VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
TRẦN THỊ THU HƢƠNG
TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY THEO
PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN
QUẬN GÒ VẤP, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
HÀ NỘI - 2018
VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
---------------------------
TRẦN THỊ THU HƢƠNG
TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY THEO
PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN
QUẬN GÒ VẤP, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
Chuyên ngành: Luật hình sự và Tố tụng hình sự
Mã số: 60.38.01.04
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS HỒ SỸ SƠN
HÀ NỘI - 2018
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan số liệu và kết quả nghiên cứu trong luận văn thạc sỹ
Luật học “Tội Tàng trữ trái phép chất ma tuý theo Pháp luật hình sự Việt
Nam từ thực tiễn quận Gò Vấp, thành phố Hồ Chí Minh” là hoàn toàn trung
thực và không trùng lắp với các đề tài khác trong cùng lĩnh vực. Luận văn này
là công trình nghiên cứu của riêng tôi dƣới sự hƣớng dẫn của PGS.TS Hồ Sỹ
Sơn.
Tác giả luận văn
Trần Thị Thu Hƣơng
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chƣơng 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ QUY ĐỊNH CỦA PHÁP
LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT
MA TÚY ........................................................................................................... 6
1.1. Những vấn đề lý luận về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý ................... 6
1.2. Quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về tội tàng trữ trái phép chất
ma tuý ........................................................................................................... 30
1.3. Quy định về tội tràng trữ trái phép chất ma túy của một số nƣớc trong
khu vực ......................................................................................................... 43
Chƣơng 2: THỰC TIỄN ÁP DỤNG CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP
LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT
MA TÚY TRÊN ĐỊA BÀN QUẬN GÒ VẤP, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ
MINH.............................................................................................................. 46
2.1. Thực tiễn định tội danh tội tàng trữ trái phép chất ma túy trên địa bàn
Quận Gò Vấp, thành phố Hồ Chí Minh ....................................................... 46
2.2. Thực tiễn quyết định hình phạt đối với tội tàng trữ trái phép chất ma túy
trên địa bàn Quận Gò vấp, thành phố Hồ Chí Minh .................................... 62
Chƣơng 3: CÁC YÊU CẦU VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN CÁC QUY
ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP
CHẤT MA TÚY ............................................................................................ 67
3.1. Các yêu cầu hoàn thiện các quy định của pháp luật hình sự về tội tàng
trữ trái phép chất ma túy .............................................................................. 67
3.2. Các giải pháp hoàn thiện các quy định của pháp luật hình sự về tội tàng
trữ trái phép chất ma túy .............................................................................. 72
KẾT LUẬN .................................................................................................... 79
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
BCA
:Bộ Công an
BLHS
:Bộ luật hình sự
BLTTHS
:Bộ luật tố tụng hình sự
BTP
:Bộ Tƣ pháp
CTTP
:Cấu Thành tội phạm
GDPL
:Giáo dục pháp luật
QĐHP
:Quyết định hình phạt
QPPL
:Quy phạm pháp luật
QPPLHS
:Quy phạm pháp luật hình sự
TAND
:Toà án nhân dân
TANDTC
:Toà án nhân dân tối cao
TNHS
:Trách nhiệm hình sự
VKSNDTC
:Viện kiểm sát nhân dân tối cao
XHCN
:Xã hội chủ nghĩa
DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU
Bảng 2.1 Diễn biến tình hình tội tàng trữ trái phép chất ma túy so với tình hình tội
phạm nói chung trên địa bàn Quận Gò Vấp (2013-2017) .........................................46
Bảng 2.2 Thống kê số bị cáo bị xét xử theo các khoản khác nhau theo Điều 194
BLHS trên địa bàn quận Gò Vấp, thành phố Hồ Chí Minh (2013 – 2017). .............63
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Qua 35 năm thực hiện công cuộc đổi mới, đất nƣớc ta đã đạt đƣợc những
thành tựu to lớn về mọi mặt: kinh tế, chính trị và xã hội. Những kết quả đạt đƣợc từ
việc đổi mới hệ thống chính trị, cơ chế quản lý kinh tế, cải cách hành chính, cải
cách tƣ pháp, hoàn thiện hệ thống pháp luật và hội nhập quốc tế tạo ra tiền đề quan
trọng cho việc thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng nhà nƣớc
pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Tuy nhiên,
cùng với những thành tựu đã đạt đƣợc, công cuộc đổi mới đất nƣớc đang phải đối
mặt với nhiều nguy cơ về sự mất ổn định xã hội do tình hình tội phạm trong những
năm gần đây có xu hƣớng tăng cao, trong đó có tội tàng trữ trái phép chất ma túy.
Tệ nạn ma túy nói chung và các tội phạm về ma túy nói riêng là hiểm họa lớn
cho toàn xã hội, gây tác hại cho sức khỏe, làm suy thoái nòi giống, phẩm giá con
ngƣời, phá hoại hạnh phúc gia đình, gây ảnh hƣởng nghiêm trọng đến trật tự, an
ninh xã hội, quốc gia và quốc tế. Tàng trữ trái phép chất ma túy là một trong những
hành vi nằm trong những chuỗi hoạt động phạm tội về ma túy phổ biến nhất, đƣợc
tất cả các quốc gia và cộng đồng quốc tế quan tâm đấu tranh phòng chống và kiểm
soát.
Để đấu tranh phòng, chống có hiệu quả tình hình tàng trữ, vận chuyển, mua
bán cũng nhƣ chiếm đoạt chất ma túy, Đảng và Nhà nƣớc ta rất quan tâm và chỉ đạo
sát sao bằng việc ban hành các văn bản pháp luật để làm cơ sở tiến tới ngăn chặn và
phòng ngừa loại tội phạm nguy hiểm này. Tuy nhiên, trong những năm gần đây,
diễn biến tội tàng trữ trái phép chất ma túy trong nƣớc không giảm mà còn có
những diễn biến hết sức phức tạp: xuất hiện nhiều loại ma túy mới; các vụ án có
trọng lƣợng ma túy rất lớn; ngƣời phạm tội tàng trữ trái phép chất ma túy manh
động, chống trả quyết liệt lực lƣợng chức năng; có sự kết cấu chặt chẽ giữa các tội
phạm ma túy, thành lập đƣờng dây mua bán ma túy xuyên Việt, có tính chất quốc
tế…
Quận Gò Vấp nằm ở phía Bắc của Thành phố Hồ Chí Minh, gồm 16 phƣờng,
là quận có tốc độ đô thị hoá phát triển nhanh, ngƣời dân nhập cƣ ngày càng nhiều,
1
hoạt động tàng trữ trái phép chất ma tuý ở một số nơi còn diễn biến phức tạp, các
đối tƣợng tàng trữ trái phép chất ma tuý ở nơi khác đến địa bàn quận Gò Vấp hoạt
động. Hầu hết các đối tƣợng tàng trữ ma tuý đều là đối tƣợng nghiện, phục vụ nhu
cầu bản thân. Trong đó cón nhiều đối tƣợng đã có tiền án tiền sự về các tội phạm
ma tuý, có kinh nghiệm đối phó nên khi bị bắt đều tìm cách tẩu tán tang vật, ngoan
cố không chịu nhận tội dẫn đến việc đấu tranh, xử lý gặp nhiều khó khăn.
Do vậy, thực tiễn xét xử các vụ án hình sự cho thấy, hiện nay, các cơ quan
tiến hành tố tụng còn gặp nhiều khó khăn, vƣớng mắc trong việc định tội danh và
quyết định hình phạt đối với tội tàng trữ trái phép chất ma túy. Bên cạnh những kết
quả nhất định, phát huy hiệu quả công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm vẫn còn
nhiều hạn chế, thiếu sót nhƣ: Vẫn có một số trƣờng hợp áp dụng không đúng, chƣa
xem xét đầy đủ tính chất, mức độ phạm tội dẫn đến việc định tội danh thiếu chính
xác, việc hủy án, sửa án vẫn còn tồn tại ở tội tàng trữ trái phép chất ma túy.
Từ các lý do trên, tác giả lựa chọn đề tài “Tội tàng trữ trái phép chất ma túy
theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn Quận Gò Vấp, thành phố Hồ Chí
Minh”
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Để tìm hiểu nguyên nhân và giải pháp hoàn thiện các quy định của pháp luật
hình sự về tội tàng trữ trái phép chất ma túy, tạo cơ sở pháp lý cho việc xử lý hành
vi phạm tội này, tác giả luận văn đã tham khảo:
- Các công trình nghiên cứu ở nƣớc ngoài nhƣ: Nghiên cứu nƣớc ngoài:
Kuđriavtxev V.N, Lý luận chung về định tội danh, NXB Sách pháp lý. Maxcơva,
1972 (Tiếng Nga); Gaukhman L.Đ, Định tội danh: Pháp luật, lý luận, thực tiễn,
Trung tâm Thông tin pháp lý xuất bản, Maxcơva, 2001 (Tiếng Nga);“Why
Canadian marijuana is fiding a booming market in Asia, after years of East -to-West
trade” (Tại sao cần sa Canada đƣợc mua bán rộng rãi ở Châu Á sau nhiều năm vận
chuyển, mua bán từ Châu Á sang Châu Âu) năm 2013, tác giả Chris Brummitt;
Sách “Detection of secret laboratories producing illicit drugs and illicit substances
(Phát hiện các labo bí mật sản xuất trái phép chất ma túy và buôn lậu tiền chất), Cơ
2
quan phòng, chống ma túy và tội phạm của Liên hợp quốc (UNODC) khu vực Châu
Á - Thái Bình Dƣơng, năm 2004. Sách “The role of the chemical industry in the
fight againts drug production”(Vai trò của ngành hóa chất trong phòng, chống sản
xuất ma túy),Cơ quan phòng, chống ma túy và tội phạm của Liên hợp quốc khu vực
Đông Á- Thái Bình Dƣơng, năm 2004.
- Các công trình nghiên cứu ở trong nƣớc nhƣ: Giáo trình Luật hình sự (phần
chung), GS – TS Võ Khánh Vinh, NXB Khoa học xã hội năm 2014; Giáo trình Luật
hình sự Việt Nam (Phần các tội phạm), GS – TS Võ Khánh Vinh, NXB Khoa học
xã hội năm 2014; Giáo trình Luật hình sự Việt Nam 2007, GS – TS Nguyễn Ngọc
Hòa (Chủ biên), NXB Công an nhân dân, Hà Nội; Hoàn thiện một số quy định về
hình phạt của BLHS năm 1999 nhằm đảm bảo hơn nữa nguyên tắc nhân đạo trong
luật hình sự” 2008, PGS.TS Hồ Sỹ Sơn, Luật Hình sự 2015; Lý luận chung về định
tội danh, GS.TS. Võ khánh Vinh, NXB Khoa học xã hội năm 2013; Luật học…
Các công trình nghiên cứu trên có giá trị liên quan đã đƣợc tác giả tham khảo
khi thực hiện đề tài: “Tội tàng trữ trái phép chất ma túy theo pháp luật hình sự Việt
Nam từ thực tiễn quận Gò Vấp, thành phố Hồ Chí Minh”
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của đề tài này là đề xuất hoàn thiện pháp luật hình sự
và các giải pháp bảo đảm áp dụng đúng các quy định của pháp luật hình sự về tội
tàng trữ trái phép chất ma tuý.
3.2. Nhiệm vụ
Để đạt đƣợc các mục đích nhƣ đã nêu ở trên, luận văn thực hiện các nhiệm
vụ chủ yếu sau:
- Phân tích khái niệm và các dấu hiệu pháp lý của tội tàng trữ trái phép chất
ma túy.
- Mô tả, phân tích các quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về tội tàng
trữ trái phép chất ma túy.
- Khái quát những vấn đề lý luận về định tội danh và quyết định hình phạt,
trên cơ sở đó đánh giá thực tiễn định tội danh và quyết định hình phạt đối với tội
3
tàng trữ trái phép chất ma túy từ thực tiễn Quận Gò Vấp, thành phố Hồ Chí Minh từ
năm 2013 đến năm 2017.
- Lập luận các yêu cầu và đề xuất các giải pháp hoàn thiện pháp luật và bảo
đảm áp dụng đúng các quy định của pháp luật hình sự về tội tàng trữ trái phép chất
ma túy từ thực tiễn quận Gò Vấp, thành phố Hồ Chí Minh từ năm 2013 đến năm
2017.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn lấy các quan điểm khoa học, các quy định pháp luật hình sự về tội
tàng trữ trái phép chất ma túy và thực tiễn áp dụng chúng trên địa bàn quận Gò Vấp,
thành phố Hồ Chí Minh để nghiên cứu các vấn đề thuộc nội dung nghiên cứu của đề
tài.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài luận văn đƣợc nghiên cứu dƣới góc độ chuyên ngành luật hình sự và
tố tụng hình sự.
Các số liệu phục vụ nghiên cứu đƣợc thu thập từ thực tiễn xét xử tội tàng trữ
trái phép chất ma túy từ năm 2013 đến năm 2017 trên địa bàn quận Gò Vấp, thành
phố Hồ Chí Minh .
Khía cạnh thực tiễn: Áp dụng pháp luật hình sự có nội dung rộng, song trong
phạm vi luận văn thạc sĩ, luận văn chỉ tập trung xem xét nội dung định tội danh và
quyết định hình phạt đối với tội tàng trữ trái phép chất ma túy.
5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu
Luận văn đƣợc thực hiện dựa trên cơ sở phƣơng pháp luận của Chủ nghĩa
Mác – Lênin về chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử; tƣ
tƣởng Hồ Chí Minh về xây dựng nhà nƣớc, pháp luật và những chủ trƣơng, đƣờng
lối của Đảng, Nhà nƣớc ta về tội phạm và hình phạt; về đấu tranh phòng, chống tội
phạm. Luận văn còn đƣợc thực hiện dựa trên và trong một tổng thể các phƣơng
pháp nghiên cứu đặc thù của khoa học luật hình sự nhƣ: Phƣơng pháp phân tích,
phƣơng pháp tổng hợp, phƣơng pháp so sánh, phƣơng pháp thống kê…để giải quyết
những vấn đề khoa học đƣợc đặt ra từ nội dung đề tài.
4
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
6.1. Ý nghĩa lý luận
Về mặt lý luận, luận văn là công trình nghiên cứu khoa học pháp lý về tội
tàng trữ trái phép chất ma túy theo quy định của BLHS Việt Nam năm 1999, có thể
đƣợc dùng làm tài liệu tham khảo trong quá trình học tập và nghiên cứu của học
viên qua đó góp phần nâng cao hiệu quả công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm
và bảo vệ quyền con ngƣời, bảo đảm an ninh, an toàn và trật tự xã hội.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Về mặt thực tiễn, kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần nâng cao chất
lƣợng, hiệu quả điều tra, truy tố và xét xử các vụ án về tội tàng trữ trái phép chất ma
túy nói chung và trên địa bàn quận Gò Vấp, thành phố Hồ Chí Minh.
Ngoài ra, luận văn còn là cơ sở để đƣa ra các giải pháp hoàn thiện pháp luật
hình sự Việt Nam liên quan đến tội tàng trữ trái phép chất ma tuý. Qua đó, nâng cao
hiệu quả công tác đấu tranh phòng, chống oan, sai và vi phạm pháp luật đảm bảo
công bằng, khách quan trong thực tiễn giải quyết các vụ án về tàng trữ trái phép
chất ma tuý.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm
3 chƣơng:
- Chƣơng 1: Những vấn đề lý luận và quy định của pháp luật hình sự Việt
Nam về tội tàng trữ trái phép chất ma túy.
- Chƣơng 2: Thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật hình sự Việt Nam
về tội tàng trữ trái phép chất ma túy trên địa bàn quận Gò Vấp, thành phố Hồ Chí
Minh.
- Chƣơng 3: Các yêu cầu và giải pháp bảo đảm áp dụng đúng các quy định
của pháp luật hình sự về tội tàng trữ trái phép chất ma túy.
5
Chƣơng 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HÌNH
SỰ VIỆT NAM VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
1.1. Những vấn đề lý luận về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý
1.1.1. Khái niệm và các dấu hiệu pháp lý của tội tàng trữ trái phép chất ma
túy
1.1.1.1. Khái niệm tội tàng trữ trái phép chất ma túy
Con ngƣời đã phát hiện và sử dụng các chất ma tuý từ cách đây khoản 6000
năm. Việc trồng và sử dụng các cây có chứa hoạt chất ma tuý đã trở thành thói quen
và tập tục của nhiều nƣớc trên thế giới, từ thời thƣợng cổ ngƣời Ba Tƣ và ngƣời Ai
Cập đã biết dùng nhựa mủ cây thuốc phiện để hút, tạo cảm giác hƣng phấn, dễ chịu
cho con ngƣời khi sử dụng. Điều này chứng minh ma tuý đã tồn tại từ rất lâu đời vì
thế có nhiều cách hiểu khác nhau về ma tuý:
Theo Tổ chức Y tế thế giới (WHO): “Ma túy là bất kỳ chất gì khi đƣa vào cơ
thể sống có thể thay đổi một hay nhiều chức năng sinh lý của cơ thể”. Năm 1982
WHO đã phát triển định nghĩa ma túy nhƣ sau: “Ma túy theo nghĩa rộng nhất là mọi
thực thể hóa học hoặc là những thực thể hỗn hợp, khác với tất cả những cái đƣợc
đòi hỏi để duy trì một sức khỏe bình thƣờng, việc sử dụng những cái đó sẽ làm biến
đổi chức năng sinh học”
Theo các chuyên gia về ma tuý của Liên hợp quốc thì: “Ma tuý là những chất
có nguồn gốc tự nhiên và nhân tạo, khi xâm nhập vào cơ thể con ngƣời sẽ làm thay
đổi tâm trạng, ý thức và trí tuệ, làm cho con ngƣời bị lệ thuộc vào ma tuý gây nên
những tổn thƣơng cho cá nhân và cộng đồng”
Theo từ điển Tiếng Việt năm 1991 thì ma túy là chất bột trắng kết tinh dẫn
xuất từ Moocphin rất độc, dùng làm thuốc giảm đau, ngƣời lạm dụng có cảm giác
thần kinh bị tê liệt và lâu dài có thể nghiện.
Theo quy định của Luật phòng chống ma túy năm 2000 (sửa đổi năm 2008)
đƣợc Quốc hội thông qua ngày 09/10/2000 thì: “Chất ma túy là các chất gây nghiện,
chất hƣớng thần đƣợc quy định trong các danh mục do Chính phủ ban hành”. Đồng
6
thời Luật cũng giải thích: “Chất gây nghiện là chất kích thích hoặc ức chế thần kinh,
dễ gây tình trạng nghiện đối với ngƣời sử dụng. Chất hƣớng thần là chất kích thích,
ức chế thần kinh hoặc gây ảo giác, nếu sử dụng nhiều lần có thể dẫn đến tình trạng
nghiện đối với ngƣời sử dụng”
Thông tƣ liên tịch số 17/2007/TTLT – BCA – VKSTC – TANDTC – BTP
ngày 24/12/2007 của Bộ Công an, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân
tối cao, Bộ tƣ pháp đƣa ra khái niệm về chất ma túy tƣơng tự nhƣ Luật phòng chống
ma túy năm 2000 đó là: “Ma túy là các chất gây nghiện, chất hƣớng thần đƣợc quy
định trong các danh mục chất ma túy do Chính phủ ban hành”.
Theo cách hiểu thông thƣờng thì ma tuý là chất gây nghiện, bị nhà nƣớc cấm.
Ma tuý bao gồm nhiều loại nhƣ: thuốc phiện, cần sa, heroin, cocain, các chất ma tuý
tổng hợp. Nếu tách từ “ma tuý” thành riêng lẻ từ “ma‟ và từ “túy” thì từ “ma” có
nghĩa là “tê liệt” và từ “tuý” là “say sƣa‟. “Ma tuý là các chất hoá học có nguồn gốc
từ tự nhiên hoặc tổng hợp, có khả năng ức chế thần kinh, có tính chất gây nghiện và
khi đƣa vào cơ thể quá liều sẽ làm thay đổi các chức năng tâm sinh lý bình thƣờng
của con ngƣời”
Các chất ma túy đƣợc quy định trong danh mục do Chính phủ Việt Nam ban
hành tại Nghị định số 82/2013/NĐ-CP gồm có 235 chất ma túy, chia thành 3 danh
mục và 41 tiền chất không thể thiếu trong quá trình sản xuất chất ma túy.
Khoản 1 điều 8 BLHS năm 1999 quy định: “Tội phạm là hành vi nguy hiểm
cho xã hội đƣợc quy định trong Bộ luật hình sự, do ngƣời có năng lực trách nhiệm
hình sự thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm chế độ chính trị, chế độ kinh
tế, nền quốc gia, an ninh, trật tự, an tòan xã hội, quyền và lợi ích hợp pháp khác của
công dân; xâm phạm những lĩnh vực khác của trật tự xã hội chủ nghĩa.
Tàng trữ ma tuý: Là việc cất giữ, cất giấu chất ma tuý ở bất cứ nơi nào (nhƣ
trong nhà, ngoài vƣờn, chôn cất dƣới đất, để trong vali, cho vào thùng xăng xe, cất
giấu trong quần áo, tƣ trang mặc trên ngƣời hoặc theo ngƣời…mà không nhằm mục
đích mua bán, vận chuyển hay sản xuất trái phép chất ma tuý. Thời gian tàng trữ dài
hay ngắn không ảnh hƣởng đến việc xác định tội này.
7
Từ các khái niệm về chất ma túy và tàng trữ ma tuý nêu trên, khái niệm tội
phạm quy định tại Khoản 1 điều 8 BLHS năm 1999, khái niệm các tội phạm về ma
túy và từ quy định tại điều 194 Bộ luật hình sự năm 1999, có thể đƣa ra khái niệm
về tội tàng trữ trái phép chất ma túy nhƣ sau: Tội tàng trữ trái phép chất ma túy là
những hành vi nguy hiểm cho xã hội đƣợc quy định trong BLHS, do ngƣời có năng
lực trách nhiệm hình sự thực hiện một cách cố ý, xâm phạm chế độ quản lý các chất
ma túy của Nhà nƣớc và phải bị xử lý hình sự.
1.1.1.2. Các dấu hiệu pháp lý của tội tàng trữ trái phép chất ma túy
* Khách thể của tội tàng trữ trái phép chất ma túy
Khách thể của tội phạm là những quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ và
bị tội phạm xâm hại [22, tr.145]. Vậy, khách thể của tội tàng trữ trái phép chất ma
túy là chế đội độc quyền quản lý của Nhà nƣớc về việc cất giữ các chất ma túy.
Thông tƣ liên tịch số 17/2007/TTLT – BCA – VKSTC – TANDTC – BTP
ngày 24/12/2007 của Bộ Công an, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân
tối cao, Bộ tƣ pháp đƣa ra khái niệm vật chất ma túy tƣơng tự nhƣ Luật phòng
chống ma túy năm 2000 đó là: “Ma túy là các chất gây nghiện, chất hƣớng thần
đƣợc quy định trong các danh mục chất ma túy do Chính phủ ban hành”.
Các chất ma tuý đƣợc liệt kê trong bảng 1, bảng 2, bảng 3 và bảng 4 danh
mục các chất ma tuý, chất hƣớng thần, theo quy định của Công ƣớc quốc tế 1961;
1971; 1988. Công ƣớc này Việt Nam đã tham gia theo quyết định số 798-QĐ/CTN
ngày 01-9-1997 của Chủ tịch Nƣớc cộng hoà xã hội Việt Nam.
Ở nƣớc ta, các chất ma túy đƣợc quy định trong danh mục do Chính phủ ban
hành tại Nghị định số 82/2013/NĐ-CP. Các dạng ma túy thƣờng gặp ở nƣớc ta là
Hêroin, Môcphin, cần sa, thuốc phiện và một số loại ma túy ở dạng thuốc tân dƣợc
nhƣ Suzusen, Dolagăng, Methamphetamin….
* Mặt khách quan của tội tàng trữ trái phép chất ma tuý
Mặt khách quan của tội phạm được hiểu là mặt bên ngoài của tội phạm, bao
gồm các biểu hiện của tội phạm diễn ra trong thế giới khách quan [22, tr.158].
Những biểu hiện đó bao gồm: Hành vi nguy hiểm cho xã hội, hậu quả nguy hiểm
8
cho xã hội và mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả, công cụ, phƣơng tiện,
phƣơng pháp, thủ đoạn phạm tội…
Dấu hiệu bắt buộc trong mặt khách quan của tội tàng trữ trái phép chất ma
túy là hành vi nguy hiểm cho xã hội do ngƣời có năng lực trách nhiệm hình sự thực
hiện. Đây là tội có cấu thành tội phạm hình thức; tội phạm này đƣợc coi là hoàn
thành từ thời điểm ngƣời phạm tội đã thực hiện một trong các hành vi khách quan
cụ thể sau:
- “Tàng trữ trái phép chất ma túy” là hành vi cất giữ, cất giấu bất hợp pháp
chất ma túy ở bất cứ nơi nào (nhƣ trong nhà, ngoài vƣờn, chôn dƣới đất, để trong
vali, cho vào thùng xăng xe, cất giấu trong quần áo, tƣ trang mặc trên ngƣời hoặc
theo ngƣời…) mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển hay sản xuất trái
phép chất ma túy. Thời gian tàng trữ dài hay ngắn không ảnh hƣởng đến việc xác
định tội này. Nếu tàng trữ trái phép chất ma túy cho ngƣời khác mà biết rõ ngƣời
này mua bán trái phép chất ma túy đó thì bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội mua
bán trái phép chất ma túy với vai trò đồng phạm.
Thực tiễn xét xử cho thấy, nhiều trƣờng hợp ngƣời phạm tội cất giấu ma tuý
trên phƣơng tiện giao thông nhƣng lại không có mục đích vận chuyển từ nơi này
đến nơi khác, mặc dù trên thực tế phƣơng tiện giao thông đó di chuyển từ nơi này
đến nơi khác thì ngƣời phạm tội vẫn chỉ bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội tàng
trữ trái phép chất ma tuý mà không bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội vận
chuyển trái phép chất ma tuý.
Thời gian cất giữ dài hay ngắn không có ý nghĩa xác định ngƣời phạm tội có
tàng trữ trái phép chất ma tuý hay không.
Thực tiễn xét xử có nhiều trƣờng hợp khó xác định ngƣời phạm tội có hành
vi tàng trữ trái phép chất ma tuý hay không, bởi lẽ đặc điểm chung của các tội phạm
về ma tuý là ngƣời phạm tội không bao giờ chịu nhận hành vi thật của mình nếu cơ
quan tiến hành tố tụng không có bằng chứng. Nếu chỉ căn cứ vào nơi cất giấu ma
tuý thì dễ cho rằng ngƣời phạm tội không có hành vi tàng trữ, nhƣng nếu căn cứ vào
các tình tiết khác của vụ án thì vẫn xác định đƣợc hành vi tàng trữ của ngƣời phạm
tội.
9
Nếu tàng trữ trái phép chất ma tuý cho ngƣời mà khác biết rõ ngƣời này mua
bán trái phép chất ma tuý đó thì hành vi cất giữ ma tuý không phải là hành vi tàng
trữ trái phép chất ma tuý mà là hành vi giúp sức ngƣời mua bán trái phép chất ma
tuý và bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội mua bán trái phép chất ma tuý với vai
trò đồng phạm. Tuy nhiên, hành vi tàng trữ, mua bán, vận chuyển đã đƣợc quy định
trong cùng một điều luật nên việc xác định chính xác hành vi tàng trữ, hành vi vận
chuyển hay hành vi mua bán chỉ có ý nghĩa trong việc định tội theo hành vi (một
hoặc một số hành vi hay định tội theo hành vi đầy đủ).
Theo hƣớng dẫn tại Thông tƣ liên tịch số 01 ngày 2-1-1998 của Toà án nhân
dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ nội vụ thì “Người nào tàng trữ, vận
chuyển trái phép dưới 1 gam nhựa thuốc phiện, nhựa cần sa hoặc cao cô ca; dưới
0,1 gam Hêrôin hoặc côcain; dưới 1 kilôgam lá, hoa, quả cây cần sa hoặc lá cây cô
ca; dưới 5 kilôgam quả thuốc phiện khô; dưới 1 kilôgam quả thuốc phiện tươi; dưới
2 gam các chất ma tuý ở thể rắn; dưới 5 mililit các chất ma tuý ở thể lỏng không
nhằm mục đích mua bán hay sản xuất trái phép chất ma túy thì chưa tới mức bị truy
cứu trách nhiệm hình sự mà chỉ bị xử lý hành chính”. Tuy nhiên, cũng có quan
điểm cho rằng, hƣớng dẫn trên là trái với quy định của Bộ luật hình sự, vì điều luật
không quy định tàng trữ bao nhiêu chất ma tuý mới cấu thành tội phạm. Có thể còn
ý kiến khác nhau, nhƣng theo tác giả, hƣớng dẫn trên là cần thiết vì trong thực tiễn
xét xử, có nhiều trƣờng hợp ngƣời phạm tội nói rằng số ma tuý bắt đƣợc là do họ
cất giấu để sử dụng dần vì họ là con nghiện, nếu không quy định một lƣợng ma tuý
nhất định để làm căn cứ xác định trách nhiệm hình sự đối với ngƣời có hành vi tàng
trữ trái phép thì có thể dẫn đến tình trạng truy cứu trách nhiệm hình sự về tội tàng
trữ trái phép chất ma tuý cả ngƣời sử dụng trái phép chất ma tuý hoặc bỏ lọt tội
phạm vì cho rằng ngƣời phạm tội chỉ có hành vi sử dụng trái phép chất ma tuý.
Hành vi tàng trữ trái phép chất ma tuý cấu thành tội phạm khi thoả mãn điều
kiện đƣợc quy định tại điều 249 BLHS năm 2015, theo đó:
“1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua
bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp
sau đây:
10
a) Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này hoặc đã bị kết án về tội
này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm;
b) Nhựa thuốc phiện, nhựa cần sa hoặc cao côca có khối lượng từ 01 gam
đến dưới 500 gam;
c) Hêrôin, côcain, Methamphetamine, Amphetamine, MDMA có khối lượng
từ 0,1 gam đến dưới 05 gam;
d) Lá, rễ, thân, cành, hoa, quả cây cần sa hoặc lá cây côca có khối lượng từ
10 kilôgam đến dưới 25 kilôgam;
đ) Quả thuốc phiện khô có khối lượng từ 05 kilôgam đến dưới 50 kilôgam;
e) Quả thuốc phiện tươi có khối lượng từ 01 kilôgam đến dưới 10 kilôgam;
g) Các chất ma túy khác ở thể rắn có khối lượng từ 01 gam đến dưới 20
gam;
h) Các chất ma túy khác ở thể lỏng có thể tích từ 10 mililít đến dưới 100
mililít;
i) Có 02 chất ma túy trở lên mà tổng số lượng của các chất đó tương đương
với số lượng chất ma túy quy định tại một trong các điểm từ điểm b đến điểm h
khoản này.”
Hành vi tàng trữ trái phép chất ma tuý sẽ cấu thành tội phạm tăng nặng khi
thoả mãn các điều kiện quy định tại khoản 2, khoản 3 và khoản 4 Điều 249 BLHS
năm 2015, theo đó:
“2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 05
năm đến 10 năm:
a) Có tổ chức;
b) Phạm tội 02 lần trở lên;
c) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn;
d) Lợi dụng danh nghĩa cơ quan, tổ chức;
đ) Sử dụng người dưới 16 tuổi vào việc phạm tội;
e) Nhựa thuốc phiện, nhựa cần sa hoặc cao côca có khối lượng từ 500 gam
đến dưới 01 kilôgam;
11
g) Hêrôin, côcain, Methamphetamine, Amphetamine, MDMA có khối lượng
từ 05 gam đến dưới 30 gam;
h) Lá, rễ, thân, cành, hoa, quả cây cần sa hoặc lá cây côca có khối lượng từ
25 kilôgam đến dưới 75 kilôgam;
i) Quả thuốc phiện khô có khối lượng từ 50 kilôgam đến dưới 200 kilôgam;
k) Quả thuốc phiện tươi có khối lượng từ 10 kilôgam đến dưới 50 kilôgam;
l) Các chất ma túy khác ở thể rắn có khối lượng từ 20 gam đến dưới 100
gam;
m) Các chất ma túy khác ở thể lỏng có thể tích từ 100 mililít đến dưới 250
mililít;
n) Tái phạm nguy hiểm;
o) Có 02 chất ma túy trở lên mà tổng số lượng của các chất đó tương đương
với số lượng chất ma túy quy định tại một trong các điểm từ điểm e đến điểm m
khoản này.
3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 10 năm
đến 15 năm:
a) Nhựa thuốc phiện, nhựa cần sa hoặc cao côca có khối lượng từ 01
kilôgam đến dưới 05 kilôgam;
b) Hêrôin, côcain, Methamphetamine, Amphetamine, MDMA có khối lượng
từ 30 gam đến dưới 100 gam;
c) Lá, rễ, thân, cành, hoa, quả cây cần sa hoặc lá cây côca có khối lượng từ
25 kilôgam đến dưới 75 kilôgam;
d) Quả thuốc phiện khô có khối lượng từ 200 kilôgam đến dưới 600 kilôgam;
đ) Quả thuốc phiện tươi có khối lượng từ 50 kilôgam đến dưới 150 kilôgam;
e) Các chất ma túy khác ở thể rắn có khối lượng từ 100 gam đến dưới 300
gam;
g) Các chất ma túy khác ở thể lỏng có thể tích từ 250 mililít đến dưới 750
mililít;
h) Có 02 chất ma túy trở lên mà tổng số lượng của các chất đó tương đương
với số lượng chất ma túy quy định tại một trong các điểm từ điểm a đến điểm g
khoản này.
12
4. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 15 năm
đến 20 năm hoặc tù chung thân:
a) Nhựa thuốc phiện, nhựa cần sa hoặc cao côca có khối lượng 05 kilôgam
trở lên;
b) Hêrôin, côcain, Methamphetamine, Amphetamine, MDMA có khối lượng
100 gam trở lên;
c) Lá, rễ, thân, cành, hoa, quả cây cần sa hoặc lá cây côca có khối lượng 75
kilôgam trở lên;
d) Quả thuốc phiện khô có khối lượng 600 kilôgam trở lên;
đ) Quả thuốc phiện tươi có khối lượng 150 kilôgam trở lên;
e) Các chất ma túy khác ở thể rắn có khối lượng 300 gam trở lên;
g) Các chất ma túy khác ở thể lỏng có thể tích 750 mililít trở lên;
h) Có 02 chất ma túy trở lên mà tổng số lượng của các chất đó tương đương
với số lượng chất ma túy quy định tại một trong các điểm từ điểm a đến điểm g
khoản này.”
* Chủ thể của tội tàng trữ trái phép chất ma túy
Con ngƣời từ khi sinh ra đã có ý thức nhƣng không phải có ý thức là có năng
lực trách nhiệm hình sự mà phải qua một quá trình phát triển về tâm, sinh lý trong
điều kiện xã hội nhất định thì năng lực đó mới hình thành. Chúng ta đã biết, năng
lực trách nhiệm hình sự là năng lực tự nhận thức về tính nguy hiểm của hành vi và
khả năng điều khiển hành vi của con ngƣời.
Mỗi ngƣời có sự phát triển bình thƣờng về tâm, sinh lý đến một giai đoạn
nhất định trong đời sống sẽ hoàn thiện năng lực này và khi đó họ đƣợc coi là chủ
thể của tội phạm. Giai đoạn hoàn chỉnh này trong đời sống của mỗi cá nhân đƣợc
luật hình sự mỗi nƣớc trên thế giới quy định không giống nhau. Việc làm này phù
hợp với sự phát triển tâm, sinh lý (thể chất, trí tuệ) của con ngƣời ở mỗi quốc gia
vào từng giai đoạn lịch sử cụ thể.
Theo quy định của pháp luật hình sự Việt Nam thì chủ thể của tội phạm là
con ngƣời cụ thể đã cố ý hoặc vô ý thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội đƣợc
13
luật hình sự quy định là tội phạm và thỏa mãn điều kiện có năng lực TNHS và đủ
tuổi chịu TNHS.
Điều 12 Bộ luật hình sự 2015 quy định: " Người từ đủ 16 tuổi trở lên phải
chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm, trừ những tội phạm mà Bộ luật này có
quy định khác "; " Người từ đủ 14 tuổi trở lên, nhưng chưa đủ 16 tuổi chỉ phải chịu
trách nhiệm hình sự về tội giết người, tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho
sức khỏe của người khác, tội hiếp dâm, tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi, tội cưỡng
dâm người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi, tội cướp tài sản, tội bắt cóc nhằm chiếm
đoạt tài sản; về tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng quy định
tại một trong các điều sau đây..."
Quy định trên đây của luật hình sự Việt nam dựa trên những khảo sát về tâm,
sinh lý của ngƣời Việt Nam. Đồng thời, nó cũng xuất phát từ yêu cầu của chính
sách hình sự nƣớc ta và yêu cầu đấu tranh phòng chống tội phạm ở tuổi vị thành
niên, chính sách xử lý đối với ngƣời chƣa thành niên phạm tội.
Theo quy định này, ngƣời từ chƣa đủ 14 tuổi trở xuống sẽ đƣợc xem là
không có năng lực trách nhiệm hình sự và không phải chịu trách nhiệm hình sự.
Ngƣời từ đủ 14 tuổi đến dƣới 16 tuổi đƣợc xem là năng lực trách nhiệm hình sự còn
hạn chế và chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự trong những trƣờng hợp nhất định (tội
phạm rất nghiêm trọng do cố ý hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng). Ngƣời từ đủ
16 tuổi trở lên đƣợc xem là ngƣời có năng lực trách nhiệm hình sự đầy đủ và phải
chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm.
Chủ thể của tội tàng trữ trái phép chất ma túy cũng phải đảm bảo đầy đủ các
yếu tố (điều kiện) cần và đủ là độ tuổi và năng lực TNHS quy định tại Điều 12 của
BLHS năm 2015. Trong từng khoản tội danh, cần xác định độ tuổi TNHS cho đúng,
cụ thể nhƣ sau:
Ngƣời đủ 14 tuổi trở lên đến dƣới 16 tuổi không phải chịu trách nhiệm hình
sự về tội tàng trữ trái phép chất ma túy quy định tại Khoản 1 Điều 194 BLHS, vì
khoản 1 Điều 194 BLHS năm 1999 là tội phạm nhiêm trọng, và theo quy định tại
Điều 12 BLHS năm 2015 thì ngƣời từ đủ 14 tuổi đến dƣới 16 tuổi phải chịu TNHS
về tội phạm rất nhiêm trọng do cố ý và tội phạm đặc biệt nghiêm trọng.
14
* Mặt chủ quan của tội tàng trữ trái phép chất ma túy
Mặt chủ quan của tội phạm là mặt bên trong của tội phạm, là thái độ tâm lý
của người phạm tội đối với hành vi nguy hiểm cho xã hội do họ thực hiện và với
hậu quả do hành vi đó gây ra cho xã hội hoặc đối với khả năng gây ra hậu quả đó
(Võ Khánh Vinh, 2014)
Nhƣ vậy, Mặt chủ quan của tội tàng trữ trái phép chất ma tuý là mặt bên
trong của tội phạm bao gồm các yếu tố: Lỗi, động cơ và mục đích phạm tội. Mặt
chủ quan phản ánh mối liên hệ giữa ý thức của ngƣời phạm tội đối với hành vi nguy
hiểm cho xã hội mà ngƣời đó đã thực hiện. Ngƣời thực hiện hành vi do lỗi cố ý. Tức
là ngƣời phạm tội biết rõ hành vi của mình là trái pháp luật, thấy đƣợc trƣớc các tác
hại của tội tàng trái phép chất ma túy nhƣng vẫn thực hiện. Nhƣ vậy, hành vi tàng
trữ trái phép chất ma tuý chỉ có thể đƣợc thực hiện do lỗi cố ý trực tiếp, không tồn
tại trƣờng hợp nào do lỗi cố ý gián tiếp.
1.1.2. Phân biệt tội tàng trữ trái phép chất ma tuý với một số tội phạm khác
Các tội tàng trữ trái phép chất ma tuý, vận chuyển trái phép chất ma tuý, mua
bán trái phép chất ma tuý, chiếm đoạt chất ma tuý có nhiều điểm giống nhau, cụ thể
là giống nhau về khách thể, chủ thể, mặt chủ quan của tội phạm. Bởi vậy, không
phải ngẫu nhiên mà trong BLHS năm 1999, chúng đƣợc quy định chung trong một
điều luật. Điểm khác nhau cơ bản giữa chúng và có ý nghĩa đối với định tội danh, là
mặt khách quan của tội phạm, thể hiện ở các dạng hành vi khác nhau. Cụ thể là:
Tàng trữ trái phép chất ma túy là hành vi cất giữ, cất giấu bất hợp pháp chất
ma túy ở bất cứ nơi nào (nhƣ trong nhà, ngoài vƣờn, chôn dƣới đất, để trong vali,
cho vào thùng xăng xe, cất dấu trong quần áo, tƣ trang mặc trên ngƣời hoặc theo
ngƣời…) mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển hay sản xuất trái phép
chất ma túy. Thời gian tàng trữ dài hay ngắn không ảnh hƣởng đến việc xác định tội
này.
Vận chuyển trái phép chất ma túy là hành vi chuyển dịch bất hợp pháp chất
ma túy từ nơi này đến nơi khác dƣới bất kỳ hình thức nào (có thể bằng các phƣơng
tiện khác nhau nhƣ ô tô, tàu bay, tàu thủy…; trên các tuyến đƣờng khác nhau nhƣ
15
đƣờng bộ, đƣờng sắt, đƣờng hàng không, đƣờng thủy, đƣờng bƣu điện…; có thể để
trong ngƣời nhƣ cho vào túi áo, túi quần, nuốt vào trong bụng, để trong hành lý nhƣ
vali, túi xách v.v…) mà không nhằm mục đích mua bán, tàng trữ hay sản xuất trái
phép chất ma túy khác.
Ngƣời giữ hộ, hoặc vận chuyển trái phép chất ma túy cho ngƣời khác, mà
biết rõ mục đích mua bán trái phép chất ma túy của ngƣời đó, thì bị truy cứu trách
nhiệm hình sự về tội mua bán trái phép chất ma túy với vai trò đồng phạm.
Mua bán trái phép chất ma túy là các hành vi:
a) Bán trái phép chất ma túy cho ngƣời khác (không phụ thuộc vào nguồn
gốc chất ma túy do đâu mà có) bao gồm cả việc bán hộ chất ma túy cho ngƣời khác
để hƣởng tiền công hoặc các lợi ích khác;
b) Mua chất ma túy nhằm bán trái phép cho ngƣời khác;
c) Xin chất ma túy nhằm bán trái phép cho ngƣời khác;
d) Dùng chất ma túy nhằm trao đổi thanh toán trái phép (không phụ thuộc
vào nguồn gốc chất ma túy do đâu mà có);
đ) Dùng tài sản không phải là tiền đem trao đổi, thanh toán… lấy chất ma túy
nhằm bán lại trái phép cho ngƣời khác;
e) Tàng trữ chất ma túy nhằm bán trái phép cho ngƣời khác;
g) Vận chuyển chất ma túy nhằm bán trái phép cho ngƣời khác.
Ngƣời tổ chức, ngƣời xúi giục, ngƣời giúp sức cho ngƣời thực hiện một
trong các hành vi mua bán trái phép chất ma túy đƣợc hƣớng dẫn từ điểm a đến
điểm g mục này đều bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội mua bán trái phép chất
ma túy.
Chiếm đoạt chất ma túy là một trong các hành vi trộm cắp, lừa đảo, tham ô,
lạm dụng tín nhiệm, cƣỡng đoạt, cƣớp, cƣớp giật, công nhiên chiếm đoạt chất ma
túy của ngƣời khác. Trƣờng hợp ngƣời có hành vi chiếm đoạt chất ma túy nhằm
mục đích bán lại chất ma túy đó cho ngƣời khác, thì bị truy cứu trách nhiệm hình sự
với tội danh đầy đủ đối với hành vi mua bán trái phép chất ma túy.
16
1.1.3. Lý luận định tội danh tội tàng trữ trái phép chất ma túy trên địa bàn
Quận Gò vấp, thành phố Hồ Chí Minh
1.1.3.1. Khái niệm, đặc điểm, cơ sở và ý nghĩa định tội danh tội tàng trữ trái
phép chất ma túy
Để có thể đánh giá thực tiễn định tội danh tội tàng trữ trái phép chất ma tuý,
cần làm rõ một số nội dung về mặt lý luận mà trƣớc hết là khái niệm định tội danh.
GS. TSKH. Lê Văn Cảm quan niệm định tội danh là quá trình áp dụng pháp
luật hình sự và pháp luật tố tụng hình sự [13]:
Dƣới góc độ khoa học, định tội danh có thể đƣợc hiểu là quá trình nhận thức
lý luận có tính logic, là dạng của hoạt động thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự
cũng nhƣ pháp luật tố tụng hình sự và đƣợc tiến hành trên cơ sở các chứng cứ tài
liệu thu thập đƣợc và các tình tiết thực tế của vụ án hình sự để xác định sự phù hợp
giữa các dấu hiệu của hành vi nguy hiểm cho xã hội đƣợc thực hiện với các dấu
hiệu của cấu thành tội phạm tƣơng ứng do luật hình sự quy định nhằm đạt đƣợc sự
thật khách quan, tức là đƣa ra sự đánh giá chính xác tội phạm về mặt pháp lý hình
sự, làm tiền đề cho việc cá thể hóa và phân hóa trách nhiệm hình sự một cách công
minh, có căn cứ và đúng pháp luật.
GS.TS.Võ Khánh Vinh cho rằng định tội danh chỉ là hoạt động áp dụng pháp
luật hình sự [46]:
Định tội danh là một dạng hoạt động nhận thức, hoạt động áp dụng pháp luật
hình sự nhằm đi tới chân lý khách quan trên cơ sở xác định đúng đắn, đầy đủ các
tình tiết cụ thể của hành vi phạm tội đƣợc thực hiện, nhận thức đúng nội dung quy
phạm pháp luật hình sự quy định cấu thành tội phạm tƣơng ứng và mối liên hệ
tƣơng đồng giữa các dấu hiệu của cấu thành tội phạm với các tình tiết cụ thể của
hành vi phạm tội bằng các phƣơng pháp và thông qua các giai đoạn nhất định.
PGS.TS. Lê Văn Đệ quan niệm: “Định tội danh là việc xác định và ghi nhận
về mặt pháp lý sự phù hợp chính xác giữa các dấu hiệu của hành vi phạm tội cụ thể
đã được thực hiện với các dấu hiệu của cấu thành tội phạm được pháp luật hình sự
quy định” [21].
17
Nhƣ vậy, mặc dù đƣợc diễn đạt theo nhiều cách khác nhau, nhƣng về cơ bản
các nhà khoa học đều thống nhất ở một số khía cạnh dƣới đây:
Một là, định tội danh là hoạt động nhận thức có tính logic của con ngƣời đối
với việc có sự phù hợp hay không phù hợp giữa hành vi nguy hiểm cho xã hội, có
lỗi xảy ra ngoài thực tiễn khách quan với quy định của pháp luật hình sự về một tội
phạm cụ thể;
Hai là, định tội danh là hoạt động áp dụng pháp luật hình sự, nếu đƣợc thực
hiện bởi các cơ quan nhà nƣớc có thẩm quyền và ngƣời có thẩm quyền trong các cơ
quan đó trên cơ sở quy định của pháp luật. Cũng có tác giả cho rằng bao gồm cả
hoạt động áp dụng pháp luật tố tụng hình sự nếu hiểu định tội danh theo nghĩa rộng;
Ba là, định tội danh là cơ sở cho việc quyết định hình phạt và giải quyết các
vấn đề khác có liên quan đến trách nhiệm hình sự của ngƣời phạm tội (trong trƣờng
hợp định tội danh chính thức).
Do đó, định tội danh có thể đƣợc định nghĩa nhƣ sau:
Định tội danh là hoạt động thực tiễn của các cơ quan Nhà nước có thẩm
quyền và người có thẩm quyền trên cơ sở các quy định của pháp luật hình sự và
pháp luật tố tụng hình sự để xác định, so sánh và ghi nhận về mặt pháp lý sự phù
hợp chính xác giữa các dấu hiệu của hành vi phạm tội cụ thể trong thực tế đã được
thực hiện với các dấu hiệu của cấu thành tội phạm của điều luật tương ứng trong
Phần các tội phạm Bộ luật hình sự quy định, cũng như các quy định khác trong Bộ
luật hình sự có liên quan, qua đó làm tiền đề phân tích, đánh giá và ra quyết định
về trách nhiệm hình sự cũng như hình phạt của người phạm tội.
Từ những vấn đề nêu trên cho thấy định tội danh có 4 đặc điểm sau:
Thứ nhất, định tội danh là một quá trình nhận thức có tính logic giữa lý luận
và thực tiễn, thể hiện ở hai khía cạnh: xác định xem hành vi nguy hiểm cho xã hội
đã thực hiện có phù hợp với các dấu hiệu của cấu thành tội phạm cụ thể trong
BLHS và đƣa ra sự đánh giá nhất định về mặt pháp lý hình sự đối với hành vi đã
thực hiện trong thực tế.
18
Thứ hai, quá trình hoạt động định tội danh phải tuân thủ nghiêm chỉnh các
quy phạm pháp luật của nội dung là BLHS cũng nhƣ các quy phạm pháp luật hình
thức là BLTTHS.
Thứ ba, định tội danh là một hoạt động áp dụng pháp luật của các cơ quan
tiến hành tố tụng để cụ thể hóa các quy phạm pháp luật hình sự trừu tƣợng vào đời
sống thực tế. Trên cơ sở xác định đúng đắn, đầy đủ các tình tiết của nội dung phạm
tội đã thực hiện và sự nhận thức đầy đủ, đúng đắn nội dung của các quy phạm pháp
luật hình sự.
Thứ tư, định tội danh với tính chất là một dạng của hoạt động thực tiễn áp
dụng pháp luật hình sự đƣợc tiến hành theo 04 bƣớc sau:
Bƣớc một, xác định các tình tiết của vụ án. Đối với bƣớc này đòi hỏi ngƣời
định tội danh phải đánh giá các tình tiết của vụ án một cách khách quan, toàn diện,
vô tƣ, không định kiến, không suy diễn, dựa vào các chứng cứ đã thu thập đƣợc và
đánh giá theo quy định của BLTTHS.
Bƣớc hai, nhận thức một cách thống nhất và chính xác nội dung các quy
phạm pháp luật hình sự phản ánh các dấu hiệu của CTTP về tội danh có hƣớng lựa
chọn. Các dấu hiệu trong CTTP đƣợc quy định trong BLHS mang tính trừu tƣợng
chỉ nêu một cách khái quát những nét đặc trƣng mang tính phổ biến để điều chỉnh
hiện tƣợng thực tế muôn hình muôn vẻ, chính vì vậy các QPPL không thể phản ánh
hết đƣợc tất cả các mặt của đời sống xã hội mà chỉ phản ánh đƣợc những nét đặc
trƣng của nó, nhƣng mặt khác luật phải đƣợc áp dụng với những trƣờng hợp cụ thể.
Vì vậy đòi hỏi phải có quá trình tƣ duy để nhận thức sâu rộng, đúng đắn về nội dung
của các dấu hiệu trong CTTP.
Bƣớc ba, so sánh đối chiếu hai quá trình trên.
Bƣớc bốn, ra văn bản áp dụng pháp luật chính là bản án, các quyết định có
căn cứ và đảm bảo sức thuyết phục về 3 bƣớc trên để xác định tội danh cần áp dụng
đối với trƣờng hợp phạm tội của ngƣời đó.
Định tội danh là một giai đoạn cơ bản của việc áp dụng các quy phạm pháp
luật hình sự, có ý nghĩa to lớn thể hiện ở chỗ:
19