Tải bản đầy đủ (.pdf) (82 trang)

Tội mua bán trái phép chất ma túy theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Nam Định

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.14 MB, 82 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN GIANG NAM

TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
TỪ THỰC TIỄN TỈNH NAM ĐỊNH

Chuyên ngành
Mã số

: Luật hin
̀ h sư ̣ và tố tu ̣ng hin
̀ h sư ̣
: 60. 38. 01. 04

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS TRẦN VĂN LUYỆN

HÀ NỘI - 2017


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi, có sự hỗ trợ từ
người hướng dẫn khoa học là PGS.TS Trần Văn Luyện.
Các nội dung nghiên cứu, số liệu và kết quả nêu trong luận văn là trung thực và
chưa từng được công bố trong bất kỳ công trình nào khác.
TÁC GIẢ LUẬN VĂN



Nguyễn Giang Nam


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ........................................................................................................................... 1
Chương 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ TỘI MUA BÁN
TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY ........................................................................................ 6
1.1. Khái niệm và các dấu hiệu pháp lý của tội mua bán trái phép chất ma túy theo
pháp luật hình sự Việt Nam .............................................................................................. 6
1.2. Khái quát lịch sử lập pháp hình sự Việt Nam về tội mua bán trái phép chất ma túy ............. 11
Chương 2. ĐỊNH TỘI DANH VÀ QUYẾT ĐỊNH HÌNH PHẠT ĐỐI VỚI TỘI
MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH NAM ĐỊNH .... 19
2.1. Thực tiễn định tội danh tội mua bán trái phép chất ma túy trên địa bàn tỉnh Nam Định........ 19
2.2. Quyết định hình phạt đối với tội mua bán trái phép chất ma túy trên địa bàn tỉnh Nam Định .45
Chương 3. NHỮNG YÊU CẦU VÀ GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM ĐỊNH TỘI DANH
VÀ QUYẾT ĐỊNH HÌNH PHẠT ĐÚNG ĐỐI VỚI TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP
CHẤT MA TÚY............................................................................................................... 58
3.1. Những yêu cầu khách quan phải nâng cao hiệu quả áp dụng các quy định của Bộ
luật hình sự đối với tội mua bán trái phép chất ma túy ..................................................... 58
3.2. Các giải pháp đảm bảo định tội danh và quyết định hình phạt đúng với tội mua
bán trái phép chất ma túy................................................................................................... 61
KẾT LUẬN ...................................................................................................................... 70
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................................ 73


DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU

Bảng 3.1: Tỷ lệ xét xử sơ thẩm các vụ án và bị cáo phạm tội ma túy so với các
tội phạm khác trên địa bàn tỉnh Nam Định từ năm 2012 đến năm 2016 .......................... 76

Bảng 3.2: Thống kê số vụ án và số bị cáo bị xét xử sơ thẩm về tội mua bán trái
phép chất ma túy trên địa bàn tỉnh Nam Định từ năm 2012 đến năm 2016 ..................... 76
Bảng 3.3: Cơ cấu xét theo mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội mua bán
trái phép chất ma túy trên địa bàn tỉnh Nam Định từ năm 2012 đến năm 2016 .............. 77
Bảng 3.4: Cơ cấu xét theo mức hình phạt áp dụng đối với tội mua bán trái phép
chất ma túy trên địa bàn tỉnh Nam Định từ năm 2012 đến năm 2016 ............................... 77


DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT

BLHS

Bộ luật hình sự

BLTTHS

Bộ luật tố tụng hình sự

CQĐT

Cơ quan điều tra

CTTP

Cấu thành tội phạm

CƯ 1961

Công ước thống nhất về các chất ma túy năm 1961


CƯ 1971

Công ước về các chất hướng thần năm 1971

CƯ 1988

Công ước chống buôn bán các chất gây nghiện, chất hướng thần năm 1988

QĐHP

Quyết định hình phạt

UNODC

Cơ quan phòng chống Ma túy và Tội phạm của Liên hợp quốc

TAND

Tòa án nhân dân

TNHS

Trách nhiệm hình sự

VKSND

Viện kiểm sát nhân dân


MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Qua hơn 30 năm thực hiện công cuộc đổi mới do Đảng Cộng sản Việt Nam
khởi xướng lãnh đạo, đã đạt được nhiều thành tựu to lớn trên mọi mặt của đời sống xã
hội, đất nước ta có nhiều thay đổi, đời sống nhân dân ngày càng được nâng cao, nền
kinh tế không ngừng có sự tăng trưởng năm sau luôn cao hơn năm trước. Bên cạnh sự
phát triển của nền kinh tế thì hoạt động xây dựng pháp luật cũng được tăng cường và
phát triển mạnh mẽ. Đặc biệt là pháp luật hình sự đối với các tội phạm về ma túy đã
được sửa đổi và bổ sung với hướng ngày càng cụ thể và nghiêm khắc hơn, nhằm đáp
ứng yêu cầu của cuộc đấu tranh phòng, chống các tội phạm về ma túy. Mặc dù đã có
nhiều cố gắng về mặt lập pháp và tổ chức lực lượng đấu tranh, nhưng tệ nạn ma túy
vẫn chưa giảm mà lại có chiều hướng gia tăng. Có thể nói những năm gần đây thì tội
phạm về ma túy là loại tội phạm phát triển tốc độ nhanh nhất. Ma túy đã gây tác hại to
lớn đối với con người và cộng đồng, gây ra nhiều tệ nạn trong xã hội và là nguyên
nhân làm gây mất an toàn xã hội, làm băng hoại đạo đức, đồng thời là nguyên nhân
gây ra các loại tội phạm khác gây mất trật tự trị an xã hội. Qua số liệu thống kê cho
thấy số vụ phạm tội về ma túy nói chung, về mua bán trái phép chất ma túy nói riêng
do các cơ quan chức năng tỉnh Nam Định phát hiện điều tra xử lý hình sự ngày càng
tăng, năm sau thường tăng hơn năm trước từ 20-30%.
Nhận thức rõ sự nguy hiểm của tệ nạn ma túy, trong những năm qua, bằng nội
lực kết hợp với sự giúp đỡ, phối hợp của cộng đồng quốc tế, công tác phòng chống và
kiểm soát ma tuý đã đạt được những kết quả đáng kể. Tuy nhiên, tình tình mua bán, vận
chuyển, tàng trữ trái phép chất ma túy vẫn chưa giảm; tình trạng nghiện hút, sử dụng trái
phép chất ma tuý đang diễn ra phức tạp, nhất là đối với tầng lớp thanh, thiếu niên. Ma
tuý đã gây tác hại rất lớn và ảnh hưởng rất xấu đến sức khoẻ, là nguyên nhân gây ra các
tệ nạn xã hội và tội phạm. Đảng và Nhà nước ta đã có nhiều chủ trương, chính sách
nhằm chặn đứng và đẩy lùi tệ nạn này, nhưng do nhiều nguyên nhân khác nhau, nên tệ
nạn này vẫn đang là mối quan tâm lo lắng của toàn xã hội. Một trong những biện pháp
nhằm đấu tranh phòng, chống tệ nạn ma tuý là việc xử lý nghiêm minh các hành vi

1



phạm tội về ma tuý, qua đó vừa có tác dụng giáo dục, trừng trị người phạm tội vừa có
tác dụng răn đe, phòng ngừa tội phạm nói chung một cách có hiệu quả.
Với vị thế là một tỉnh duyên hải phía Nam đồng bằng Bắc Bộ, Nam Định có
diện tích 1.652,29km2, số người đi làm ăn, buôn bán ở các thành phố lớn chiếm tỷ lệ
không nhỏ. Những năm gần đây, Nam Định thu hút được nhiều dự án đầu tư trong và
ngoài nước có quy mô lớn, sử dụng nhiều lao động trong và ngoài tỉnh. Tất cả các yếu
tố đó đã tạo điều kiện cho tỉnh Nam Định phát triển về mọi mặt. Tuy nhiên kèm theo
đó là các tệ nạn xã hội du nhập trong đó có tệ nạn và tội phạm về ma túy. Với điều
kiện thuận lợi về giao thông, đường bộ, đường thủy và đường sắt nối liền các tỉnh khác
như Thái Bình, Ninh Bình và Hà Nam nên Nam Định còn là địa bàn tiêu thụ, trung
chuyển các chất ma túy.
Theo nhận định của cơ quan chức năng, tội phạm mua bán trái phép chất ma túy
nói riêng trên địa bàn tỉnh Nam Định ngày càng tinh vi xảo quyệt, các đối tượng cầm
đầu thường không trực tiếp giao dịch mà sử dụng mạng lưới chân rết là người thân
trong gia đình hoặc là các đối tượng nghiện. Mặt khác số người nghiện ma túy chủ yếu
trong độ tuổi lao động, các chất ma túy đang có xu thế chuyển từ thuốc phiện, hêrôin,
côcain sang các loại ma túy tổng hợp khác như ATS, Ketamin, Methamphetamine, ma
túy đá, cỏ Mỹ, lá khát, trà sữa, kẹo, nước vui…có khả năng gây ảo giác mạnh, làm cho
người nghiện không kiểm soát được hành vi. Phương thức, thủ đoạn hoạt động rất tinh
vi, các đối tượng mua bán trái phép chất ma túy thường không bộc lộ danh tính mà chủ
yếu thông qua các phương tiện thông tin liên lạc hiện đại như điện thoại di động, bộ
đàm, internet để chỉ đạo từ xa, tìm nguồn hàng. Bên cạnh đó, thủ phạm thường xuyên
sử dụng vũ khí nóng bên người nên công tác tiếp cận, truy bắt rất nguy hiểm, gây ra
tâm lý hoang mang, lo sợ trong quần chúng nhân dân. Trước thực trạng đó, các cơ
quan bảo vệ pháp luật tỉnh Nam Định về cơ bản đã áp dụng pháp luật một cách đúng
đắn có hiệu quả, đáp ứng được yêu cầu của công cuộc đấu tranh phòng, chống loại tội
phạm này, góp phần làm ổn định tình hình chính trị địa phương. Tuy nhiên, bên cạnh
những mặt đã làm được, trong thời gian qua, hoạt động điều tra, truy tố, xét xử các vụ

án mua bán trái phép chất ma túy của các cơ quan tiến hành tố tụng trên địa bàn tỉnh
Nam Định vẫn còn những hạn chế bất cập như trong việc định tội danh và quyết định

2


hình phạt còn chưa chính xác, dẫn đến tình trạng án phải trả hồ sơ điều tra bổ sung, bị
cấp trên cải, sửa. Những bất cập, hạn chế do nhiều nguyên nhân khác nhau như bất cập
trong các quy định của BLHS, các văn bản hướng dẫn chưa đầy đủ, thiếu cụ thể dẫn
đến việc nhận thức pháp luật giữa các cơ quan tiến hành tố tụng chưa thống nhất, đồng
thời do trình độ năng lực của những người tiến hành tố tụng ở địa phương còn chưa
đồng đều cũng góp phần vào việc không thống nhất trong việc nhận thức và áp dụng
quy định của pháp luật. Hiện nay, cũng chưa có công trình khoa học nào đi sâu nghiên
cứu tội phạm mua bán trái phép chất ma túy trên địa bàn tỉnh Nam Định.
Xuất phát từ những lý do trên, học viên xin lựa chọn đề tài: “Tội mua bán trái
phép chất ma túy theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Nam Định” làm
luận văn thạc sĩ luật học.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Những công trình khoa học đã công bố liên quan đến đề tài nghiên cứu như sau:
Giáo trình luật hình sự Việt Nam (Phần các tội phạm), GS.TS Võ Khánh Vinh,
Nxb Công an nhân dân năm 2001; Giáo trình luật hình sự Việt Nam (Phần chung),
GS.TS Võ Khánh Vinh, Nxb Khoa học Xã hội năm 2014; Bình luận khoa học Bộ luật
hình sự (Phần các tội phạm), TS Trần Văn Luyện (chủ biên) và các tác giả, Nxb Công
an nhân dân năm 2012; Phát hiện và điều tra các tội phạm về ma túy, TS Trần Văn
Luyện, PGS.TS Nguyễn Xuân Yêm, Nxb Công an nhân dân năm 2001; Các tội phạm
về ma túy ở Việt Nam: Cơ sở lý luận và thực tiễn, TS Phạm Minh Tuyên, Nxb Hồng
Đức năm 2013.
Luận án tiến sĩ Luật học của tác giả Trần Văn Luyện với đề tài: “Phát hiện và
điều tra tội phạm tàng trữ, vận chuyển mua bán trái phép chất ma túy của lực lượng
Cảnh sát nhân dân” năm 2000; Luận văn thạc sĩ Luật học của tác giả Ngô Thị Thanh:

“Xét xử sơ thẩm vụ án tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất
ma túy trong Luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn thành phố Cẩm Phả, tỉnh Quảng
Ninh” năm 2014; Luận án tiến sĩ luật học của tác giả Nguyễn Tuyết Mai: “Đấu tranh
phòng chống các tội phạm về ma túy ở Việt Nam” năm 2007; Đề tài cấp bộ “Những
giải pháp nâng cao chất lượng xét xử các vụ án về ma túy - Cơ sở lý luận và thực

3


tiễn”, Ths. Nguyễn Quang Lộc (chủ biên), Tòa án nhân dân Tối cao năm 2002… và
nhiều bài viết trên các tạp chí chuyên ngành.
Các công trình nghiên cứu trên rất có giá trị liên quan đã có những đóng góp
quan trọng vào việc làm rõ các vấn đề lý luận và thực tiễn đã được tác giả nghiên cứu
tham khảo khi thực hiện đề tài “Tội mua bán trái phép chất ma túy theo pháp luật hình
sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Nam Định”.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
- Mục đích: Trên cơ sở nghiên cứu các vấn đề lý luận và các quy định của pháp
luật hình sự Việt Nam về tội mua bán trái phép chất ma túy, thực tiễn định tội danh và
QĐHP đối với tội này trên địa bàn tỉnh Nam Định, luận văn đề xuất các giải pháp bảo
đảm định tội danh và QĐHP đúng đối với tội mua bán trái phép chất ma túy ở nước ta
từ thực tiễn tỉnh Nam Định.
- Nhiệm vụ: Để đạt được những mục đích trên, luận văn cần giải quyết các
nhiệm vụ sau đây:
+ Tìm hiểu lịch sử quy định và hoàn thiện các quy phạm pháp luật hình sự nước
ta về tội mua bán trái phép chất ma túy.
+ Phân tích khái niệm và các dấu hiệu pháp lý hình sự của tội mua bán trái phép
chất ma túy.
+ Phân tích, đánh giá thực tiễn định tội danh và QĐHP đối với tội mua bán trái
phép chất ma túy trên địa bàn tỉnh Nam Định.
+ Các yêu cầu và giải pháp bảo đảm định tội danh và QĐHP đối với tội mua

bán trái phép chất ma túy trên địa bản tỉnh Nam Định.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Luận văn lấy các quan điểm khoa học, các quy định
của pháp luật hình sự, thực tiễn định tội danh và QĐHP đối với tội mua bán trái phép
chất ma túy trên địa bàn tỉnh Nam Định thời gian từ năm 2012 đến năm 2016 để
nghiên cứu các vấn đề thuộc nội dung nghiên cứu.
- Phạm vi nghiên cứu: Đề tài luận văn được nghiên cứu dưới góc độ Luật hình
sự và Luật tố tụng hình sự. Các số liệu phục vụ cho việc nghiên cứu được thu thập tại

4


VKSND và TAND tỉnh Nam Định đối với các vụ án mua bán trái phép chất ma túy
xảy ra từ năm 2012 đến năm 2016.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Đề tài luận văn được nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ
nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam
về Nhà nước và pháp luật về đấu tranh phòng chống tội phạm về ma túy. Đề tài luận
văn còn được nghiên cứu dựa trên các phương pháp nghiên cứu cụ thể là phân tích,
tổng hợp, so sánh, thống kê, đối chiếu, chứng minh, phương pháp chuyên gia.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Về mặt lý luận, luận văn là công trình khoa học pháp lý về tội mua bán trái
phép chất ma túy theo quy định của BLHS có thể được dùng làm tài liệu tham khảo
trong quá trình học tập và nghiên cứu của học viên.
Về mặt thực tiễn, kết quả nghiên cứu của luận văn giúp các cơ quan chức năng
tỉnh Nam Định tham khảo vận dụng vào thực tiễn, góp phần nâng cao chất lượng, hiệu
quả điều tra, truy tố và xét xử các vụ án về tội mua bán trái phép chất ma túy nói
chung và trên địa bàn tỉnh Nam Định nói riêng.
7. Cơ cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung luận văn

gồm ba chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận và pháp luật về tội mua bán trái phép chất ma túy.
Chương 2: Định tội danh và quyết định hình phạt đối với tội mua bán trái phép
chất ma túy trên địa bàn tỉnh Nam Định.
Chương 3: Những yêu cầu và giải pháp bảo đảm định tội danh và quyết định
hình phạt đúng đối với tội mua bán trái phép chất ma túy.

5


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ TỘI MUA BÁN
TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

1.1. Khái niệm và các dấu hiệu pháp lý của tội mua bán trái phép chất ma
túy theo pháp luật hình sự Việt Nam
1.1.1. Khái niệm chất ma túy
- Theo định nghĩa của Liên hợp quốc:“Ma tuý là chất hoá học có nguồn gốc tự
nhiên hoặc nhân tạo, khi xâm nhập vào cơ thể con người sẽ có tác dụng làm thay đổi
tâm trạng, ý thức trí tuệ của con người, làm cho người bị lệ thuộc vào các chất đó, gây
nên những tổn thương cho từng cá nhân và cộng đồng. Do vậy, việc sản xuất, vận
chuyển, buôn bán, sử dụng các chất đó phải được quy định chặt chẽ trong các văn bản
pháp luật và chịu sự kiểm soát của cơ quan bảo vệ pháp luật” [12].
- Theo UNODC, “chất ma túy” là một thuật ngữ được sử dụng đa nghĩa: trong y
học, nó đề cập đến bất kỳ chất nào có khả năng ngăn ngừa hoặc chữa bệnh hoặc tăng
cường và phục hồi thể chất hoặc tinh thần; trong dược học, nó có nghĩa là bất kỳ tác
nhân hóa học nào làm thay đổi quá trình sinh hóa hoặc sinh lý của tế bào sinh vật. Các
loại chất ma túy được mô tả bằng nhiều cách khác nhau, tùy thuộc vào nguồn gốc và
tác dụng. Chất ma túy có thể có nguồn gốc tự nhiên, bán tổng hợp hoặc tổng hợp.
Trong bối cảnh kiểm soát ma túy quốc tế , “chất ma túy” có nghĩa là bất kỳ các chất

được liệt kê trong Phụ lục I và II của Công ước thống nhất về các chất ma túy năm
1961, dù là tự nhiên hoặc tổng hợp [13].
- Theo định nghĩa của Tổ chức Y tế thế giới thì: Ma túy là các chất độc, khi
xâm nhập vào cơ thể sẽ phá hủy các cơ quan nội tạng. Năm 1982 Tổ chức Y tế Thế
giới (WHO) đã phát triển định nghĩa Ma túy như sau: “Ma tuý theo nghĩa rộng nhất là
mọi thực thể hoá học hoặc là những thực thể hỗn hợp, khác với tất cả những cái được
đòi hỏi để duy trì một sức khoẻ bình thường, việc sử dụng những cái đó sẽ làm biến
đổi chức năng sinh học và có thể cả cấu trúc của vật” [14].
- Theo pháp luật Việt Nam cụm từ “chất ma túy” xuất hiện khá muộn, mãi sau
khi thống nhất đất nước thì cũng chỉ thuốc phiện là được đặt dưới sự kiểm soát; các

6


chất ma túy khác như cần sa, côcain vẫn chưa được pháp luật điều chỉnh. Cụm từ “chất
ma túy” chính thức được quy định lần đầu tiên tại Điều 203 BLHS năm 1985 “Tổ chức
dùng chất ma túy”.
Theo tác giả Đặng Ngọc Hùng: “các chất ma túy là những chất độc có tính chất
gây nghiện, có khả năng bị lạm dụng, sự nghiện ngập chính là biểu hiện của trạng thái
bị ngộ độc mãn tính do các chất ma túy gây nên cho người sử dụng chúng” [10, tr.9].
Tại khoản 1 Điều 2 Luật phòng chống ma túy năm 2000 quy định:
Chất ma tuý là chất gây nghiện, chất hướng thần được quy định trong danh các
danh mục do Chính phủ ban hành.
Chất gây nghiện là chất kích thích hoặc ức chế thần kinh, dễ gây tình trạng
nghiện đối với người sử dụng.
Chất hướng thần là chất kích thích, ức chế thần kinh hoặc gây ảo giác, nếu sử
dụng nhiều lần có thể dẫn tới tình trạng nghiện với người sử dụng.
Tiền chất là các chất không thể thiếu được trong quá trình điều chế, sản xuất ma
tuý được quy định do Chính phủ ban hành.
Thuốc gây nghiện, hướng thần là các loại thuốc chữa bệnh được quy định trong

danh mục do Bộ Y tế do chính phủ ban hành [21].
Cho đến nay, các nhà nghiên cứu đưa ra nhiều định nghĩa khác nhau về ma tuý
và chất ma tuý tuỳ thuộc vào mục đích nghiên cứu. Có trường hợp người ta không cần
đưa ra một định nghĩa về ma tuý, mà liệt kê ngay các chất ma tuý gồm: Các chất đã
được xác định và có tên gọi riêng trong khoa học.
Các chất ma túy được quy định trong danh mục do Chính phủ Việt Nam ban
hành tại Nghị định số 82/2013/NĐ-CP [3] và được sửa đổi bổ sung tại Nghị định
126/2015/NĐ-CP gồm có 250 chất ma túy chia thành 3 danh mục và 43 tiền chất
không thể thiếu trong quá trình sản xuất chất ma túy [4].
Thông tư liên tịch số 17/2007/TTLT-BCA-VKSNDTC-TANDTC ngày 24
tháng 12 năm 2007 hướng dẫn thì: “Chất ma túy là các chất gây nghiện, chất hướng
thần, được quy định các danh mục do Chính phủ ban hành” [1].

7


1.1.2. Khái niệm tội mua bán trái phép chất ma túy theo pháp luật hình sự
Việt Nam
Tại khoản 1 Điều 8 BLHS định nghĩa về tội phạm như sau: “ Tội phạm là hành
vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật hình sự, do người có năng lực
trách nhiệm hình sự thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm độc lập chủ quyền,
thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ tổ quốc, xâm phạm chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền
văn hóa, quốc phòng, an ninh trật tự, an toàn xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ
chức, xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tự do, tài sản, các quyền,
lợi ích hợp pháp khác của công dân, xâm phạm những lĩnh vực khác của trật tự pháp
luật xã hội chủ nghĩa” [20].
Như vậy, tội phạm là một hiện tượng xã hội có tính lịch sử phát sinh trong điều
kiện kinh tế, xã hội nhất định, đó là hiện tượng tiêu cực của xã hội.
Tác giả Trần Văn Luyện trong cuốn Bình luận khoa học BLHS đã đưa ra khái
niệm tội phạm về ma túy như sau:“Tội phạm về ma túy là những hành vi nguy hiểm

cho xã hội do người có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện một cách cố ý, xâm
phạm chế độ thống nhất quản lý của nhà nước đối với các chất ma túy và các loại
thuốc gây nghiện, xâm phạm trật tự, an toàn xã hội và sức khỏe con người và sự phát
triển bình thường của nòi giống dân tộc” [11, tr. 447].
Từ khái niệm trên, có thể đưa ra khái niệm tội phạm về ma túy như sau: Tội
phạm về ma túy là những hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong BLHS do
người có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện một cách cố ý, xâm phạm chế độ
thống nhất quản lý của Nhà nước về chất ma túy, tiền chất để sản xuất chất ma túy và
những hoạt động liên quan trực tiếp đến quá trình quản lý, sử dụng chất ma túy và tiền
chất đó.
1.1.3. Các dấu hiệu pháp lý của tội mua bán trái phép chất ma túy
Là tội phạm, nên tội phạm về ma tuý cũng có những đặc điểm chung như các
tội phạm khác bao gồm: tính nguy hiểm cho xã hội, tính trái pháp luật, tính có lỗi và
tính chịu hình phạt. Tuy nhiên, đối với tội phạm về ma tuý có những đặc điểm riêng
mà các tội phạm khác không có như: tính nguy hiểm cho xã hội của tội phạm về ma
tuý cao hơn so với các tội phạm khác được quy định trong BLHS (trừ các tội xâm

8


phạm an ninh quốc gia), trong số 10 tội thì có 3 tội có mức cao nhất của khung hình
phạt là tử hình (khoản 4 Điều 193; khoản 4 Điều 194 và khoản 4 Điều 197); có 2 tội có
mức cao nhất của khung hình phạt là chung thân (khoản 4 Điều 195; khoản 4 Điều 200
và khoản 4 Điều 201); có 12 trường hợp là tội phạm đặc biệt nghiêm trọng (khoản 3,
khoản 4 Điều 193; khoản 3, khoản 4 Điều 194; khoản 3, khoản 4 Điều 195; khoản 3,
khoản 4 Điều 197; khoản 3, khoản 4 Điều 200 và khoản 3, khoản 4 Điều 201); có 8
trường hợp là tội phạm rất nghiêm trọng (khoản 2 Điều 193; khoản 2 Điều 194; khoản
2 Điều 195; khoản 2 Điều 196; khoản 2 Điều 197; khoản 2 Điều 198; khoản 2 Điều
200 và khoản 2 Điều 201); có 10 trường hợp là tội phạm nghiêm trọng (khoản 2 Điều
192; khoản 1 Điều 193; khoản 1 Điều 194, khoản 1 Điều 195; khoản 1 Điều 196;

khoản 1 Điều 197; khoản 1 Điều 198; khoản 2 Điều 199; khoản 1 Điều 200 và khoản 1
Điều 201); chỉ có 2 trường hợp là tội phạm ít nghiêm trọng (khoản 1 Điều 192 và
khoản 1 Điều 199).
Dấu hiệu pháp lý của tội mua bán trái phép chất ma túy được thể hiện qua bốn
yếu tố của cấu thành tội phạm, đó là: khách thể của tội phạm, mặt khách quan của tội
phạm, chủ thể của tội phạm và mặt chủ quan của tội phạm.
* Khách thể của tội mua bán trái phép chất ma túy là những quan hệ xã hội được
Luật hình sự bảo vệ, đó là chế độ thống nhất quản lý của Nhà nước về chất ma túy.
Các chất ma túy là đối tượng của tội mua bán trái phép chất ma túy bao gồm
các chất ma túy; các tiền chất ma túy; các cây trồng hoặc nguyên liệu thực vật có chứa
chất ma túy. Danh mục các chất ma tuý, tiền chất và các chất hoá học dùng để điều chế
các chất ma tuý Theo bảng quy định về các chất ma túy và các chất hướng thần nêu
trong ba Công ước của Liên hợp quốc về kiểm soát ma túy: Công ước thống nhất về
các chất ma túy năm 1961, Công ước về các chất hướng thần năm 1971 và Công ước
chống buôn bán bất hợp pháp các chất gây nghiện và các chất hướng thần năm 1988.
* Mặt khách quan của tội mua bán trái phép chất ma túy: hành vi khách quan
của tội phạm mua bán trái phép chất ma túy cũng có khác nhau về hình thức thể hiện
cụ thể như về tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội. Song các hành vi này giống
nhau ở chỗ đều là những hành vi vi phạm các quy định của Nhà nước về chế độ thống
nhất quản lý các chất ma túy. Đó có thể là những hành vi của những người có trách

9


nhiệm được Nhà nước giao đã không thực hiện, thực hiện không đầy đủ hoặc làm
những việc ngoài phạm vi quy định về quản lý, sử dụng chất ma túy. Đối tượng tác
động của tội phạm mua bán trái phép chất ma túy là các chất ma túy như thuốc phiện,
hêrôin, côcain…và các tiền chất để sản xuất ra các chất ma túy. Theo quy định của
BLHS thì hầu hết các tội phạm về ma túy đều được quy định là những tội có cấu thành
hình thức, hậu quả không phải là dấu hiệu bắt buộc của cấu thành tội phạm. Tội phạm

được coi là hoàn thành từ thời điểm người phạm tội đã thực hiện hành vi khách quan.
* Chủ thể của tội mua bán trái phép chất ma túy: Theo quy định của BLHS hiện
hành chỉ có thể là con người cụ thể. Chủ thể của tội phạm nói chung và tội phạm mua
bán trái phép chất ma túy nói riêng phải là người có năng lực trách nhiệm hình sự và
đạt độ tuổi nhất định theo quy định của BLHS, thực hiện hành vi phạm tội cụ thể; họ
có khả năng nhận thức được tính nguy hiểm cho xã hội về hành vi của mình và khả
năng điều chỉnh hành vi đó.
Theo Điều 12 BLHS năm 1999 (sửa đổi bổ sung năm 2009) và BLHS năm
2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017). Theo đó, người từ đủ 14 tuổi trở lên, nhưng chưa đủ
16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự đối với 7 tội danh, kể cả ở khung cấu thành cơ
bản lẫn ở khung cấu thành tăng nặng trong đó có tội mua bán trái phép chất ma túy
(khoản 2, 3 và khoản 4 Điều 251).
Điều 13 BLHS năm 1999 (sửa đổi bổ sung năm 2009) và Điều 21 BLHS năm
2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017) quy định về tình trạng không có năng lực trách
nhiệm hình sự: “Người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội trong khi mắc bệnh
tâm thần, một bệnh khác làm mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành
vi của mình, thì không phải chịu trách nhiệm hình sự. Đối với những người này phải
áp dụng biện pháp bắt buộc chữa bệnh”.
Chủ thể của tội mua bán trái phép chất ma túy phải là một người có đủ năng lực
trách nhiệm hình sự và đạt độ tuổi nhất định. Đối với tội phạm mua bán trái phép chất
ma túy thì đây là loại tội phạm mà theo phân loại tội phạm của BLHS thì thuộc loại tội
phạm nghiêm trọng, rất nghiêm trọng và đặc biệt nghiêm trọng với cấu thành tương
ứng quy định ở khoản 1, 2, 3 và 4. Như vậy, chỉ những người đủ 16 tuổi mới phải chịu
TNHS về tội mua bán trái phép chất ma túy theo cấu thành cơ bản (khoản 1) hay cấu

10


thành tăng nặng (khoản 2, 3, 4); còn đối với người dưới 16 tuổi thì không phải chịu
TNHS đối với tội mua bán trái phép chất ma túy theo khoản 1 điều luật.

* Mặt chủ quan của tội mua bán trái phép chất ma bao gồm các yếu tố: lỗi,
động cơ và mục đích phạm tội. Mặt chủ quan phản ánh mối liên hệ giữa ý thức của
người phạm tội đối với hành vi nguy hiểm cho xã hội mà người đó đã thực hiện.
Người phạm tội thực hiện hành vi mua bán trái phép chất ma túy chỉ được coi là có lỗi
khi kết quả của sự tự lựa chọn cho chính họ, họ ý thức được và kiểm soát hành vi của
mình trong khi họ có đầy đủ điều kiện khách quan và chủ thể để lựa chọn và thực hiện
sử sự khác phù hợp với xã hội. Muốn xác định đúng lỗi của người phạm tội mua bán
trái phép chất ma túy cần phải xác định người phạm tội có thấy trước hậu quả nguy
hiểm xảy ra hay không; họ mong muốn chấp nhận hậu quả xảy ra như thế nào. Tội
mua bán trái phép chất ma túy được thực hiện với lỗi cố ý trực tiếp.
1.2. Khái quát lịch sử lập pháp hình sự Việt Nam về tội mua bán trái phép
chất ma túy
1.2.1. Giai đoạn trước khi ban hành Bộ luật hình sự năm 1985
Cũng như các loại tội phạm khác, tội phạm về ma túy nói chung từ khi xuất
hiện đã gây tác hại nhiều mặt cho đời sống xã hội. Do vậy, ngay sau khi Nhà nước
Việt Nam dân chủ cộng hòa được thành lập, nhận thức được tác hại to lớn do ma túy
gây ra, mặc dù phải đối phó với muôn vàn khó khăn như: Nạn đói và nền kinh tế kiệt
quệ sau khi giành chính quyền cùng những tập tục, tệ nạn của xã hội cũ để lại nhưng
Đảng và Nhà nước ta nhất là Chủ tịch Hồ Chí Minh đã rất quan tâm ban hành các văn
bản để đấu tranh ngăn chặn tội phạm. Xác định được việc đấu tranh ngăn chặn thuốc
phiện là nhiệm vụ lâu dài, nên phải tuyên truyền, giáo dục cho nhân dân hiểu được tác
hại của thuốc phiện để nhân dân tự giác tránh xa thuốc phiện và từng bước ngăn chặn
thuốc phiện. Ngày 10/10/1945 Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 47/SL tạm thời giữ
lại một số luật lệ cũ quy định về các tội phạm ma túy không trái với nội dung chính thể
Cộng hòa. Đây chính là văn bản pháp lý đầu tiên, quan trọng nhằm sớm ổn định tình
hình đất nước, bởi vì điều kiện hoàn cảnh lúc đó cả nước đang dồn sức lực cho cuộc
kháng chiến chống thực dân Pháp nên việc xóa bỏ trồng cây thuốc phiện và quản lý
thuốc phiện chưa thể thực hiện được. Ngày 5/3/1952, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành

11



Nghị định số 150/TTg quy định việc xử lý đối với những hành vi vi phạm thể lệ quản lý
thuốc phiện. Theo các Điều 1, 2, 3 và 4 của Nghị định này thì cây thuốc phiện chỉ được
trồng ở thượng du Bắc bộ, Liên khu 4 và người trồng cây thuốc phiện phải nộp thuế
bằng hiện vật là 1/3 số nhựa thuốc phiện thu được, phần còn lại phải bán toàn bộ cho
mậu dịch quốc doanh. Điều 5 Nghị định quy định: “Ngoài cơ quan chuyên trách, không
ai được tàng trữ và vận chuyển nhựa thuốc phiện hay thuốc phiện đã nấu rồi”.
Sau đó, tại Nghị định số 225/TTg ngày 22/12/1952 của Thủ tướng Chính phủ
quy định những người có hành vi vi phạm thể lệ quản lý thuốc phiện bị xử lý như: tịch
thu thuốc phiện tàng trữ hoặc vận chuyển trái phép; phạt tiền từ một đến năm lần trị
giá số thuốc phiện lậu, người vi phạm có thể bị truy tố trước Tòa án nhân dân.
Như vậy việc quy định này chỉ đề cập xử lý hành vi “Tàng trữ và vận chuyển
trái phép”, không đề cập xử lý hành vi “Sản xuất hoặc buôn bán trái phép”. Chính vì
vậy, ngày 15/9/1955, Thủ tướng Chính phủ ban hành Nghị định 580/TTg quy định các
trường hợp này có thể bị đưa ra Tòa án để xét xử với mức phạt tù từ ba tháng đến năm
năm, bị tịch thu tang vật, bị phạt tiền từ một đến năm lần giá trị thuốc phiện buôn lậu.
Bộ tư pháp đã ban hành Thông tư số 635/VHH-HS ngày 29/3/1958 và Thông tư
33/VHH-HS ngày 5/7/1958 để thống nhất đường lối xét xử đối với những vụ án buôn
lậu thuốc phiện.
Sau khi miền Nam được giải phóng, ngày 25/3/1977 Hội đồng Chính phủ đã
ban hành Nghị định số 76/CP về chống buôn lậu thuốc phiện. Trên cơ sở đó Tòa án
nhân dân Tối cao, Viện kiểm sát nhân dân Tối cao, Bộ nội vụ đã ra Thông tư liên
ngành hướng dẫn áp dụng thống nhất pháp luật trong cả nước.
Trước tình hình tội phạm về ma túy ngày càng diễn biến phức tạp, trong khi đó
hệ thống pháp luật chưa đổi mới kịp với tình hình của thực tiễn đấu tranh phòng,
chống tội phạm. Do đó, để có công cụ pháp lý sắc bén trong đấu tranh chống tội phạm,
BLHS năm 1985 ra đời đã có quy định tội phạm liên quan đến ma túy với chính sách
hình sự nghiêm khắc hơn đối với loại tội phạm này.
1.2.2. Giai đoạn BLHS năm 1985 ra đời đến trước khi ban hành BLHS năm 1999

Là một nước nằm gần khu vực “Tam giác vàng” nên Việt Nam bị ảnh hưởng
của tình hình tội phạm ma túy quốc tế. Thuật ngữ “ma túy” lần đầu tiên xuất hiện ở

12


Việt Nam vào những năm 1960 trong các cụm từ “xì ke, ma túy”. Đến năm 1980, tình
hình tái trồng cây thuốc phiện, hút và tiêm chích thuốc phiện ngày càng gia tăng, xuất
hiện một số chất ma túy khác như hêrôin, côcain. Buôn bán thuốc phiện và các chất ma
túy khác phát triển mạnh, đặc biệt là buôn bán qua biên giới. Khi BLHS năm 1985 ra
đời, thuật ngữ “ma túy” được quy định trong các tội có liên quan đến ma túy tại ba
điều: tội buôn lậu hoặc vận chuyển trái phép hàng hóa, tiền tệ quan biên giới (Điều
97); tội buôn bán hàng cấm (Điều 166); tội tổ chức dùng chất ma túy (Điều 203) [16].
Thấy được tác hại ghê gớm của tệ nạn nghiện hút và buôn bán ma túy nên Đảng
và Nhà nước ta kiên quyết đấu tranh ma túy bằng nhiều biện pháp, đặc biệt là bằng
pháp luật. BLHS là công cụ sắc bén nhất để đấu tranh, trừng trị nghiêm khắc tội phạm
ma túy. Tuy nhiên, tội phạm ma túy vẫn tiếp tục tăng nhanh, trong khi BLHS năm
1985 chỉ quy định “tội tổ chức dùng chất ma tuý”, còn hành vi sản xuất, vận chuyển,
tàng trữ và nhất là mua bán trái phép chất ma túy chưa được quy định thành tội riêng
nên chưa phát huy được hiệu quả cao của BLHS trong đấu tranh phòng, chống tội
phạm ma túy. Những hành vi mua bán, vận chuyển ma túy qua biên giới thì bị truy cứu
TNHS theo “Tội buôn lậu hoặc vận chuyển trái phép hàng hóa, tiền tệ qua biên giới”
và nếu mua bán, vận chuyển trái phép ma túy trong nội địa thì bị truy cứu TNHS theo
“Tội buôn bán hoặc tàng trữ hàng cấm”.
Thông tư hướng dẫn áp dụng Luật sửa đổi đã định lượng hàng hóa thành tiền
hoặc quy ra thóc để xét xử nên việc áp dụng cũng rất khó khăn, thiếu thống nhất trong
việc quy đổi thuốc phiện và các chất ma túy khác, dẫn đến tình trạng truy tố, xét xử
không thống nhất các tội phạm về ma túy. Cùng một hành vi phạm tội mua bán ma
túy, chỉ khác nhau ở địa điểm xảy ra lại bị truy tố theo hai tội khác nhau là thiếu chặt
chẽ trong khoa học Luật hình sự. Ngoài ra, BLHS chỉ quy định tội tổ chức dùng chất

ma túy là ngăn chặn “cái ngọn” của vấn đề nghiện hút và buôn lậu ma túy. Hành vi
buôn bán, tàng trữ các chất ma túy thì bị xử theo tội buôn bán hàng cấm, còn hành vi
sản xuất, vận chuyển trái phép chất ma túy xảy ra trong thực tế nhưng không bị truy
cứu TNHS. Do không đánh giá đúng tính chất đặc biệt nguy hiểm của hành vi buôn
bán, tàng trữ thuốc phiện và các chất ma túy khác cho nên đã coi ma túy là đối tượng
được pháp luật hình sự điều chỉnh ngang hàng với mặt hàng khác như ngoại tệ, kim

13


khí, đá quý và chỉ quy định mức hình phạt cao nhất đối với tội này là hai mươi năm tù.
Bên cạnh đó, Điều 166 BLHS cũng chỉ đề cập về TNHS đối với các hành vi buôn bán,
tàng trữ trái phép chất ma túy nên hành vi sản xuất, vận chuyển trái phép chất ma túy
trong nội địa không bị truy cứu TNHS.
Trước tình hình đó, ngày 28/12/1989 Quốc hội đã thông qua luật sửa đổi, bổ
sung một số điều của BLHS, trong đó quy định Điều 96a: Tội sản xuất, tàng trữ, mua
bán, vận chuyển trái phép các chất ma túy được đưa vào nhóm tội trong Chương các
tội xâm phạm an ninh quốc gia, với ba khung hình phạt rất nghiêm khắc, loại hình phạt
cao nhất có thể bị áp dụng là tử hình; Điều 203 “Tội tổ chức dùng chất ma túy” có mức
hình phạt cao nhất đến mười năm tù [17].
Đến khi ban hành Hiến pháp năm 1992, Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam đã đánh giá được đúng mức tính chất, mức độ nguy hiểm và những
ảnh hưởng lớn của các hành vi sử dụng, tàng trữ, vận chuyển, buôn bán trái phép chất
ma túy đến đời sống của toàn nhân dân, việc đấu tranh ngăn chặn ma túy cũng được
quy định tại điều 61 trong Hiến pháp năm 1992: “Công dân có quyền được hưởng chế
độ bảo vệ sức khoẻ. Nhà nước quy định chế độ viện phí, chế độ miễn, giảm viện phí.
Công dân có nghĩa vụ thực hiện các quy định về vệ sinh phòng bệnh và vệ sinh công
cộng. Nghiêm cấm sản xuất, vận chuyển, buôn bán, tàng trữ, sử dụng trái phép thuốc
phiện và các chất ma túy khác. Nhà nước quy định chế độ cai nghiện và chữa các bệnh
xã hội nguy hiểm khác” [18].

Cụ thể hóa những tư tưởng trong Hiến pháp 1992 và để đáp ứng yêu cầu thực
tiễn đấu tranh phòng, chống tội phạm ma túy, Đảng và Nhà nước tiếp tục đổi mới
chính sách hình sự đối với các tội phạm về ma túy. Trong lần sửa đổi, bổ sung năm
1997, BLHS có thêm một chương mới: Chương VIIA các tội phạm về ma tuý với 14
điều luật, quy định 13 tội danh khác nhau liên quan đến ma tuý để thay thế Điều 96a
và Điều 203, trong đó các hành vi sản xuất, tàng trữ, mua bán, vận chuyển trái phép
chất ma túy được quy định thành 4 tội riêng biệt, cụ thể các tội gồm: Tội trồng cây
thuốc phiện hoặc các loại cây khác có chứa chất ma tuý (Điều 185a); Tội sản xuất trái
phép chất ma tuý (Điều 185b); Tội tàng trữ trái phép chất ma túy (Điều 185c); Tội vận
chuyển trái phép chất ma túy (Điều 185d); Tội mua bán trái phép chất ma túy (Điều

14


185đ); Tội chiếm đoạt chất ma túy (Điều 185e); Tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán
hoặc chiếm đoạt tiền chất dùng vào việc sản xuất trái phép chất ma túy (Điều 185g);
Tội sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, mua bán các phương tiện, dụng cụ dùng vào việc
sản xuất hoặc sử dụng trái phép chất ma túy (Điều 185h); Tội tổ chức sử dụng trái
phép chất ma túy (Điều 185i); Tội chứa chấp việc sử dụng trái phép chất ma túy (Điều
185k); Tội sử dụng trái phép chất ma túy (Điều 185l); Tội cưỡng, bức lôi kéo người
khác sử dụng trái phép chất ma túy (Điều 185m); Tội vi phạm quy định về quản lý, sử
dụng thuốc gây nghiện hoặc các chất ma túy khác (Điều 185n); 8/13 tội có khung hình
phạt cao nhất là tử hình, bao gồm: Tội sản xuất trái phép chất ma túy (Điều 185b); Tội
tàng trữ trái phép chất ma túy (Điều 185c); Tội mua bán trái phép chất ma túy (Điều
185d); Tội vận chuyển trái phép chất ma túy (Điều 185đ); Tội chiếm đoạt chất ma túy
(Điều 185e); Tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy (Điều 185i); Tội cưỡng chế
người khác sử dụng trái phép chất ma túy (Điều 185m); Tội lôi kéo người khác sử
dụng trái phép chất ma túy (Điều 185n) [19].
BLHS năm 1985 ra đời là công cụ pháp lý sắc bén, hữu hiệu của Nhà nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam để đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm, góp

phần to lớn vào việc bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của
Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp
pháp của công dân, tổ chức, góp phần duy trì trật tự an toàn xã hội, trật tự quản lý kinh
tế, bảo đảm cho mọi người được sống trong một môi trường xã hội và sinh thái an
toàn, lành mạnh, mang tính nhân văn cao. Trong điều kiện đất nước đã và đang chuyển
sang một giai đoạn mới, giai đoạn của công nghiệp hóa, hiện đại hóa, với nền kinh tế
nhiều thành phần, phát triển theo cơ chế thị trường, mở cửa hợp tác rộng rãi với các
nước trong khu vực và trên thế giới, từng bước hòa nhập với khu vực và trên thế giới.
Tuy nhiên, qua gần 15 năm thi hành, đã được sửa đổi bổ sung nhiều lần cho phù hợp
với điều kiện phát triển của đất nước cũng như sự gia tăng và phát triển của tỉnh hình
tội phạm nhưng, BLHS năm 1985 đã bộc lộ nhiều hạn chế bất cập và không còn phù
hợp với điều kiện, đặc điểm tình hình kinh tế - xã hội hiện tại, mở cửa hợp tác rộng rãi
với các nước, từng bước hội nhập với khu vực và quốc tế, cho nên BLHS cần phải sửa
đổi toàn diện. Vì vậy, BLHS năm 1999 ra đời, trong đó, các tội phạm về ma túy được

15


sửa đổi và quy định thành một chương riêng là Chương XVIII, gồm 10 tội quy định từ
Điều 192 BLHS đến Điều 201 BLHS [20].
1.2.3.Giai đoạn từ khi ban hành Bộ luật hình sự năm 1999 đến khi ban hành
BLHS năm 2015
BLHS năm 1999 được Quốc hội khóa X thông qua ngày 21/12/1999, các tội
phạm về ma túy được quy định tại Chương XVIII gồm 10 tội, cụ thể: Tội trồng cây
thuốc phiện hoặc các loại cây khác có chứa chất ma tuý (Điều 192); Tội sản xuất trái
phép chất ma túy (Điều 193); Tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm
đoạt chất ma túy (Điều 194); Tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán hoặc chiếm đoạt tiền
chất dùng vào việc sản xuất trái phép chất ma túy (Điều 195); Tội sản xuất, tàng trữ,
vận chuyển, mua bán các phương tiện, dụng cụ dùng vào việc sản xuất hoặc sử dụng
trái phép chất ma túy (Điều 196); Tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy (Điều

197); Tội chứa chấp việc sử dụng trái phép chất ma tuý (Điều 198); Tội sử dụng trái
phép chất ma túy (Điều 199); Tội cưỡng bức, lôi kéo người khác sử dụng trái phép
chất ma túy (Điều 200); Tội vi phạm quy định về quản lý, sử dụng thuốc gây nghiện
hoặc các chất ma túy khác (Điều 201), trong đó tội mua bán trái phép chất ma túy
được quy định tại Điều 194. Từ khi BLHS năm 1999 được đưa vào áp dụng, xã hội
Việt Nam có nhiều thay đổi chuyển biến, nhiều loại tội phạm mới hình thành. Tại kỳ
họp thứ 5 Quốc hội khóa XII, BLHS sửa đổi năm 2009 đã được thông qua ngày
19/6/2009 sửa đổi, bổ sung một số điều của BLHS năm 1999. Điểm mới cơ bản của
BLHS sửa đổi, bổ sung là bỏ Tội sử dụng trái phép chất ma túy (Điều 199); bãi bỏ
hình phạt tử hình đối với 03 tội là các tội: Tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy
(Điều 197); Tội lôi kéo người khác sử dụng trái phép chất ma túy (Điều 200); Tội
cưỡng bức người khác sử dụng trái phép chất ma túy (Điều 200). Do đó, hình phạt tử
hình chỉ còn áp dụng đối với 05 tội, đó là: Tội sản xuất trái phép chất ma túy (Điều
193); Tội tàng trữ trái phép chất ma túy (Điều 194); Tội vận chuyển trái phép chất ma
túy (Điều 194); Tội mua bán trái phép chất ma túy (Điều 194); Tội chiếm đoạt chất ma
túy (Điều 194) và nâng mức hình phạt với nhiều tội danh theo hướng tăng lên [22].
Tuy nhiên, kể từ sau khi BLHS năm 1999 được ban hành, tình hình đấ t nước ta
đã có những thay đổi lớn về mọi mặt, tình hình tội phạm nhìn chung vẫn diễn biến hết

16


sức phức tạp với những phương thức, thủ đoạn mới, tinh vi, xảo quyệt. Điều này đã
làm cho BLHS năm 2009 trở nên bất cập không đáp ứng được yêu cầu của thực tiễn.
Để khắc phục những hạn chế, bất cập thì ngày 27/11/2015 tại kỳ họp thứ 10
Quốc hội khóa 13 đã thông qua BLHS năm 2015 gồm 26 chương với 426 điều, trong
đó có các nhóm tội về ma túy được sửa đổi bổ sung. BLHS năm 2015 ra đời với nhiều
nội dung mới trong đó có quy định về TNHS của chủ thể là pháp nhân thương mại;
sửa đổi bổ sung các quy định về điều kiện áp dụng hình phạt theo hướng hạn chế áp
dụng hình phạt tù, mở rộng áp dụng hình phạt ngoài tù; sửa đổi, bổ sung các quy định

về hình phạt tử hình theo hướng tiếp tục thể chế hóa chủ trương hạn chế áp dụng hình
phạt tử hình theo các Nghị quyết của Đảng về cải cách tư pháp, bám sát tinh thần nội
dung Hiến pháp năm 2013 về quyền con người, quyền cơ bản của công dân. Quy định
chặt chẽ các điều kiện áp dụng hình phạt tử hình, bỏ hình phạt tử hình với 7 tội danh
cụ thể, trong đó nhóm tội phạm về ma túy bãi bỏ hình phạt tử hình đối với hai tội về
ma túy là các tội: Tội tàng trữ trái phép chất ma túy (Điều 249); Tội chiếm đoạt chất
ma túy (Điều 252) và hình phạt tử hình đối với các tội về ma túy chỉ áp dụng đối với
ba tội: Tội sản xuất trái phép chất ma túy (Điều 248); Tội vận chuyển trái phép trái
phép chất ma túy (Điều 250); Tội mua bán trái phép chất ma túy (Điều 251) [25].
Thời điểm có hiệu lực quy định trong BLHS năm 2015 là từ ngày 01/7/2016,
tuy nhiên do có một số sai sót trong nội dung của BLHS nên ngày 29/6/2016, Quốc hội
khóa 13 đã ban hành Nghị quyết số 144/2016/QH13 lùi hiệu lực thi hành BLHS năm
2015 từ ngày 01/7/2016 đến ngày Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của BLHS năm
2015 có hiệu lực thi hành; tiếp tục thực hiện các quy định khác có lợi cho người phạm
tội tại khoản 3 Điều 7 BLHS, điểm b khoản 1 Điều 1 và khoản 2 điều 1 và các quy
định khác có lợi cho người phạm tội tại Nghị quyết số 109/2015/QH13. Đến ngày
20/6/2017, tại kỳ họp thứ 3 Quốc hội khóa XIV BLHS năm 2015 được sửa đổi, bổ
sung năm 2017 đã được thông qua và có hiệu lực áp dụng từ ngày 1/1/2018 [26]. Như
vậy, theo quy định của BLHS năm 2015 đã được sửa đổi bổ sung năm 2017 thì nhóm
tội phạm về ma túy được quy định tại chương XX, vẫn giữ nguyên các tội về ma túy
quy định trong BLHS được Quốc hội thông qua ngày 21/12/1999 và được sửa đổi bổ
sung vào ngày 19/6/2009 nhưng có khác là chia tách các Điều 194; Điều 200 trong

17


BLHS năm 2009 thành các tội riêng biệt. Cụ thể là Điều 194 trong BLHS năm 2009
được chia tách thành 04 tội độc lập quy định trong BLHS năm 2015 đó là: Tội tàng trữ
trái phép chất ma túy (Điều 249); Tội vận chuyển trái phép chất ma túy (Điều 250);
Tội mua bán trái phép chất ma túy (Điều 251); Tội chiếm đoạt chất ma túy (Điều 252);

Điều 200 trong BLHS năm 2009 chia tách thành 02 (hai) tội quy định trong BLHS
năm 2015, đó là: Tội cưỡng bức người khác sử dụng trái phép chất ma túy (Điều 257);
Tội lôi kéo người khác sử dụng trái phép chất ma túy (Điều 253).
Các tội về ma túy được quy định trong BLHS sửa đổi năm 2017 cũng như quy
định trong BLHS năm 2015 được Quốc hội thông qua ngày 27/11/2015 là phản ánh
quá trình diễn biến của tội phạm về ma túy và cũng thể hiện ý chí của Nhà nước Việt
Nam đấu tranh với loại tội phạm ma túy.
Kết luận Chương 1
Trên cơ sở nghiên cứu các Công ước Quốc tế liên quan đến ma túy, Luật phòng
chống ma túy, khái niệm chung về tội phạm trong BLHS và tội mua bán trái phép chất
ma túy theo quy định của BLHS. Kết hợp với việc tham khảo một số khái niệm, định
nghĩa của một số nhà khoa học, tác giả đã đưa ra được các khái niệm: “Chất ma túy”,
“Tội phạm ma túy” và “Tội mua bán trái phép chất ma túy”. Đồng thời với việc đưa
các khái niệm, tác giả đã phân tích các dấu hiệu pháp lý của tội phạm ma túy nói
chung và tội mua bán trái phép chất ma túy nói riêng. Ngoài ra, tác giả đã khái quát
lịch sử lập pháp đối với tội phạm ma túy nói chung, để từ đó có cách nhìn toàn diện về
chính sách hình sự của Nhà nước ta đối với tội này. Việc nghiên cứu làm rõ những vấn
đề lý luận cơ bản, chung nhất của tội phạm ma túy nói chung, trong đó tội mua bán trái
phép chất ma túy nói riêng là cơ sở, là tiền đề để chúng ta tiếp tục nghiên cứu một
cách khoa học và cụ thể tội mua bán trái phép chất ma túy theo quy định của BLHS
năm 1999 và BLHS 2015 được sửa đổi bổ sung năm 2017, và qua đó nghiên cứu làm
rõ những dấu hiệu pháp lý đặc trưng là cơ sở để xây dựng phương pháp điều tra và là
nội dung cần phải chứng minh trong điều tra, truy tố, xét xử tội phạm này.

18


Chương 2
ĐỊNH TỘI DANH VÀ QUYẾT ĐỊNH HÌNH PHẠT ĐỐI VỚI TỘI MUA BÁN
TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH NAM ĐỊNH

2.1. Định tội danh tội mua bán trái phép chất ma túy trên địa bàn tỉnh
Nam Định
2.1.1. Một số vấn đề lý luận về định tội danh tội mua bán trái phép chất ma túy
* Khái niệm và đặc điểm của định tội danh:
Trong quá trình áp dụng pháp luật, định tội danh là một giai đoạn cơ bản có ý
nghĩa hết sức quan trọng. Định tội danh còn là tiền đề cho việc áp dụng các quy phạm
pháp luật tố tụng hình sự như: Thẩm quyền điều tra, truy tố, xét xử; áp dụng các biện
pháp ngăn chặn; quy định về thời hạn điều tra, truy tố, xét xử. Nếu như việc thực hiện
tội phạm là việc thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội bị Luật hình sự cấm thì việc
định tội danh chính xác là quá trình xác định hành vi nguy hiểm cho xã hội đã thực
hiện trong thực tế có đầy đủ các dấu hiệu của cấu thành tội phạm của tội danh cụ thể
được quy định trong BLHS. Định tội danh là việc xác định và ghi nhận về mặt pháp lý
sự phù hợp, chính xác giữa các dấu hiệu của hành vi phạm tội cụ thể đã được thực hiện
với các dấu hiệu của cấu thành tội phạm đã được quy định trong quy phạm pháp luật
hình sự.
Theo GS.TS Võ Khánh Vinh: “Định tội danh là hoạt động áp dụng pháp luật
hình sự bao gồm việc tiến hành đồng thời 3 quá trình:
1. Xác định đúng, khách quan các tình tiết thực tế của vụ án;
2. Nhận thức đúng nội dung của các quy định trong Bộ luật hình sự;
3. Lựa chọn đúng quy phạm pháp luật hình sự tương ứng để đối chiếu chính
xác, đầy đủ các dấu hiệu cấu thành tội phạm được quy định trong quy phạm đó với
các tình tiết của hành vi được thực hiện trong thực tế, trên cơ sở đó đưa ra kết luận có
cơ sở, có căn cứ về sự đồng nhất giữa hành vi thực tế đã được thực hiện với cấu thành
tội phạm được quy định trong điều hoặc khoản của điều luật tương ứng. Kết luận đó
được trình bày dưới dạng văn bản áp dụng pháp luật” [35, tr. 17].

19


Định tội danh đúng là kết quả của quá trình hoạt động của các cơ quan tiến hành

tố tụng và tạo tiền đề đảm bảo cho việc quyết định hình phạt đúng đắn.
Quá trình áp dụng các quy phạm pháp luật hình sự diễn ra đa dạng và phức tạp,
thể hiện ở ba giai đoạn: Định tội danh, xác định khung hình phạt và QĐHP. Trong đó,
định tội danh là giai đoạn đầu tiên, giai đoạn quan trọng nhất trong ba giai đoạn trên
của toàn bộ quá trình áp dụng pháp luật hình sự, vì định tội danh một tội phạm cụ thể
được tiến hành ở tất cả các giai đoạn của quá trình tiến hành tố tụng hình sự từ giai
đoạn khởi tố đến giai đoạn thi hành án. Định tội danh là một trong những biện pháp
đưa các quy định của BLHS vào đời sống xã hội, góp phần có hiệu quả vào quá trình
đấu tranh phòng, chống tội phạm, qua đó góp phần thực hiện đường lối chính sách
hình sự của Đảng và Nhà nước. Định tội danh là việc xác định về mặt pháp lý hình sự
phù hợp giữa hành vi nguy hiểm cho xã hội đã được thực hiện trong thực tế khách
quan với các dấu hiệu trong cấu thành tội pha ̣m tương ứng được quy định cụ thể trong
BLHS. Nói cách khác, định tội danh là việc xác định một hành vi cụ thể đã được đáp
ứng đầy đủ các dấu hiệu của cấu thành tội phạm của một tội phạm cụ thể trong số các
tội được quy định trong BLHS. Về phương pháp định tội danh: Chủ yếu sử dụng các
phương pháp phân tích, tổng hợp, quy nạp, diễn dịch, so sánh và phương pháp loại trừ.
Từ những phân tích khái quát nêu trên có thể thấy định tội danh gồm có bốn đặc
điểm như sau:
Thứ nhất, định tội danh là một quá trình nhận thức có tính logic giữa thực tiễn và
lý luận pháp lý, được thể hiện ở hai khía cạch: Đó là xác định hành vi nguy hiểm cho
xã hội đã thực hiện có phù hợp với cấu thành tội phạm cụ thể trong BLHS và đưa ra sự
đánh giá nhất định về mặt pháp lý hình sự đối với hành vi đã thực hiện trong thực tế.
Thứ hai, quá trình hoạt động định tội danh phải tuân thủ nghiêm chỉnh các quy
phạm pháp luật của BLHS cũng coi như các quy phạm pháp luật của BLTTHS.
Thứ ba, định tội danh là một dạng của hoạt động áp dụng pháp luật của các cơ
quan tiến hành tố tụng (CQĐT, VKSND, TAND) để cụ thể hóa các quy phạm pháp
luật hình sự vào trong thực tế đời sống xã hội. Trên cơ sở xác định đúng đắn và đầy đủ
các tình tiết của hành vi đã thực hiện và sự nhận thức đúng đắn và đầy đủ nội dung của
các quy phạm pháp luật hình sự.


20


×