, thì cuộc sống của khoản “600.000 ngư dân và gia
đình” họ vẫn cần có thức ăn hàng ngày và bản năng tồn tại vẫn buột họ khai thác
nhiều tôm cá hơn nên nguồn lợi từ biển ngày càng cạn kiệt [21].
- Lối sống và trình độ dân trí còn thấp: Không giống trong đất liền, người dân
cư ven biển chủ yếu đến từ nhiều nơi, họ là dân nhiều vùng miền, thập chí có cả
một bộ phân dân cư du nhập từ đất nước láng giềng của Việt Nam. Họ sống tập
trung thành cụm, hình thành những “vạn chài”, cuộc sống hàng ngày thật khó khăn
với bao lo toan, phải đối mặc với tính tàn khốc, khó khăn của biển nước. Do vậy
ngoài mục đích kiếm tiền nuôi sống bản thân thì những khái niệm về bảo vệ nguồn
lợi từ biển, môi trường biển coi như nằm ngoài sự để tâm của họ.
- Các hoạt động trên biển như: hàng hải, nuôi trồng và đánh bắt hải sản, phát
triển cảng và nạo vét đáy biển, du lịch biển, thăm dò và khai thác khoán sản biển
(chủ yếu dầu khí), nhận chìm tàu và các sự cố môi trường biển khác (tràn dầu, thải
dầu, đổ dầu cặn bất hợp pháp, đổ thải phóng xạ, hoá chất độc hại…), các chất thải
không qua xử lý đổ ra sông, suối cuối cùng “trăm sông đổ ra biển cả” gây ô nhiễm
môi trường biển.
Thứ ba, yếu tố luật pháp, chính sách
Hệ thống pháp luật BVMT biển ở nước ta hiện nay gồm:
- Luật Môi trường quốc tế là tổng thể các nguyên tắc, quy phạm quốc tế điều
chỉnh mối quan hệ giữa các quốc gia và tổ chức quốc tế trong việc ngăn chặn, loại
trừ thiệt hại gây ra cho môi trường của từng quốc gia và môi trường ngoài phạm vi
sử dụng của quốc gia.
Cho đến nay, đã có hàng nghìn các văn bản luật quốc tế về môi trường. Việt
Nam đã tham gia ký kết nhiều văn bản trong số đó. Pháp luật quốc tế về BVMT
biển do nhiều nước ký kết hoặc tham gia không có hiệu lực trực tiếp trên lãnh thổ
quốc gia cụ thể. Muốn thi hành trên phạm vi lãnh thổ quốc gia nào đó, các quy
phạm của Luật quốc tế về BVMT biển cần phải chuyển hóa thành quy phạm pháp
luật quốc gia, nghĩa là nhà nước phải phê chu n các văn bản này.


12


- Luật Môi trường quốc gia là tổng hợp các quy phạm pháp luật, các nguyên
tắc pháp lý điều chỉnh các quan hệ phát sinh giữa các chủ thể trong quá trình các
chủ thể sử dụng hoặc tác động đến một hoặc một vài yếu tố của môi trường trên cơ
sở kết hợp các phương pháp điều chỉnh khác nhau, nhằm bảo vệ một cách có hiệu
quả môi trường sống của con người. Hệ thống luật BVMT biển của một quốc gia
thường gồm luật chung và luật sử dụng hợp lý các thành phần môi trường hoặc
BVMT cụ thể ở một địa phương, một ngành.
Nhà nước thay mặt xã hội, thể hiện ý chí xã hội, biến ý chí đó thành pháp luật.
Vì vậy, các mục tiêu chung về BVMT biển, vì lợi ích chung của cộng đồng, xã hội
cần được thể chế hóa, pháp luật hóa trong Luật và mọi chủ thể trong xã hội phải có
trách nhiệm thi hành. Với chức năng: nhận thức, giáo dục, điều chỉnh, phân công xã
hội, bảo vệ và giải quyết các xung đột, Luật BVMT biển giúp nhà nước quản lý
công việc BVMT biển hiệu quả trong xã hội.
Ngoài Luật BVMT biển, nhà nước còn phải có các văn bản pháp lý khác dưới
luật để quản lý, chỉ đạo việc BVMT biển. Các văn bản dưới luật về BVMT biển ở
Việt Nam bao gồm: pháp lệnh do Ủy ban Thường vụ Quốc hội soạn thỏa thông qua,
Chủ tịch nước ký lệnh ban hành; nghị định và quyết định do Chính phủ ban hành để
hướng dẫn và cụ thể hóa luật; quyết định và quy định do các Bộ và Ủy ban nhân
dân các cấp ban hành; chỉ thị và thông tư hướng dẫn do Cục Môi trường, Bộ TN
&MT và Cục BVMT biển ban hành.
Hệ thống công cụ pháp lý để BVMT biển của quốc gia chính là khung khổ
pháp lý để điều chỉnh các quan hệ phát sinh giữa các chủ thể trong các hoạt động
phát triển có liên quan đến môi trường nhằm BVMT của con người. Nếu hệ thống
văn bản quy phạm pháp luật về BVMT của quốc gia rõ ràng, cụ thể, phù hợp với
thực tế, được ban hành kịp thời, đồng bộ, đầy đủ thì nó s đi vào cuộc sống, được
các tổ chức, cá nhân chấp nhận và thực hiện tốt. Ngược lại, văn bản quy phạm pháp
luật về BVMT của quốc gia không rõ ràng, không sát với thực tế, chồng chéo, mâu

thuẫn nhau thì s khó khăn trong tổ chức triển khai thực hiện và không được các tổ
chức, cá nhân chấp hành, tức hiệu lực quản lý nhà nước QLNN về BVMT kém.

13


Bên cạnh yếu tố pháp luật, còn là những yếu tố về chính sách. Trong giai đoạn
hiện nay, cơ chế, chính sách, pháp luật về bảo vệ môi trường biển và việc tổ chức
thực hiện của các cơ quan chức năng vẫn còn những hạn chế, bất cập. Theo thống
kê của Bộ Tư pháp (2014), hiện nay có khoảng 300 văn bản pháp luật về bảo vệ
môi trường để điều chỉnh hành vi của các cá nhân, tổ chức, các hoạt động kinh tế,
các quy trình kỹ thuật, quy trình sử dụng nguyên liệu trong sản xuất. Tuy nhiên, hệ
thống các văn bản này vẫn còn chưa hoàn thiện, thiếu đồng bộ, thiếu chi tiết, chưa
bám sát thực tế, tính ổn định không cao, tình trạng văn bản mới được ban hành
chưa lâu đã phải sửa đổi, bổ sung là khá phổ biến, từ đó làm hạn chế hiệu quả điều
chỉnh hành vi của các cá nhân, tổ chức, các hoạt động kinh tế,... trong việc bảo vệ
môi trường biển. Trình độ chuyên môn, nghiệp vụ của đội ngũ cán bộ chuyên trách
công tác bảo vệ môi trường biển hạn chế thường dẫn đến không chỉ làm cho các
chính sách về bảo vệ môi trường biển bất cập so với thực tiễn đòi hỏi mà còn làm
cho chính sách chậm hoặc khó đi vào cuộc sống, thậm chí cản trở thực hiện các
mục tiêu bảo vệ môi trường.
Thứ tư, yếu tố quản lý.
Trong đó năng lực, trình độ nghiệp vụ của cán bộ quản lý có vai trò quyết
định. Nếu các cấp chính quyền chưa hoặc chưa nhận thức đầy đủ và quan tâm đúng
mức đối với công tác bảo vệ môi trường thì thường dẫn đến buông lỏng quản lý,
thiếu trách nhiệm trong việc kiểm tra, giám sát về môi trường biển. Nếu tăng cường
công tác quản lý, nâng cao vai trò trách nhiệm của các sở, ban, ngành và đội ngũ
cán bộ chuyên trách công tác bảo vệ môi trường biển thì s thực thi được chính sách
báo vệ môi trường biển, đưa vào cuộc sống hiệu quả hơn và giảm thiểu ô nhiễm môi
trường biển.

1.1.3. Các chính sách chủ yếu nhằm bảo vệ môi trường biển
- Luật pháp Quốc tế:
Công ước quốc tế về bảo vệ môi trường biển hiện nay có khoản 300 công ước
quốc tế về bảo vệ môi trường. Trong đó, có các công ước sau về bảo vệ môi trường
biển:

14


+ Công ước năm 1982 của Liên hợp quốc về luật biển (UNCLOS).
+ Công ước quốc tế về ngăn ngừa ô nhiễm từ tàu (MARPOL 73/78).
+ Công ước quốc tế về an toàn sinh mạng con người trên biển 1974 (SOLAS).
+ Công ước quốc tế sẵn sàng ứng phó và hợp tác đối với việc xử lý ô nhiễm
dầu năm 1990 (OPRC).
+ Công ước về ngăn ngừa ô nhiễm biển và do chất thải và những vật liệu khác
(London 1972).
+ Công ước quốc tế Hồng Kông về tái sinh tàu an toàn, thân thiện môi trường
năm 2009 (SR 2009)...
Cùng với quá trình phát triển các quốc gia đã nhận thức rõ được sự cần thiết
của vệ hợp tác quốc tế trong việc bảo vệ môi trường biển - tài sản chung của nhân
loại. Do đó, các công ước quốc tế về môi trường biển được xây dựng ngày càng
nhiều và được các quốc gia trên thế giới gia nhập, ký kết tạo nên một khung pháp lý
cơ bản bảo vệ môi trường biển. Tuy vậy việc thực thi, nội luật hoá các công ước
quốc tế này là vấn đề quan trọng, cần được các quốc gia quan tâm thích đáng. Có
như vậy mới bảo vệ hiệu quả môi trường nói chung và môi trường biển nói riêng.
- Pháp luật và chính sách quốc gia: Công tác bảo vệ môi trường biển cần
được tham khảo kinh nghiệm của nhiều quốc gia trên thế giới, đặc biệt là các quốc
gia trong khu vực có điều kiện tương đồng để chọn lọc và áp dụng phù hợp với điều
kiện Việt Nam.
Tại Mỹ: Mỹ là quốc gia tiên phong trong việc áp dụng quản lý tổng hợp biển và

vùng ven biển, tăng cường công tác bảo vệ môi trường biển. Luật Quản lý Vùng Ven
biển (CZMA) được Mỹ thông qua năm 1972 nhằm tăng cường sự tham gia và phối
hợp của các bên liên quan trong việc đưa ra các chương trình liên quan đến vùng ven
biển và cân bằng giữa các nhóm lợi ích ở vùng ven biển. CZMA cho phép các tiểu
bang xây dựng kế hoạch quản lý vùng ven biển, sử dụng tài nguyên đất và nước trong
phạm vi vùng ven biển của bang, do vậy m i bang có thể điều chỉnh chương trình
quản lý vùng ven biển phù hợp với bối cảnh và nhu cầu của bang mình.
Ở Canada, Canada xây dựng một hệ thống pháp luật, chính sách biển hoàn

15


chỉnh trong đó nhấn mạnh vai trò của chính sách biển thống nhất ở tầm quốc gia để
thực hiện QLTH biển. Việc xây dựng chính sách biển quốc gia Canada được bắt
đầu bằng việc xây dựng Luật biển Canada (Canada’s Ocean Act). Dựa trên đạo
luật này, Chiến lược biển Canada được xây dựng và ban hành năm 2002 trong đó có
nội dung về quản lý các hệ sinh thái cửa sông, bờ biển và đại dương ở tầm quốc gia.
Chiến lược biển quy định việc áp dụng phương pháp QLTH đối với các vùng biển,
nhấn mạnh sự hợp tác và h trợ về chính sách và chương trình quản lý giữa các cơ
quan và các chủ thể liên quan.
Chính sách, pháp luật về quản lý, bảo vệ biển của Nhật ản, về cơ cấu quản lý
hoạt động khai thác biển, Nhật Bản quản lý theo ngành dọc, m i ngành liên quan
đến biển s thuộc sự quản lý tương ứng của Bộ chuyên ngành như vận tải biển do
Bộ Giao thông vận tải quản lý, thủy sản do Bộ Thủy sản quản lý v.v.. Tuy nhiên, sự
quản lý biển theo ngành dọc cũng gây nên sự bất lợi khi giải quyết một vấn đề về
TN& MT biển liên quan đến nhiều bộ, ngành. Bởi vậy, Nhật Bản đã sớm quan tâm
đến việc quản lý thống nhất đại dương bằng việc thành lập Hội đồng Phát triển đại
dương từ năm 1971 với chức năng xây dựng các ý tưởng cơ bản về phát triển dài
hạn đại dương và đóng góp ý kiến cho Thủ tướng ra quyết định về chính sách biển
trong từng giai đoạn với thời hạn 10 năm.

Ở Singarpore, không phải ngẫu nhiên mà Singapore trở thành một quốc đảo
sạch bậc nhất thế giới. Chính từ những bài học đắt giá về hậu quả do sự phát triển
công nghiệp mạnh m làm gia tăng ô nhiễm không khí, rồi chất thải lỏng và chất
thải rắn làm môi trường xuống cấp rõ rệt vào ba bốn thập kỷ trong thế kỷ trước, đã
làm cho quốc đảo này sớm tỉnh ngộ. Không có con đường nào khác là phải tự mình
thực hiện tốt các chương trình bảo vệ môi trường. Nhìn một cách toàn diện, chưa có
một nước nào có được môi trường đô thị tốt hơn Singapore. Đó là do quốc đảo này
đã có một chiến lược quản lý môi trường hợp lý, thực hiện tốt kế hoạch hóa việc sử
dụng đất đai, biết kiểm soát kế hoạch xây dựng và phát triển đô thị. Và điều quan
trọng là đặc biệt chú trọng quản lý hạ tầng cơ sở, đi đôi với việc ban hành luật và
kiểm tra giáo dục nghiêm ngặt.

16


Sự nhận thức của cộng đồng về môi trường là yếu tố quan trọng nhất làm cơ
sở để duy trì và phát triển thích hợp cho Singapore về môi trường đô thị. Tại đây,
người ta đã thực hiện chương trình giáo dục nhằm nâng cao nhận thức hiểu biết của
quần chúng về môi trường và động viên họ tham gia tích cực vào việc BVMT.
Với kinh nghiệm về tổ chức bộ máy, xây dựng pháp luật, xây dựng các chính
sách tại các quốc gia cũng như tại địa phương, các tiểu bang của một số nước có
thể được nghiên cứu, áp dụng vào Việt Nam và Đà Nẵng với những mức độ khác
nhau phù hợp với điều kiện thực tiễn. Do vậy việc triển khai áp dụng những kinh
nghiệm này tại Việt Nam và Đà Nẵng, cần được vận dụng theo từng lĩnh vực quản
lý môi trường, từng giai đoạn, theo những lộ trình nhất định.
1.2. Cơ sở thực tiễn về thực hiện chính sách bảo vệ môi trƣờng biển và bài
học cho Đà Nẵng
1.2.1. Cơ sở thực tiễn
Thứ nhất, hệ thống quản lý nhà nước về môi trường biển:
Cấp Trung ương

Tổng cục Biển và Hải đảo Việt Nam được thành lập theo Quyết định nguyên
và Môi trường có chức năng tham mưu giúp Bộ trưởng quản lý nhà nước tổng hợp
và thống nhất về biển và hải đảo. Ngay sau khi thành lập, Tổng cục đã kh n trương
xây dựng và trình Chính phủ ban hành Nghị định 25/2009/NĐ-CP ngày 06 tháng 3
năm 2009 về quản lý tổng hợp tài nguyên và bảo vệ môi trường biển, hải đảo. Tại các
bộ, ngành khác cũng có những cơ quan chức năng trực thuộc có nhiệm vụ quản lý các
vấn đề liên quan đến môi trường biển. Như vậy, việc quản lý tổng hợp tài nguyên và
bảo vệ môi trường biển, đảo là nhiệm vụ đa ngành, cần có sự bắt tay vào cuộc của các
ngành du lịch, thương mại, giao thông vận tải…
Cấp địa phương
Sở Tài nguyên và Môi trường các tỉnh ven biển được xác định là cơ quan tham
mưu, giúp UBND cấp tỉnh thực hiện chức năng quản lý nhà nước tổng hợp và thống
nhất về biển và hải đảo trên địa bàn địa phương, trong đó có môi trường biển. Trên
cơ sở những văn bản quy phạm pháp luật đã ban hành, năm 2010, Bộ Nội vụ và Bộ
Tài nguyên và Môi trường tiếp tục ban hành Thông tư liên tịch số 26/2010/TTLT-

17


BNV-BTNMT ngày 05/11/2010 hướng dẫn hướng dẫn chức năng, nhiệm vụ, quyền
hạn, tổ chức và biên chế của Chi cục Biển và Hải đảo trực thuộc Sở Tài nguyên và
Môi trường. Theo đó, Chi cục Biển và Hải đảo là cơ quan quản lý nhà nước về biển
và hải đảo ở cấp địa phương.
Tuy nhiên, công tác quản lý nhà nước tổng hợp và thống nhất về biển là vấn đề
mới và rất phức tạp, biển lại rộng lớn và hoạt động mang tính đa ngành. Hiện có đến
15 bộ, ngành liên quan đến khai thác, sử dụng và quản lý về biển. Hệ thống quản lý
nhà nước tổng hợp và thống nhất đã định hình nhưng còn mới mẻ và chưa hoàn thiện,
thiếu các công cụ luật pháp đủ mạnh theo hướng tiếp cận quản lý tổng hợp nên hiệu
lực quản lý còn hạn chế, chưa thực hiện chức năng quản lý như mong muốn.
Thứ hai, chính sách, biện pháp:

Trước đây, ở Việt Nam do nhận thức về tài nguyên biển còn hạn chế, chưa chú
trọng các dạng tài nguyên phi vật chất, khai thác quá mức, gây lãng phí tài nguyên,
suy thoái môi trường biển và hải đảo. Trong xu thế chung của thế giới, coi “Thế kỷ
XXI là thế kỷ của đại dương” cũng như nhận thức được những tác động của biến
đổi khí hậu và nước biển dâng, Việt Nam đã bước đầu thiết lập chính sách quản lý
TN&MT biển và hải đảo theo phương thức tổng hợp trong bối cảnh đ y mạnh hội
nhập quốc tế với các nội dung chủ yếu:
Một là, quản lý TN&MT biển hợp lý, hiệu quả, bền vững theo chiến lược, quy
hoạch, kế hoạch phục vụ phát triển kinh tế - xã hội, bảo vệ chủ quyền quốc gia, bảo
đảm quốc phòng an ninh. Để thực hiện nội dung trên, thời gian qua, nhà nước đã
thành lập hệ thống cơ quan quản lý tổng hợp và thống nhất về biển và hải đảo từ
Trung ương đến địa phương; hoạch định và tổ chức thực hiện các chính sách, cơ
chế, công cụ điều phối liên ngành, liên vùng để bảo đảm tài nguyên biển và hải đảo
được khai thác, sử dụng hiệu quả, duy trì chức năng và cấu trúc của hệ sinh thái
nhằm phát triển bền vững, bảo vệ chủ quyền, quyền chủ quyền, quyền tài phán quốc
gia của Việt Nam trên biển, bảo đảm quốc phòng, an ninh.
Đặc biệt, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 1570/QĐ-TTg phê
duyệt Chiến lược khai thác, sử dụng bền vững tài nguyên và BVMT biển đến năm
2020, tầm nhìn đến năm 2030; Quyết định số 2295/QĐ-TTg phê duyệt Chiến lược

18


quản lý đới bờ Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030. Cùng với đó,
Chính phủ đang chỉ đạo Bộ TN&MT xây dựng Đề án Quy hoạch, kế hoạch sử dụng
biển Việt Nam nhằm sắp xếp lại không gian hợp lý và phân bổ nguồn lực cho các
ngành khai thác bền vững tài nguyên, BVMT biển và hải đảo.
Hai là, khuyến khích đ y mạnh công tác điều tra cơ bản, nghiên cứu khoa học
về TN&MT biển và hải đảo; thiết lập hệ thống thông tin, cơ sở dữ liệu tổng hợp,
đồng bộ về TN&MT biển và hải đảo phục vụ phát triển kinh tế biển, quốc phòng, an

ninh; khuyến khích tổ chức cá nhân khai thác, sử dụng bền vững tài nguyên, BVMT
biển và hải đảo. Đ y mạnh công tác điều tra cơ bản, nghiên cứu khoa học về
TN&MT biển và hải đảo nhằm bảo đảm cung cấp thông tin, dữ liệu về TN&MT biển
và hải đảo phục vụ công tác quản lý, phát triển kinh tế biển, ứng phó với biến đổi khí
hậu, nước biển dâng, bảo vệ chủ quyền quốc gia, bảo đảm quốc phòng, an ninh.
Ba là, tăng cường BVMT biển và hải đảo, bao gồm quy định và các nội dung
về kiểm soát ô nhiễm môi trường biển; ứng phó sự cố tràn dầu, hóa chất độc trên
biển; nhận chìm ở biển; trách nhiệm của nhà nước, tổ chức, cá nhân trong BVMT
biển và hải đảo. Hiện nay, Bộ TN&MT đang được giao tổ chức triển khai Quyết
định số 1278/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ “Phê duyệt Kế hoạch thực hiện
Tuyên bố chung và Chương trình khung giữa Việt Nam, Campuchia, Thái Lan về
hợp tác sẵn sàng ứng phó sự cố tràn dầu vùng vịnh Thái Lan”, Quyết định số
1864/QĐ-TTg phê duyệt Kế hoạch thực hiện Thỏa thuận giữa Chính phủ nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam với Chính phủ nước Cộng hòa Philipin về hợp
tác trong lĩnh vực ứng phó sự cố tràn dầu trên biển”. Việc triển khai các quyết định
này nhằm thực hiện các nghĩa vụ mà Việt Nam đã cam kết hợp tác trong việc sẵn
sàng ứng phó kịp thời, hiệu quả sự cố tràn dầu tại vùng biển tiếp giáp giữa Việt
Nam và các nước liên quan.
ốn là, nâng cao năng lực quan trắc, giám sát, dự báo về TN&MT biển và hải
đảo; thiết lập hệ thống thông tin, cơ sở dữ liệu tổng hợp, đồng bộ về TN&MT biển
và hải đảo phục vụ phát triển kinh tế biển, quốc phòng, an ninh. Nhằm quản lý hiệu
quả TN&MT biển và hải đảo, ứng phó kịp thời và phòng chống thiên tai từ biển,
chính sách quản lý TN&MT biển và hải đảo của Việt Nam xác định thiết lập hệ

19


thống quan trắc, giám sát tổng hợp TN&MT biển và hải đảo theo hệ thống mở, kết
nối và chia sẻ thông tin bảo đảm thông suốt từ Trung ương đến địa phương; tham
gia các hệ thống quan trắc, giám sát biển và đại dương của khu vực, thế giới.

Năm là, mở rộng và nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế trong quản lý, khai
thác, sử dụng tài nguyên, BVMT biển và hải đảo trên nguyên tắc giữ vững độc lập,
chủ quyền quốc gia. Chính sách quản lý TN&MT biển và hải đảo của Việt Nam
trong thời kỳ hội nhập quốc tế được đặt trong tổng thể chiến lược, quy hoạch phát
triển kinh tế - xã hội của đất nước; bảo đảm nguyên tắc xây dựng vùng biển hòa
bình, hợp tác, hữu nghị cùng phát triển trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền và
toàn vẹn lãnh thổ, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, bình đẳng, cùng
có lợi, tôn trọng pháp luật Việt Nam và các điều ước quốc tế có liên quan mà Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên…
Như vậy, nhận thức về vai trò quan trọng của TN&MT biển và hải đảo đối với
sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng - an ninh, chính sách
quản lý TN&MT biển và hải đảo của Việt Nam đã có sự chuyển biến theo xu hướng
hội nhập quốc tế. Đó là, thiết lập chính sách quản lý TN&MT biển và hải đảo theo
phương thức tổng hợp nhằm quản lý TN&MT biển hợp lý, hiệu quả, bền vững.
* Thực tiễn thực hiện chính sách
Đối với biển Việt Nam, Việt Nam có vùng biển rộng khoảng 1.700km2 với
đường bờ biển dài trên 3.260km, có 2 quần đảo lớn là Trường Sa, Hoàng Sa và
khoảng 3.000 đảo lớn, nhỏ khác; đường bờ biển trải dài 15 vĩ độ từ Bắc xuống Nam,
nằm trong vùng có khí hậu nhiệt đới nóng m. Vì vậy, vùng biển Việt Nam có nguồn
tài nguyên đa dạng, phong phú, bao gồm cả tài nguyên sinh vật, tài nguyên phi sinh
vật và tài nguyên vị thế. Đến nay, nước ta đã xác định được hơn 11.000 loài sinh vật
biển cư trú trong hơn 20 kiểu hệ sinh thái điển hình, thuộc 6 vùng đa dạng sinh học
biển khác nhau. Đặc biệt, ở vùng bờ tập trung hàng trăm cửa sông, đầm phá, vũng,
vịnh, các đảo và quần đảo... tạo nên một hệ thống các loại hình sinh cảnh phức tạp, đa
dạng các hệ sinh thái: Bãi triều lầy, rừng ngập mặn, cửa sông, đầm phá, vũng, vịnh
nhỏ, rạn san hô, châu thổ, bãi cát, bãi bùn triều, đầm nuôi thủy sản nước lợ, đất ngập
nước ven biển... Một số hệ sinh thái có năng suất sinh học cao là rạn san hô, thảm cỏ

20



×