Tải bản đầy đủ (.doc) (25 trang)

HỆ THỐNG PHÁP LUẬT CỦA VIỆT NAM VỀ LY HÔN VÀ HẬU QUẢ PHÁP LÝ CỦA NÓ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (158.13 KB, 25 trang )

LỜI NĨI ĐẦU
Hậu quả của ly hơn là một vấn đề mà pháp luật quy định cần phải giải quyết
khi có sự kiện pháp lý xảy ra về vấn đề ly hôn. Ly hôn là nguyên nhân dẫn đến hậu
quả làm tan vỡ gia đình, từ đó làm ảnh hưởng một phần đến đời sống xã hội. Vì
vậy dưới bất kỳ chế độ xã hội nào, Nhà nước cũng quan tâm đến việc giải quyết ly
hôn và hậu quả pháp lý của nó. Nhưng đối với những xã hội khác nhau thì mục
đích điều chỉnh của pháp luật đối với vấn đề hơn nhân và gia đình nói chung cũng
như việc ly hơn và giải quyết hậu quả của nó nói riêng là hồn tồn khác nhau.
Trong thực tế, nhìn chung các vụ kiện về hơn nhân và gia đình là không đơn
giản, nhất là việc giải quyết về ly hơn đã phức tạp thì việc giải quyết hậu quả của
nó lại càng phức tạp hơn. Bởi vì nó khơng chỉ đụng chạm đến quyền lợi thiết thân
của các bên đương sự về mặt vật chất mà còn đụng chạm đến tình cảm của vợ,
chồng; giữa cha, mẹ với con cái. Cho nên nếu giải quyết vấn đề này không hợp
tình, hợp lý, khơng thoả mãn đối với các bên đương sự, làm cho các bên đương sự
phải đi lại kiện tụng nhau nhiều lần, mất nhiều thời gian, cuộc sống không ổn định
sẽ làm ảnh hưởng không nhỏ đến lợi ích của cá nhân cũng như lợi ích chung của xã
hội khơng những thế cịn gây nên tình trạng mất đồn kêts giữa các bên đương sự.
Do đó muốn giải quyết đúng đắn những hậu quảpháp lý của ly hơn, các cấp
Tồ án cần phải giải quyết đúng đắn việc ly hôn giữa vợ và chồng, trên cơ sở đó
mới giải quyết tốt hậu quả của nó. Trong quá trình giải quyết thì Tồ án phải tiến
hành điều tra, tìm hiểu tâm tư, nguyện vọng của các bên đương sự, phải nắm vững
tình hình tài sản, con cái, tình trạng cụ thể của gia đình mới có thể ra quyết định
đúng đắn trong mỗi bản án của mình.
Trong giai đoạn hiện nay, việc giải quyết đúng đắn các vụ kiện ly hơn và hậu
quả pháp lý của nó có một ý nghĩa đặc biệt to lớn. Về mặt lý luận – nó củng cố chế
độ 1vợ 1 chồng, tự nguyện, tiến bộ góp phần khẳng định các nguyên tắc: Nguyên
1


tắc bình đẳng giữa vợ và chồng, nguyên tắc bảo đảm quyền lợi của người vợ và
con chưa thành niên, nguyên tắc bảo vệ bà mẹ và trẻ em theo Luật hơn nhân gia


đình 1986. Về mặt thực tiễn nó đảm bảo sự cơng bằng về lợi ích của các bên
đương sự, đồng thời góp phần giải phóng các thành viên trong gia đình(nhất là
người phụ nữ) khỏi quan hệ hơn nhân đã thực sự khơng cịn, góp phần ổn định
cuộc sống mới cho mỗi bên đương sự.
Việc giải quyết vấn đề ly hôn và hậu quả pháp lý của nó là hết sức đa dạng và
phức tạp, chính vì thế mà đề tài cịn có nhiều thiếu sót mong thầy cơ đóng góp ý
kiến, giúp đỡ em.
Em xin chân thành cảm ơn !

2


NỘI DUNG
HỆ THỐNG PHÁP LUẬT CỦA VIỆT NAM VỀ LY HƠN
VÀ HẬU QUẢ PHÁP LÝ CỦA NĨ

I.

CÁC GIAI ĐOẠN PHÁT TRIỂN CỦA PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ LY
HÔN VÀ HẬU QUẢ PHÁP LÝ CỦA NÓ.

Đất nước ta đã trải qua 45 năm xây dựng và phát triển, đồng thời với sự ra đời
của Nhà nước ta thì hệ thống pháp luật dần dần được hình thành và phát triển hồn
thiện. Luật hơn nhân và gia đình nước ta là một nghành luật độc lập trong hệ thống
pháp luật Việt nam, nó điều chỉnh các quan hệ về nhân thân và quan hệ về tài sản
(chủ yếu là các quan hệ nhân thân) phát sinh giữa các chủ thể là thành viên của gia
đình.
Trước cách mạng tháng tám, chế độ hơn nhân và gia đình dựa trên cơ sở quan
hệ sản xuất phong kiến, đó là một chế độ hơn nhân cưỡng ép: trọng nam khinh nữ,
coi rẻ quyền lợi của con cái nhất là người phụ nữ phải chịu nhiều đau khổ. Trong

thời kỳ pháp thuộc, pháp luật về hôn nhân gia đình phong kiến ở Việt nam được
bảo vệ và duy trì, bọn thưc dân pháp lợi dụng chế độ hơn nhân gia đình ấy để củng
cố nền thống trị và sự áp bức bóc lột của chúng.
Cách mạng tháng tám thành công đã mở ra một kỷ nguyên mới trong lịch sử
hơn nhân gia đình nước ta. Từ sau cách mạng tháng tám đến nay, nhiều văn bản
pháp luật về hơn nhân gia đình đã được ban hành nhằm củng cố nhằm hồn thiện
quan hệ về hơn nhân gia đình mới tiến bộ, xây dựng gia đình thật sự dân chủ, hồ
thuận, hạnh phúc.
Việc luật hơn nhân gia đình phát triển như ngày hơm nay đó chính là cả một
q trình tồn tại và phát triển, nó đánh mốc qua các giai đoạn phát triển sau:

3


1.

Giai đoạn từ 1945 đến 1954.
Cách mạng tháng tám thành cơng đã giải phóng dân tộc ta thốt khỏi ách đế

quốc và phong kiến, đồng thời nó cũng là cuộc cách mạng giải phóng phụ nữ.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhândân ta đã đấu tranh xoá bỏ dần dần chế độ hơn
nhân gia đình phong kiến, lạc hậu cổ hủ, xây dựng chế độ hơn nhân gia đình mới,
tiến bộ. Nhưng việc xố bỏ chế độ hơn nhân gia đình phong kiến khơng phải là dễ
dàng trong ngày một ngày hai mà nó địi hỏi cả một q trình lâu dài. Chính vì vậy,
sau cách mạng tháng tám Nhà nước ta chưa ban hành một đạo luật mà chỉ mới thực
hiện phong trào “ vận động đời sống mới ” nhằm vận động nhân dân tự nguyện xoá
bỏ những tục lệ cũ về hơn nhân gia đình. Đây là cuộc cách mạng về tư tưởng-văn
hố, do đó ngay một lúc không thể dùng văn bản bản pháp luật hoặc mệnh lệnh để
cưỡng bức được.
Theo sắc lệnh 10\10\1945, từ 1945 đến 1950 về cơ bản chúng ta vẫn vận dụng

những văn bản pháp luật cũ có chọn lọc để giải quyết những vấn đề về hơn nhân
gia đình: trong đó có ly hơn và giải quyết hậu quả của nó. Năm 1946, Hiến pháp
đầu tiên của nước Việt nam dân chủ cộng hồ ra đời, đã xác nhận quyền bình đẳng
giữa nam và nữ trên mọi phương diện. Điều 9 Hiến pháp đã quy định: “ Đàn bà
ngang quyền với đàn ơng trên mọi phương diện ” đây chính là cơ sở pháp lý quan
trọng cho việc đấu tranh xoá bỏ chế độ hơn nhân gia đình phong kiến, đặt cơ sở
cho việc xây dựng một chế độ hôn nhân gia đình mới dân chủ và tiến bộ.
Để đáp ứng được tình hình và nhiệm vụ của giai đoạn đầu sau khi giành được
chính quyền trong khi chưa xây dựng được bộ luật về hơn nhân gia đình. Nhà nước
ta đã ban hành sắc lệnh số 97/SL ngày 22/5/1950 quy định một số điều cơ bản về
hơn nhân gia đình.
Sắc lệnh đã xố bỏ sự bất bình đẳng về dun cớ ly hôn giữa vợ và
chồng(Điều 2 của sắc lệnh quy định).

4


Sắc lệnh 159 quy định đơn giản, bớt thủ tục ly hơn: “ Vợ chồng có thể xin
thuận tình ly hơn”(Điều 3). Bên cạnh đó sắc lệnh cịn quy định việc bảo vệ phụ nữ
có thai và thai nhi trong ly hôn...
Như vậy, sắc lệnh 97 và sắc lệnh 159 đã đề ra được một số nguyên tắc chung
tiến bộ, đã góp phần đáng kể vào việc xố bỏ chế độ hơn nhân gia đình phong kiến,
giải phóng phụ nữ, góp phần thúc đẩy sự phát triển của xã hội Việt nam.
2.

Giai đoạn 1954 - 1975:
Trước tình hình phát triển của xã hội, cuộc kháng chiến chống pháp đã hoàn

toàn thắng lợi và hồ bình đã được xác lập ở miền bắc bước vào thời kỳ quá độ xây
dựng chủ nghĩa xã hội, quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa được xác lập. Đó là cơ

sở vững chắc của chế độ hơn nhân gia đình mới xã hội chủ nghĩa.
Vì vậy sắc lệnh 97 và sắc lệnh 159 với những hạn chế của mình khơng đáp
ứng được những u cầu trong tình hình mới nữa. Do đó cần phải xây dựng một
chế độ hơn nhân gia đình cho phù hợp với đạo đức xã hội chủ nghĩa, việc cần thiết
là phải ban hành luật hơn nhân gia đình mới là cơ sở pháp lý cho cuộc đấu tranh
xoá bỏ tận gốc rễ những tàn tích lạc hậu của chế độ hơn nhân gia đình phong kiến.
Nhận thức được điều đó Đảng và Nhà nước ta, tại kỳ họp Quốc hội khố 1 ngày
29/12/1959 Luật hơn nhân gia đình Việt nam đã được thông qua và ngày 13/1/1960
được công bố. Luật hơn nhân gia đình 1959 có nhiệm vụ là xố bỏ những tàn tích
của chế độ hơn nhân gia đình phong kiến lạc hậu thực hiện chế độ hơn nhân gia
đình mới, tiến bộ. Với nhiệm vụ đó Luật hơn nhân gia đình được xây dựng trên 4
ngun tắc: Hôn nhân tự do tiến bộ; hôn nhân một vợ, một chồng; nam nữ bình
đẳng, bảo vệ quyền lợi phụ nữ trong gia đình; bảovệ quyền lợi của con cái. Trong
đó ngun tắc cơ bản nhất là nam, nữ bình đẳng, bảo vệ quyền lợi phụ nữ trong gia
đình.
Như vậy về cơ bản Luật hơn nhân gia đình 1959 đã hồn thành sứ mệnh lịch
sử của nó trong nhiệm vụ xố bỏ tàn tích phong kiến lạc hậu. Mặt khác nó đã góp
phần xây dựng nếp sống xã hội-xã hội chủ nghĩa trong đời sống gia đình.
5


Để áp dụng Luật một cách đúng đắn, phát huy được tác dụng một cách có
hiệu quả cao, nhất là về ly hơn và giải quyết hậu quả của nó thì Tồ án tối cao đã
ban hành các thơng tư, chỉ thị hướng dẫn các Toà án cấp dưới giải quyết việc ly
hơn và giải quyết hậu quả của nó. Đây là những văn bản pháp lý quan trọng hướng
dẫn thực hiện luật 1959, đảm bảo tính đúng đắn của luật pháp; đồng thời đáp ứng
được lợi ích và nguyện vọng của nhân dân, quyền lợi của phụ nữ và trẻ em sau khi
ly hôn. Bên cạnh những ưu điểm đó, Luật hơn nhân gia đình 1959 cịn có những
mặt hạn chế khó tránh khỏi, đó là các quy phạm cịn mang tính khái qt, tổng hợp,
chưa chi tiết cụ thể, nhiều vấn đề về hơn nhân gia đình chưa được luật đề cập tới.

3.

Giai đoạn từ 1976 đến nay:
Luật hơn nhân gia đình 1959 được ban hành khi đất nước còn bị chia cắt làm

2 miền, Miền bắc đang thực hiện nhiệm vụ xây dựng xã hội chủ nghĩa, Miền nam
vẫn tiếp tục cuộc đấu tranh thống nhất đất nước. Những điều kiện kinh tế-xã hội
trong thời kỳ đó chua cho chúng ta thấy được và dự kiến được đầy đủ những vấn
đề cụ thể trong quan hệ hôn nhân gia đình xã hội chủ nghĩa cần phải quy định
trong luật. Từ sau ngày giải phóng miền nam(1975) cả nước thống nhất “ tiến
nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên chủ nghĩa xã hội”, trong tình hình mới nền
kinh tế-xã hội của đất nước có nhiều thay đổi thì Luật hơn nhân gia đình năm 1959
với một số quy định khơng cịn phù hợp với và khơng đáp ứng được yêu cầu của
thời kỳ mới. Do đó, cần thiết phải ban hành luật hơn nhân gia đình mới là một tất
yếu khách quan, phù hợp với sự biến đổi của xã hội để thúc đẩy sự nghiệp xây
dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Luật hơn nhân gia đình 1986 đã được Quốc hội khoá VII kỳ họp 12 ngày
29/12/1986 thơng qua.
Luật hơn nhân gia đình 1986 vẫn tiếp tục nhiệm vụ của luật hơn nhân gia đình
1959 trong tình hình mới, nên mối tương quan giữa 2 mặt xây dựng và xoá bỏ khác
nhau, trong xây dựng và củng cố có xố bỏ nhưng xâydựng là chủ yếu. Để đáp ứng
được nhiệm vụ và yêu cầu trước tình hình mới, Luật hơn nhân gia đình1986 được
6


xây dựng và thực hiện trên 5 nguyên tắc: Hôn nhân tự nguyện tiến bộ; hôn nhân
một vợ một chồng; vợ chồng bình đẳng; bảo vệ quyền lợi của người mẹ và con cái;
bảo vệ bà mẹ và trẻ em;
Chính những nhiệm vụ và nguyên tắc của Luật hôn nhân gia đình 1986 đã
quyết định những nội dung quy định trong luật. Nhiều quy định trong luật hơn

nhân gia đình 1959 được quy định lại trong luật hôn nhân gia đình 1986, nhưng
cũng có nhiều quy định mới. Bên cạnh đó nhiều vấn đề đã được quy định cụ thể và
chi tiết hơn trước như quan hệ giữa cha mẹ và con cái. Có những vấn đề được quy
định khác trước cho phù hợp với sự phát triển của kinh tế-văn hoá-xã hội như chế
độ tài sản chung của vợ chồng. Vấn đề ly hôn và giải quyết hậu quả của nó cũng đã
được quy định lại chặt chẽ cụ thể hơn, nhằm khắc phục những hiện tượng thi hành
luật khơng được đúng đắn.
Có thể nói, trong nhữnh năm qua tình hình thực hiện luật hơn nhân gia đình
1986 đã co nhiều tiến bộ, được hầu hết mọi ngươì tuân theo, đem lại một chuyển
biến sâu sắc trong đời sống tình cảm, phong tục tập quán lâu đời của nhân dân ta.
Những tàn tích, hủ tục trong hơn nhân phong kiến, tư sản đã dần dần được xoá bỏ,
chế độ hơn nhân gia đình mới dược hình thành.
II.

VẤN ĐỀ LY HƠN VÀ HẬU QUẢ PHÁP LÝ CỦA NĨ THEO LUẬT HƠN
NHÂN GIA ĐÌNH 1986.

1.

Vấn đề ly hơn:
Ly hơn là hậu quả của hành vi có ý chí của vợ và chồng, do Toà án nhân dân

xét xử trên cơ sở pháp luật. Điều đó nói lên rằng ly hơn lhơng chỉ dựa trên cơ sở ý
chí của 2 vợ chồng cũng như khơng phải ý chí chủ quan của người xét xử, hay ý
chí chủ quan của người làm luật, mà dựa trên cơ sở thực trạng của hôn nhân được
phản ánh một cách khách quan trong hệ thống pháp luật. Theo điều 40 quy định:
khi vợ, chồng hoặc cả 2 người có đơn xin ly hơn thì Tồ án nhân dân phải tiến
hành điều tra, hoà giải. Hoà giải là một trong các giai đoạn tố tụng bắt buộc, cần

7



thiết, luật quy định việc hồ giải thì Tồ án đều phải tiến hành trong cả hai trường
hợp đó là: do một bên yêu cầu hoặc do cả hai bên thuận tình ly hơn.
Hồ giải nhằm cải thiện quan hệ vợ chồng để vợ chồng cịn có cơ hội đồn tụ,
Toà án nhân dân chỉ tiến hành xét xử khi đã hồ giải nhiều lần mà khơng đạt kết
quả. Luật quy định như vậy một phần để nhấn mạnh vai trị của Tồ án trong việc
ly hơn, giai đoạn hồ giải của Toà án nhằm tác động, củng cố và ổn định gia đình,
khi xét thấy tình trạng đời sống chung của gia đình chưa tới mức phải cho ly hôn
hoặc cả khi giải quyết cho ly hôn. Khi một bên u cầu xin ly hơn, Tồ án chỉ xét
xử cho ly hôn khi xét thấy giữa vợ và chồng tình trạng đã trầm trọng, đời sống
chung khơng thể kéo dài và mục đích của hơn nhân là xây dựng gia đình hồ
thuận, hạnh phúc, bền vững khơng đạt được; tình trạng trầm trọng, đời sống chung
khơng thể kéo dài là nói đến thực trạng của gia đình, giữa vợ chồng đã có mâu
thuẫn sâu sắc, quan hệ vợ chồng khó lịng tiếp tục duy trì, khơng thể nào sống bình
thường với nhau.
Đối với trường hợp thuận tình ly hơn, Toà án nhân dân phải xác định rõ cả hai
vợ chồng có thật sự tự nguyện thoả thuận bỏ nhau hay không. Nếu một bên do tự
ái, nông nổi hay vì sỹ diện cá nhân hoặc vì bị o ép mà đồng tình ly hơn thì khơng
được coi là thuận tình ly hơn và chỉ giải quyết thuận tình ly hôn khi cả hai người
cùng viết đơn. Theo quy định của pháp luật, cơ sở của ly hôn là cả hai bên phải
thực sự tự nguyện, tuy nhiên việc thực sự tự nguyện phải đúng với quan hệ của vợ
chồng, do đó vẫn phải dựa trên căn cứ chung, tức là nó phản ánh thực tế khách
quan hơn nhân đã tan rã thực sự. Do đó nếu xét thấy đúng là hai bên tự nguyệnvì
họ khơng thể sống chung với nhau được nữa thì Tồ án nhân dân mới quyết định
cơng nhận việc thuận tình ly hơn.
Giải quyết cho ly hơn của Tồ án là một cơng việc hết sức thận trọng. Bởi
quyếtđịnh cho ly hôn hay công nhận thuận tình ly hơn tức là Tồ án đã xác nhận
một sự kiện: sự tan rã thực sự của một gia đình-một tế bào của xã hội. Sự ổn định
của gia đình ảnh hưởng tới sự ổn định của xã hội và ngược lại, vấn đề ly hôn đều

8


xuất phát từ những nguyên nhân xã hội. Sự tan rã của gia đình sau khi ly hơn đặt ra
biết bao vấn đề cần giải quyết tiếp theo, chính vì vậy khi quyết định Toà án cần
phải điều tra, hoà giải một cách thận trọng.
2.

Hậu quả pháp lý của ly hơn:
Việc Tồ án nhân dân xét xử cho ly hơn do một bên u cầu hoặc cơng nhận

thuận tình ly hôn sẽ dẫn đến những hậu quả pháp lý nhất định cho vợ chồng và con
cái. Do đó, chấm dứt quan hệ hôn nhân giữa vợ chồng tất yếu sẽ kéo theo nhiều
vấn đề cần giải quyết trong quá trình tiến hành xét xử đó là:
- Quan hệ vợ chồng về nhân thân chấm dứt trước pháp luật.
- Chế độ tài sản chung của vợ chồng chấm dứt và tài sản chung được chia cho
mỗi bên vợ, chồng sẽ thuộc sở hữu riêng của mỗi người.
- Việc cấp dưỡng giữa vợ chồng sau ly hôn được đặt ra nếu một bên vợ hoặc
chồng túng thiếu, yêu cầu cấp dưỡng.
- Nếu vợ chồng đã có con chung thì phải giải quyết việc giao con cho ai trông
nom, nuôi dưỡng, giáo dục con chưa thành niên, đồng thời giải quyết vấn đề đóng
góp phí tổn ni dưỡng giáo dục con.
Trong luật hơn nhân gia đình Việt nam khơng có điều nào quy định cụ thể về
việc chấm dứt quan hệ nhân thân giữa vợ chồng khi ly hôn. Nhưng thông thường
khi ly hơn thì quan hệ nhân thân giữa vợ và chồng khơng liên quan gì đến nhau,
dù hai bên có thoả thuận hay khơng thoả thuận thì Tồ án cũng sẽ quyết định và
việc chấm dứt quan hệ nhân thân giữa vợ và chồng được tính từ khi bản án của Tồ
án có hiệu lực. Đồng thời luật cũng khơng quy định hạn chế việc kết hôn xây dựng
hạnh phúc mới của vợ chồng sau khi đã ly hôn, mỗi bên đều có quyền kết hơn với
người khác. Tuy nhiên việc quyết định cho ly hơn hoặc cơng nhận thuận tình ly

hơn giưã hai vợ chồng khơng có nghĩa là giải phóng họ khỏi các quyền và nghĩa vụ
khác như: nghĩa vụ cấp dưỡng lẫn nhau và đặc biệt là quyền và nghĩa vụ đối với
con cái, đó chính là trách nhiệm và vinh dự của người làm cha, làm mẹ, Toà án
9


phải giải thích cho họ biết và thấy được những quyền và nghĩa vụ của họ đối với
con cái họ ngay cả khi đã ly hôn.
Sau đây chúng ta sẽ nghiên cứu các quy định của pháp luật và thực tế vận
dụng của các Toà án về việc giải quyết hậu quả pháp lý của ly hôn.
a. Chia tài sản của vợ chồng khi ly hôn.
- Xác định sở hữu của vợ chồng:
Chế độ tài sản của vợ chồng là một trong những vấn đề quan trọng của luật
hôn nhân gia đình. Nó góp phần xây dựng gia đình hạnh phúc, dân chủ, hồ thuận
và bình đẳng, góp phần bảo vệ những quyền lợi chính đáng của cơng dân. Tài sản
của vợ chồng không chỉ là vấn đề sở hữu của cải vật chất liên quan đến lợi ích
riêng của vợ chồng. Gắn với tài sản của vợ chồng là những quan hệ xã hội cần giải
quyết trong đời sống gia đình có liên quan đến lợi ích của các thành viên khác.
Chính vì vậy tài sản của vợ chồng được Nhà nước quy định trong pháp luật thành
chế độ pháp lý tài sản của vợ chồng, đó là một quy định cần thiết nhằm điều chỉnh
những quan hệ tài sản trong đời sống gia đình.
Luật hơn nhân gia đình 1959 và luật hơn nhân gia đình 1986 đều quy định chế
độ tài sản của vợ chồng là chế độ tài sản chung. Song phạm vi tài sản chung của vợ
chồng quy định trong luật hơn nhân gia đình 1986 hẹp hơn.
Tài sản chung của vợ chồng theo tinh thần Điều 14 quy định gồm:
+) Tài sản do vợ chồng tạo ra trong thời kỳ hôn nhân tồn tại.
+) Thu nhập về nghề nghiệp và những thu nhập hợp pháp khác.
+) Tài sản của vợ chồng được thừa kế chung hoặc cho chung.
Để giúp các Toà án cấp dưới xác định một cách đúng đắn khối tài sản chung
của vợ chồng trong NQ 01-HĐTP của TANDTC đã hướng dẫn cụ thể.

Tài sản chung của vợ chồng bao gồm các khoản thu nhập sau:

10


+) Tiền lương, tiền thưởng, tiền trợ cấp hưu trí, các thu nhập về sản xuất ở gia
đình và các thu nhập hợp pháp khác của vợ chồng, không phân biệt thu nhập của
mỗi bên.
+) Các tài sản mà vợ chồng mua sắm được bằng những thu nhập nói trên.
+) Tài sản mà vợ chồng được cho hoặc thừa kế chung.
Tài sản chung của vợ chồng theo quy định chỉ có thể là sở hữu chung hợp
nhất và thời điểm sau khi kết hôn là căn cứ để xác định khối tài sản chung, điều
này là rất cần thiết. Như vậy trong quá trình chung sống “ Tài sản chung được sử
dụng để đảm bảo những nhu cầu chung của gia đình”. Vợ chồng có quyền và nghĩa
vụ ngang nhau đối với tài sản chung. Việc mua, bán, đổi, cho, vay, mượn và những
giao dịch khác có liên quan đến tài sản mà có giá trị lớn thì phải được sự thoả
thuận của vợ chồng. Theo tinh thần quy định của Điều 15 thì khi sử dụng tài sản
chung của vợ chồng đương nhiên được coi là có sự thoả thuận của cả vợ và chồng.
Những việc mua bán hoặc cho vay, mượn và những giao dịch khác có quan hệ đến
tài sản có giá trị lớn thì phải có sự thoả thuận của cả hai vợ chồng. Nếu là việc mua
bán cầm cố tài sản theo quy định của pháp luật phải có hợp đồng viết thì cả hai vợ
chồng đều phải ký vào hợp đồng. Điều này hoàn toàn phù hợp với thực tế, để loại
trừ trường hợp vợ hay chồng có thái độ vơ trách nhiệm với tài sản chung, phá tán
tài sản để ăn chơi.
Ngoài tài sản chung của vợ chồng thì luật cịn quy định vợ hoặc chồng có thể
có tài sản riêng; tài sản riêng bao gồm:
- Tài sản có trước khi kết hơn
- Tài sản được cho riêng hoặc thừa kế riêng trong thời kỳ hơn nhân.
Việc quy định trong gia đình, vợ chồng đều có quyền có tài sản riêng là hồn
tồn hợp lý, phù hợp với tâm lý và nguyện vọng của nhân dân, phù hợp với nguyên

tắc về quyền sở hữu, về quyền tự định đoạt của nhân dân. Việc xác định tài sản
chung, tài sản riêng của vợ chồng có ý nghĩa thực tế khi xảy ra tranh chấp về tài
11


sản hoặc khi cần chia tài sản chung không chỉ cần thiết khi có sự kiện ly hơn mà
cịn quan trọng ngay cả đối với trường hợp hơn nhân cịn tồn tại mà một bên u
cầu có lý do chính đáng(Điều 18)hoặc khi một bên chết trước nếu cần chia thì cũng
được chia theo quy định của pháp luật(Điêù 17). Nhưng ở đây chỉ nghiên cứu, xem
xét vấn đề chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn.
- Chia tài sản của vợ, chồng khi ly hôn:
Trên cơ sở xác định sở hữu chung, riêng của vợ chồng, việc chia tài sản chung
khi ly hôn phải đảm bảo theo pháp luật quy định: Luật, các văn bản dưới luật.
Cần quán triệt các nguyên tắc và các căn cứ khi chia tài sản của vợ chồng:
+) Nguyên tắc: - Bình đẳng
- Bảo vệ bà mẹ và trẻ em
- Bảo vệ lợi ích chính đáng của sản xuất và nghề nghiệp.
+) Căn cứ:
- Tình hình tài sản
- Tình trạng cụ thể của gia đình
- Cơng sức đóng góp của mỗi bên
Vì vậy giải quyết quan hệ tài sản của vợ chồng khi ly hôn sẽ căn cứ vào Điều
42: “Việc chia tài sản do hai bên thoả thuận và phải được Tồ án nhân dân cơng
nhận. Nếu hai bên khơng thoả thuận được với nhau thì Tồ án nhân dân quyết
định”.
Quy định như vậy khơng có gì là mâu thuẫn với quyền tự định đoạt của cơng
dân, bởi vì để đảm bảo quyền lợi cho các bên đương sự nhất là phụ nữ và trẻ em
khi ly hơn thì ngay cả trường hợp tự thoả thuận cũng phải được Toà án cơng nhận,
nếu việc thoả thuận đó là hợp pháp thì không sao nhưng nếu không hợp pháp,
quyền lợi của một trong hai bên bị vi phạm thì Tồ án cũng cần phải quyết định lại.


12


Về nguyên tắc chia tài sản khi ly hôn phải theo quy định: “ Tài sản riêng của
bên nào thì vẫn thuộc quyền sở hữu của bên ấy. Tài sản chung được chia đơi có
xem xét hợp lý đến tình hình tài sản, tình trạng cụ thể của gia đình và cơng sức
đóng góp của mỗi bên”.
Tài sản chung và riêng chỉ chia trên cơ sở những thứ hiện có. Để chia tài sản
chung của vợ chồng cần phải xác định chính xác khối tài sản chung hiện có(gồm
những quyền và nghĩa vụ tài sản của vợ chồng đối với người khác...) khi chia phải
căn cứ vào tình hình tài sản tức là tài sản thực tế của vợ chồng hiện có kể cả những
khoản cho vay, mượn, tiền gửi tiết kiệm. Những thứ đã chi dùng cho gia đình mà
chuyển sang một dạng khác và sự chi dùng đó là bức thiết của gia đình thì phải coi
tài sản đó là đang cịn để tính chia cịn những thứ đã chi dùng cho gia đình mà
khơng cịn nữa thì khơng phải thanh tốn. Đồng thời khi chia càn phải xác định
trong khối tài sản đó có những thứ gì có thể chia bằng hiện vật, cịn những cái gì
khơng thể tách ra để chia được như: xe máy, xe đạp, ti vi, tủ lạnh... thì để nguyên
và người nào hưởng nếu có chênh lệch thì phải thanh tốn tiền chênh lệch cho
người kia. Đối với tài sản bằng hiện vật thì phải kiểm kê, định giá theo giá trị của
thị trường một cách chính xác, cơng khai và đúng đắn. Đồng thời cịn phải xem xét
đến tình trạng cụ thể của gia đình và cơng sức đóng góp của mỗi bên. Có nghĩa là
hiện tại vợ chồng, con cái sinh sống ở một nơi hay mỗi bên sinh hoạt ở một chỗ
khác nhau hoặc vẫn còn ở chung với gia đình, nắm sát tình trạng gia đình khi vợ
chồng ly hơn thì mới đảm bảo khi chia tài sản khơng bị sót, lọt. Thơng thường thì
tài sản chung chia đơi, nhưng để đảm bảo sự cơng bằng, bình đẳng và hợp lý thì
cần xét đến cơng sức của mỗi bên bỏ ra để xây dựng khối tài sản chung đó. Cơng
sức của mỗi bên phải kể đến trách nhiệm thu vén, bảo vệ khối tài sản chung đó, bởi
trong thực tế khơng ít những gia đình tài sản chung chỉ có một bên bỏ sức lao
động của mình để tạo ra... Theo luật quy định, lao động trong gia đình được tính

ngang với lao động sản xuất. Tại điều 42 quy định: “ Khi chia tài sản thì phải bảo
vệ lợi ích chính đáng của sản xuất và nghề nghiệp, bảo vệ quyền của người vợ và
người con chưa thành niên”. Vì trong xã hội cũ, người phụ nữ và con cái bị coi rẻ,
13


họ khơng có quyền hành gì trong gia đình và nhất là đối với tài sản, họ hoàn toàn
bị phụ thuộc vào người cha, người chồng. Cho nên luật quy định như vậy là nhằm
mục đích xố bỏ sự bất công trong xã hội cũ và trong cuộc sống bao giờ người phụ
nữ cũng gặp khó khăn hơn nam giới, đặc biệt khi ly hơn. Do đó cần phải đảm bảo
cho người phụ nữ và con chưa thành niên có một cuộc sống bình thường để họ n
tâm cơng tác, học tập ngay cả khi quan hệ gia đình bị tan vỡ. Đồng thời cũng chỉ
dưới chế độ xã hội chủ nghĩa lợi ích của cá nhân mới được đảm bảo, lưọi ích của
cá nhân khơng tách rời lợi ích của tập thể và của xã hội, các lợi ích đó phải kết hợp
với nhau một cách hài hồ. Cho nên khi giải quyết ly hôn không chỉ đảm bảo
quyền lợi của mỗi bên đương sự và con cái mà cịn phải quan tâm bảo vệ lợi ích
chính đáng của sản xuất và nghề nghiệp.
Đối với trường hợp vợ chồng vẫn cịn chung sống với gia đình bên vợ (chồng)
thì luật cũng quy định tại Điều 42. Nếu tài sản của họ khơng thể xác định được thì
vợ chồng được chia một phần trong khối tài sản đó, căn cứ vào cơng sức đóng góp,
vào việc duy trì và phát triển khối tài sản chung đó. Lao động trong gia đình được
coi là lao động sản xuất. Quy định đó hoàn toàn phù hợp với thực tế và bảo đảm
cho bên làm công việc nội trợ (thường là ngưoừi vợ) khơng bị thiệt thịi.
Để áp dụng luật trong thực tế xét xử được đúng đắn, chính xác Tồ án nhân
dân tối cao đã ra NQ 01-HĐTP ngày 20/1/1988 hướng dẫn áp dụng một số quy
định khi giải quyết việc chia tài sản của vợ chồng khi ly hôn căn cứ vào Điều 42
kết hợp với các Điều 14, 15, 16. Khi ly hôn tài sản chung của vợ chồng được chia
đơi nhưng có xem xét.
Nhìn chung, việc giải quyết chia tài sản của vợ chồng khi ly hôn là hết sức
phức tạp và khó khăn. Thường tài sản riêng ít bị tranh chấp và hầu như tự họ thoả

thuận được với nhau, kể cả tài sản chung cũng vậy nếu như nó khơng có gia trịi
lớn. Đặc biệt là vấn đề nhà ở cần có sự giải quyết của Tồ án.

14


b. Cấp dưỡng cho một bên túng thiếu khi vợ chồng ly hôn.
Quan hệ cấp dưỡng là quan hệ tài sản phải phát sinh giữa chủ thể nhất định
của luật hơn nhân gia đình(quan hệ cấp dưỡng giữa vợ và chồng; giữa cha mẹ với
con cái...) dựa trên mối quan hệ về hơn nhân trong những trường hợp cần thiết.
Chính vì vậy nghĩa vụ cấp dưỡng nó ln ln gắn liền với nhân thân của những
người nhất định do luật định trước, quyền và nghĩa vụ này không thể thay đổi chủ
thể theo thoả thuận của các đương sự được. Do đó, khi vợ chồng ly hơn thì quan hệ
cấp dưỡng này vẫn tồn tại, đây không chỉ là nghĩa vụ về mặt đạo đức mà còn là
nghĩa vụ pháp lý.
Điều 43 điểm a quy định: Khi ly hôn nếu bên túng thiếu yêu cầu cấp dưỡng
thì bên kia phải cấp dưỡng theo khả năng của mình. Nghĩa là việc cấp dưỡng chỉ
đặt ra khi có hai điều kiện: - Bên túng thiếu có yêu cầu
- Bên kia có khả năng cấp dưỡng
Như vậy, đối tượng cấp dưỡng phải thực sự túng thiếu. Trường hợp túng thiếu
ở đây cần được hiểu là có khó khăn trong đời sống vật chất. Túng thiếu trên cơ sở
khơng có khả năng lao động kém nên thu nhập không ổn định, không đủ tự ni
mình(ốm đau, sức yếu, tàn tật...)hoặc có lao động ngưng tạm thời, ytước mắt có
khó khăn về kinh tế do phải tách ra khỏi gia đình. Nếu có sức lao đọng mà không
chịu lao động để tới mức túng thiếu hoặc ăn chơi trác táng, chi tiêu hoang phí mà
túng thiếu thì cũng khơng thể u cầu cấp dưỡng. Vấn đề cấp dưỡng thường đặt ra
do người vợ, vì thơng thường người vợ sẽ gặp nhiều khó khăn hơn trong cuộc
sống, do đó cấp dưỡng là nhằm tạo điều kiện cho bên túng thiếu đảm bảo được
cuộc sống một cách bình thường. Nhưng việc cấp dưỡng cũng chỉ có nếu người
phải cấp dưỡng đủ khả năng vì vậy khi giải quyết cấp dưỡng không chỉ căn cứ vào

yêu cầu của bên túng thiếu mà cần phải xem xét đến điều kiện, tình hình kinh tế
hiện tại của người phải cấp dưỡng.
Theo điểm b Điều 43 quy định thì về khoản cấp dưỡng và thời gian do hai bên
thoả thuận. Nếu khơng thoả thuận được thì Tồ án nhân dân quyết định. Khoản cấp
15


dưỡng phụ thuộc vào khả năng kinh tế của người phải cấp dưỡng. Thể thức cấp
dưỡng có thể tính theo số tiền lương thực tế hoặc của cải khác tuỳ thuộc vào thu
nhập của người phải cấp dưỡng. Việc cáp dưỡng có thể theo tháng, quý hoặc từng
vụ (đối với người nông thôn). Trong trường hợp nếu người túng thiếu yêu cầu cấp
dưỡng đồng ý và người phải cấp dưỡng cũng thực sự có kgả năng thì có thể giải
quyết cho họ cấp dưỡng một lần.
Về thời gian cấp dưỡng luật cũng khơng hạn chế, thơng thường khơng tính
thời gian. Nếu bên được cấp dưỡng khơng cịn túng thiếu, thu nhập đã đủ tự nuôi
sống, lao động đã trở lại bình thường hoặc bên được cấp dưỡng trong thời gian đó
lại kết hơn với người kháchoặc một trong hai bên cấp dưỡng bị chết thì việc cấp
dưỡng cũng được coi là chấm dứt.
Vì vậy khi hồn cảnh thay đổi, một bên hoặc cả hai bên có thể thoả thuận
hoặc yêu cầu Toà án quyết định sửa đổi tăng, giảm hoặc chấm dứt cấp dưỡng. Điều
đó hàon tồn phù hợp với thực tế, bởi vì trong thời gian cấp dưỡng nếu bên phải
cấp dưỡng gặp khó khăn trong đời sống vì bệnh tật hoặc thu nhập giảm đi thì có
thể thoả thuận hoặc yêu cầu Toà án quyết định giảm mức cấp dưỡng. Nhưng nếu
bên túng thiếu được cấp dưỡng sau một thời gian vẫn chưa hết khó khăn lại thêm
ốm đau bệnh tật... và bên phải cấp dưỡng trong thời gian qua lại có thêm một
khoản thu nhập tăng thêm mà xét thấy mưcs cấp dưỡng cho bên kia lại q thấp,
khơng đáng kể thì hai bên thoả thuận hoặc yêu cầu Toà án tăng mức cấp dưỡng
gúp bên kia nhanh chóng ổn định cuộc sống, bớt túng thiếu khó khăn.
Tóm lại vấn đề cấp dưỡng cho một bên túng thiếu theo quy định của pháp luật
nhằm tạo điều kiện cho bên túng thiếu ổn định cuộc sống. Đồng thời việc cấp

dưỡng còn thể hiện đạo đức con người xã hội chủ nghĩa. Vì vậy bên có khả năng
phải biết thơng cảm và với trách nhiệm của mình để đáp ứng yêu cầu cấp dươngx
của bên kia. Khi giải quyết Tồ án cũng nên giải thích cho họ biết nghĩa vụ, trách
nhiệm đối với nhau, khơng nên coi đó là việc thua kiện mà có những hành vi gây
khó khăn cho cả đôi bên.
16


c. Vấn đề trông nom nuôi nấng và giáo dục con cái khi vợ chồng ly hôn.
Việc trông nom, nuôi nấng, giáo dục con cái là quyền và ngiã vụ của cha mẹ,
hồn tồn khơng phụ thuộc vào quan hệ hơn nhân giữa cha mẹ có cịn tồn tại hay
khơng. Do đó vợ chồng đã ly hơn vẫn có mọi quyền và nghĩa vụ đối với con
chung. Việc trông nom nuôi nấng, giáo dục con chưa thành niên và việc đóng góp
phí tổn ni dưỡng giáo dục con do hai bên thoả thuận giải quyết. Trường hợp hai
bên không thoả thuận với nhau được hoặc trong sự thoả thuận xét thấy có chỗ
khơng hợp lý thì Tồ án nhân quyết định.
Điều 44 quy định: “ Vợ chồng đã ly hôn vẫn có mọi quyền và nghia vụ đối
với con chung” điều đó khơng chỉ xuất phát từ mối quan hệ sinh đẻ giữa cha mẹ
với con cái mà còn nhằm để đảm bảo quyền lợi cho đứa trẻ khi gia đình bị tan vỡ
chúng vẫn được ni dưỡng và giáo dục một cách đầy đủ, đảm bảo sự phát triển
bình thường về tâm, sinh lí và có cuộc sống ổn định, khơng thể vì cha mẹ bỏ nhau
mà chúng trở thành những đứa trẻ bơ vơ, chịu thiệt thòi, thiếu thốn về vật chất và
tình cảm nhất là đối với trẻ vị thành niên. Khi li hơn vợ chồng có quyền bình đẳng
đối với nhau trong việc ni dạy con cái, nhưng Điều 45 quy định: “việc giao con
chưa thành niên cho ai trông nom, nuôi nấng, giáo dục phải xuất phát từ việc bảo
vệ quyền lợi của con cái về mọi mặt. Nói đến vấn đề “trơng nom, ni dưỡng, giáo
dục” tức là đề cập tới hai vấn đề:
- Giao con cho ai nuôi dưỡng
- Cấp dưỡng nuôi con và mức cấp dưỡng.
Như vậy, việc xác định giao con cho ai phải có đủ điều kiện ni, dạy con tốt.

Do đó tồ án cần phải điều tra kĩ càng không thể chỉ dựa vào ý muốn của 2 vợ
chồng. Việc giao cho ai ni dưỡng khơng chỉ nhìn vào điều kiện vật chất của
người đó mà cịn phải đủ các điều kiện khác nhất là về mặt tinh thần, đạo đức tư
cách....
Về nguyên tắc: con đang còn bú phải được giao cho người mẹ nuôi dưỡng
điều này là cần thiết, đặc biệt là việc đảm bảo cho đứa con được nuôi dưỡng bằng
17


sữa mẹ và được người mẹ chăm sóc, vì khi trẻ còn nhỏ rất cần sự gần gũi của
người mẹ, điều này khơng có gì ảnh hưởng đến tương lai hay nhận thức của đứa
trẻ, mặc dù người mẹ không đủ điều kiện về đạo đức tư cách.
Đối với con chưa thành niên được giao cho bên nào mà xét thấy có đủ điều
kiện ni dạy con được tốt nhất; song cần phải chú ý đến tình cảm của mỗi con gắn
bó với cha hay mẹ nhiều hơn (nêu đứa trẻ đã lớn từ 10 tuổi trở lên thì nên hỏi cả ý
kiến của đứa con). viểc trông nom, nuôi dạy con cái là nghĩa vụ đồng thời cũng là
quyền của cha mẹ đối với con chung. Người nào không ni giữ con cũng có
quyền đến thăm nom, chăm sóc con; bên ni giữ con khơng được tìm cách để
ngăn cản, cấm đốn con khơng cho con gặp hoặc khơng được nhận qùa, quần áo,
đồ dùng... mà cần phải tạo điều kiện để cho nhau gần gũi với con tạo cho nó một
tâm lý thoải mái, nhẹ nhàng, bớt đi sự “ cảm nhận thiếu hụt tình cảm, từ người cha
hay mẹ. Trong trường hợp khily hôn xét thấy cha mẹ không đủ điều kiện để trông
nom nuôi dạy con thì có thể giao cho người khác, tốt nhất là ông, bà nội (ngoại)
hoặc những người gần gũi khác, (Cha phạm tội hình sự phải đi tù, hoặc ln ln
nghiện ngập, rượu chè, cờ bạc, tính tình tục tằn thơ bạo hoặc nghề nghiệp khơng ổn
định, khơng có nghề... Mẹ lại là người chua ngoa, ích kỷ, ln có hành vi xấu xa,
nghề khơng chính đáng (đĩ điếm v. v...) có quan hệ ngoại tình lăng nhăng. Điều
này khơng có gì trái với quyền và nghĩa vụ của cha mẹ về đảm bảo lợi ích về mọi
mặt của con cái.
Cùng với việc quyết định giao con cho ai ni tồ án cũng giải quyết luôn cả

vấn đề cấp dưỡng nuôi con. Việc đóng góp phí tổn ni dưỡng, giáo dục con sau
khi ly hôn là nghĩa vụ của cha mẹ. Nghĩa vụ cấp dưỡng giữa cha mẹ và con được
dảm bảo bằng pháp lý cịn mang tính chất tình cảm, tự nhiên và luân lý. Luật pháp
nước ta thừa nhận sự bình đẳng của các con về quyền được Cha mẹ cấp dưỡng. Do
đó, khi ly hơn người được ni giữ con khơng túng thiếu thì bên kia vẫn phải đóng
góp phí tổn ni dưỡng con. Trường hợp người được giao cho ni con khơng
muốn nhận tiền đóng góp ni con của bên kia thì tồ án cũng phải giải thích cho

18


họ hiểu rằng tiền đóng góp đó là quyền lợi của người con, vì vậy họ phải nhận để
ni con. Nếu họ thực sự có khả năng ni con khơng cần tiền đóng góp của bên
kia thì tồ án xác nhận ý kiến của họ.
Việc giải quyết cấp dưỡng cho con phải xuất phát từ nghĩa vụ nuôi dạy con,
từ lợiích của đứa trẻ, phải căn cứ vào nhu cầu tối thiểu đảm bảo đời sống bình
thường, đồng thời phải căn cứ vào khả năng kinh tế và hoàn cảnh của mỗi bên.
Khơng nhất thiết phải chia đơi mức phí tổn nuôi dưỡng giáo dục con cho mỗi bên,
nếu bên phải cấp dưỡng có khả năng kinh tế hơn thì phải đóng góp nhiều hơn.
Tiền đóng góp ni con bao gồm: chi phí về ni dưỡng và học hành.
Vì lợi ích của con cái và theo yêu cầu của 1 bên hay cả 2 bên Cha mẹ, tồ án
có thể thay đổi việc nuôi giữ con và như vậy bên khơng ni giữ con sẽ phải đóng
góp phí tổn ni dưỡng, giáo dục con cho bên được nuôi giữ con. Nếu sau này do
hoàn cảnh thay đổi do nhu cầu trong đời sống của con cái tăng lên (do con đã lớn
hơn, việc đóng góp học hành phải chi phí nhiều hơn... hoặc tình hình kinh tế của 2
bên hay 1 bên thay đổi thì tồ án theo u cầu của 1 bên hay 2 bên và nếu xét thấy
là cần thiết thì sửa đổi lại mức đóng góp phí tổn nuôi dưỡng, giáo dục con. Trong
trường hợp người không ni giữ con trì hỗn hoặc lẩn tránh việc đong góp phí tổn
ni dưỡng giáo dục con thì theo u cầu của người nuôi giữ con và căn cứ vào
bản án tun mức phí tổn ni dưỡng giáo dục con, toà án sẽ quyết định thi hành

bằng biện pháp cưỡng chế khấu trừ vào thu nhập của người phải đóng góp phí tổn.
Đối với cơng nhân viên chức qn nhân thì cơ quan, đơn vị nơi người đó cơng tác,
phục vụ sẽ căn cứ vào quyết định của toà án nhân dân thực hiện việc khấu trừ tiền
lương và chuyển số tiền đó sang tịa án nhân dân để giao cho người nuôi giữ con
nhận.
Đối với những người đang làm nghĩa vụ quân sự, học sinh, sinh viên, người
đang học nghề hoặc bị tạm giam, ốm đau lâu ngày mất sức lao động... hiện nay
khơng có khả năng cấp dưỡng thì cho họ tạm hỗn nghĩa vụ cấp dưỡng cho đến khi
tình hình kinh tế của họ thay đổi.
19


Như vậy, khi giải quyết vấn đề trông nom, nuôi dưỡng và giáo dục con khi vợ
chồng ly hơn tồ án đều phải xuất phát từ nguyên tắc bảo đảm và bảo vệ quyền lợi
về mọi mặt của đứa trẻ đặc biệt là đối với trẻ em vị thành niên. Trẻ em khơng chỉ
là thành viên của gia đình mà còn là thành viên của xã hội- chủ nhân tương lai của
đất nước.

KẾT LUẬN
Trên đây em đã trình bày một cách trình bày về vấn đề ly hơn và giải quyết
hậu quả của nó theo luật hơn nhân và gia đình 1986. Đây là một chế định quan
20


trọng của luật hơn nhân gia đình thể hiện sự quan tâm của Nhà nước tới gia đình –
tế bào của xã hội. Để đảm bảo quyền lợi cho mỗi thành viên trong gia đình, đảm
bảo trật tự của xã hội và những nguyên tắc của hôn nhân xã hội chủ nghĩa. Nhà
nước đặt vấn đề ly hôn dưới sự kiểm sốt của mình, đây khơng chỉ cịn là vấn đề
riêng tư của hai vợ chồng, mà nó mang tính chất xã hội, trong đó có cả vấn đề giải
quyết hậu quả của ly hơn. Bởi vì sự ổn định của gia đình nó ảnh hưởng tới sự ổn

định của xã hội, do đó với sự tác động của pháp luật cũng chỉ nhằm ổn định gia
đình dù gia đình đó đã tan vỡ.
Hơn nhân làmột hiện xã hội mang tính giai cấp sâu sắc, nên ly hơn và hậu quả
pháp lý của nó cũng mang tính giai cấp rõ rệt. Pháp luật là ý chí các giai cấp thống
trị xã hội được lên thành luật. Trong xã hội bóc lột, chế định ly hơn cũng chỉ nhằm
mục đích phục vụ vàcủng cố lợi ích của thiểu số bóc lột. Dưới chế độ xã hội chủ
nghĩa, pháp luật thể hiện ý chí củatồn thể nhân dân lao động, họ là những người
làm chủ đất nước, do đó pháp luật qui định về ly hôn và giải quyết hậu quả của nó
là nhằm phục vụ lợi ích của nhân dân lao động, xây dựng chế độ hơn nhân và gia
đình dân chủ, hồ thuận hạnh phúc và bền vững.
Nhìn chung, từ khi luật hơn nhân và giađình1986được ban hành đến nayviệc
thực hiện đã đạt đượcnhững thành tích đáng khích lệ, các vụ viêc đã giải quyết là
đúng đắn, phù hợp với tinh thần hơn nhan và gia đình mới.
Có thể nói, chế độ một vợ một chồng là cơ sở xây dựng gia đình hạnh phúc,
tiến bộ. Quan hệ giữa cha mẹ và con cái, đã có nhiều tiến bộ, sự phân biệt con trai
với con gái, con đẻ với con ni, con dâu, con rể đã dần dần bị xố bỏ.
Nhiều gia đình thực hiện tốt việc sinh đẻ có kế hoạch cùng với sự cống hiến
của chị em thì vai trị, vị trí bình đẳng của chị em trong gia đình và xã hội cũng
được nâng lên.
Bên cạnh những mặt tốt, cịn có nhiều thiếu sót trong nhận thức và thực hiện
luật: lượng người nắm được luật khoảng 30%. Vẫn còn tồn tại những hành vi
ngược đãi phụ nữ, trẻ em, đặc biệt nạn tảo hôn, lấy vợ lẽ có chiều hướng phục hồi.
21


Đồng thời số vụ ly hôn do quan hệ ngoại tình đang tăng lên và đa dạng hơn, chưa
kể bị che đậy bởi những lý do khác.
Khi giải quyết các vụ việc ly hơn vẫn cịn nhiều vướng mắc, khó khăn phức
tạp nhất là vấn đề chia tài sản. Việc điều tra về tài sản không đầy đủ, không đúng
thủ tục nhất là trường hợp phải định giá tài sản là nhà cửa hoặc trường hợp vợ

chồng còn sống chung với gia đình chưa có tài sản riêng của vợ chồng hoặc vợ
chồng đã ở riêng nhưng nhà cửa do bố mẹ cho, khi vợ chồng ly hơn thì bố mẹ địi
lại.
Do điều tra cịn sơ sài, khơng đầy đủ chưa phân định rõ tài sản chung riêng và
hoàn cảnh của vợ chồng nên dẫn đến việc xét xử không chính xác. Đây là vấn đề
khó khăn phức tạp nhất trong khi xét xử cho ly hôn.
Vấn đề giao con cho ai ni, mức đóng góp phí tổn ni con cần phải nắm
vững nguyên tắc được quy định tại điều 44 và 45 của luật hơn nhân gia đình. Đồng
thời khi giao con phải lưu ý đến tình cảm của chúng đối với cha hay mẹ. Để khắc
phục tình trạng trượt giá, việc đóng góp phí tổn ni con theo “ kinh nghiệm nhiều
Toà án đã lấy gạo làm mặt bằng để định mức”.
Trong quá trình giải quyết các vụ việc ly hơn, Tồ án các cấp đã vận dụng NQ
01- HĐTP của Toà án nhân dân tối cao giải quyết đúng đắn được nhiều vụ, bảo
đảm quyền lợi của người vợ phải nuôi con nhỏ và quyền lợi của đứa con nói
chung. Khi chia tài sản đã chú ý chia bằng hiện vật.
Tóm lại, các cấp Tồ án cần nghiên cứu nắm vững những quy định của luật
hôn nhân gia đình mỗi khi giải quyết về quan hệ vợ chồng cần dựa các cơ quan
đoàn thể điều tra nắm tình hình, tìm hiểu nguyên nhân dẫn đến tình hình vợ chồng
xin li hôn, phải xem xét giải quyết thấu tình đạt lý. Ngồi ra, các cán bộ tồ án cịn
cần phải nắm được đường lối, chính sách nhà nước trong từng giai đoạn phát triển,
dáp ứng được nhiệm vụ mà nhà nước đã đề ra. Đồng thời còn phải kết hợp với tình
hình cụ thể của từng địa phương từng vụ việc mới có được quyết định một cách

22


đúng đắn chính xác, thỗ mãn u cầu của bên đương sự và như vậy thì mới phát
huy được kết quả của bản án.
Khi giải quyết hậu quả pháp lý của ly hơn, Tồ án nhân dân cần phải qn
triệt ngun tắc của pháp luật hơn nhân gia đình là: đảm bảo quyền lợi của các bên

đương sự, nhất là phụ nữ và trẻ em chưa thành niên.

23


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Hiến pháp nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt nam 1992.

2. Luật hôn nhân gia đình 1959.

3. Luật hơn nhân gia đình 1986. Nxb pháp lý 1988.

4. Giáo trình luật hơn nhân gia đình.

5. Hệ thống hố luật lệ về hơn nhân gia đình Việt nam.

6. Nghị quyết số 01/NQ/HĐTP ngày 20/1/1988 của TANDTC.

7. Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII. Nxb sự thật 1991.

24


MỤC LỤC

LỜI NÓI ĐẦU.............................................................................................................1
NỘI DUNG................................................................................................................... 3
HỆ THỐNG PHÁP LUẬT CỦA VIỆT NAM VỀ LY HÔN
VÀ HẬU QUẢ PHÁP LÝ CỦA NÓ............................................................................3
I. CÁC GIAI ĐOẠN PHÁT TRIỂN CỦA PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ LY HƠN VÀ HẬU QUẢ

PHÁP LÝ CỦA NĨ. .................................................................................................................3

1. Giai đoạn từ 1945 đến 1954. ................................................................................4
2. Giai đoạn 1954 - 1975: ...........................................................................................5
3. Giai đoạn từ 1976 đến nay: ..................................................................................6
II. VẤN ĐỀ LY HÔN VÀ HẬU QUẢ PHÁP LÝ CỦA NĨ THEO LUẬT HƠN NHÂN GIA ĐÌNH 1986.
................................................................................................................................................7

1. Vấn đề ly hôn: .......................................................................................................7
2. Hậu quả pháp lý của ly hôn: ..................................................................................9

a. Chia tài sản của vợ chồng khi ly hôn. .........................................10
b. Cấp dưỡng cho một bên túng thiếu khi vợ chồng ly hôn. ..........15
c. Vấn đề trông nom nuôi nấng và giáo dục con cái khi vợ chồng ly
hôn. .....................................................................................................17
KẾT LUẬN................................................................................................................20
TÀI LIỆU THAM KHẢO.........................................................................................24
MỤC LỤC.................................................................................................................. 25

25


×