Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

MỤC TIÊU, PHƯƠNG HƯỚNG HOẠT ĐỘNG, GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN VIỆN NGHIÊN CỨU THƯƠNG MẠI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (168.09 KB, 20 trang )

Tiểu luận triêt học

A. ĐẶT VẤN ĐỀ
Đại hội VI của Đảng (1986) đề ra đường lối đổi mới toàn diện, đánh
dấu một bước ngoặt quan trọng trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở
nước ta. Đổi mới trong lĩnh vực kinh tế, đó là chuyển từ nền kinh tế tập trung
quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa,
đổi mới các chính sách kinh tế và cơ chế quản lý, nhằm khai thác tối đa mọi
tiềm lực của đất nước, giải phóng năng lực sản xuất, thực hiện mục tiêu ổn
định tình hình kinh tế - xã hội, ổn định và cải thiện đời sống nhân dân.
Qua hơn 20 năm đổi mới, nhờ đường lối đúng đắn của Đảng và tính
tích cực, chủ động, sáng tạo của nhân dân trong việc hiện thực hố đường lối
đó, chúng ta đã đạt dược những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử. Nền kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đang từng bước được xây dựng.
Nền dân chủ XHCN với Nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân đã
được thiết định trên những đường nét cơ bản. Nền văn hoá tiên tiến, đậm đà
bản sắc dân tộc, sự thống nhất trong đa dạng đã hình thành. Khối đại đoàn kết
toàn dân tộc mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp
nông dân và đội ngũ trí thức ngày càng được củng cố, thực sự trở thành một
động lực quan trọng của đổi mới đất nước.
Song để đưa công cuộc đổi mới tiếp tục tiến lên, chúng ta cũng phải đối
mặt với khơng ít những khó khăn, thách thức: đó là việc giải quyết những
mâu thuẫn phát sinh từ bản thân nội tạng của nền kinh tế thị trường và những
mâu thuẫn phát sinh do sự tác động của nền kinh tế thị trường đến xã hội.
Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng Cộng sản Việt Nam
(4/2006), chúng ta lại một lần nữa khẳng định rẳng: để đi lên chủ nghĩa xã hội
chúng ta phải phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Vì vậy, giải quyết những mâu thuẫn trong quá trình xây dựng nền kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa khơng chỉ là một nhu cầu cấp thiết
mà cịn là một q trình lâu dài, địi hỏi chúng ta phải khơng ngừng đổi mới
trên mọi mặt kinh tế, chính trị, văn hoá, tư tưởng và xã hội. Việc giải quyết có


hiệu quả những mâu thuẫn cịn là điều kiện căn bản để nâng cao năng lực lãnh

1


Tiểu luận triêt học

đạo và sức chiến đấu của Đảng, phát huy sức mạnh dân tộc, đẩy mạnh tồn
diện cơng cuộc đổi mới, sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển,
thực hiện “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”.
Để nắm rõ và hiểu sâu sắc hơn về quá trình xây dựng nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa trong công cuộc đổi mới do Đảng ta khởi
xướng và lãnh đạo, tôi đã chọn đề tài: “ Những mâu thuẫn biện chứng
trong quá trình xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam”
Do thời gian và kiến thức có hạn, nên bài tiểu luận của tơi sẽ khó tránh
khỏi những hạn chế. Vì vậy, tơi rất mong nhận được sự đánh giá và đóng góp
ý kiến từ phía người đọc
Tơi xin chân thành cảm ơn TS. Lê Ngọc Thông đã tạo điều kiện hướng
dẫn tơi hồn thành bài tiểu luận này.
Hà Nội, ngày 16 tháng 12 năm 2008:
Học viên:
Phan Anh Tú

2


Tiểu luận triêt học

GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ

1. Lý luận chung
Quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập (hay gọi là quy
luật mâu thuẫn) là hạt nhân của phép biện chứng. V.I. Lênin viết: “ Có thể
định nghĩa vắn tắt phép biện chứng là học thuyết về sự thống nhất của các mặt
đối lập. Như thế là nắm được hạt nhân của phép biện chứng, nhưng điều đó
địi hỏi phải có những giải thích và một sự phát triển thêm” (V.I.Lênin: Toàn
tập, NXB Tiến bộ, Matxcơva, 1981,t.29.tr.240). Nắm vững nội dung của quy
luật này là cơ sở để hình thành tư duy khoa học đúng đắn trong quá trình nhận
thức và hoạt động thực tiễn của con người. Nó giúp cho con người đi sâu
nghiên cứu, phát hiện ra mâu thuẫn của sự vật, hiện tượng cũng như tìm ra
cách giải quyết những mâu thuẫn đó nhằm thúc đẩy sự vật, hiện tượng phát
triển.
Các khái niệm cơ bản
Tất cả các sự vật, hiện tượng xung quanh ta đều chứa đựng những mặt
trái ngược nhau. Trong nền kinh tế thị trường có cung và cầu, trong cơ thể
sinh vật có đồng hố và dị hố…. Những mặt trái ngược đó trong phép biện
chứng duy vật gọi là mặt đối lập.
Mặt đối lập là những mặt có những đặc điểm, những thuộc tính, những
tính quy định có khuynh hướng biến đổi trái ngược nhau tồn tại một cách
khách quan trong tự nhiên, xã hội và tư duy. Sự tồn tại các mặt đối lập là
khách quan, là phổ biến trong tất cả các sự vật.
Các mặt đối lập nằm trong sự liên hệ, tác động qua lại lẫn nhau tạo
thành mâu thuẫn biện chứng. Mâu thuẫn biện chứng tồn tại một cách khách
quan và phổ biến trong tự nhiên, xã hội và tư duy. Hai mặt đối lập tạo thành
mâu thuẫn biện chứng tồn tại trong sự thống nhất với nhau. Sự thống nhất của
các mặt đối lập là sự nương tựa lẫn nhau, tồn tại không tách rời nhau giữa các
mặt đối lập, sự tồn tại của mặt này phải lấy sự tồn tại của mặt kia làm tiền để.
Ví dụ như trong mọi xã hội tư bản đều tồn tại hai giai cấp: giai cấp tư sản và
giai cấp vô sản. Hai giai cấp này đối lập nhau về tư tưởng chính trị, động cơ
kinh tế nhưng lại luôn luôn tồn tại song song với nhau trong xã hội tư bản.

Giai cấp vô sản là những người khơng có tư liệu sản xuất phải bán sức lao
động cho nhà tư bản để kiếm sống; còn giai cấp tư sản là một số ít người nắm

3


Tiểu luận triêt học

trong tay một số lượng tư bản lớn, những người này xây dựng nhà xưởng,
mua máy móc,…và th nhân cơng với mục đích thu được lợi nhuận tối đa,
họ trở thành những nhà tư bản. Nếu nhà tư bản khơng bóc lột cơng nhân làm
th thì họ khơng thể trở thành giai cấp tư sản, cịn người vơ sản khơng bán
sức lao động để kiếm sống thì cũng không thể trở thành giai cấp vô sản. Vậy,
hai mặt đối lập này cùng song song tồn tại trong xã hội tư bản và mặt đối lập
này làm tiền đề cho sự tồn tại của mặt đối lập kia và ngược lại.
Các mặt đối lập không tách rời nhau nên giữa chúng bao giờ cũng có
nhân tố thống nhất với nhau. Với ý nghĩa đó, “sự thống nhất của các mặt đối
lập” còn bao hàm cả sự “đồng nhất” của các mặt đó. Do có sự “đồng nhất”
của các mặt đối lập mà trong sự triển khai của mâu thuẫn đến một lúc nào đó,
các mặt đối lập có thể chuyển hoá lẫn nhau.
Sự thống nhất của các mặt đối lập không tách rời sự đấu tranh của các
mặt đối lập. Mỗi sự vật hay hiện tượng là một thể thống nhất của hai mặt đối
lập, hai mặt đó liên hệ với nhau, có khuynh hướng phát triển trái ngược nhau,
nên chúng không nằm yên ở bên nhau mà bài trừ lẫn nhau, phủ định lẫn nhau.
Đó là sự đấu tranh của các mặt đối lập. Hình thức đấu tranh của các mặt đối
lập hết sức phong phú, đa dạng, tuỳ thuộc vào tính chất, vào mối quan hệ qua
lại giữa các mặt đối lập và tuỳ điều kiện cụ thể diễn ra cuộc đấu tranh của
chúng.
Mâu thuẫn là nguồn gốc của sự vận động và sự phát triển
Mỗi sự vật, hiện tượng là một thể thống nhất của các mặt đối lập, các

mặt đối lập này luôn “đấu tranh” với nhau tạo thành mâu thuẫn. Như vậy mâu
thuẫn biện chứng cũng bao hàm cả “ sự thống nhất” và “sự đấu tranh” của các
mặt đối lập. Sự thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập không tách rời
nhau, trong quá trình vận động, phát triển của sự vật. Sự đấu tranh gắn liền
với tính tuyệt đối của sự vận động và phát triển. Điều đó có nghĩa là: sự thống
nhất của các mặt đối lập là tương đối, tạm thời; sự đấu tranh của các mặt đối
lập là tuyệt đối.
Như vậy, tính tương đối của sự thống nhất của các mặt đối lập nói lên
rằng mọi sự vật chỉ tồn tại trong một thời gian nhất định, có phát sinh, phát
triển rồi tiêu vong. Tính tuyệt đối của sự đấu tranh của các mặt đối lập nói lên
sự vận động, phát triển khơng ngừng của thế giới vật chất, quá trình chuyển
từ dạng này sang dạng khác luôn luôn diễn ra, không ngừng.

4


Tiểu luận triêt học

Trong sự tác động qua lại của các mặt đối lập thì đấu tranh của các mặt
đối lập quy định một cách tất yếu sự thay đổi của các mặt đang tác động và
làm cho mâu thuẫn phát triển. Ban đầu, các mặt đối lập trong mỗi sự vật, hiện
tượng mang những đặc điểm khác nhau, nhưng phát triển theo những khuynh
hướng trái ngược nhau. Sự khác nhau đó ngày càng phát triển và đi đến đối
lập nhau, phủ định và bài trừ lẫn nhau. Khi điều kiện đã chín muồi các mặt
đối lập sẽ chuyển hố lẫn nhau và mâu thuẫn được giải quyết. Khi mâu thuẫn
được giải quyết thì thể thống nhất cũ sẽ được thay thế bằng thể thống nhất
mới; sự vật cũ mất đi nhường chỗ cho sự vật mới ra đời. Trong sự vật mới lại
tồn tại những mặt đối lập mới, những mặt đối lập này chỉ tồn tại thống nhất
với nhau và luôn luôn “đấu tranh” với nhau. V.I.Lênin viết: “ Sự phát triển là
một cuộc “ đấu tranh” giữa các mặt đối lập”. Tuy nhiên, khơng có thống nhất

của các mặt đối lập thì cũng khơng có đấu tranh giữa chúng. Thống nhất và
đấu tranh của các mặt đối lập là không thể tách rời nhau trong mâu thuẫn biện
chứng. Sự vận động và phát triển bao giờ cũng là sự thống nhất giữa tính ổn
định và tính thay đổi. Sự thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập quy định
tính ổn định và tính thay đổi của sự vật. Do đó, mâu thuẫn chính là nguồn gốc
của sự vận động và sự phát triển.
Ý nghĩa phương pháp luận
Việc nghiên cứu quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập
có ý nghĩa phương pháp luận quan trọng trong nhận thức và hoạt động thực
tiễn.
Khi xem xét một sự vật, hiện tượng phải đi sâu nghiên cứu phát hiện ra
mâu thuẫn của sự vật, hiện tượng để từ đó nhận thức đúng bản chất sự vật và
tìm ra phương pháp đúng đắn cho hoạt động thực tiễn. Muốn vậy, phải tìm ra
những mặt đối lập trong thể thống nhất và tìm ra những mối liên hệ, tác động
qua lại lẫn nhau giữa các mặt đối lập đó. Khi phân tích mâu thuẫn, phải xem
xét q trình phát sinh, phát triển của từng mặt đối lập, mối quan hệ tác động
qua lại giữa chúng, điều kiện chuyển hoá lẫn nhau giữa chúng.
Để thúc đẩy sự vật phát triển phải tìm mọi cách để giải quyết mâu
thuẫn, khơng được điều hồ mâu thuẫn. Việc đấu tranh giải quyết mâu thuẫn
phải phù hợp với trình độ phát triển của mâu thuẫn. Mâu thuẫn chỉ được giải
quyết khi điều kiện đã chín muồi. Phải chống thái độ chủ quan, nóng vội,
đơng thời phải tích cực thúc đẩy các điều kiện khách quan để làm cho các

5


Tiểu luận triêt học

điều kiện giải quyết mâu thuẫn đi đến chín muồi. Mâu thuẫn khác nhau phải
có phương pháp giải quyết khác nhau. Phải tìm ra các phương pháp giải quyết

mâu thuẫn một cách linh hoạt, triệt để phù hợp với từng mâu thuẫn và phù
hợp với từng điều kiện cụ thể.
2. Vận dụng quy luật mâu thuẫn để phân tích những mâu thuẫn biện
chứng trong q trình xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa.
a. Một số vấn đề lý luận về nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa ở Việt Nam
Những nét khái quát về kinh tế thị trường
Kinh tế thị trường là trình độ phát triển cao của kinh tế hàng hố, trong
đó tồn bộ các yế tố “đầu vào” và “đầu ra” của sản xuất đều thông qua trhj
trường. Kinh tế hàng hoá và kinh tế thị trường khơng đồng nhất với nhau,
chúng khác nhau về trình độ phát triển.
Nền kinh tế nước ta khi bước vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
còn mang nặng tính tự túc tự cấp, vì vậy sản xuất hàng hoá phát triển sẽ phá
vỡ dần kinh tế tự nhiên và chuyển thành nền kinh tế hồng hố thúc đẩy sự xã
hội hoá sản xuất. Kinh tế hàng hoá tạo ra động lực thúc đẩy lực lượng sản
xuất phát triển.
Phát triển kinh tế thị trường là một tất yếu kinh tế đối với nước ta, một
nhiệm vụ kinh tế cấp bách để chuyển nền kinh tế lạc hậu của nước ta thành
nền kinh tế hiện đại, hội nhập vào sự phân cơng lao động quốc tế. Đó là con
đường đúng đắn để phát triển lực lượng sản xuất, khai thác có hiệu quả tiềm
năng của đất nước vào sự nghiệp cơng nghiệp hố - hiện đại hố.
Thực tiễn những năm đổi mới đã chứng minh rằng, việc chuyển sang
nền kinh tế thị trường nhiều thành phần là hoàn toàn đúng đắn. Nhờ phát triển
nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, chúng ta đã bước đầu khai thác được
tiềm năng trong nước và thu hút được vốn, kỹ thuật, công nghệ của nước
ngồi, giải phóng được năng lực sản xuất, góp phần quyết định vào việc ổn
định tăng trưởng kinh tế với nhịp độ cao trong thời gian qua.
Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa mà nước ta đang

xây dựng không phải là kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa, cũng chưa hoàn
toàn là kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa. Bởi vì, chúng ta cịn đang ở trong

6


Tiểu luận triêt học

thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, cịn có sự đan xen và đấu tranh giữa cái
cũ và cái mới, vừa có, vừa chưa có đầy đủ yếu tố xã hội chủ nghĩa.
Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam một
mặt có những tính chất chung của nền kinh tế thị trường, mặt khác kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam dựa trên cơ sở và được dẫn
dắt, chi phối bởi nguyên tắc và bản chất của chủ nghĩa xã hội. Do đó, kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam có những đặc trưng:

- Mục tiêu hàng đầu của phát triển kinh tế thị trường ở nước ta là giải
phóng sức sản xuất, động viên mọi nguồn lực trong và ngồi nước để thực
hiện cơng nghiệp hố - hiện đại hoá, xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của chủ
nghĩa xã hội nâng cao hiệu quả kinh tế xã hội, từng bước cải thiện đời sống
nhân dân.

- Nền kinh tế thị trường ở nước ta gồm nhiều thành phần trong đó kinh tế
Nhà nước giữ vai trị chủ đạo. Các thành phần kinh tế tồn tại một cách khách
quan và là những bộ phận cần thiết của nền kinh tế trong thời kỳ quá độ đi lên
chủ nghĩa xã hội. Tính định hướng xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế thị trường
ở nước ta đã quyết định thành phần kinh tế Nhà nước phải giữ vai trò chủ đạo
trong cơ cấu kinh tế nhiều thành phần.

- Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa thực hiện

nhiều hình thức phân phối trong đó lấy phân phối theo lao động là chủ yếu.

- Cơ chế vận hành nền kinh tế là cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà
nước xã hội chủ nghĩa.

- Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam cũng là
nền kinh tế mở hội nhập.
b. Một số mâu thuẫn biện chứng trong quá trình xây dựng nền kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay
Chúng ta không thể phủ nhận những vai trò to lớn của nền kinh tế thị
trường định trong việc phát triển kinh tế - xã hội. Tuy nhiên, trong quá trình
xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta đã
xuất hiện những mâu thuẫn. Mà việc giải quyết những mâu thuẫn này có ý
nghĩa đặc biệt quan trọng trong việc tiếp tục đưa công cuộc đổi mới của nước
ta tiến lên. Có thể chia các mâu thuẫn này thành hai nhóm như sau:

7


Tiểu luận triêt học

Một số mâu thuẫn phát sinh từ bản thân nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa.



Một là, mâu thuẫn trong sự tồn tại của nhiều thành phần kinh tế
với mục tiêu của chủ nghĩa xã hội.
Khi chúng ta nói tới thời kỳ quá độ là chúng ta nói đến giai đoạn lịch
sử giai cấp công nhân và nhân dân lao động đã nắm được chính quyền, đưa

đất nước đi lên chủ nghĩa xã hội, nhưng cơ sở kinh tế xã hội chủ nghĩa lại
chưa xác lập hoàn chỉnh, chưa giữ được địa vị thống trị trong xã hội. Trong
thời kỳ đó, có sự đan xen của thành phần kinh tế xã hội chủ nghĩa và thành
phần kinh tế tư bản chủ nghãi. Đó chính là thời đấu tranh của những xu
hướng tư bản chủ nghĩa và mục tiêu xây dựng chủ nghĩa xã hội. Những xu
hướng và mục tiêu này tạo thành một cuộc đấu tranh xun suốt thời kỳ q
độ. Đó chính là mâu thuẫn cơ bản trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở
Việt Nam.
Nghị quyết Đại hội Đảng IX chỉ rõ: chúng ta chấp nhận sự tồn tại của
nhiều thành phần kinh tế, của nhiều hình thức sử hữu về tư liệu sản xuất, tức
là chấp nhận thành phần kinh tế tư bản chủ nghĩa, thừa nhận các hình thức sở
hữu và kinh doanh có th mướn lao động và có sự bóc lột sức lao đơng. Điều
này mâu thuẫn với mục tiêu của chủ nghĩa xã hội là xố bỏ bóc lột. Mâu
thuẫn này mang tính khách quan, vốn có của nền kinh tế thị trường. Đi sau nó
là mâu thuẫn gữa chủ- thợ, giữa các thành phần kinh tế dựa trên sở hữu tư
nhân với các thành phần kinh tế dựa trên sở hữu công cộng,…Đảng và Nhà
nước ta đã sử dụng những chủ trương, chính sách, chế độ theo định hướng xã
hội chủ nghĩa để một mặt phát huy vai trò của mọi thành phần kinh tế, gắn kết
các thành phàn kinh tế, một mặt hạn chế những điểm tiêu cực của các thành
phần kinh tế dựa trên chế độ tư hữu, và giữa bản chất bóc lột của thành phần
kinh tế tư bản với mục tiêu của chủ nghĩa xã hội.
Trong nền kinh tế nước ta hiện nay, các thành phần kinh tế đều bình
đẳng trước pháp luật, nhưng lại chưa có vai trị, vị trí như nhau trong q
trình hình thành và xây dựng chế độ kinh tế - xã hội mới. Bên cạnh quan hệ
thống nhất có liên quan mật thiết đến nhau của các thành phần kinh tế còn tồn
tại những mâu thuẫn giữa các thành phần kinh tế như: thiếu bình đẳng trong
cấp phát vốn, trong tìm thị trường tiêu thụ; trong quá trình cạnh tranh,…

8



Tiểu luận triêt học

Những mâu thuẫn này một mặt tạo động lực và tiền đề cho sự phát triển của
nền kinh tế, mặt khác chúng tạo ra bước cản trở đối với các thành phần kinh
tế. Mâu thuẫn trong các thành phần kinh tế của nước ta hiện nay được biểu
hiện giữa một bên là lực lượng và khuynh hướng phát triển theo định hướng
xã hội chủ nghĩa với một bên là khuynh hướng tự phát, không theo định
hướng xã hội chủ nghĩa. Các chủ thể kinh tế vì quyền lợi kinh tế của mình đã
lợi dụng các kẽ hở của pháp luật để làm giàu một cách khơng chính đáng.
Một bộ phận các doanh nghiệp vì lợi ích kinh doanh đã bỏ qua “định hướng
xã hội chủ nghĩa” khi tham gia vào thị trường. Bằng mọi thủ đoạn, họ sẵn
sàng làm mọi việc để thu được lợi nhuận tối đa kể cả việc vi phạm pháp luật.
Mặt khác, cạnh tranh gay gắt giữa các thành phần kinh tế còn là nguyên nhân
trực tiếp dẫn đến sự độc quyền và phá sản, mà tình trạng độc quyền lại
thường xảy ra trong bộ phận doanh nghiệp Nhà nước-thành phần kinh tế vốn
chưa có khả năng cạnh tranh cao. Điều này đi ngược với mục tiêu xoá bỏ độc
quyền, xoá bỏ cạnh tranh trái pháp luật. Đây là một trong những bài tốn nan
giai trong q trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta.

• Hai là, mâu thuẫn trong quá trình phân phối thu nhập
Xuất phát từ yêu cầu của các quy luật kinh tế khách quan, và từ đặc
điểm kinh tế - xã hội của đất nước, trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
ở nước ta tồn tại nhiều hình thức phân phối thu nhập. Sở dĩ có điều đó là vì
nước ta chủ trương phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, có nhiều hình
thức sở hữu khác nhau nên tất yếu phải có các hình thức phân phối thu nhập
phù hợp; nền kinh tế nước ta còn tồn tại nhiều phương thức kinh doanh khác
nhau, các chủ thể kinh tế đều có sự khác nhau về sở hữu vốn, tư liệu sản xuất,
trình độ chuyên môn,…Theo quan điểm của Đảng ta: “ kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa thực hiện phân phối chủ yếu theo kết quả lao động và

hiệu quả kinh tế, đồng thời theo mức đóng góp vốn và các nguồn lực khác
vào sản xuất kinh doanh và thông qua phúc lợi xã hội”. Như vậy, việc phân
phối ở đây được thực hiện theo hai nguyên tắc cở bản: bình đẳng và hiệu suất.
Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa giữa bình
đẳng và hiệu suất thường mâu thuẫn với nhau. Nó tạo ra mâu thuẫn trong
phân phối thu nhập của xã hội. Phân phối theo lao động về nguyên tắc vẫn là
sự bình đẳng trong khuôn khổ “ pháp quyền tư sản”, tức là sự bình đẳng trong
xã hội sản xuất hàng hố, theo nguyên tắc sự trao đổi hoàn toàn ngang giá và

9


Tiểu luận triêt học

lợi ích của người sản xuất là tỷ lệ với sức lao động mà người ấy đã bỏ ra trong
q trình lao động. Sự bình đẳng đó cịn thiếu sót vì với một cơng việc ngang
nhau và do đó, với một phần tham dự như nhau vào quỹ tiêu dùng của xã hội
thì trên thực tế, người này vẫn lĩnh nhiều hơn người kia, người này vẫn giàu
hơn người kia. Hơn nữa, trong xã hội ln có một bộ phận dân số “ăn bám”;
đó là những người già khơng có khả năng lao động, đó là những thiếu niên
chưa có khả năng lao động và thậm chí có rất nhiều người thất nghiệp. Do đó,
họ khơng thể có được lợi ích như những người lao động bình thường khác.
Chúng ta sử dụng phân phố theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế để tạo
yếu tố thúc đẩy tính năng động, tích cực của người lao động. Nhưng chính
việc phân phối này lại tạo ra khoảng cách ngày một lớn giữa các chủ thể kinh
tế, tạo nên sự bất bình đẳng giữa họ.Thực trạng này dẫn đến sự phân hoá giàu
nghèo giữa các bộ phận dân cư trong xã hội, giữa thành thị và nông thôn. Nếu
chúng ta giữ sự phân hoá này ở một mức độ phù hợp nhất định thì sẽ là yếu tố
kích thích các chủ thể kinh tế, các vùng miền cạnh tranh lành mạnh cùng phát
triển. Nhưng nếu để hố phân hố giàu nghèo ngày một sâu thì sẽ gây nên các

xung đột xã hội làm cho xã hội mất ổn định, dẫn đến suy thối kinh tế.
Để khắc phục tình trạng ngày, Đảng và Nhà nước ta đã đưa ra các chủ
trương, biện pháp nhằm tạo ra tính cơng bằng trong phân phối, dần dần thu
hẹp khoảng cách giàu nghèo giữa các tầng lớp nhân dân lao động, giữa các
vùng miền như ưu tiên cho hiệu quả có chiếu cố đến cơng bằng khi phân phối
lần đầu, cịn khi phân phối lại thì thẻ hiện cơng bằng nhiều hơn. Cụ thể đó là:
loại bỏ khuynh hướng bình qn chủ nghĩa; thực hiện phân phối theo lao
động với phương châm làm nhiều hưởng nhiều, mức lương và cơ cấu lương
do đơn vị tự quyết định, mức thù lao trả cho người lao động chủ yếu do cơ
chế cạnh tranh thị trường quyết định; thận trọng cải cách động bộ các chính
sách giá cả, nhà ở chữa bệnh và bảo hiểm xã hội, từng bước nâng cao mức
lương; đồng thời chuyển thu nhập ngoài lương thành thu nhập lương, chuyển
thu nhập hiện vật thành thu nhập tiền tệ, công khai mức lương và mức thu
nhập xã hội.



Ba là, mâu thuẫn giữa quan hệ sản xuất với tính chất, trình độ
của lực lượng sản xuất.
Phương thức sản xuất đóng vai trị quyết định đối với tất cả các mặt của
đời sống xã hội: kinh tế, chính trị, văn hố, xã hội. Phương thức sản xuất

10


Tiểu luận triêt học

chính là sự thống nhất giữa lực lượng sản xuất ở một trình độ nhất định và
quan hệ sản xuất tương ứng. Trong phương thức sản xuất thì lực lượng sản
xuất là yếu tố năng động nhất, phát triển không ngừng, quyết dịnh quan hệ

sản xuất. Quan hệ sản xuất cũng có tính độc lập tương đối và tác động trở lại
sự phát triển của lực lượng sản xuất. Vì vậy, suy cho cùng lực lượng sản xuất
quyết định mọi mặt đời sống xã hội, quyết định mọi sự biến đổi từ thấp đến
cao của lịch sử lồi người, của các hình thái kinh tế - xã hội. Sự biến đổi và
phát triển lực lượng sản xuất là nguyên nhân sâu xa nhất, là nguyên nhân cuối
cùng quyết định mọi biến đổi và phát triển của xã hội.
Do nguyên nhân khách quan, nước ta tuy có xuất phát điểm là một
nước nông nghiệp nghèo nàn, lạc hậu nhưng hồn tồn có thể tiến thẳng lên
xây dựng chủ nghĩa xã hội bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa. Sau
hơn 20 năm đổi mới, nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn, nền kinh tế
đã bắt đầu đi vào ổn định và bước đầu phát triển. Tuy nhiên, trình độ của lực
lượng sản xuất vẫn còn kém phát triển, khoa học kỹ thuật còn lạc hậu; năng
suất lao động thấp; người lao động mang nặng tâm lý thích ổn định, ngại thay
đổi, thụ đơng, phản ứng tiêu cực với cái mới,…Biểu hiện là nông nghiệp vẫn
chiếm tỷ trọng lớn trong tổng sản phẩm quốc dân, thị trường hàng hố sức lao
động chưa hình thành đồng bộ, các quan hệ kinh tế chưa phát triển,…Đó
chính là những cản trở chủ yếu của việc xây dựng quan hệ sản xuất xã hội chủ
nghĩa, mà quan hệ sản xuất này vốn mang bản chất xã hội hoá nền sản xuất xã
hội. Do đó, chúng ta chưa tạo được sự thay đổi căn bản đời sống nhân dân,
chưa tạo được thuận lợi cho việc củng cố quan hệ sản xuất mới đã xây dựng
nhiều năm trên phạm vi cả nước. Đại hội X của Đảng đã xác định một trong
những nhiệm vụ chủ yếu phát triển kinh tế - xã hội là: giải phóng và phát triển
mạnh mẽ lực lượng sản xuất, phát huy mọi tiềm năng và nguồn lực,…
Đồng thời với việc phát triển lực lượng sản xuất, chúng ta cần phải phát
triển quan hệ sản xuất sao cho phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng
sản xuất. Một phương thức sản xuất bao giờ cũng gồm hai mặt đó, cùng tồn
tại song song trong mối quan hệ biện chứng lẫn nhau. Vì thế đường lối của
Đảng ta là vừa phát triển lực lượng sản xuất vừa phải chăm lo xây dựng quan
hệ sản xuất, nghĩa là phải luôn luôn quan tâm đến cả hai mặt đó. Mục đích
trực tiếp của phát triển lực lượng sản xuất là tạo cơ sở cho sự phát triển của

quan hệ sản xuất tương ứng; mục đích trực tiếp của xây dựng quan hệ sản

11


Tiểu luận triêt học

xuất là để phát triển lực lượng sản xuất ngày một tiên tiến.Vận dụng đúng đắn
chủ nghĩa Mác-Lênin trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, đường lối
phát triển kinh tế của Đảng ta đã chỉ rõ: ưu tiên phát triển lực lượng sản xuất,
đồng thời xây dựng quan hệ sản xuất phù hợp theo định hướng xã hội chủ
nghĩa.
Tuy nhiên, thực tế cho thấy, khi bắt ta vào xây dựng và phát triển nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa thì lực lượng sản xuất luôn tỏ
ra mâu thuẫn với quan hệ sản xuất. Tính cạnh tranh năng động là một trong
những đặc điểm cơ bản của nền kinh tế thị trường thì ngược lại chúng ta lại
chậm tháo gỡ các vướng mắc về cơ chế, chính sách để tạo động lực và điều
kiện cho các doanh nghiệp nâng cao hiệu quả hoạt động, phát huy vai trị tích
cực trong nền kinh tế quốc dân. Đại hội X của Đảng đã mạnh dạn chỉ ra
những yếu kém như: việc xây dựng thể chế kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa còn nhiều vướng mắc và chưa thật đồng bộ. Thị trường tài
chính, thị trường bất động sản, thị trường khoa học và công nghệ phát triển
chậm, chưa đáp ứng kịp yêu cầu. Quản lý nhà nước đối với từng loại thị
trường còn nhiều bất cập. Một số nguyên tắc của thị trường bị vi phạm…
Trong tình hình giá cả thế giới có nhiều biến động, cơng tác quản lý giá
cả thị trường, lưu thơng tiền tệ có mặt chưa phù hợp, lúng túng, để xảy ra đầu
cơ gây đột biến giá một số mặt hàng thiết yếu, bất lợi cho hoạt động sản xuất
kinh doanh và đời sống. Đây là những vật cản rất lớn đối với sự phát triển của
lực lượng sản xuất, minh chứng cho sự mất cân đối giữa quan hệ sản xuất và
lực lượng sản xuất.


• Bốn là, mâu thuẫn giữa lợi ích cá nhân với lợi ích tập thể và lợi
ích xã hội.
Để thực hiện được mục tiêu tăng trưởng và phát triển bền vững nền
kinh tế chúng ta cần phải coi trọng mọi lợi ích: lợi ích cá nhân, lợi ích tập thể,
lợi ích xã hội. Trong đó, thì lợi ích cá nhân là động lực số một để các thành
phần kinh tế, nhất là thành phần kinh tế ngoài quốc doanh tham gia hoạt động
kinh tế.
Trong thời kỳ quá độ và kể cả trong chủ nghĩa xã hội, mâu thuẫn giữa
lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội chẳng những khơng mất đi mà cịn có những
diễn biến phức tạp hơn. Điều này có thẻ chứng minh một cách dễ dàng. Bởi
vì, trong chủ nghĩa xã hội mọi cá nhân sẽ có điều kiện tốt hơn để phát triển về

12


Tiểu luận triêt học

năng lực và nhu cầu. Sự phát triển nhu cầu và lợi ích cá nhân tất yếu có mặt
trái của nó. Mối quan hệ có mâu thuẫn giữa lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội
nếu không được giải quyết một cách đúng đắn sẽ biểu hiện thành những hiện
tượng bất công xã hội. Trong mối quan hệ này nếu lợi ích cá nhân bị vi phạm
thì xã hội sẽ mất đi một động lực to lớn của sự phát triển xã hội. Còn ngược
lại, nếu cá nhân có lợi ích nhưng lợi ích xã hội bị vi phạm thì nạn nhân của sự
mất cơng bằng lại là cộng đồng xã hội. Chẳng hạn, vì lợi ích cá nhân ích kỷ
mà trong sản xuất kinh doanh và trong các hoạt động xã hội khác, người ta có
thể phá hoại mơi trường sống, có thể làm tất cả các việc phi pháp, phi nhân
tính,…miễn là đem lại thu nhập cao cho họ. Trong trường hợp này, khi một
số ít cá nhân được hưởng lợi ích thì cộng đồng xã hội lại phải gánh chịu
những thiệt hại do cá nhân đó gây ra. Chúng ta cần phân biệt lợi ích chính

đáng và lợi ích ích kỷ của các nhân. Lợi ích chính đáng của cá nhân là động
lực phát triển của xã hội, là cái mà xã hội phải tơn trọng và phát huy; cịn lợi
ích ích kỷ của cá nhân là nguồn gốc của chủ nghĩa cá nhân. Chủ nghĩa cá
nhân là nguyên nhân dẫn đến sự thối hố, biến chất, tham nhũng của một số
khơng ít cán bộ trong bộ máy nhà nước. Nếu xã hội khơng có những biện
pháp tích cực và có hiệu quả thì những tệ nạn ngày chẳng những khơng giảm
đi mà trái lại sẽ càng gia tăng, vì cùng với sự tăng trưởng kinh tế, của cải xã
hội, phúc lợi tập thể sẽ tăng lên và những thứ này lại được giao cho những cá
nhân trực tiếp quản lý. Ở đây, cần chỉ ra một đặc điểm của thị trường ở nước
ta là thị trường chưa phát triển toàn diện, chưa phát triển vững chắc, trong
nhiều trường hợp nó chưa đánh giá đúng chất lượng sản phẩm và chất lượng
của lao động. Nhiều khi làm hàng giả có lợi chó người sản xuất hơn làm hàng
thất, kể cả trong lĩnh vực sản xuất hàng hoá tinh thần.
Như vậy, trong điều kiện kinh tế thị trường, mâu thuẫn giữa lợi ích các
nhân và lợi ích xã hội đề có khả năng xảy ra và trên thực tế, đã xảy ra ở một
bộ phận nhất định trong xã hội. Chủ nghĩa cá nhân là biểu hiện tiêu cực của
mâu thuẫn đó. Mâu thuẫn giữa lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội cũng có thể
xuất hiện do những sai lầm trong chủ trương, chính sách của nhà nước làm
hạn chế, ngăn cản sự phát triển đa dạng, phong phú của nhu cầu lợi ích cá
nhận làm suy giảm một cách đáng kể tính tích cực, sáng tạo của cá nhân. Đó
cũng là một nguyên nhân của bất công bằng xã hội là tình trạng diễn ra trong
mơ hình cũ của chủ nghĩa xã hội. Để giải quyết mâu thuẫn giữa lợi ích cá

13


Tiểu luận triêt học

nhân và lợi ích xã hội, về cơ bản phải giải quyết hài hồ lợi ích cá nhân với
lợi ích xã hội, đồng thời phải chống lại những biểu hiện của chủ nghĩa cá

nhân, nhất là chủ nghĩa cá nhân cực đoan. Mặt khác, chúng ta phải biết kết
hợp tốt lợi ích cá nhân và lợi ích tập thẻ, lợi ích cá xã hội để tạo thành nguồn
lực to lớn cho công cuộc xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa.
Một số mâu thuẫn phát sinh do sự tác động của nền kinh tế tới xã hội.

• Một là, mâu thuẫn giữa mặt trái của kinh tế thị trường với mục
tiêu xây dựng con người xã hội chủ nghĩa.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng là nói rằng: “ Muốn xây dựng xã hội
chủ nghĩa trước hết phải có con người xã hội chủ nghĩa. Yếu tố con người giữ
vai trò cực kỳ quan trọng trong sự nghiệp Cách mạng, bởi con người là chủ
thể của mọi sáng tạo, của mọi nguồn của cải vật chất và văn hoá. Con người
phát triển cao về trí tuệ, cường tráng về thể chất, phong phú về tinh thần,
trong sáng về đạo đức là động lực của sự nghiệp xây dựng xã hội mới, là mục
tiêu của chủ nghĩa xã hội. Chúng ta phải bắt đầu từ con người làm điểm xuất
phát”.
Kinh tế thị trường làm cho người năng động hơn, sáng tạo hơn…Tuy
nhiên không phải cứ xây dựng nền kinh tế thị trường thì mọi phẩm chất tốt
đẹp đó của con người đều được hình thành. Chính những mặt trái của kinh tế
thị trường đã làm xuất hiện lối sống thực dụng, tâm lý sùng bái đồng tiền, coi
vật chất là trên hết, chà đạp lên nhân phẩm và đạo đức xã hội. Hiện nay, vấn
đề đạo đức xuống cấp, xa rời những tiêu chuẩn truyền thống, những chuẩn
mực giá trị văn hoá xã hội chủ nghĩa đang là vấn đề nổi cộm. Giá trị văn hoá
đạo đức xã hội chủ nghĩa Việt Nam hướng con người tới một lối sống giàu
lòng nhân ái, biết hướng tới cái thiện, căm ghét cái ác. Bằng sự định hướng
phổ biến các phạm trù lương tâm, trách nhiệm, quan niệm đúng đắn về hạnh
phúc về lòng tự trọng…văn hoá đạo đức của chủ nghĩa xã hội phải trang bị
cho con người ngay từ trong gia đình, nhà trường những chuẩn mực giá trị cơ
bản về đạo đức để khi gia nhập vào xã hội, con người nhanh chóng thích ứng,
trở thành cơng dân tốt, biết giải quyết hài hoà các mối quan hệ giữa cống hiến

và hưởng thụ, giữa cá nhân và xã hội.

14


Tiểu luận triêt học

Những phân tích trên đây cho thấy, kinh tế thị trường và mục tiêu xây
dựng con người xã hội là hai mặt đối lập, vừa có sự thống nhất vừa có sự đấu
tranh. Kinh tế thị trường vừa tạo ra các điều kiện để xây dựng và phát huy
những tiềm năng của con người nhưng cũng tạo ra những liều độc tố để huỷ
hoại con người.

• Hai là, mâu thuẫn giữa động lực phát triển xã hội và nhu cầu cấp
bách của xã hội.
Việc xác định các nhu cầu và đặc biệt là việc giải quyết các nhu cầu
cấp bách là việc làm rất cần thiết nhằm tạo ra động lực trong sự phát triển xã
hội. Các nhu cầu cấp bách đó như sau: nhu cầu về việc làm, nhu cầu nâng cao
trình độ dân trí, tạo nguồn lực có chất lượng đáp ứng yêu cầu phát triển kinh
tế, nhu cầu được chăm sóc sức khoẻ, được sống trong môi trường trong lành,
nhu cầu được đối xử công bằng và dân chủ. Cuộc sống của con người trong
thời bình ln ln đặt ra những nhu cầu cấp bách đó, đồng thời nền kinh tế
thị trường cũng làm xuất hiện các mặt trái tiêu cực trong đời sống xã hội, đặc
biệt trên phương diện tư tưởng, đạo đức, lối sống, với những cung cách làm
ăn thuần tuý chạy theo lợi nhuận.
Các như cầu trên cần được đáp ứng một cách cấp bách, các tác động
tiêu cực trên cần được hạn chế tạo động lực cho sự phát triển xã hội. Nhưng
quá trình này lại phụ thuộc rất nhiều vào khả năng, điều kiện hiện có, nguồn
tài nguyên hạn hẹp của xã hội. Do vậy, ở đây đòi hỏi sự nỗ lực chủ quan, tính
năng động của chủ thể phải là rất cao, theo phương châm mà Đảng cộng sản

Việt Nam đã chỉ ra: “ Vận dụng các hình thức và phương pháp quản lý nền
kinh tế thị trường để sử dụng mặt tích cực của nó phục vụ mục đích xây dựng
chủ nghĩa xã hội chứ khơng đi theo con đường tư bản chủ nghĩa. Kinh tế thị
trường có những mặt tiêu cực mâu thuẫn với bản chât của chủ nghĩa xã hội.
Đó là xu thế phân hố giàu nghèo quá mức, là tâm lý sùng bái đồng tiền vì
đồng tiền mà chà đạp lên đạo đức nhân phẩm…Đi vào kinh tế thị trường phải
kiên quyết đấu tranh khắc phục, hạn chế tối đa những khuynh hướng tiêu cực
đó” Quan điểm đó của Đảng, thể hiện cụ thể qua các giải pháp sau:

- Giải quyết đồng thời vấn đề phát triển kinh tế đi đôi với phát triển xã
hội.

- Lựa chọn chiến lược xây dựng kế hoạch phát triển kinh tế xã hội và
nguồn lực đúng đắn có trọng điểm.

15


Tiểu luận triêt học

- Phát huy sức mạnh dân tộc (về tài nguyên, đất đai, nguồn nhân lực…)
kết hợp với sức mạnh thời đại (cách mạng khoa học kỹ thuật, …)
Trên đây, chúng ta đã đi vào phân tích một số mâu thuẫn cơ bản,
không thể không tồn tại trong nền kinh tế thị trường khi nước ta đang ở trong
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Những mâu thuẫn đó ln chứa đựng cả
hai mặt đấu tranh và thống nhất. Vấn đề đặt ra là Đảng và Nhà nước ta đã kết
hợp kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa như thế nào, tức là đã
thống nhất chúng như thế nào trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Từ Đại hội Đảng cộng sản lần thứ VII, Đảng và Nhà nước ta đã chọn
cong đường kết hợp giữa cái chung kinh tế thị trường với đặc thù định hướng

xã hội chủ nghĩa. Đã có ý kiến cho rằng, kinh tế thị trường với định hướng xã
hội chủ nghĩa như “nước với lửa” làm sao có thể kết hợp được với nhau?
Nhưng kinh tế thị trường khơng phải là sản phẩm riêng có của chủ nghĩa tư
bản mà là thành quả chung của văn minh nhân loại tồn tại qua nhiều phương
thức sản xuất xã hội khác nhau. Bên cạnh những phạm trù kinh tế, quy luật
kinh tế khách quan, kinh tế thị trường cịn có những đặc điểm riêng gắn liền
với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất, với bản chất của chế độ xã
hội mà nó tồn tại qua mỗi giai đoạn lịch sử. Kinh tế thị trường đã đạt tới đỉnh
cao dưới chủ nghĩa tư bản nhưng không vì thế mà đồng nhất kinh tế thị
trường với kinh tế tư bản chủ nghĩa hay kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa.
Đảng và Nhà nước ta đã biết sử dụng lý thuyết “bàn tay vơ hình” của cơ chế
thị trường kết hợp với lý thuyết “bàn tay hữu hình” – các chính sách, cơ chế
kế hoạch, luật pháp để điều tiết kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa. Chúng ta đã chỉ rõ rằng bản chất của kinh tế thị trường khơng phải
hồn tồn tiêu cực, xấu xa như người ta lầm tưởng trước đây, mà nó có những
yếu tố tích cực, tiến bộ khơng thể phủ nhận được: kinh tế thị trường tạo động
lực thúc đẩy sản xuất xã hội phát triển, đẩy nhanh quá trình xã hội hố sản
xuất làm thay đổi cung cầu theo hướng có lợi cho sản xuất và cải thiện đời
sống. Điều quan trọng là chúng ta cần đảm bảo đúng “ định hướng xã hội chủ
nghĩa” trong từng bước phát triển của nền kinh tế thị trường.
Nói “ định hướng xã hội chủ nghĩa” là nhấn mạnh tính chủ động của
Đảng trong quá trình thực hiện kinh tế thị trường. Đảng định hướn kinh tế thị
trường theo chủ nghĩa xã hội thể hiện ở các lĩnh vực lãnh đạo, hướng dẫn, chỉ
đạo, kiểm tra, đôn đốc việc thực hiện đường lối chính sách kinh tế thị trường

16


Tiểu luận triêt học


với mục tiêu vì lợi ích kinh tế thị trường của nhân dân vì một xã hội cơng
bằng dân chủ, văn minh. Bên cạnh đó, Đảng uốn nắn những lệch lạc, bổ sung
và hoàn thiện cơ chế chính sách, đảm bảo tính chính trị trong sự phát triển của
kinh tế, làm cho nền kinh tế vừa có tốc độ tăng trưởng nhanh và năng suất lao
động cao, có lực lượng sản xuất khơng ngừng lớn mạnh, vừa đúng định
hướng xã hội chủ nghĩa, hạn chế bất công và bóc lột, chăm lo và bảo vệ lợi
ích của đại đa số nhân dân lao động. Đảng ta là nhân tố quyết định đảm bảo
định hướng xã hội chủ nghĩa, song Đảng không trực tiếp can thiệp vào nền
kinh tế thị trường mà Đảng lãnh đạo Nhà nước thực hiện chức năng quản lý vĩ
mô đối với nền kinh tế.
Phương hướng giải quyết các mâu thuẫn biện chứng trong quá trình xây
dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
hiện nay.
Tạo lập, duy trì và phát triển “tự do hố kinh tế”
Đây là một điều kiện có tầm quan trọng đến sự hình thành, tồn tại và
phát triển kinh tế thị trường ở nước ta, là điều kiện tất yếu để sản sinh và nuôi
dưỡng tự do cạnh tranh, tự do kinh doanh và tự chủ. Cho nên, cần đưa ra các
giải pháp:

- Tiếp tục thực hiện nhất quán và lâu dài chính sách nền kinh tế với
nhiều thành phần kinh tế, xoá bỏ nhanh chóng sự kỳ thị và phân biệt đối xử
giữa thành phần kinh tế quốc doanh và ngoài quốc doanh, tạo điều kiện
khuyến khích mọi thành phần kinh tế cùng phát triển.

- Đẩy mạnh phân công lao động xã hội trong nước và quốc tế.
- Phát triển đồng bộ thị trường trong và ngoài nước. Chú trọng sự đồng
bộ vế số lượng, đặc biệt về chất lượng, lấy thị trường trong nước làm nền
tảng.

- Tạo mơi trường chính trị, kinh tế, xã hội ổn định và thơng thống cho

mọi thành phần kinh tế hoạt động, tận dụng được sự đầu tư của các nguồn lực
nước ngồi.
Đẩy mạnh cơng nghiệp hố- hiện đại hố.
Đây là một điều kiện khơng thể thiếu, đã được Đảng và Nhà nước quan
tâm thực hiện. Đẩy mạnh cơng nghiệp hố - hiện đại hố đất nước nhằm mục
tiêu xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội dựa trên một nền

17


Tiểu luận triêt học

khoa học và công nghệ tiên tiến, tạo ra lực lượng sản xuất mới với quan hệ
sản xuất ngày càng tiến bộ, phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản
xuất, cải thiện đời sống vật chất, thực hiện dân giàu, nước mạnh, xã hội công
bằng, dân chủ văn minh.
Theo tinh thần của Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X Đảng Cộng sản
Việt Nam, chúng ta phải ra sức phấn đấu để đến năm 2020, về cơ bản, nước ta
trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Để thực hiện mục tiêu tổng
quát trên, trong mỗi giai đoạn phát triển của nền kinh tế, cơng nghiệp hóa cần
phải thực hiện được những mục tiêu cụ thẻ nhất định. Trong những năm trước
mắt, trong điều kiện khả năng về vốn vẫn hạn hẹp, nhu cầu về công ăn việc
làm rất bức bách, đời sống nhân dân cịn nhiều khó khăn, tình hình kinh tế xá
hội phát triển, tăng trưởng chưa thật ổn định, chúng ta cần tập trung nỗ lực
đẩy mạnh công nghiệp hóa nơng nghiệp, nơng thơn, phát triển nhanh các
ngành cơng nghiệp, xây dựng và dịch vụ, phát triển kinh tế vùng, miền.
Tạo hành lang và cơ chế đảm bảo giữ vững định hướng xã hội chủ
nghĩa đối với nền kinh tế thị trường.
Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng một cách trực tiếp và gián tiếp trong
mọi ngành, mọi lĩnh vực. Xây dựng bộ máy Nhà nước trong sạch và vững

mạnh.
Củng cố, tăng cường năng lực và hiệu quả của Quốc hội. Đổi mới và
hoàn thiện khung pháp lý, tháo gỡ mọi trở ngại về cơ chế, chính sách và thủ
tục hành chính để huy động mọi nguồn lực, tạo sức bật mới cho phát triển
kinh doanh. Tạo ra một hành lang pháp lý trong sạch công bằng và ổn định
cho mọi thành phần kinh tế cạnh tranh bình đẳng và phát triển.
Tiếp tục đổi mới và phát triển thành phần kinh tế Nhà nước để thực
hiện tốt vai trò chủ đạo trong nền kinh tế. Phát triển doanh nghiệp Nhà nước
trong những ngành sản xuất và dịch vụ quan trọng, những lĩnh vực then chốt
của nền kinh tế quốc dân. Xây dựng các tổng công ty Nhà nước, các tập đoàn
kinh tế vững mạnh, đổi mới cơ chế quản lý, phân biệt quyền sở hữu và quyền
kinh doanh.

18


Tiểu luận triêt học

B. KẾT THÚC VẤN ĐỀ
Kinh tế thị trường đã ra đời và phát triển qua nhiều giai đoạn và cho
đến nay nó vẫn là cơ chế kinh tế tiến bộ nhất. Trải qua các giai đoạn, kinh tế
thị trường ngày càng được hoàn thiện và được áp dụng trên nhiều quốc gia.
Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam mặc dù mới ra
đời hơn hai thập kỷ nhưng cũng đã trải qua nhiều giai đoạn thăng trầm, không
ngừng vận động và luôn biến đổi dưới sự tác động của nhiều yếu tố, nhiều
mâu thuẫn cả bên ngoài lẫn bên trong nền kinh tế thị trường. Trong thời kỳ
quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội, để phát triển nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam phải đối mặt với những yếu tố mới địi hỏi
phải có sự phân tích và giải quyết kỹ lưỡng, kịp thời từng yếu tố và từng mâu
thuẫn.

Chính vì vậy, quan điểm lịch sử cụ thể luôn là quan điểm gắn liền với
quá trình xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt
nam.
Trong quá trình hình thành và xây dựng nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa, tất yếu có sự nảy sinh các mâu thuẫn. Một số mâu
thuẫn và vấn đề có tính mâu thuẫn trên đây không phải là tất cả những mâu
thuẫn đang có trong q trình xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa ở nước ta nay. Song việc, nhận biết và tìm ra cách giải quyết
các mâu thuẫn là điều kiện căn bản để nâng cao năng lực lãnh đạo và sức
chiến đấu của Đảng, phát huy sức mạnh toàn dân tộc, đẩy mạnh tồn diện
cơng cuộc đổi mới, sớm đưa nước ta thốt khỏi tình trạng kém phát triển. Chủ
trương lãnh đạo của Đảng là rất đúng đắn nhưng trong quá trình thực hiện
cũng khơng thể tránh khỏi những sai lầm, thiếu sót. Những mâu thuẫn đó địi
hỏi chúng ta giải quyết, có giải quyết được những mâu thuẫn này nền kinh tế
mới có thể phát triển theo đúng nghĩa của nó.

19


Tiểu luận triêt học

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đảng cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
VI, Nhà xuất bản Sự thật, 1986

2. Đảng cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
VII, Nhà xuất bản Sự thật, 1991

3. Đảng cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
IX, Nhà xuất bản Sự thật, 2001


4. Đảng cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
X, Nhà xuất bản Sự thật, 2006

5. Giáo trình Triết học Mác- Lênin, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia,
2004

6. Giáo trình Triết học, Nhà xuất bản Lý luận chính trị, 2007
7. Giáo trình Kinh tế chính trị Mác-Lenin, Nhà xuất bản Chính trị Quốc
gia, 2006

8. Nguyễn Sinh Cúc, Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, Nhà
xuất bản Chính trị Quốc gia, 2001

20



×