Tải bản đầy đủ (.pdf) (57 trang)

KHAÛ NAÊNG ÖÙNG DUÏNG CUÛA BRONOPOL TRONG NUOÂI TROÀNG THUYÛ SAÛN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (469.14 KB, 57 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM TP. HCM
KHOA THỦY SẢN

LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP
ĐỀ TÀI:

KHẢ NĂNG ỨNG DỤNG CỦA BRONOPOL
TRONG NUÔI TRỒNG THUỶ SẢN

NGÀNH: THỦY SẢN
KHÓA: 2002 – 2006
SINH VIÊN THỰC HIỆN: LÊ LONG HỒ

THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
2006


KHẢ NĂNG ỨNG DỤNG CỦA BRONOPOL TRONG NUÔI
TRỒNG THỦY SẢN

Thực hiện bởi:

Lê Long Hồ

Luận văn được đệ trình để cấp bằng Kỹ sư Thủy Sản

Giáo viên hướng dẫn: Phạm Văn Nhỏ

Thành phố Hồ Chí Minh
Tháng 8/2006




TÓM TẮT
Để khảo sát:’’Khả năng ứng dụng của Bronopol trong nuôi trồng thủy sản”
chúng tôi tiến hành bố trí 2 thí nghiệm:
Thí nghiệm 1: Ấp trứng cá rô đồng, cá chép, tôm càng xanh với CuSO4,
Formalin, Formalan, Malachite Green, Bronopol.
Thí nghiệm 2: Khảo sát LC50 của Bronopol đối với cá rô phi con, tép bò, hậu ấu
trùng tôm càng xanh.
Kết quả thí nghiệm:
Bronopol có hiệu quả tốt so với CuSO4, Formalin, Formalan, Malachite Green
khi ấp trứng.
Malachite Green ở nồng độ 4 ppm gây chết cá rô đồng mới nở khi ấp trứng.
CuSO4 ở tất cả nồng độ thí nghiệm gây chết cá chép con và post tôm càng
xanh.
LC50-24h của Bronopol đối với cá rô phi con là 24,49 ppm; LC50-48h của
Bronopol đối với tép bò là37.99 ppm và ấu trùng tôm càng xanh là70.72 ppm.

ii


ABSTRACT
“Evalution of using Bronopol in aquaculture” we conducted two experiment:
Experiment 1: Incubating of eggs of climbing perch, common carp and giant
fresh water prawn with CuSO4, Formalin, Formalan, Malachite Green and Bronopol
with different concentration.
Experiment 2: Determing LC50 of Bronopol for fingerling of tilapia, rice-prawn
and Postlavae of giant fresh water prawn.
The results shown that:
− Bronopol have good effected comparing to the others chemicals on egg

incubation.
− Malachite Green cause death new hatching of climping perch at 4 ppm.
− CuSO4 cause death of fry common carp and giant prawn Postlarvae at all
eperimental concentration.

− LC50-24h of Bronopol for fingerling of tilapia was 24.49 ppm; LC50-48h of
Bronopol for rice-prawn was 37.99 ppm and 70.72 ppm on giant prawn
Postlarvae.

iii


CẢM TẠ
Xin chân thành cảm ơn:
Ban chủ nhiệm Khoa và tất cả quý thầy cô trong khoa Thủy Sản trường Đại
Học Nông Lâm TP. Hồ Chí Minh đã tạo điều kiện thuận lợi cho chúng tôi thực hiện
tốt đề tài này.
Thầy Phạm Văn Nhỏ - giáo viên hướng dẫn đã tận tình giúp đỡ nhiệt tình
trong thời gian thực hiện đề tài.
Các anh chị và các bạn trong khoa Thủy Sản và trong trường đã động viên và
giúp đỡ tôi trong quá trình thực hiện .
Do có nhiều hạn chế về mặt kiến thức nên chắc chắn không tránh khỏi những
thiếu soát. Rất mong sự đóng góp ý kiến của quý thầy cô và các bạn.

iv


PHẦN ĐỀ MỤC

MỤC LỤC


TRANG

Tên đề tài ..................................................................................................i
Tóm tắt tiếng việt ....................................................................................ii
Tóm tắt tiếng Anh...................................................................................iii
Cảm tạ.....................................................................................................iv
Mục lục ....................................................................................................v
Phụ lục và danh sách các bảng ..............................................................vii
Danh sách đồ thị và hình ảnh................................................................viii

I GIỚI THIỆU .............................................................................................1
1.1 Đặt Vấn Đề ........................................................................................1
1.2 Mục Tiêu Đề Tài ...............................................................................1
II TỔNG QUAN TÀI LIỆU ...........................................................................2
2.1 Sơ Lược Về Bronopol ........................................................................2
2.1.1 Nguồn gốc và tên gọi ......................................................................2
2.1.2 Phân loại .........................................................................................2
2.1.3 Những đặc điểm lý hoá học của Bronopol......................................3
2.1.4 Bronopol và môi trường ..................................................................5
2.1.5 Những nghiên cứu về Bronopol ......................................................9
2.1.6 Khả năng ứng dụng Bronopol trong thủy sản ...............................12
2.1.7 Khả năng sử dụng Bronopol thay thế Malachite Green ở Việt Nam
.......................................................................................................................13
III VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU .................................15
3.1 Thời Gian Và Địa Điểm Nghiên Cứu ..............................................15
3.2 Vật Liệu, Thiết Bị và Hoá Chất Thí Nghiệm ..................................15
3.2.1 Vật liệu và thiết bị ........................................................................15
3.2.2 Hóa chất ........................................................................................15
3.3 Phương Pháp Nghiên Cứu ................................................................15

3.3.1 Bố trí thí nghiệm ...........................................................................15
3.3.2 Thu thập số liệu ...........................................................................16
v


IV KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN ..................................................................18
4.1 Khảo sát hiệu quả sử dụng của Bronopol so với Formalan, Đồng
sulfat, Malachite green, Formalin .................................................................18
4.1.1 Ấp trứng cá rô đồng .....................................................................18
4.1.2 Ấp trứng cá chép ...........................................................................20
4.1.3 Ấp trứng tôm càng xanh................................................................22
4.2 Khảo sát LC50 của Bronopol đối với ấu trùng tôm càng xanh, cá rô phi
con, tép bò .....................................................................................................24
4.2.1 Khảo sát LC50 của Bronopol đối với cá rô phi con .......................24
4.2.2 Khảo sát LC50 của Bronopol đối với tép bò ..................................25
4.2.3 Khảo sát LC50 của Bronopol đối với hậu ấu trùng tôm càng xanh
...............................................................................................................26
V KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT .......................................................................28
5.1 Kết Luận ..........................................................................................28
5.2 Đề Xuất ...........................................................................................28
TÀI LIỆU THAM KHẢO .............................................................................29
PHỤ LỤC .....................................................................................................30
Phụ lục 1. Số trứng cá rô đồng nở được qua các lần ấp. ........................30
Phụ lục 2. Số trứng cá chép nở được qua các lần ấp..............................31
Phụ lục 3. Số ấu trùng tôm càng xanh nở được qua các lần ấp..............32
Phụ lục 4. Tỉ lệ chết của các đối tượng thí nghiệm theo nồng độ
Bronopol ................................................................................................33
Phụ lục 5. Xử lý thống keâ ......................................................................34

vi



DANH SÁCH CÁC BẢNG
Bảng

Nội dung

2.1 Độ hoà tan của Bronopol ở 22-25oC trong một số chất
hoà tan thông thường.

Trang
4

2.2 Thời gian bán huỷ của Bronopol khi được chuẩn bị
trong dung dịch đệm lỏng 300 ppm.

5

2.3 Bronopol tính độc trên không và dưới nước.

8

2.4 Liều dùng cho Bronopol cho mỗi lần ngâm tắm.

14

3.1 Nồng độ các hoá chất thí nghiệm

16


4.1 Hiệu quả sử dụng của các hoá chất thí nghiệm khi ấp trứng
cá rô đồng (trứng nở/trứng không nở).

18

4.2 Hiệu quả sử dụng của các hoá chất thí nghiệm khi
ấp trứng cá chép (trứng nở/trứng không nở)

26

4.3 Hiệu quả sử dụng của các hoá chất thí nghiệm khi
ấp trứng tôm càng xanh (trứng nở/trứng không nở).

23

4.4 Tỉ lệ chết của cá rô phi con sau 24 giờ (%-24h).

24

4.5 Tỉ lệ chết của tép bò sau 48 giờ (%-48h).

24

4.6 Tỉ lệ chết của hậu ấu trùng tôm càng xanh sau 48 giờ (%-48h).

25

vii



DANH SÁCH CÁC ĐỒ THỊ VÀ HÌNH ẢNH
Đồ thị

Nội dung

Trang

4.1 Tương quan giữa tỉ lệ chết của cá rô phi con và nồng độ.

25

4.2 Tương quan giữa tỉ lệ chết của cá tép bò con và nồng độ.

26

4.3 Tương quan giữa tỉ lệ chết của hậu ấu trùng tôm
càng xanh con và nồng độ.

27

Hình ảnh

Nội dung

2.1 Tinh thể Bronopol

Trang
3

viii



-1-

I. GIỚI THIỆU
1.1 Đặt Vấn Đề
Trong những năm gần đây, nuôi trồng thuỷ sản chẳng những giúp cho người
dân nuôi thuỷ sản từng bước cải thiện cuộc sống và trở nên khá giả mà còn góp phần
thu ngoại tệ cho quốc gia thông qua việc xuất khẩu thuỷ sản.
Xuất khẩu thuỷ sản ngày càng gặp nhiều khó khăn bên cạnh việc chống bán
phá giá là việc kiểm soát nghiêm ngặt dư lượng kháng sinh trong mặt hàng thuỷ sản
trong đó có kiểm tra dư lượng Malachite Green.
Bộ Thủy sản đã ban hành quyết định 20/QD-BTS ngày 12/12/2003 v/v sửa đổi,
bổ sung quyết định 344/2001/QD-BTS ngày 2/5/2001 và quyết định số 14/2002/QDBTS ngày 15/2/2004 quy định cấm nhập khẩu các sản phẩm chứa Malachite Green.
Cục Quản lý Chất lượng, An toàn Vệ sinh và Thú y Thủy sản đã có công văn
số 1070/CLTY-TY ngày 16/6/2004 v/v yêu cầu ngừng sản xuất và sử dụng Malachite
Green trong nuôi trồng thủy sản.
Ngày 28/11/2004 cơ quan an toàn thực phẩm Anh (British Food Safety
Administration) đánh giá về việc nhiễm dư lượng Malachite Green trong lô hàng
thuỷ sản Việt Nam có tính chất nghiêm trọng và đã yêu cầu Việt Nam trả lời về các
biện pháp kiểm soát dư lượng Malachite Green trong sản phẩm thuỷ sản và các hành
động khắc phục.
Đặc biệt riêng trong tháng 10 và 11/2004 đã có 10 lô hàng bị EU phát hiện
nhiễm hoá chất cấm sử dụng Malachite Green và chất chuyển hoá Green
leucomalachite tập trung vào các sảm phẩm là cá rô phi, cá trê, cá ba sa.
Ngày 19/12/2004 vừa qua cơ quan thanh tra thực phẩm Canada (the Canada
Food Inspection Agency) cũng cảnh báo kết quả kiểm tra từ tháng 8 đến đầu tháng
12/2004 đã có 24 lô hàng thuỷ sản của Việt Nam bị nhiễm Malachite Green.
Trước thực tế đó thì Bronopol là chất được chấp nhận của EU và một số nước
trên thế giới để thay thế Malachite Green, được sự phân công của Khoa Thủy Sản,

Trường Đại Học Nông Lâm chúng tôi thực hiện đề tài:” Khả năng ứng dụng Bronopol
trong nuôi trồng thủy sản”.
1.2 Mục Tiêu Đề Tài
Khảo sát khả năng kháng khuẩn, nấm của Bronopol so với Malachite Green,
Đồng sulfat, Formalin, Formalan. Tìm nồng độ kháng khuẩn, nấm có hiệu quả của
Bronopol.
Khảo sát LC50 của Bronopol đối với một số đối tượng thủy sản.


-2-

II. TỔNG QUAN TÀI LIỆU
2.1. Sơ Lược Về Bronopol.
Do Bronopol là một hợp chất mới, chưa có nhiều nghiên cứu về hợp chất này,
vì vậy phần tổng quan này, chúng tôi tổng hợp từ nhiều nguồn thông tin trên Internet
và các thông tư của Bộ Thủy Sản.
2.1.1. Nguồn gốc và tên gọi.
2.1.1.1 Nguồn gốc
Bronopol được phát hiện bởi The Boots Company PLC, Nottingham, England
đầu những năm 1960 và được sử dụng lần đầu tiên như là một chất bảo quản có tính
kháng khuẩn, được sử dụng trong dầu gội, mỹ phẩm, trong những nguyên liệu tiếp
xúc với thực phẩm và trong những chất dùng trong các thuốc chữa bệnh cho người.
2.1.1.2 Tên gọi
- Tên hóa học:

2-Bromo-2-Nitropropane-1,3-diol.

- Tên thương mại: Pyceze.
- Tên đồng danh: Bronosol, Onyxide 500, Bronocot, Bronidiol, Myacide as.
- Công thức phân tử:

- Công thức cấu tạo:

C3H6BrNO4.

2.1.2 Phân loại.
Bronopol được chính thức phân loại bởi EU như là R50 (rất độc đối với động vật
thuỷ sản) và R53 ( có thể gây nên những ảnh hưởng xấu và lâu dài cho môi trường)
do tính độc cấp thời đối với tảo và thật sự rằng Bronopol đã làm giảm điều kiện thử
nghiệm rất nghiêm ngặt được yêu cầu trong chai đậy kín 28 ngày để thử nghiệm khả
năng phân huỷ sinh học. Vì vậy Bronopol dán nhản là “Độc hại cho môi trường “ với
kí hiệu “N” và kí hiệu cá và cây chết.


-32.1.3. Những đặc điểm lý hoá học của Bronopol.
2.1.3.1 Hình dạng bên ngoài.
Bronopol được cung cấp dưới dạng tinh thể hay bột tinh thể có màu sắc thay đổi
từ trắng đến vàng nhạt tùy vào mức độ nguyên chất.

Hình 2.1 Tinh thể Bronopol.
2.1.3.2 Tỷ trọng
Tỷ trọng của Bronopol khoảng 1,1g/ml.
2.1.3.3 Áp suất bốc hơi
Áp suất bốc hơi của Bronopol ở 200C là 1,26x10-5 mmHg tương đương với
1,68x10-3 Pa. Ở nhiệt độ cao hơn áp suất bốc hơi là 0,006 Pa ôû 42oC; 0,143 Pa ôû 48oC
vaø 0,357 Pa ôû 54oC.
2.1.3.4 Tính bền vững ở dạng rắn.
Khi được cung cấp Bronopol có thể bền vững tối thiểu là 3 năm khi được bảo
quản trong điều kiện tốt. Tính bền vững của Bronopol như là một chất rắn tinh thể
kéo dài đến 12 tháng dưới điều kiện thay đổi về nhiệt độ, ẩm ướt tiếp xúc trực tiếp
với ánh sáng mặt trời. Kết quả này cho thấy vật chất này ổn định và không có bằng

chứng nào cho thấy sự phân hủy do ánh sáng trong suốt thời gian nghiên cứu.


-42.1.3.5 Điểm nóng chảy
Vì là vật chất nguyên chất, Bronopol có điểm nóng chảy vào khoảng 130oC.
Tuy nhiên do đặc điểm polymorphic, Bronopol trải qua giai đọan tái sắp xếp cấu trúc
ở 100-150oC và điều này thường được giải thích nhầm là điểm nóng chảy. Ở 140oC ,
Bronopol bị phân hủy tỏa nhiệt, giải phóng ra hydrogen bromide và nitrogen oxide.
2.1.3.6 Độ hòa tan
Bronopol dễ dàng hòa tan vào nước mặc dù tiến trình hòa tan là thu nhiệt.
Bronopol hòa tan kém trong những chất hòa tan không phân cực nhưng cho thấy một
hấp lực cao đối với chất hòa tan phân cực hữu cơ.
Bảng 2.1 Độ hoà tan của Bronopol ở 22 – 25oC trong một số chất hoà tan thông
thường.
Chất hoà tan
Nước
Methanol
Ethanol
Isopropanol
Ethylene Glycol
Propylen Glycol
Dipropylene Glycol
Dầu hạt gòn
Dầu Olive
Parrafin lỏng

% khối lượng/ thể tích
28
89
56

41
61
52
48
<0.5
<0.5
<0.5

2.1.3.7 Độ bền vững trong dung dịch lỏng
Trong dung dịch lỏng, Bronopol rất bền vững khi pH của hệ thống ở mức acid
hay trung hòa. Trong điều kiện thiếu hụt chất đệm, dung dịch Bronopol tự bền vững
hóa. pH tối ưu cho sự ổn định của Bronopol là pH = 4 và dữ liệu từ nghiên cứu dung
dịch pha loãng của Bronopol (0.03%) thời gian bền vững giảm đi một nữa ở nhiệt độ
22 – 25oC và pH 4 là vượt quá 5 năm. pH tăng cao dung dịch Bronopol trở nên kém
bền vững hơn, nhiệt độ cũng ảnh hưởng đáng kể đến độ bền vững của Bronopol trong
những hệ thống kiềm.


-5Bảng 2.2 Thời gian bán hủy của Bronopol khi được chuẩn bị trong dung dịch đệm
lỏng 300ppm.
Nhiệt độ
5oC
25oC
40oC
60oC

pH = 4
> 5 naêm
> 5 naêm
2 naêm

2 naêm

pH = 6
> 5 naêm
> 5 năm
4 tháng
< 2 ngày

pH = 8
6 tháng
4 tháng
8 ngày
< 1 ngày

Thời gian này xuất phát từ phân tích sắc ký quang phổ lỏng áp suất cao trong
dung dịch pha loãng.
2.1.3.8 Độ bền vững quang học trong dung dịch
Rab (1890) đưa dung dịch lỏng Bronopol (0.1 và 1%) tiếp xúc với nguồn UV áp
suất cao. Những bức xạ được thực hiẹân ở khoảng 20 cm với việc làm lạnh và trộn lẫn
trong khoảng thời gian 30 phút. Mỗi 5 phút mẫu thu được và sự hâùp thu nhiệt được
xác định qua bước sóng 200 – 700 nm. Đường cong hấp thụ của dung dịch Bronopol
trước và sau khi chiếu bức xạ cho thấy rằng Bronopol rất bền vững trong dung dịch
lỏng khi tiếp xúc với tia UV trong thời gian ngắn. Dưới những điều kiện thử nghiệm
này, Bronopol ở nồng độ rất thấp có thời gian bán hủy trong khoảng 24 giờ.
2.1.3.9 Sự phân hủy Bronopol
Khi những điều kiện gây nên sự phân hủy Bronopol ở dạng dung dịch lỏng, một
mức rất thấp formaldehyde được sinh ra. Những sản phẩm khác được phát hiện sau
khi Bronopol bị phân hủy là ion bromide, ion nitrite, bromonitroethanol và 2hydromethyl-2-nitropane-1,3-diol.
2.1.4 Bronopol và môi trường
2.1.4.1 Hàm lượng kim loại nặng

Kiểm tra hàm lượng hàm lượng kim loại nặng cuả Bronopol được cung cấp bởi
công ty hoá chất Jiangsu Jingling cho thấy dưới mức cho phép như chì và atimon (3
ppm) và kim loại khác như cadmium, thuỷ ngân (1 ppm). Sự nhiễm độc kết hợp của
kim loại nặng tổng cộng thì không vượt quá 10 ppm. Sử dụng ở nồng độ 200 ppm cuả
Bronopol cho kết quả thấp hơn 2 ppb.


-62.1.4.2 Sự phân huỷ kháng sinh
Trong nghiên cứu trước đây, người ta đã phát hiện thấy sự phân hủy Bronopol
gia tăng nhanh chóng khi nhiệt độ gia tăng và trong môi trường kiềm. Sự bền vững
gia giảm đi một nữa của Bronopol ở 22oC chỉ trong vòng 4 tháng ở pH 8 so với
khoảng thời gian 5 năm ở pH 6 và pH 4.
Trong một nghiên cứu gần đây, nồng độ Bronopol 5 và 15ppm ở pH 7 được
trữ ở nhiệt độ phòng và 40oC. Cả hai nồng độ đều đưa đến thời gian bán hủy giảm đi
trong vòng 20 giờ ở nhiệt độ phòng và khoảng 2 giờ ở nhiệt độ 40oC.
Sự gia tăng phân hủy Bronopol ở nồng độ thấp đã được xác định trong nghiên
cứu sự phân hủy Bronopol trong nước biển. Bronopol 300 ppm cho thấy sự phân hủy
nhanh chóng vào ban đầu mà đạt đến trạng thái gần cân bằng trước khi phân hủy
50%. Trái lại, ở nồng độ thấp hơn mức 50 và 20 ppm cho thấy thời gian bán hủy theo
thứ tự là13 và 8 giờ.
Sự quan trọng của ánh sáng đối với sự phân hủy của Bronopol cũng được chứng
minh khi dung dịch Bronopol 200 ppm ở pH 6 được trữ trong vòng 1 tháng ở 30oC.
Trong điều kiện che tối, khả năng hoạt hóa của Bronopol là 72% nhưng trong điều
kiện chiếu sáng chỉ có 5% là hoạt hóa. Sự phân hủy của Bronopol trong nước sinh
hoạt nhanh hơn trong nước cất.
Trong một nghiên cứu về sự phân hủy của Bronopol đối với ánh sáng, dung dịch
Bronopol được pha loãng còn 5 ppm cho thấy thời gian bán hủy là 24 giờ dưới điều
kiện chiếu sáng liên tục ở pH 4 và 25oC. Chỉ có 13% còn xót lại sau 3 ngày và phân
hủy hoàn toàn vào ngày thứ 7.
2.1.4.2 Sự phân huỷ sinh học

Trong thí nghiệm kiểm tra khả năng phân huỷ sinh học thực hiện trong chai
chuẩn đậy kín trong 28 ngày. Bronopol ở nồng độ 3 và 6ppm không bị phân huỷ sinh
học bởi vi khuẩn.
Khả năng phân huỷ sinh học hiện thời của Bronopol đã được chứng tỏ rõ ràng
trong một thử nghiệm Zahn-Wellens khi 50% Bronopol bị phân hủy vào ngày thứ 45.
Tuy nhiên, môi trường nuôi cấy (100 mg/l) không được trải qua trước khi thích ứng.
Sự phân huỷ ban đầu rõ ràng âm tính do sự gia tăng cacbon hữu cơ hoà tan từ những
tế bào nuôi cấy bị phân huỷ. Môi trường nuôi cấy còn sống có thể sử dụng nguyên
liệu tế bào đã bị tiêu tan cũng như Bronopol.


-7Trong một nghiên cứu phân hủy trong nước dưới điều kiện hiếu khí sử dụng 14C
cho thấy Bronopol 1 ppm bị phân huỷ hoàn toàn bởi vi sinh vật. Vào ngày 21, hơn
80% 14C hiện diện hoặc như là CO2 hay ở dạng sinh khối. Bronopol cũng bị phân
huỷ hoàn toàn vào ngày thứ 3 và một chất chuyển hoá chủ yếu (có thể là
trihydroxymethylnitromethane hay 2-nitropropan-1,3diol) được hình thành, mà sau
đó cũng bị phân huỷ hoàn hoàn vào ngày thứ 17.
2.1.4.3 BOD/COD
Nhu cầu oxy sinh hoá học (BOD) đïc phát hiện là không xảy ra ở Bronopol ở
mức độ 100 đến 1000 ppm trong khi đó nhu cầu sinh hoá học (COD) được xác định là
57 ppm và 606 ppm theo thứ thự. Kết quả nhu cầu BOD không đáng kể có thể là do
hoạt động diệt vi khuẩn cuả Bronopol.
2.1.4.4 Sự hấp phụ cuả đất
Khả năng hấp thụ ở mức thấp trong đất và chất lắng tụ cho thấy sự hấp phụ
thấp (25%) đối với đất cát, cát thịt và đất sét thịt. Đất thịt có pH thấp hơn 3 loại đâùt
còn lạị cho thấy mức độ cao hơn một ít.
2.1.4.5 Tính độc dưới nước
Bronopol có tác dụng chống lại một số loại tảo như Schenedesmus ssp, Nostoc
ssp, Oodinuim ssp, Phormidium foveolarum và Chrorella emersonii với mức độ ức
chế tối thiểu ở nồng độ 6-50 ppm.

Một nghiên cứu gần đây về ức chế sự tăng trưởng cuả tảo (OECD 201), 3 loài
tảo (Selanastrum capriornutum, Schenedesmus subspicatus và chlorella vulgaris) đã
cho 72 giờ IC50 trong khỏang 0,4-1,9 mg/l với giá trị trung bình là 1,2 mg/l.
Trong một nghiên cứu sinh sản Dapnia kéo dài 21 ngày (OECD 202), Bronopol
nồng độ 0,27ppm đã không giảm số lượng thế hệ con.
Trong nghiên cứu trên sinh vật thuỷ sản, Bronopol độc đối với Dapnia (EC50 là
1,4 ppm) nhưng không độc đối với cá. Trong một thử nghiệm 96 giờ trên một vài loài
cá, bao gồm cá hồi (Salmo gaidneri), cá sóc đầu cừu (Cypridon variegatus) và cá thái
dương (Lepomis machrochirus) giá trị LC50 nằm trong khoảng 35 và 58 ppm.


-82.1.4.6 Tính độc trên không
Bronopol có tính độc trong không khí thấp và gần như không có tiếp xúc trực
tiếp nào với những chủng quần nào sống trên không. Trong những nghiên cứu về
khẩu phần thức ăn cuả loài vịt Anas platyrhynchus và cò Colinus virginianus giá trị
LD50 của 2 loài là hơn 5000 ppm. Tuy nhiên, đối với vịt được xử lý bằng cách đưa
Bronopol vào đường miệng với liều nửa gây chết LD50 là 510 ppm.
Bảng 2.3 Bronopol tính độc trên không và dưới nước.
Loài
Daphnia magna
Crassotrea gigas
(ấu trùng hàu)
Salmo gairdneri
(cá hồi)
Cpridon variegatus
(cá sóc đầu cừu)
Lepomis macrochinos
(cá thái dương)
Anas Platyrhynchus
(Mallard – vịt trời)

Colinus virginianus
(Bobwhite quail – cút)

Mức độ tối đa không
ảnh hưởng
NR
0.32

Liều gây chết

EC,LD hay LD50

0.56
0.56

1.4
1.7

NR

3.3

5.9

32

32

41.2


18

32

35.7

(1) <100
(2) < 100
(2) 500

215
5000
1000

510
>10000
7379

- Giá trị dùng trong bảng là ppm.
- Kết quả vaò lúc 96 giờ cho các loài thuỷ sản ngoại trừ Daphnia và ấu trùng hàu (48
giờ) NR = không ghi nhận được.
2.1.4.3 Tác động môi trường
Việc sử dụng những sản phẩm chăm sóc cá nhân và gia đình như dầu gội, sữa
tắm và những chất tẩy rửa được bảo quản bằng Bronopol có thể đạt 50
ml/người/ngày. Ở mức bảo quản 200 pppm, điều này đưa đến kết quả là có khoảng
10 mg Bronopol/người vào nước thải sinh hoạt mỗi ngày.Trong thể tích nước thải
chuẩn 500 l/người/ngày điều này sẽ dẫn đến một nồng đôï Bronopol 0.002 ppm trong
dòng chảy tới điểm xử lí chất thải. Việc thải nước 150 l/ ngày vào sông với tốc độ
chảy là 2500 l/ngàysẽ dẫn đến nồng độ lý thuyết của Bronopol là 0,00012 ppm trong
nước sông. Nồng đôä vẫn còn dưới mức gây độc cuả Bronopol đối với động vật thuỷ

sản và có thể bị suy giảm do ảnh hưởng cuả phân huỷ sinh học và vô cơ.


-92.1.5. Những nghiên cứu về Bronopol.
Bronopol được báo cáo là có hoạt tính chống lại nhiều loại vi khuẩn nhưng kém
hoạt động hơn đối với nấm mốc và nấm men. Kiểu hoạt động kháng khuẩn chính
xác của Bronopol thì không được biết tường tận. Người ta tin rằng Bronopol gây nên
sự ức chế enzym dehydrogenase chứa thiol mà enzym này là màng bao, gây nên tình
trạng bất hình thành và mất nối kết tế bào. Không có dữ liệu nào về ảnh hưởng phụ
của Bronopol trên động vật trong phòng thí nghiệm. Những nghiên cứu về độ độc
của liều sử dụng lặp lại được thực hiện trong những năm đầu 1970 khi những chỉ tiêu
về huyết áp và điện tim không được kiểm tra định kỳ. Hậu quả là có thể có vài ảnh
hưởng của Bronopol bị bỏ sót.
Bronopol có tính tương đối độc cấp tính, giá trị độc cấp tính LD50 nằm trong
khoảng 180 – 400 mg/kg trọng lượng thân đối với chuột và 250 – 500 mg/kg trọng
lượng thân đối với chuột con. Đối với chuột, dấu hiệu độc thường được quan sát trong
30 phút cho ăn, bao gồm sự làm dịu, trào nước bọt, thở khò khè, ngáp lấy hơi, chảy
nước mũi, xanh mét và hoảng loạn. Kiểm tra tổng quát về tình trạng bệnh lý của chết
phát hiện thấy có những thương tổn trong dạ dày-ruột, tụy tạng nhỏ và thượng thận
biến màu tối, trương phồng. LD50 cấp tính sau khi chuột được cho ăn được báo cáo là
hơn 1600 mg/kg trọng lượng thân. Ở chuột, giá trị LD50 sau khi hít khí Bronopol là 5
mg/l.
Những nhóm 20 chuột (CD sông Charle)/giới tính/liều được cho uống với liều 0
(nước cất), 20, 80 hay 160 mg Bronopol/kg trọng lượng thân mỗi ngày trong 13 tuần.
Tất cả chuột được cho tỉ lệ 160 mg Bronopol/kg trọng lượng thân đều chết hay bị làm
chết vào ngày thứ 9 của thử nghiệm. Bảy con đực và 9 con cái ở liều 80 mg
Bronopol/kg trọng lượng thân cũng chết. Dấu hiệu rõ ràng nhất của độc tính được
quan sát ở liều 80 và 160 mg Bronopol/kg trọng lượng thân và bao gồm sự ngưng trệ
hô hấp và sự phồng lên của bụng. Tăng trọng cơ thể và sự tiêu thụ thức ăn có ảnh
hưởng xấu ở mức 80 và 160 mg/kg trọng lượng thân những thay đổi bệnh lý ở chuột

mà đã chết do sự trương phồng khí hay chất lỏng trong ống dạ dày ruột, sự sưng các
khoang phổi và những thay đổi quá mức của tuyến giáp trạng. Bệnh lý mô học đã cho
thấy những thay đổi của thận (những ống mở rộng chứa các chất ưa màu eosin) trong
2 chuột ở liều 20 mg Bronopol/kg trọng lượng thân và 2 chuột ở liều 80 mg
Bronopol/kg trọng lượng thân. Những nghiên cứu khó tiến hànhâ với một khoảng có
giới hạn những điều tra về hoá học, bệnh lý mô học và không có một phân tích cho
giải pháp các liều ứng dụng. Không có một NOEL nào được hình thành.
Nhóm những con chó Beagle được cho uống với liều 0 (nước cất), 4, 8 hay 20
mg Bronopol/kg trọng lượng thân mỗi ngày trong 13 tuần. Trong 6 tuần đầu tiên, chó
được uống với liều 20 mg Bronopol/kg trọng lượng thân thì ói ra sau 30 phút tiếp xúc
với thuốc. Sau đó, những con chó được cho ăn 2 giờ trước khi tiếp xúc thì chỉ có 1 chó
có triệu chứng ói. Sau 12 tuần tiếp xúc với liều Bronopol, số lượng tế bào bạch huyết
giảm đáng kể trong nhóm với liều 8 và 20 mg Bronopol/kg trọng lượng thân. Vaøo


- 10 cuối thời gian thí nghiệm, trọng lượng tương đối và tuyệt đối của tụy tạng, trọng
lượng tương đối trung bình của gan tăng đáng kể ở nhóm tiếp xúc với liều 20 mg
Bronopol/kg trọng lượng thân nhưng không có tương quan về thay đổi bệnh lý.
Những nghiên cứu về mức chịu đựng đối với đối tượng nghiên cứu được thiết lập
đối với trứng cá hồi. Tỷ lệ chết cho thấy sự khác nhau rõ ràng giữa những điểm và
những lô trứng khác nhau ở cùng một vị trí. Tuy nhiên, tỉ lệ chết tổng cộng vào thời
điểm nở trong những nhóm có xử lý Bronopol thì có thể ngang bằng với những nhóm
có xử lý với Malachite Green và thấp hơn đáng kể đối với nhóm đối chứng không có
xử lý.
Kết quả âm tính đã ghi nhận được trong một nghiên cứu trong phòng thí nghiệm
đối với các đột biến gen của cá Salmonella typhimurium G46,
TA1535,TA1536,TA1537,TA1538,TA98 và TA100, trong vi khuẩn E. coli WP2,
UvrA, CM561 và CM611 và một nghiên cứu trong phòng thí nghiệm về đột biến gen
của các tế bào chuột đồng Trung Quốc. Trong một thử nghiệm qua trung gian vật
chủ, những nhóm chuột cái được cho uống những liều 0,12.5, 25 hay 50 mg

Bronopol/kg trọng lượng thân/ngày trong 6 ngày với liều cuối cùng tiếp theo sau loài
chỉ thị Salmonella typhimurium TA1538; kết quả âm tính đã ghi nhận được.
Trong một thử nghiệm về di truyền học tế bào về những lymphosis của con
người, có sự gia tăng đáng kể về khả năng sinh sản trong phần trăm các tế bào biến
dạng ở nồng độ cao nhất 30 μg/ml trong điều kiện thiếu hụt các hoạt động trao đổi
chất. Điều này cũng chỉ ra rằng Bronopol phân hủy để hình thành clastogen
formaldedehyde dưới điều kiện nuôi được hình thành và sản sinh ra 1 sự gia tăng liều
lượng các sai hình thể nhiễm sắc trong thử nghiệm tương tự. Vì vậy, kết quả dương
tính trong thử nghiệm di truyền ở phòng thí nghiệm với Bronopol có thể là do sản
phẩm phân hủy formaldehyde. Kết quả âm tính đạt được trong một thử nghiệm vi
phân tử xảy ra ở những nhóm chuột được cho uống với liều 80 và 160 mg
Bronopol/kg trọng lượng thân và tủy xương cũng thu được vào 24, 48 và 72 giờ sau
đó. Những kết quả âm tính cũng đạt được ở những thử nghiệm về ngưỡng gây chết ở
những nhóm chuột đực được xử lý cho uống những liều 20 hay 60 mg/kg trọng lượng
thân/ngày trong 6 ngày hay 1 liều tiêm dưới da với liều 10 mg Bronopol/kg trọng
lượng thân trước khi giao phối với những con cái không có xử lý. Thí nghiệm kết luận
rằng Bronopol không gây độc trên gen.
Một nghiên cứu khả năng gây ung thư được thực hiện ở những nhóm chuột
Carworth CFLP/giới tính/liều được xử lý với 0, 0.2 hay 0.5% dung dịch Bronopol
(trong 90% acetone/nước). Vùng nghiên cứu sẽ được cạo sạch lông và chất thử
nghiệm sẽ được áp dụng với liều 0,3 ml/chuột trong 3 ngày mỗi tuần, trong 80 tuần.
Những liều tương ứng là 0, 0.9/6.5 và 12.7/16.5 mg Bronopol/kg trọng lượng thân
ngày trên con đực/con cái theo thứ tự. Tăng trọng trung bình giảm đáng kể ở chuột
đực được sử dụng liều Bronopol cao nhất 0.5% nhưng sự tiêu thụ thức ăn không bị
ảnh hưởng của việc xử lý. Nghiên cứu được thực hiện những năm đầu 1970 và chỉ soá


- 11 lượng có giới hạn của những mô tế bào được xem xét dưới kính hiển vi vào thời gian
đó.
Vào khoảng 10 năm sau đó, những mô còn lại từ những nhóm mới được kiểm tra

tiếp. Những bản báo cáo kết hợp kết quả của những thí nghiệm trước đó đã cho thấy
một biến chứng về những gai thịt trên vùng da xử lý có liên quan đến thử nghiệm
nhưng chưa được báo cáo; gai thịt được phát hiện trên một con đực và 3 con cái được
xử lý với liều cao 0.5% Bronopol nhưng không có trên những nhóm khác; ở những
con cái, biến chúng về gai thịt cho thấy một khuynh hướng dương tính có ý nghóa
thống kê (p<0.033). Cũng có sự gia tăng về biến chứng phát triển quá mức những nốt
sần trên gan con đực được xử lý ở liều 0.5% (tương đương với 12.7/16.5 mg
Bronopol/kg trọng lượng thân/ngày ở con đực/con cái) là một hệ quả ảnh hưởng dị
ứng vùng không độc di truyền của Bronopol.
Trong một nghiên cứu kết hợp ung thư và độc mãn tính, những nhóm 45 con
chuột từ dòng Spague-Dawley/giới tính/liều được xử lý bằng cách cho Bronopol vào
nước uống ở liều lượng 0, 10, 40 hay 160 mg Bronopol/kg trọng lượng thân/ngày
trong 104 tuần. Những nhóm kèm theo gồm 15 con/giới tính/liều được sử dụng cho
việc lấy mẫu máu và không nằm trong nhóm theo dõi ung thư. Tỷ lệ chết đáng kể ở
nhóm 160 mg Bronopol/kg trọng lượng thân/ngày với chỉ 20% con đực và 38% con
cái từ nhóm chính sống sót đến cuối thử nghiệm. Tăng trọng và sự tiêu thụ thức ăn
giảm đáng kể ở những nhóm 40 và 160 mg Bronopol/kg trọng lượng thân/ngày. Có
xảy ra việc giảm uống nước liên quan đến liều xử lý một cách đáng kể. Không có
mối liên hệ giữa liều xử lý với các giá trị hồng cầu và các chất hóa học bệnh lý khác.
Phân tích nước tiểu được thực hiện ở nhóm đối chứng và 160 mg Bronopol /kg
trọng lượng thân/ngày cho thấy những chuột ở liều 160 mg Bronopol/kg trọng lượng
thân/ngày tiết ra thể tích nước tiểu thấp hơn. Nghiên cứu đã được thực hiện trong suốt
đầu những năm đầu thập niên 1970 và chỉ số lượng có giới hạn của những mô tế bào
được xem xét dưới kính hiển vi vào thời gian đó.Vào khoảng 10 năm sau đó, những
mô còn lại từ những nhóm mới được kiểm tra tiếp. Một vài gai thịt xuất hiện ở dạ dày
trước đã được phát hiện ở những con đực được xử lý nhưng biến chứng này không có
ý nghóa thống kê. Một khoảng các lở loét không ung thư cũng được quan sát và xuất
hiện có liên quan đến những ảnh hưởng dị ứng của Bronopol: lở loét, thừa lớp sừng ở
dạ dày trước ở nhóm 160 mg Bronopol/kg trọng lượng thân/ngày, một biến chứng về
giản nở các tuyến dạ dày ở nhóm 40 mg Bronopol/kg trọng lượng thân/ngày, một

biến chứng về gia tăng lớp sừng ở biểu mô thực quản và hay lở loét ở nhóm 40 và
160 mg Bronopol/kg trọng lượng thân/ngày, một biến chứng gia tăng sự lở loét của
tuyến nước bọt ở nhóm 40 và 160 mg Bronopol/kg trọng lượng thân/ngày, biến chứng
về giản nở tuyến ở khí quản, lở lưỡi ở nhóm 40 và 160 mg bronopol/kg trọng lượng
thân/ngày. Một nghiên cứu tiếp theo đó về độ bền vững của Bronopol dưới điều kiện
như được đề nghị rằng liều thực sự 7, 32, 142 mg Bronopol/kg trọng lượng thân/ngày
có hiệu quả hơn là 10, 40 và 160 mg Bronopol/kg trọng lượng thân/ngày. Nghiên cứu


- 12 không thích hợp như một đánh giá khả năng gây ung thư từ kích thướt nhóm nhỏ và tỉ
lệ sống thấp.
Những nghiên cứu về tính nhạy cảm được thực hiện trên chuột lang sử dụng test
Magnussen và Kligman. Trong những thử nghiệm này khả năng gây nhạy cảm của
Bronopol thấp. Khả năng thấp này còn được xác định ở những thử nghiệm trên
những người tình nguyện, không có bằng chứng nào về tính nhạy cảm của Bronopol
trên 120 người. Bảy đề tài với những phản ứng dị ứng da ở trong một thử nghiệm
khác được phát hiện ở 127 bệnh nhân.
Không có dữ liệu về trao đổi chất, dược lý hay sự giảm các dư lượng được cung
cấp đối với Bronopol ở những đối tượng nghiên cứu. Ở động vật hữu nhũ, Bronopol
nhanh chóng chuyển hoá và được tiết ra ngoài, dư lượng Bronopol không được
chuyển hoá đã không thể phát hiện trong huyết tương hay nước tiểu ở bất kỳ thời
điểm nào.
Bronopol cũng cho thấy nhanh chóng bị thuỷ phân trong dung dịch. Vì sự tăng
trưởng các loài cá hồi đến kích cỡ thương phẩm kéo dài tối thiểu 12 tháng từ khi nở,
điều này có thể kết luận rằng dư lượng Bronopol được sử dụng để sử lý trứng trong
một khoảng thời gian sẽ biến mất.
2.1.6 Kh năng ứng dụng Bronopol trong thủy sản.
Hiện giờ Bronopol được đề nghị sử dụng trong việc xử lý tắm trứng cá hồi nuôi
để kiểm soát việc lây nhiễm nấm với liều 50 mg Bronopol/l nước trong 30 phút.
Trong suốt quá trình ấp trứng đã xử lý tắm trứng 8 lần, mỗi lần 30 phút.

Một thử nghiệm được tiến hành đánh giá sự hữu dụng của Bronopol như thế nào
khi ngăn cản sự lây nhiễm Saprolegnia trên cá hồi rainbow. Bronopol là một nhân tố
gây ức chế enzym. Tám mươi cá bố mẹ được sử dụng thử nghiệm trong thí nghiệm
này, thí nghiệm được thực hiện sau khi vuốt trứng cá. Nhóm 80 cá được phân thành 4
nhóm, mỗi nhóm 20 cá bố mẹ và được nuôi ở những khu vực nước chảy riêng biệt.
Hai nhóm được chữa trị bằng Bronopol ở nồng độ 20 mg/l trong 30 phút mỗi ngày, 2
nhóm còn lại chỉ sử thuốc để trấn an trong vòng 15 ngày.
Kết quả là cá được xử lý Bronopol thì mức độ lây nhiễm tiếp là zero cho tới cuối
thời gian thử nghiệm so với 40% và 70% cho mỗi nhóm bị nhiễm vào lúc bắt đầu thử
nghiệm, trong khi đó nhóm cá không được xử lý cho thấy sự gia tăng nhiễm bệnh từ
35% lên 55% và 45% lên 74% cho mỗi nhóm. Những bệnh trên cá không được xử lý
có thể lây nhiễm từ nước sông được sử dụng trong hệ thống nước chảy trong suốt thời
gian thử nghiệm, trong khi đó những cá được xử lý với Bronopol có khả năng bảo vệ
chống lại sự lây nhiễm. Những phản ứng phụ không xảy ra khi sử dụng Bronopol.


- 13 Bronopol được EU cho phép sử dụng để trị bệnh ở cá, được liệt kê trong phụ lục
II chỉ thị 2377/90/EEC (Danh mục các chất được sử dụng không qui định giới hạn dư
lượng).
Theo đánh giá của cơ quan bảo vệ môi trường Hoa Kỳ (US-Environment
Protection Administration) thì Bronopol không phải là chất gây ung thư. Các nghiên
cứu của EPA cho thấy:
Trong vùng nước ngọt : ở vùng nước lạnh và vùng nước ấm Bronopol có độc tính
nhẹ đối với cá, độc tính trung bình đối với động vật không xương sống.
Trong vùng nước lợ Bronopol có độc tính nhẹ với cá, độc tính trung bình đối với
tôm.
Trong vùng nước mặn Bronopol có độc tính cao hơn mức trung bình đối với
động vật không xương sống nước mặn.
Bronopol là hóa chất diệt khuẩn có thể hạn chế sự phát triển của vi sinh vật (vi
khuẩn, nấm, vi tảo).

Cơ quan Thuốc thú y Anh và Pháp (British and French Veterinary Medicine
Departments) đã cho phép sử dụng sản phẩm “Pycezy” có hoạt chất chính là
Bronopol để thay thế Malachite Green trong điều trị một số bệnh nấm, vi khuẩn ở cá
hồi.
2.1.7 Khả năng sử dụng Bronopol thay thế Malachite Green ở Việt Nam
Do hiện nay chưa có các tài liệu hướng dẫn cụ thể việc sử dụng Bronopol để
điều trị các bệnh cho các loại cá da trơn, tôm…Khuyến cáo chung là nên nhập khẩu
để khảo nghiệm trên các đối tượng thuỷ sản nuôi tại Việt Nam.
Song song với việc nhập khẩu khảo nghiệm, do nhu cầu thực tế cần có chất thay
thế ngay Malachite Green trong điều trị một số bệnh nấm, ký sinh trùng ở cá nên
người nuôi được phép dùng Bronopol để điều trị các bệnh nấm, bệnh ký sinh trùng
trên cá.Khi sử dụng cần tham khảo ý kiến các nhà chuyên môn và một số thông tin
chính về việc sử dụng Pyceze ở cá hồi như sau:
- Không sử dụng thuốc đối với trứng cá dùng cho người ăn.
- Không trộn thuốc với với chế phẩm khác trong cùng một khu ngâm tắm bệnh.


- 14 Bảng 2.4 Liều dùng Bronopol cho mỗi lần ngâm tắm.
Pyceze (Bronopol dưới dạng thương mại)

Chỉ định
Phòng và trị bệnh
nấm trứng cá hồi
Phòng và trị bệnh
nấm ở cá hồi.

Liều lượng
Bronopol (ppm)

Liều lượng

Pyceze (ml/m3)

50

100

Thời gian
ngâm tắm
(phút)
30

20

40

30


- 15 -

III VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
3.1 Thời Gian Và Địa Điểm Nghiên Cứu
Đề tài được thực hiện từ tháng 03/2006 đến tháng 08/2006 tại trại Thực nghiệm
Trường Đại Học Nông Lâm Thành Phố Hồ Chí Minh.
3.2. Vật Liệu, thiết bị và hoá chất thí nghiệm
3.2.1 Vật liệu và thiết bị
+ Cân điện tử.
+ Đóa petri,ống đong 1000ml, ống xilanh 10 ml và ống hút.
+ Các lon nhựa có dung tích 1l và các thùng xốp để đựng các lon nhựa và đóa
petri.

+ Thau nhựa, xô nhựa, muỗng.
3.2.2 Hóa chất
+ Formalan.
+ Bronopol.
+ Đồng sulfat (CuSO4).
+ Malachite green.
+ Formalin.
3.3 Phương Pháp Nghiên Cứu
3.3.1. Bố trí thí nghiệm
Thí nghiệm được chia làm hai phần:
3.3.1.1 Khảo sát khả năng kháng khuẩn, nấm của Bronopol so với Formalan, Đồng
sulfat, Malachite green, Formalin.
Qua tham khảo nồng độ sử dụng các sản phẩm cũng như từ các thử nghiệm
ban đầu trên các hóa chất khác nhau, chúng tôi chọn nồng độ thử nghiệm cuối cùng
theo bảng 3.1.


- 16 Bảng 3.1 Nồng độ các hoá chất thí nghiệm.

Hoá chất thí nghiệm
Formalan
Bronopol
Đồng sulfat
Malachite green
Formalin

0
0
0
0

0

Nồng độ (ppm)
0.5
1
10
20
1.5
1
1
2
20
40

2
40
2
4
80

Mỗi hoá chất được bố trí gồm 4 nghiệm thức (NT) : 1 NT đối chứng và 3 NT
còn lại với 3 nồng độ theo bảng 3.1. Mỗi NT thí nghiệm được lặp lại 3 lần.
Trứng tôm càng xanh được ấp trong đóa petri (30 trứng/đóa petri), nước ấp trứng
có độ mặn 6% (được đo bằng khúc xạ kế). Các đóa petri được xếp vào thùng xốp và
được đặt nơi thoáng, khô ráo tạo điều kiện cho phôi được phát triển tốt.
Pha nước ấp trứng tôm càng xanh: nước có độ mặn 6‰ được pha từ nước biển
và nước máy được chứa cho hết Clo. Cho 500 ml nước 6‰ vào lon nhựa 1L, để pha
thuốc được dễ dàng ta pha trước dung dịch thuốc 1000 ppm sau đó pha loãng theo
nồng độ cần thí nghiệm.
Nước ấp trứng tôm càng xanh được thay hàng ngày cho đến khi thấy ấu trùng

xuất hiện.
3.1.1.2 Khảo sát LC50 của Bronopol đối với hậu ấu trùng tôm càng xanh, cá rô phi
con, tép bò.
Tép bò, ấu trùng tôm càng xanh được bố trí làm 5 lô: 1 lô đối chứng, 4 lô còn lại
tương ứng với các nồng độ Bronopol: 10 ppm, 20 ppm, 40 ppm, 80 ppm.
Cá rô phi con cũng được bố trí làm làm 5 lô: 1 lô đối chứng, 4 lô còn lại tương
ứng với các nồng độ Bronopol: 5 ppm, 10 ppm, 20 ppm, 40 ppm.
Thí nghiệm được lặp lại 3 lần.
Nước dùng thí nghiệm ấu trùng tôm càng xanh có độ mặn 12‰ và bổ sung
Artemia đảm bảo điều kiện cho ấu trùng được sống tốt khi thí nghiệm. Nước dùng
cho cá rô phi con là nước máy được chứa trong bể cho hết Clo.


×