Tải bản đầy đủ (.doc) (33 trang)

Những vấn đề về định hướng chuyển dịch cơ cấu cây trồng theo hướng sản xuất hàng hoá của tỉnh Lào Cai trong một số năm tới

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (216.99 KB, 33 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
---Xây dựng đất nước có nền kinh tế phát triển, nhân dân có cuộc
sống ấm no hạnh phúc là mục tiêu lý tưởng nủa Đảng và Nhà nước ta. Từ
mục tiêu lý tưởng ấy, Đảng và Nhà nước có nhiểu chủ trương, chính sách
để xây dựng nền kinh tế đất nước nhằm đưa đất nước thoát khỏi nghèo
nàn lạc hậu, thực hiện mong muốn của Bác Hồ “Ai cũng có cơm ăn áo
mặc, ai cũng được học hành”. Từng bước sánh vai với các nước trên thế
giới.
Nhìn lại trặng đường đã qua hơn mười năm đổi mới, đất nước ta đã
thu được nhiều thành tựu đáng kể, đời sống mọi mặt của nhân dân từng
bước được nâng lên. song bên cạnh đó cũng bộc lộ nhiều hạn chế, khuyết
nhược điểm cần giải quyết. Đặc biệt là sự trênh lệch về mức sống có su
hướng ngày càng lớn giữa miền xuôi và miền núi. Đời sống đồng bào
miền núi nói chung rất khó khăn, nghèo nàn và lạc hậu, thu nhập bình
quân đầu người quá thấp. Những năm gần đây Đảng và Nhà nước đã có
chính sách để phát triển kinh tế miền núi, vùng sâu vùng xa và hải đảo.
Tuy nhiên vùng núi vẫn là vùng nghèo đói của đất nước. Tỉnh Lào Cai là
một trong sáu tỉnh rất khó khăn thuộc khu vực miền núi phía Bắc đang
nằm trong tình trạng ấy.
Vấn đề đặt ra với một tỉnh miền núi có nhiều thế mạnh về đất đai,
về rừng, về tài nguyên khoáng sản, nhân dân cần cù lao động nhưng vẫn
là tỉnh đói nghèo và lạc hậu là phải làm gì để phá vỡ tỉnh trạng đó.
Những năm vừa qua, thực hiện chủ trương của Đảng về từng bước
đưa tỉnh Lào Cai thoát khỏi nghèo, lạc hậu Tỉnh đã đưa ra mục tiêu tổng
quát là “khai thác mọi tiềm năng, nguồn lực địa phương, phát triển kinh
tế xã hội, giữ vững ổn định chính trị để phát triển kinh tế hàng hố”. Mục
tiêu trên chính là nguyện vọng của tỉnh và nhân dân các dân tộc trong
tỉnh.
Để đạt được mục tiêu trên, cần xác định một cơ cấu cây trồng hợp
lý, nó phải phù hợp với thực tế khách quan của tỉnh. Có xác định được
một cơ cấu cây trồng hợp lý mới nhằm khuyến khích các ngành kinh tế,


các thành phần kinh tế, các vùng kinh tế phát triển theo hướng cơng
nghiệp hố, hiên đại hố thì mới thúc đẩy phát triển kinh tế, ổn định xã
hội, nâng cao đời sống nhân dân.
Với điều kiện là một tỉnh miền núi, sản xuất hàng hoá chưa phát
triển, vấn đề chuyển dịch cơ cấu cây trồng là một nội dung cần được
1


quan tâm và triển khai tích cực. Hiện nay sản xuất nông nghiệp mới chỉ
tập chung chủ yếu ở cây lương thực. Lương thực vẫn chiếm tỉ trọng cao
trong tổng thu nhập của người nông dân. Như vậy sản xuất nông lâm
nghiệp của tỉnh phải chuyển dịch theo hướng cộng nghiệp hố, hiên đại
hố, góp phân xố đói giảm nghèo. Tuy nhiên không thể coi nhẹ sản xuất
lương thực mà vẩn phải đảm bảo an toàn lương thực tại địa phương.
Là một sinh viên đang học tại khoa KTNN & PTNT trường
ĐHKTQD – HN, tôi suy nghĩ rằng để phát triển kinh tế góp phần xố đói
giảm nghèo, sản xuất nông – lâm nghiệp của tỉnh phải chuyển dịch theo
hướng sản xuất hàng hố. Trong đề án mơn học này em mạnh dạn trình
bày bài viết “ Những vấn đề về định hướng chuyển dịch cơ cấu cây
trồng theo hướng sản xuất hàng hoá của tỉnh Lào Cai trong một số
năm tới”.
Sau đây là nội dung đề án:

2


PHẦN THỨ NHẤT

NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG
------------------I. Khái niệm về chuyển dịch cơ cấu cây trồng.

Cơ cấu hay “kết cấu” là pham trù phản ánh cấu trúc bên trong của
môt đối tượng là tập hợp những mối liên hệ cơ bản, tương đối ổn định
giữa các bộ phân cấu thành nên đối tượng đó, trong một thời gian nhất
định.
Ngành trông trọt bao gồm các tiểu ngành sản xuất, các bộ phân sản
xuất như: sản xuất lương thực, sản xuất cây công nghiệp, sản xuất cây ăn
quả, sản xuất rau… Được hình thành trên cơ sở phân cơng lao động trong
quá trình sản xuất và các tiểu ngành, các bộ phận sản xuất trong ngành
trồng trọt, chúng phát triển và kết hợp với nhau theo một tỉ lệ nhất định
tao thành cơ cấu ngành trông trọt.
Cơ câu ngành trồng trọt phản ánh trình độ phát triển khác nhau của
phân cơng lao động, tiến bộ khoa học - công nghệ và trình độ năng suất
lao động…
Cơ cấu ngành trồng trọt là nội dung chủ yếu trong chiến lược phát
triển nông nghiệp của mỗi nước. Tuỳ thuộc vào giai đoạn phát triển nhất
định của nền kinh tế với điểu kịên kỹ thuật, kinh tế, xã hội và tự nhiên
của mỗi nước mà xây dựng cơ cấu sản xuất ngành trồng trọt cho phù hợp
và hiệu quả.

Ở các nước phát triển, trình độ phát triển kinh tế cao, cơ sở vật
chất kỹ thuật trong nông nghiệp to lớn và hiện đại, nhu cầu thị trường địi
hỏi nhiều loại nơng sản đa dạng với chất lượng cao. Vì vậy, ngành trồng
trọt ở các nước này đã phát triển mạnh mẽ và đạt trình độ phát triển cao
với cơ cấu sản xuất phong phú gồm nhiều loại sản phẩm nhằm đáp ứng
nhu cầu thị trường và phù hợp với tiềm năng của mỗi nước. Những sản
phẩn trồng trọt ở đây bao gồm: cây lương thực, cây công nghiệp cây
dược liệu, cây ăn quả, rau đậu, cây thức ăn gia súc, cây hoa… ở các nước
đang phát triển, cơ cấu sản xuất ngành trồng trọt còn đơn giản. Trước
đây, một số nước độc canh sản xuất lương thực để tiêu dùng trong nước
và xuất khẩu hoặc một số nước độc canh cây công nghiệp, cây ăn quả…

theo yêu cầu cung cấp nguyên liệu cho các nước khác. Hiện nay ngành
3


trồng trọt ở các nước đang phát triển đang có xu hướng phá dần thế độc
canh, chuyển sang phát triển ngành trồng trọt đa canh, có nhiều sản phẩm
hàng hóa đáp ứng thị trường và khai thác hớp lý lợi thế của cả nước.
Ở nước ta, ngành trồng trọt đang có sự chuyển hướng mạnh mẽ
phá thế độc canh sảm xuất lương thực, trong đó chủ yếu là lúa nước sang
phát triển ngành trồng trọt đa canh với nhiều nông sản hàng hố.
Ngồi sản xuất cây lương thực, đang mở dần việc sản xuất rau đậu,
cây công nghiệp và cây ăn quả… giá trị sản xuất cây lương thực giảm từ
66,63% năm 1990 xuống còn 63,80% năm 1999; tỉ trọng giá trị rau đậu
và cây công nghiệp tăng, nhất là cây công nghiệp từ 14,52% năm 1990
tăng lên 19,45% năm 1998 và 20,66% năm 1999.
Sự chuyển dịch cơ cấu trồng trọt như trên cho phép khai thác tốt
tiềm năng thế mạnh của từng vùng và cả nước, đáp ứng nhu cầu thị
trường trong nước và xuất khẩu đồng thời tạo cơ sở đảm bảo an ninh
lương thực cho đất nước.
Tuy nhiên, việc chuyển dịch cơ câu ngành trông trọt ở nước ta vẫn
còn chậm; tỉ trọng sản xuất lương thực cịn q lớn trong khí đó tỉ trọng
cây rau đậu, cây cơng nghiệp, cây ăn quả… cịn thấp. Để xây dựng cơ
cấu ngành trồng trọt hợp lý cần dựa trên căn cứ sau:
Trước hết là phải dựa vào mục tiêu chiến lược phát triển kinh tế xã hội của đất nước và chiến lược phát triển nông nghiệp để xây dựng cơ
cấu ngành trồng trọt. Cơ câu sản xuất ngành trồng trọt phải hướng vào
phát triển mạnh sản xuất hàng hoá để đáp ứng nhu câu thị trường và đặc
biệt hướng mạnh vào xuất khẩu.
Tiến hành phân tích sự tác động tổng hợp của các nhân tố ảnh
hưởng đến xu thế chuyển dịch ngành trồng trọt như:
Nhu cầu thị trường về các loại sản phẩm của ngành trồng trọt. Nhu

cầu thị trường vừa là mục tiêu, vừa là động lực để phát triển sản xuất và
chuyển dịch cơ cấu sản xuất ngành trơng trọt. Phải tính tốn và đánh giá
đầy đủ cả về nhu cầu thị trường lao động, vốn, cơ sở vật chất, kỹ thuật để
lựa chọn những cây trồng và cơ cấu cây trồng có hiệu quả.
Nhân tố điều kiện tự nhiên như đất đai, vị trí địa lý, khí hậu, nguồn
nước, tiềm năng sinh vật… cần phải được xem xét đánh giá đúng để làm
cơ sở cho việc xây dựng cơ sở và bố trí cây trồng phù hợp trên mỗi vùng
và cả nước.

4


Tiến bộ khoa học, công nghệ và khả năng ứng dụng nó vào sản
xuất của mỗi nước có ảnh hưởng rất lớn đến việc xây dựng cơ cấu ngành
trồng trọt hợp lý.
Cơ chế chính sách của Nhà nước có tác động lớn và trực tiếp ảnh
hưởng đến việc xây dựng và chuyển dịch cơ cấu sản xuất ngành trồng
trọt.
Ngoài những căn cứ trên, việc lựa chọn, xác định cơ cấu ngành
trồng trọt cần phải xem xét và giải quyết tốt các mối quan hệ giữa sản
xuất lương thực và thực phẩm đáp ứng nhu cầu trong nước và xuất khẩu;
mối quan hệ giữa cây công nghiệp dài ngày và ngắn ngày đáp ứng nhu
cầu nguyên liệu và xuất khẩu. Trong sản xuất lương thực cẩn giải quyết
mối quan hệ giữa lúa và mầu, nhất là những cây có hàm lượng dinh
dưỡng cao để làm thức ăn cho chăn nuôi và chế biến thực phẩn như ngơ,
đậu tương…
II. Vai trị của chuyển dịch cơ cấu cây trồng theo hướng sản
xuất hàng hoá.
Trong giai đoạn hiện nay, vấn đề chuyển dịch cơ cấu cây trồng
theo hướng sản xuất hàng hoá ở tỉnh miền núi là tất yếu khách quan,

không những do nhu cầu phát triển của đồng bào dân tộc mà còn do nhu
cầu đòi hỏi phát triển chung của tỉnh cũng như của cả nước. Vì thế nó có
vai trị hết sức quan trọng:
Một là, chuyển dịch cơ cấu cây trồng theo hướng sản xuất hàng
hoá mới cho phép khai thác và sử dụng một cách có hiệu quả mọi tài
nguyên thiên nhiên đa dạng, phọng phú của tỉnh. Trong nền kinh tế tự
cấp, tự túc và nền kinh tế chỉ huy, với một cơ chế tập trung, quan liêu bao
cấp trước đây, các tiềm năng thế mạnh về đất đai, rừng, khí hậu, thời
tiết…đều bị “lãng quên”. Việc khai thác và sử dụng các nguồn tài nguyên
hết sức bừa bãi, “vắt kiệt” tài ngun thiên nhiên, khơng có sự bồi bổ, tái
tạo, làm nguồn tài nguyên bị cạn kiệt… các tài nguyên này trước đây
được coi là sở hữu toàn dân - kiểu sở hữu chung chung, vơ hình, trừu
tượng. Thực chất kiểu sở hữu đó đã làm cho tài ngun khơng có người
chủ đích thực của nó (vơ chủ), dẫn đến tình trạng “cha chung khơng ai
khóc”. Đó là nguyên nhân của hiện tượng tài nguyên bị khai thác bừa bãi,
bị huỷ hoại nghiêm trọng.
Để từng bước chuyển dịch cơ cấu cây trồng của tỉnh theo hướng
sản xuất hàng hố, thì các tài ngun thiên nhiên phải có người chủ thực
sự, họ phải ln tính tốn, phải có kế hoạch khai thác, sử dụng nó một
cách có lợi nhất, với chi phí thấp nhất nhằm đạt hiệu quả kinh tế cao nhất.
5


Đi đôi với việc tái tạo, bù đắp để tái sản xuất mở rộng tài nguyên thiên
nhiên.
Hai là, chuyển dịch cơ cấu cây trồng theo hướng sản xuất hàng hoá
sẽ từng bước xây dựng được một cơ cấu kinh tế tiến bộ ở tỉnh góp phần
vào viêc xây dựng một cơ cấu hợp lý của cả nước.
Muôn xây dựng một cơ cấu kinh tế phù hợp với khả năng, thế
mạnh của tỉnh, thì việc chuyển dịch cơ cấu cây trồng theo hướng sản xuất

hàng hoá là con đường chắc chắn sẽ phải trải qua. Cụ thể là, hạn chế diện
tích trồng cây lương thực, phát triển mạnh, đa dạng hoá cây công nghiệp,
cây ăn quả, cây đặc sản, cây dược liệu quý hiếm. Đồng thời cũng phải
phát triển mạnh ngành công nghiệp chế biến, các ngành nghề, dịch vụ,
từng bước biến đổi bộ mặt kinh tế xã hội.
Ba là, chuyển dịch cơ cấu cây trồng theo hướng sản xuất hàng hoá
mới giải quyết tốt việc làm và thực hiên sự phân công lại lao động vận
động theo đúng quy luật của nó, khơng những ở trong địa bàn các huyện
mà nó cịn góp phần vào việc thực hiện phân cơng lại lao động xã hội
trong toàn tỉnh, vừa là vấn đề kinh tế vừa là vấn đề xã hội. Khi đã
chuyển dịch được một cơ cấu cây trồng theo hướng sản xuất hàng hoá sẽ
làm cho lực lượng lao động trí tuệ ngày càng tăng lên, vì phải áp dụng
nhiều khoa học kỹ thuật công nghệ mới vào sản xuất. Lực lượng lao động
trọng lĩnh vực nông nghiệp thuần túy hiện nay sẽ dần dần sang lĩnh vực
lâm nghiệp, công nghiệp và dịch vụ. Trong nông nghiệp, lao động trông
trọt độc canh cây lương thực sẽ giảm xuống, chuyển dần sang lĩnhvực
sản xuất cây công nghiệp, cây ăn quả, cây dược liệu… Đó chính là những
lĩnh vực tiềm năng, thế mạnh của tỉnh. Đồng thời chuyển dịch cơ cấu cây
trồng theo hướng sản xuất hàng hố có thể thu hút khối lượng lớn lực
lượng lao động có kỹ thuật ở nơi khác đến.
Bốn là, chuyển dich cơ cấu cây trồng theo hướng sản xuất hàng
hố sẽ góp phần to lớn trong việc giữ gìn, bảo vệ mơi trường sinh thái
của tỉnh và các vùng lân cận, bảo vệ tài nguyên rừng không bị tàn phá,
đất sẽ không bị rửa trôi, môi trường sinh thái sẽ không ngừng được bồi
bổ và phát triển… Đây là điều kiện cơ bản để giữ gìn mơi trường sinh
thái bền vững của tỉnh, là vấn đề rất đáng lo ngại hiện nay không những ở
trong tỉnh mà còn là vấn đề đáng lo ngại trong cả nước.
Năm là, chuyển dịch cơ cấu cây trồng theo hướng sản xuất hang
hố thì đời sống vật chất và tinh thần của đồng bào các dân tộc trong tỉnh
mới được cải thiện, an ninh quốc phòng mới được giữ vững, chĩnh sách

dân tộc của Đảng và Nhà nước ta mới được thực hiên tốt, khoảng cách
6


chênh lệch về sự phát triển giữa đồng bào các dân tộc trong tỉnh và vùng
khác trong cả nước sẽ ngày càng rút ngắn, bản sắc văn hoá các dân tộc
trong tỉnh sẽ được tôn trọng và phát triển, kết hợp được bản sắc văn hoá
từng dân tộc với nền văn hoá của cả dân tộc Vịêt Nam và tinh hoa của
nhân loài.
Sáu là, chuyển dịch cơ cấu cây trồng theo hướng sản xuất hàng hoá
là phù hợp với quy luật phát triển kinh tế xã hội và phù hợp với xu thế
của thời đại ngày nay. Việc chuyển dich cơ cấu cây trồng theo hướng sản
xuất hàng hoá là tất yếu khách quan đối với tỉnh Lào Cai đặc biết lại là
một tỉnh vùng núi. Điều đó khơng những là do nhu cầu đòi hỏi và khả
năng thực hiện của đơng bào dân tộc trong tỉnh mà cịn là nhu cầu đòi hỏi
cấp bách của sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội nước ta trong giai đoạn
hiện nay.

7


PHẦN THỨ HAI
---THỰC TRẠNG CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU VÀ NHỮNG
ĐỊNH
HƯỚNGVỀ CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU CÂYTRỒNG
THEO HƯỚNG SẢN XUẤT HÀNG HOÁ
------------

A


. THỰC TRẠNG CHUYỂN CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU CÂY TRỒNG VÀ NHỮNG
NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN QUÁ TRÌNH CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU CÂY TRỒNG CỦA TỈNH
LÀO CAI.

I. Thực trạng chuyển dịch cơ câu cây trồng của tỉnh.
Trong một số năm vừa qua tỉnh đã đạt được một số thành tựu đáng
về chuyển dịch cơ cấu cây trồng, sản xuất hàng hoá đã từng bước được cải
thiên và phát triển. Đời sống của nhân dân được nâng lên rõ rệt cả về vật
chất lẫn tinh thần, nhiều điển hình nhân tố mới xuất hiện, làm ăn có hiệu
quả băng mơ hình sản xuất VACR và một số ngành nghề truyền thống của
dân tộc. Đồng bào ở nhiều vùng đã khai thác tiềm năng thế mạnh của
mình, tranh thủ đầu tư, giúp đỡ của Nhà nước về vốn, giống kỹ thuật… để
phát triển kinh tế. Việc thực hiện các dự án và trương trình phát triển kinh
tế xã hội đã giúp đồng bào dân tộc nhiềi nơi phát triển nghề rừng gắn với
phủ xanh đất trông đồi nủi trọc, bảo vệ môi trường.
Số hộ nghèo và đói của tỉnh giảm từ 33% năm 1995 suống cịn
10% cuối năm 2001.
Song nhìn chung miền núi vẫn là khu vực chậm phát triển. Nền
kinh tế về cơ bản vẫn đang trong tình trạng sản xuất nhỏ. Cơ cấu sản xuất
và cơ cấu kinh tế còn đơn điệu, năng suất lao động thấp. Những nơi vung
sâu, vung xa kinh tế cịn ở mức trì trệ kém hơn, mang tính tự nhiên, tự
cung tự cấp. Nhiều nơi cịn rất nghèo nàn lạc hậu. Đời sống nhân dân cịn
khó khăn, có nơi tỉ lệ đói nghèo trên 40%, tình trạng thiếu nước sinh hoạt,
nước sản xuất diễn ra ở khá nhiều nơi. Khoảng cách về mức sống, trình độ
dân trí, trình độ văn hố giữa vung thấp, vùng đơ thị, gần trục lộ giao
thông so với vùng cao, vùng sâu, vùng xa không những không được thu
hẹp lại mà ngày càng tăng lên.
8



Vài năm gần đây, khi nhà nước có trương trình 135 đầu tư cho
các xã đặc biệt khó khăn thì kết cấu hạ tầng kinh tế và cơ sở hạ tầng xã hội
được nâng lên một bước, nhưng nhìn chung những vùng này vẫn cịn tình
trạng thấp kém, lạc hậu. Nhiều vùng từ lâu khơng có đường ơ tơ hoặc
khơng được mở mang đường xá nên gây ảnh hưởng rất lớn đến sản xuất
hàng hoá và các tiến bộ xã hội.
Để khắc phục tình trạng khó khăn trên, tạo bước chuyển biến mới
về kinh tế xã hội ở tỉnh Lào Cai chúng ta cần thực hiện chuyển đổi cơ cấu
cây trồng theo hướng sản xuất hàng hoá.
II. Những nhân tố ảnh hưởng đến quá trình chuyển dịch cơ
cấu cây trồng của tỉnh Lào Cai.
1. Những nhân tố tích cực.
 Tài nguyên đất đai rất phong phú, đặc biệt là rừng và đất rừng,
cùng với diên tích đồng cỏ…có thể tạo điều kiên đạ dạng các loại cây
trồng, phát triển nhanh nông, lâm nghiệp và công nghiệp chê biến.
 Với vị trí địa lý của mình, tỉnh có khả năng phát triển kinh tế
hàng hố, có thể mở rộng lưu thơng hàng hố ở cả trong vùng và ngồi
vùng.
 Là tỉnh giàu tài nguyên khoáng sản, trữ lượng và số lượng
khoáng sản lớn, có điều kiện phát triển mạnh cơng nghiệp khai thác và vật
liệu xây dựng.
 Người dân có tinh thân đồn kết thống nhất gắn bó, giúp đỡ lẫn
nhau trong sản xuất và đời sống. Đây là truyền thống đã có từ lâu đời của
đồng bào các dân tộc. Họ thường xuyên giúp đỡ trong thời điển bân rộn
của mùa vụ thông qua đổi công lao động cho nhau; giúp đỡ nhau trong lúc
khó khăn, hoan nạn; trong việc dựng vợ, gả chồng; trong việc xây dựng,
cất nhà.
 Các dân tộc sống ở các địa hình, các tiểu vùng có thể khác nhau
nhưng khơng độc lập, riêng rẽ, do vậy, tinh thần đoàn kết, quan hệ xã hội
được mở rộng khơng những chỉ trong từng dân tộc mà cịn có sự đồn kết

giúp đỡ giữa các dân tộc với nhau.
 Khí hậu, địa hình phức tạp hình thành nên nhiều vùng và tiểu
vùng, tạo điều kiện cho việc nuôi, trồng những cây, con đặc sản quý hiếm
có giá trị kinh tế cao. Ngồi ra, tỉnh cịn có nhiều danh lam thắng cảnh tự
nhiên tuyệt vời, tạo khả năng tiềm tàng cho sự phát triển ngành du lịch
sinh thái, kết hợp với du lịch văn hoá của 27 dân tộc trong tỉnh hết sức
9


sinh động và phong phú, tương lai sẽ là ngành phát triển mạnh và đóng
góp tỉ trọng lớn trong giá trị sản phẩm. Điêu kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội
có thể xây dựng một cơ cấu cầy trồng theo hướng sản xuất hàng hóa đa
dạng và phong phú.
1.Những nhân tố tiêu cực.
 Do đặc điểm địa hình phức tạp, núi cao, đồi dốc, khí hậu, thời
tiết khơng thn hồ gây kho khăn trong xây dựng cơ sở hạ tầng cho sản
xuất quy mô lớn và trong lưu thông tiêu thu hàng hoá.
 Dân số thưa thớt, đời sống kinh tế thu nhập quá thấp, dân trí
thấp, tỉ lệ mù chữ cao, đời sống văn hoá thiếu thốn…; đầu tư, tích luỹ để
tái sản xuất mở rộng thấp vì vậy khó khăn trong việc áp dụng khoa học,
cơng nghệ, đầu tư chiều sâu và cho thị trường tiêu thụ hàng hố tại chỗ…;
hơn thế nữa đồng bào dân tộc cịn nhiều tập quán phong tục lạc hậu, nhất
là tư tưởng nặng nề của sản xuất tự cung, tự cấp của nền kinh tế tự nhiên,
gây rất nhiều khó khăn cho sản xuất hàng hoá ở trong tỉnh.
 Tập quán canh tác một vụ, đa số đồng bào chỉ tập trung sản
xuất từ tháng 3 đến tháng 10 (âm lịch), còn từ tháng 11 đến tháng 2 (âm
lich) bỏ hoang (theo tài liệu của ủ ban dân tộc và miền núi, vùng núi phía
Bắc có tới 63% đất canh tác chỉ trồng 1 vụ), lam giảm sản lượng của sản
phẩm.
 -Tập quán du canh, du cư của một số dân tộc vùng cao đã dẫn

đến những tác hại rất lớn. Vì nhu cầu lương thực, nên ngoài cây lúa nước,
họ ra sức phá rừng để trồng cây lúa nương, ngô, khoai, sắn…Họ chỉ biết
gieo trồng, khơng có thói quen ni dưỡng chăm bón. Do vậy, khi đất đai
đã bị rửa trơi, bạc mầu thì họ lại chuyển đến nơi khác để khai phá rừng
đầu nguồn, rừng càng già thì đất càng tốt. Phá rừng già, rừng đầu nguồn
đó là đối tượng chính của du canh, du cư. Do đó, kinh tế của đồng bào các
dân tộc rơi vào vòng “luẩn quẩn”: càng đói thì càng phá rừng, mơi trường
sinh thái càng huỷ hoại, và càng phá rừng thì đồng bào càng đói.
 Tập quán trồng và hút thuốc phiện, đã trở thành tập quán lâu
đời của một số dân tộc ít người, đặc biệt đối với người H’ Mông. Thuốc
phiện đã đầu độc, huỷ hoại nguồn nhân lực phát triển nền kinh tế hàng
hố, tiêu phí vật chất lớn và huỷ hoại sức khoẻ tinh thần của người dân,
ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự xã hội…trong khu vực.
 Sự cố kết trong cộng đồng (gia đinh - dòng họ – làng bản) đã
tạo ra sự khép kín trong đời sống kinh tế, kìm hãm sự phát triển của các
10


quan hệ xã hội, quan hệ kinh tế…, và do đó, kìm hãm cả sự phát triển của
kinh tế hàng hố.
 Ngồi ra con tệ nạn tảo hơn, ly hơn, ma chay cúng bái, mê tín
dị đoan, hội hè kéo dài… là những tập tục mang tính phổ biến, cũng đã
kìm hãm sự phát triển của sản xuật và là một trong những nguyên nhân
của sự thấp kém về đời sống kinh tế và tinh thần của đồng bào ở đây.
 Kết cấu hạ tầng, nói chung kết cấu hạ tầng ở các huyện trong
tỉnh là thấp kém làm cho nền kinh tế hàng hố khơng có điều kiện phát
triển. Nhất là hệ thống giao thông rất thâp kém, nhiều hun khơng có
đường giao thơng liên xã,

×