Tải bản đầy đủ (.pdf) (61 trang)

NGHIÊN CỨU THỰC TRẠNG TÌM KIẾM TÀI LIỆU BẰNG TIẾNG ANH TRÊN INTERNET CỦA SINH VIÊN ĐẠI HỌCNÔNG LÂMTHÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (980.95 KB, 61 trang )

BỘ GIÁO DỤC & ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM TP.HỒ CHÍ MINH
KHOA NGOẠI NGỮ SƯ PHẠM

BÁO CÁO TỐT NGHIỆP
ĐỀ TÀI:

NGHIÊN CỨU THỰC TRẠNG TÌM KIẾM TÀI
LIỆU BẰNG TIẾNG ANH TRÊN INTERNET CỦA
SINH VIÊN ĐẠI HỌCNÔNG LÂMTHÀNH PHỐ
HỒ CHÍ MINH
SVTH
LỚP
KHÓA
NGÀNH

: VÕ THỊ THU HÀ
: DH07SP
: 2007 - 2011
: SPKT NÔNG NGHIỆP

-TP. Hồ Chí Minh tháng 8 năm 2011-


Khóa luận tốt nghiệp

Ngành SPKTNN

Chương 1
GIỚI THIỆU
1.1 Lí do chọn đề tài


Trong thời đại của công nghệ, hội nhập và phát triển ngày nay cả nhân loại đều
hướng đến chân trời tri thức mà hạt nhân là giáo dục. Đây là thời kỳ mà các nhà khoa
học đầu ngành thuộc mọi lĩnh vực nhận định là đang xuất hiện một xã hội thông tin,
một nền kinh tế tri thức, một thế giới phụ thuộc vào nhau mà phát triển hay còn gọi là
toàn cầu hóa trong khi mỗi nước vẫn giữ vững nền độc lập, tự chủ và bản sắc văn hóa
dân tộc của đất nước mình.
Trong hoạt động dạy và học sinh viên thường xuyên phải tìm kiếm tài liệu thông
tin đặc biệt là tài liệu bằng tiếng Anh trên Internet vì nguồn thông tin này rất phong
phú, đa dạng và cập nhật. Vì vậy, một trong những yếu tố quan trọng trong quá trình
học tập là sinh viên cần có kỹ năng truy cập Internet hay những nguồn thông tin bằng
tiếng Anh khác. Đó là lý do đề tài “Nghiên cứu thực trạng tìm kiếm tài liệu bằng tiếng
Anh trên Internet của sinh viên Đại học Nông Lâm Thành Phố Hồ Chí Minh” được
tiến hành.
1.2 Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu nhằm tìm hiểu thực trạng tìm kiếm tài liệu bằng tiếng Anh trên Internet
của sinh viên Đại học Nông Lâm Thành Phố Hồ Chí Minh. Mục đích của đề tài nhằm:
Tìm hiểu về khả năng tìm kiếm tài liệu bằng tiếng Anh trên Internet của sinh

-

viên trường Đại học Nông Lâm Thành Phố Hồ Chí Minh.
Đề xuất các giải pháp nhằm giúp sinh viên nâng cao hiệu quả học tập qua việc

-

nắm bắt và vận dụng tài liệu tiếng Anh trên Internet.
1.3 Vấn đề nghiên cứu
Để tìm hiểu thực trạng tìm kiếm tài liệu bằng tiếng Anh trên Internet của sinh viên
Đại học Nông Lâm Thành Phố Hồ Chí Minh, người nghiên cứu sẽ tìm hiểu những vấn
đề sau:

-

Câu hỏi nghiên cứu 1: Thái độ và nhận thức của sinh viên Đại học Nông
Lâm về tầm quan trọng của việc tìm kiếm tài liệu bằng tiếng Anh trên
Internet như thế nào?

GVHD TS NGUYỄN THANH THỦY

1

SVTH VÕ THỊ THU HÀ


Khóa luận tốt nghiệp

-

Ngành SPKTNN

Câu hỏi nghiên cứu 2: Khả năng đọc hiểu tài liệu Tiếng Anh trên Internet
của sinh viên Đại học Nông Lâm như thế nào?

-

Câu hỏi nghiên cứu 3: Tình hình ứng dụng Internet để tìm kiếm tài liệu
tiếng Anh của sinh viên Đại học Nông Lâm như thế nào?

-

Câu hỏi nghiên cứu 4: Việc tìm kiếm tài liệu tiếng Anh trên Internet của

sinh viên Đại học Nông Lâm có những khó khăn và thuận lợi gì?

1.4 Nhiệm vụ nghiên cứu
Đề tài được tiến hành để thực hiện 3 nhiệm vụ sau:
-

Nhiệm vụ 1: Nghiên cứu cơ sở lí luận của đề tài.

-

Nhiệm vụ 2: Tìm hiểu hiện trạng tìm kiếm tài liệu bằng tiếng Anh của sinh
viên Đại học Nông Lâm Thành Phố Hồ Chí Minh.

-

Nhiệm vụ 3: Đề xuất một số biện pháp giúp sinh viên nâng cao khả năng
tìm kiếm tài liệu bằng tiếng Anh trên Internet.

1.5 Đối tượng nghiên cứu
a) Chủ thể nghiên cứu:
Thực trạng tìm kiếm tài liệu bằng tiếng Anh trên Internet của sinh viên Đại học Nông
Lâm Thành Phố Hồ Chí Minh
b) Khách thể nghiên cứu:
+ Sinh viên Đại học Nông Lâm Thành phố Hồ Chí Minh.
+ Người nghiên cứu sẽ tiến hành nghiên cứu trên sinh viên thuộc các khoa:
 Khoa Nông Học
 Khoa Công Nghệ Thông Tin
 Khoa Ngoại Ngữ - Sư Phạm
Người nghiên cứu chọn 3 khoa này để tiến hành thu ý kiến điều tra do tính chất
nghề nghiệp của sinh viên 3 khoa này khác nhau nên sẽ có những nhu cầu và khả năng

về tài liệu tiếng Anh khác nhau, kết quả có thể xem là sự phản ánh nhiều mặt về tình
hình chung trong toàn trường.
1.6 Phạm vi nghiên cứu
Trong quá trình nghiên cứu, người nghiên cứu tiến hành nghiên cứu về thực trạng
tìm kiếm tài liệu bằng tiếng Anh trên Internet của sinh viên trong phạm vi của trường
Đại học Nông Lâm Thành Phố Hồ Chí Minh. Cụ thể:
GVHD TS NGUYỄN THANH THỦY

2

SVTH VÕ THỊ THU HÀ


Khóa luận tốt nghiệp

Ngành SPKTNN

 100 sinh viên khoa Nông Học
 100 sinh viên khoa Công Nghệ Thông Tin
 100 sinh viên khoa Ngoại Ngữ - Sư Phạm
1.7 Phương pháp nghiên cứu
1.7.1 Phương pháp nghiên cứu tài liệu
Phương pháp nghiên cứu tài liệu được sử dụng trong đề tài như sau: người nghiên
cứu đã thu thập tài liệu qua sách, báo, tạp chí, giáo trình, Internet,… Việc nghiên cứu
tài liệu giúp người nghiên cứu bổ sung thêm kiến thức, lý luận về vấn đề nghiên cứu.
Người nghiên cứu thu thập, nghiên cứu, phân tích và tổng hợp tài liệu.
1.7.2 Phương pháp điều tra bảng hỏi
Phương pháp điều tra được áp dụng để khảo sát một nhóm đối tượng trên một diện
rộng nhằm tìm ra các quy luật phân bố, những đặc tính chung của nhóm đối tượng từ
đó đưa ra những giải pháp khoa học và thực tiễn. Phương pháp điều tra yêu cầu các

phiếu điều tra đi kèm.
- Về nội dung:
+ Xây dựng kế hoạch điều tra: mục đích, đối tượng, địa bàn điều tra.
+ Xây dựng các câu hỏi của phiếu điều tra với các thông số, chỉ tiêu cần phù hợp
với chủ đề nghiên cứu, được trình bày và diễn đạt rõ ràng.
- Về phương pháp:
Lấy ý kiến của sinh viên qua các phiếu điều tra dưới dạng các câu trả lời ngắn
hoặc các câu trắc nghiệm khách quan.
1.7.3 Phương pháp phân tích và xử lí số liệu
1.7.3.1 Phương pháp phân tích định tính
Phương pháp phân tích định tính đã được sử dụng với câu hỏi dạng gợi mở, không
có sẵn đáp án cho đối tượng lấy ý kiến lựa chọn. Phương pháp phân tích định tính yêu
cầu người nghiên cứu có cái nhìn tổng quát, khách quan để xử lí kết quả điều tra.
1.7.3.2 Phương pháp phân tích định lượng
Áp dụng cho các câu hỏi đóng của bản hỏi. Số liệu thu thập sẽ được nhập, xử lí
bằng phần mềm Microsoft Office Excel và được trình bày dưới dạng biểu đồ.
Phương pháp phân tích định lượng giúp người nghiên cứu tóm tắt kết quả nghiên cứu
dưới dạng rõ ràng, dễ phân tích để có được kết quả tổng quát.
GVHD TS NGUYỄN THANH THỦY

3

SVTH VÕ THỊ THU HÀ


Khóa luận tốt nghiệp

Ngành SPKTNN

1.8 Kế hoạch nghiên cứu


STT

Thời gian

Hoạt động

1

Tháng 9/2010

Đăng kí đề tài, tập Người nghiên cứu

Người thực hiện

Ghi chú

huấn về NCKH và
khóa luận tốt nghiệp

2

Tháng 9-10/2010

Thu thập tài liệu, viết Người nghiên cứu
đề cương

3

Tháng 9-10/2010


Trình bày đề cương, Người nghiên cứu
chỉnh sửa đề cương

4

Tháng10-12/2010

- Viết cơ sở lí luận

Người nghiên cứu

- Soạn phiếu điều tra

5

Tháng 12/2010-2/2011 - Phát phiếu điều tra

Người nghiên cứu

- Thu thập dữ liệu

6

Tháng 2-4/2011

Viết

luận


văn Người nghiên cứu

chương 3,4,5

7

Tháng 5/2011

Nộp đề tài cho bộ Người nghiên cứu
môn chỉnh sửa

8

Tháng 6/2011

Bảo vệ đề tài

GVHD TS NGUYỄN THANH THỦY

4

Người nghiên cứu

SVTH VÕ THỊ THU HÀ


Khóa luận tốt nghiệp

Ngành SPKTNN


1.9 Cấu trúc đề tài nghiên cứu
Khoá luận gồm 5 chương với bố cụ như sau:
Chương 1 : Giới thiệu
- Giới thiệu hoàn cảnh phát sinh ý tưởng luận văn.
- Giới thiệu sơ lược về nghiên cứu:
+ Tình hình cụ thể nơi nghiên cứu được xác định
+ Mục đích của nghiên cứu
- Giới thiệu cấu trúc của luận văn
Chương 2: Cơ sở lí luận
- Người nghiên cứu dựa vào những quan điểm lí thuyết cơ bản của đề tài để đặt giả
thuyết, tiên đoán, lí giải vấn đề…
- Tóm tắt, nhận định về cách làm, cách phân tích, kết quả, kết luận của những
nghiên cứu trước đây.
Chương 3: Phương pháp nghiên cứu
Mô tả cụ thể những phương pháp nghiên cứu khoa học, phương pháp phân tích dữ
liệu đã được dùng trong quá trình thực hiện đề tài.
Chương 4: Kết quả
- Trình bày những dữ liệu thu thập được trong quá trình thực hiện đề tài.
- Phân tích dữ liệu và đưa ra kết quả nghiên cứu.
Chương 5: Kết luận và kiến nghị
Từ kết quả phân tích, người nghiên cứu đưa ra kết luận cho vấn đề nghiên cứu. Sau
đó người nghiên cứu đề xuất các giải pháp, ý kiến của bản thân để từng bước nâng cao
kỹ năng tìm kiếm tài liệu tiếng Anh trên Internet cho sinh viên hiện nay.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC

GVHD TS NGUYỄN THANH THỦY

5


SVTH VÕ THỊ THU HÀ


Khóa luận tốt nghiệp

Ngành SPKTNN

Chương 2
CƠ SỞ LÍ LUẬN
2.1 Lịch sử nghiên cứu vấn đề
2.1.1 Trong nước
Một trong những yếu tố ảnh hưởng đến kết quả học tập của sinh viên là vấn đề khai
thác tài liệu trong quá trình học tập và nghiên cứu, đặc biệt là tài liệu tiếng Anh. Để
giúp sinh viên học tập tốt cũng như biết cách khai thác tài liệu học tập hiệu quả, trong
những năm vừa qua đã có nhiều bài viết liên quan đến vấn đề tìm kiếm tài liệu cũng
như khả năng sử dụng tiếng Anh phục vụ cho việc tìm kiếm của sinh viên.
Tác giả Nguyễn Gia Cầu (Tạp chí giáo dục số 117, 2007) với bài viết “Rèn luyện
cho học sinh kỹ năng làm việc với tài liệu học tập”. Bài viết đã nêu khái niệm về tài
liệu học tập, nhấn mạnh tầm quan trọng của tài liệu học tập đối với học sinh, sinh viên.
Tác giả nhận thấy học sinh, sinh viên hiện nay làm việc qua loa đại khái với tài liệu
học tập, chưa biết phân tích, tổng hợp tài liệu học tập... Qua đó, tác giả đưa ra một số
giải pháp hướng học sinh, sinh viên làm việc với tài liệu như trực tiếp đọc tài liệu (đọc
kỹ, đọc nhanh…) để có cách làm việc với tài liệu tốt nhất.
Đỗ Thị Thu Trang (Tạp chí tâm lý học số 3, 2007) với bài viết: “Thực trạng kỹ
năng đọc sách của sinh viên Trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn, Đại học
Quốc gia Hà Nội”. Tác giả đưa ra các kỹ năng đọc để khảo sát như: kỹ năng lập kế
hoạch, kỹ năng thực hiện kế hoạch, kỹ năng tự kiểm tra, đánh giá, tác giả đưa ra một
số nguyên nhân vì sao sinh viên thiếu động cơ đọc sách và bên cạnh đó tác giả đưa ra
một số giải pháp kiến nghị góp phần nâng cao kỹ năng đọc sách của sinh viên.
Tác giả Lê Thị Minh Loan (Tạp chí Tâm lý học số 10, 2007) với bài viết “Phân tích

thực trạng đọc tài liệu chuyên môn của sinh viên trường Đại học Khoa học xã hội và
nhân văn hiện nay” đã khảo sát sinh viên với kết quả như sau: thời gian sinh viên dành
đọc tài liệu không nhiều, không phải hầu hết sinh viên đều đọc tài liệu chuyên môn và
sinh viên thích đọc các ấn phẩm mang tính giải trí như: truyện, tiểu thuyết nhiều hơn.
Tác giả còn đưa ra các yếu tố ảnh hưởng đến việc đọc tài liệu chuyên ngành của sinh
viên.
GVHD TS NGUYỄN THANH THỦY

6

SVTH VÕ THỊ THU HÀ


Khóa luận tốt nghiệp

Ngành SPKTNN

Tác giả Nguyễn Thị Hà (Tạp chí giáo dục số 114, 2005) với tác phẩm “ Rèn luyện
kỹ năng nghiên cứu tài liệu học tập sinh - kỹ thuật nông nghiệp cho sinh viên” đề cập
đến một số kỹ năng nghiên cứu tài liệu học tập chuyên ngành như: Kỹ năng tóm tắt nội
dung bản chất từ tài liệu học được, kỹ năng phân tích bản số liệu, biểu đồ, hình vẽ
trong tư liệu, kỹ năng lập dàn bài và đề cương của tài liệu nghiên cứu và đề ra một số
biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả học tập và một số quy trình nghiên cứu tài liệu cho
sinh viên (sử dụng câu hỏi để tổ chức sinh viên nghiên cứu tài liệu, sử dụng đồ thị,
tranh ảnh, bảng biểu, đồ thị, sử dụng phiếu học tập).
Những công trình nghiên cứu này đều nhằm mục đích giúp sinh viên có những
phương pháp, kỹ năng nghiên cứu tài liệu, từ đó phát huy năng lực tự học, tự nghiên
cứu của sinh viên.
Bên cạnh đó còn có các đề tài thảo luận, các chuyên đề đề cập đến vai trò, ảnh
hưởng của Internet và tiếng Anh đến việc học tập của học sinh, sinh viên nghiên cứu

tài liệu trên Internet của học sinh, sinh viên hiện nay
Theo Nguyễn Đức Danh (2007), tại Việt Nam, chất lượng đào tạo tiếng Anh ở các
bậc học chưa cao. Thực tế là kết quả đạt được ở môn tiếng Anh trong các kỳ thi tốt
nghiệp THPT còn thấp. Vì thế, đa số sinh viên sẽ gặp trở ngại ở môi trường ĐH khi
giảng viên yêu cầu nghiên cứu các tài liệu học tập bằng tiếng Anh. Các sinh viên sẽ
không đọc hoặc đọc nhưng không hiểu hết vấn đề vì trình độ tiếng Anh còn hạn chế
Theo kết quả cuộc điều tra “Tìm hiểu ảnh hưởng của Internet đối với học sinh, sinh
viên Việt Nam hiện nay” do Viện Văn hóa - Thông tin tổ chức cho thấy: Internet vẫn
chưa thực sự phát huy được mặt tích cực là kho thông tin, tri thức của toàn nhân loại
đối với giới học sinh – sinh viên mặc dù Internet tiện lợi, dễ sử dụng, có thể tìm thông
tin không có ở các phương tiện thông tin khác.
2.1.2 Ngoài nước
Các vấn đề về tìm kiếm, nghiên cứu tài liệu được nhiều tác giả nước ngoài đề cập
đến.
Trong cuốn sách “Phương pháp thiết kế và đánh giá nghiên cứu trong giáo dục”
của hai tác giả Jack R.Fraenkel và Norman E.Wallen trường Đại học San Francisco,
hai tác giả đề cập đến giá trị của việc tìm kiếm tài liệu và nêu ra một số thao tác dùng
để tìm kiếm tài liệu, các phương pháp tìm kiếm, cách đọc các tài liệu chủ yếu như cách
GVHD TS NGUYỄN THANH THỦY

7

SVTH VÕ THỊ THU HÀ


Khóa luận tốt nghiệp

Ngành SPKTNN

đọc, cách ghi chép. Qua đó tác giả còn đưa ra một số giải pháp để tìm kiếm tài liệu

nhanh, hiệu quả, độ tin cậy cao.
Tại các nước như Nhật Bản, Đức, Pháp, Hà Lan, Malaysia, Thái Lan..., hầu hết các
trường ĐH đều có chương trình giảng dạy bằng tiếng Anh. Như vậy, nhiều nước đang
cùng nhau chia sẻ những tiện ích từ nguồn thông tin khoa học "khổng lồ" bằng tiếng
Anh trên thế giới để phát triển và hội nhập. Đa số sinh viên đều đã được học với các
tài liệu khoa học (academic texts) bằng tiếng Anh khi học ĐH. Vì vậy, sinh viên luôn
được giảng viên giới thiệu những thông tin mới từ các sách chuyên ngành xuất bản
trên thế giới trong thời gian gần nhất hoặc từ Internet.
Các bài viết này chủ yếu nghiên cứu việc đọc sách nghiên cứu tài liệu của sinh
viên. Hiện nay chưa có đề tài nào đề cập đến thực trạng tìm kiếm tài liệu bằng tiếng
Anh trên Internet của sinh viên Đại học Nông Lâm Tp.HCM. Chính vì vậy tôi tiến
hành nghiên cứu theo hướng này.
2.2 Sinh viên với vấn đề học tập và nghiên cứu khoa học
2.2.1 Khái niệm sinh viên
Sinh viên là tất cả những người cần học cái gì đó và không bao giờ ngại bỏ công
sức để theo đuổi tri thức (Manuel Benito, 2007)
Phần lớn sinh viên ở tuổi thanh niên giai đoạn 2: từ 18 đến 25 tuổi. Ở độ tuổi này
quá trình nhận thức về trí tuệ, động cơ học tập, sự phát triển tâm lí, hình thành nhân
cách, lối sống… có nhiều điểm khác với thế hệ lớn tuổi và nhỏ tuổi.
Sinh viên là đại biểu cho một bộ phận thanh niên đang chuẩn bị cho hoạt động sản
xuất vật chất hay tinh thần của xã hội; là nguồn bổ sung cho đội ngũ trí thức được đào
tạo cho lao động trí óc với nghiệp vụ cao và tham gia tích cực vào các hoạt động có
ích cho xã hội.
2.2.2 Vấn đề học tập và nghiên cứu khoa học
Trong quá trình học tập, mỗi sinh viên tự mình chiếm lĩnh hệ thống tri thức, kỹ
năng, nắm vững cơ sở nghề nghiệp của tương lai và có tiềm năng thích ứng với yêu
cầu thực tiễn xã hội đặt ra. Muốn vậy, khi tiến hành hoạt động học tập, sinh viên
không phải chỉ có năng lực nhận thức thông thường mà cần tiến hành hoạt động mang
tính chất nghiên cứu trên cơ sở tư duy, độc lập và sáng tạo.


GVHD TS NGUYỄN THANH THỦY

8

SVTH VÕ THỊ THU HÀ


Khóa luận tốt nghiệp

Ngành SPKTNN

Hoạt động nghiên cứu khoa học của sinh viên là một hoạt động được khuyến khích
ở các trường đại học và có thể coi là một loại hình hoạt động học tập đặc trưng ở đại
học. Khả năng nghiên cứu khoa học trở thành loại hình kỹ năng mà sinh viên cần chú
trọng bồi dưỡng.
Muốn nâng cao hiệu quả hoạt động học tập và nghiên cứu, sinh viên phải được rèn
luyện kỹ năng nhất định, trong đó kỹ năng làm việc với tài liệu là một kỹ năng quan
trọng, có tính tất yếu, dù là học bất kì môn học nào, lĩnh vực nào.
Như vậy, thông qua hoạt động học tập và nghiên cứu khoa học sinh viên sẽ tiếp
xúc, làm việc nhiều với các tài liệu học tập, tài liệu khoa học từ các nguồn khác nhau
trên sách báo, tạp chí hay Internet… bằng cả tiếng Việt lẫn tiếng Anh. Trong đó tìm
hiểu tài liệu bằng tiếng Anh là một vấn đề nan giải đối với sinh viên Việt Nam vì trình
độ tiếng Anh của phần lớn sinh viên Việt Nam chưa cao, các tài liệu chưa được cập
nhật thường xuyên.
2.3 Tổng quan về tài liệu và tài liệu điện tử
2.3.1 Tổng quan về tài liệu
2.3.1.1 Khái niệm
Thuật ngữ “tài liệu” hiện nay chưa có một định nghĩa thống nhất. Tùy theo từng
điều kiện, yếu tố xã hội, văn hóa của từng vùng, từng quốc gia mà thuật ngữ “tài liệu”
được định nghĩa theo nhiều cách khác nhau.

Theo thuật ngữ tiếng Anh “tài liệu” (document) được định nghĩa như là thông tin
(dữ liệu có giá trị) và vật mang tin tương ứng có thể là giấy, ảnh, vật liệu từ, điện tử
hay đĩa quang. Dạng chung của tài liệu là bản ghi (record) – là tài liệu chứa đựng các
kết quả đã đạt được hoặc xác nhận hoạt động đã hoàn thành.
Theo định nghĩa của Lưu trữ quốc gia Mỹ, “tài liệu” là “tất cả các tư liệu sách,
giấy, đồ bản, ảnh chụp mà máy đọc được và các bản viết khác không phụ thuộc vào
hình thức và tính chất vật lý của chúng, được xây dựng và tiếp nhận bởi cơ quan liên
bang của Mỹ theo pháp luật liên bang hoặc để thực hiện hoạt động của nhà nước và
được lưu giữ ở cơ quan đó hoặc đơn vị có quyền thừa kế chúng để làm bằng chứng về
hoạt động (về tổ chức, các chức năng, quy định, giải pháp, thủ tục, hành động hay
những thứ khác) của chính quyền liên bang hoặc vì giá trị thông tin của các dữ liệu”.

GVHD TS NGUYỄN THANH THỦY

9

SVTH VÕ THỊ THU HÀ


Khóa luận tốt nghiệp

Ngành SPKTNN

Theo Nguyễn Gia Cầu (Tạp chí giáo dục số 117, 2007), “tài liệu” là thuật ngữ để
chỉ kết quả của quá trình suy nghĩ và hoạt động của con người, được ghi lại bằng một
hình thức nhất định để lưu truyền từ nơi này sang nơi khác, từ thế hệ này sang thế hệ
khác. Tài liệu có thể là những bài viết hoặc in, những cuốn sách, bản vẽ, biểu đồ hoặc
những băng ghi âm, phim ảnh, giúp cho việc tìm hiểu một vấn đề.
 Có thể phân tài liệu ra làm hai nhóm:
-


Tài liệu học trên lớp: giáo trình môn học, sách giáo khoa

-

Tài liệu tham khảo: sách tham khảo, báo, tạp chí, thông tin trên Internet, phim
ảnh, băng ghi âm có liên quan đến việc học tập, nghiên cứu…

3.3.1.2 Tính chất
 Một tài liệu thông thường gồm các tính chất sau:
-

Tính ghi nhận: thuộc tính chức năng của tài liệu, nó chỉ ra rằng tài liệu phản ánh
các tin tức chứa đựng trong nó không phụ thuộc vào hình thức trình bày.

-

Tính tiếp cận: thuộc tính của tài liệu, phản ảnh hình thức trình bày tài liệu bảo
đảm khả năng hiển thị các tham số đã cho của việc trình bày tài liệu đó (nội
dung, tính chất, công nghệ) bằng các phương tiện sẵn có tại những thời điểm đã
cho trong khoảng thời gian có giới hạn.

-

Tính toàn vẹn: thuộc tính của tài liệu, chỉ ra rằng trong bất cứ sự trình bày tài
liệu nào thì các giá trị cho trước của các tham số của tài liệu được trình bày phải
thoả mãn những yêu cầu đặc thù.

-


Tính pháp lý: thuộc tính của tài liệu, nói rằng sự trình bày tài liệu chứa các
tham số khẳng định tính hợp pháp khách quan của công nghệ được sử dụng
trong suốt vòng đời của tài liệu.

3.3.1.3 Đặc điểm
 Tài liệu có hai đặc điểm phân biệt như sau:
-

Thứ nhất, thông tin chứa đựng trong tài liệu nhờ sự tham gia sáng tạo của con
người, vì vậy tài liệu phản ánh quá trình quản lý hay hoạt động cá nhân; tài liệu
không chỉ đơn giản là tập hợp các dữ liệu mà còn là kết quả hoặc là sản phẩm
của một sự kiện nào đó.

-

Thứ hai, một thành phần mang tính pháp lý của tài liệu - khả năng dùng làm
bằng chứng của nó đóng vai trò không kém phần quan trọng trong hoạt động

GVHD TS NGUYỄN THANH THỦY

10

SVTH VÕ THỊ THU HÀ


Khóa luận tốt nghiệp

Ngành SPKTNN

quản lý và hoạt động cá nhân. Chính vì vậy, trong tiêu chuẩn quốc tế ISO

15489, “tài liệu” được hiểu là thông tin được tạo lập, tiếp nhận và lưu giữ bởi tổ
chức hoặc cá nhân như là bản chứng nhận để khẳng định trách nhiệm pháp lý
hay hoạt động quản lý.
Tài liệu có thể là khác biệt theo hình thức hay những đặc trưng vật lý. Có thể là tài
liệu giấy, tài liệu nghe nhìn,… đặc biệt là tài liệu điện tử. Vì là một phần của tài liệu
nên nó cũng mang đầy đủ những chức năng của một tài liệu thông thường.
2.3.2 Tổng quan về tài liệu điện tử
2.3.2.1 Khái niệm
Theo Lưu trữ quốc gia Mỹ, “tài liệu điện tử” là tài liệu chứa đựng thông tin số, đồ
thị và văn bản có thể được ghi trên bất cứ vật mang máy tính nào (nghĩa là chứa thông
tin được ghi dưới hình thức thích hợp cho xử lý chỉ nhờ sự hỗ trợ của máy tính).
Ở Nga, “tài liệu điện tử” được chấp nhận chung là “tài liệu đọc được bằng máy”,
“tài liệu trên vật mang là máy tính (từ tính)”, “tài liệu được máy tính dẫn hướng” và
“đồ họa máy tính”.
Bất cứ tài liệu điện tử nào cũng đều là tài liệu đọc được bằng máy, song không phải
cứ mỗi tài liệu đọc được bằng máy lại là tài liệu điện tử. Sự phát triển của công nghệ
máy tính vào những năm 1990 đã cho thấy: trong các điều kiện đương đại, thông tin từ
bất kỳ tài liệu giấy nào cũng đều có thể đọc bằng máy bằng cách quét hình.
2.3.2.2 Đặc điểm
Thông tin của tài liệu điện tử được trình bày dưới dạng “điện tử - số” và kết quả là
nhờ sự trợ giúp của các phương tiện kỹ thuật và chương trình tương thích. Mặc dù vậy,
tài liệu điện tử đang thực hiện chính các chức năng và có giá trị đích thực như tài liệu
truyền thống.
Song, khác với những tài liệu truyền thống, đặc trưng của tài liệu điện tử không
phải là tính nguyên vẹn vật lý mà là tính nguyên vẹn logic. Chính dấu hiệu nguyên vẹn
logic phải được chú ý khi nhận dạng tài liệu điện tử trong những trường hợp với các cơ
sở dữ liệu, với các tài liệu kiểu siêu văn bản, bảng biểu, đa phương tiện.
2.3.2.3 Ưu điểm của tài liệu điện tử
-


Vào bất cứ thời gian nào, con người đều có thể tiếp cận được thông tin.

-

Dễ dàng thực hiện và kiểm tra sự tiếp cận và đưa vào những sửa đổi.

GVHD TS NGUYỄN THANH THỦY

11

SVTH VÕ THỊ THU HÀ


Khóa luận tốt nghiệp

-

Ngành SPKTNN

Phân phát thông tin được thực hiện tức thì, dễ dàng kiểm tra bản in các bản sao
tài liệu bằng giấy.

-

Có khả năng tiếp cận tài liệu ở cách xa về lãnh thổ.

-

Có thể đơn giản và hiệu quả loại bỏ các tài liệu đã hết hạn sử dụng.


Chính nhờ những ưu điểm này cùng với sự phát triển nhanh chóng của công nghệ
thông tin mà tài liệu điện tử được yêu thích và được sử dụng ngày càng rộng rãi. Hơn
nữa, hiện nay trong thời đại công nghiệp hóa, hiện đại hóa khi đất nước đang đối đầu
với những thách thức phát triển và hội nhập, tác phong công nghiệp được phát huy
trong các hoạt động xã hội cũng như trong hệ thống truyền tải thông tin, và tất nhiên
tài liệu được hệ thống hóa thành một hệ thống tiện lợi, dễ truy tìm cả trong những điều
kiện khó khăn nhất. Một trong những hệ thống để lưu dữ tài liệu điện tử và truyền tải
thông tin nhanh chóng, tiện lợi đó là Internet.
2.4 Internet và các nguồn tài liệu trên Internet
2.4.1 Internet
2.4.1.1 Khái niệm
Internet là một liên mạng máy tính toàn cầu được hình thành từ các mạng nhỏ hơn,
liên kết hàng triệu máy tính trên thế giới thông qua cơ sở hạ tầng viễn thông. Internet
là mạng của các mạng máy tính. Trong mạng này, các máy tính và thiết bị mạng giao
tiếp với nhau bằng một ngôn ngữ thống nhất. Đó là bộ giao thức TCP/IP (Transmision
Control Protocol – Internet Protocol).
2.4.1.2 Sự hình thành
Internet ban đầu được hình thành để cho phép các máy tính chia sẻ thông tin khoa
học và quân sự và được gọi là APRANET vào cuối những năm 1960. Thuật ngữ
“Internet” xuất hiện lần đầu vào khoảng 1974 trong khi mạng vẫn được gọi là
ARPANET. Vào thời điểm này, ARPANET (hay Internet) còn ở quy mô rất nhỏ.
Mốc lịch sử quan trọng của Internet được chọn vào giữa thập kỷ 1980, khi Quỹ
khoa học quốc gia Mỹ NSF (National Science Foundation) thành lập mạng liên kết các
trung tâm máy tính lớn với nhau gọi là NSFNET. Mạng này chính là mạng Internet.
Trước NSFNET, chỉ các nhà khoa học, chuyên gia máy tính và nhân viên các cơ quan
Chính phủ được kết nối Internet. Nhiều doanh nghiệp đã chuyển từ ARPANET sang

GVHD TS NGUYỄN THANH THỦY

12


SVTH VÕ THỊ THU HÀ


Khóa luận tốt nghiệp

Ngành SPKTNN

NSFNET. Chính vì vậy, sau gần 20 năm ARPANET trở nên không còn hiệu quả và đã
ngừng hoạt động vào khoảng năm 1990.
Ngày nay, mạng Internet phát triển mạnh mẽ hơn các phương tiện truyền thông
truyền thống khác như phát thanh và truyền hình, do sự cải tiến và phát triển không
ngừng. Các công nghệ đang áp dụng trên Internet giúp cho Internet trở thành mạng
liên kết vô số kho thông tin toàn cầu, có dịch vụ phong phú về nội dung, hình thức. Đó
cũng chính là điều thúc đẩy chúng ta nên bắt đầu ngay với hành trình khám phá thế
giới mới – thế giới Internet.
2.4.1.3 Cấu trúc Internet
Internet là một liên mạng kết nối các mạng nhỏ hơn với nhau. Như vậy, cấu trúc
Internet gồm các mạng máy tính được kết nối với nhau thông qua các kết nối viễn
thông. Thiết bị dùng để kết nối các mạng máy tính với nhau là cổng nối Internet
(Internet Gateway) hoặc Bộ định tuyến (Router).
Internet chứa một lượng thông tin khổng lồ bao gồm rất nhiều chủ đề. Nó chứa
đựng danh mục của thư viện, bài báo, mẩu tin, báo cáo, hình ảnh âm thanh, thông tin
tham khảo, thông tin công ty và những ý kiến cá nhân.
Thông tin được nhiều nguồn tạo ra, bao gồm các viện hàn lâm, cơ quan chính phủ,
tổ chức chuyên ngành, thông tin thương mại và các cá nhân.
Một số thông tin tìm thấy trên Internet có thể được sắp xếp trong các thư mục mà
các thông tin được thiết kế vào những loại hoặc tập tin nhất định một cách có sắp xếp.
2.4.1.4 Một số dịch vụ trên Internet
-


Email (Electronic mail) là dịch vụ thư tín điện tử nó cho phép người sử dụng
trao đổi thông tin qua lại với nhau.

-

Chat: là hình thức dịch vụ nói chuyện trực tiếp qua webcam, head phone.

-

FTP (file transfer protocol) dịch vụ truyền tập tin trên internet.

-

WWW (world wide web): dịch vụ cho phép người dùng đăng ký tên miền sử
dụng hay (địa chỉ của website).

-

PTF (provider internet service) là nhà cung cấp dịch vụ Internet.

-

Gopher : Truy cập các thông tin trên Internet bằng hệ thống menu.

-

News Group: Nhóm thảo luận. Dịch vụ này cho phép nhóm người có thể trao
đổi với nhau về một đề tài cụ thể nào đó.


GVHD TS NGUYỄN THANH THỦY

13

SVTH VÕ THỊ THU HÀ


Khóa luận tốt nghiệp

-

Ngành SPKTNN

Usenet : Tập hợp vài nghìn nhóm thảo luận (Newsgroup) trên Internet. Những
người tham gia vào Usernet sử dụng một chương trình đọc tin (NewsReader) để
đọc các thông điệp của người khác và gửi thông điệp của mình cũng như trả lời
các thông điệp khác.

-

Các dịch vụ cao cấp trên Internet có thể liệt kê như : Internet Telephony,
Internet Fax.

2.4.2 Giới thiệu các nguồn tài liệu trên Internet
Không thể liệt kê tất cả các loại nguồn tin có trên Internet, đặc biệt khi Internet
thay đổi rất thường xuyên và nhanh chóng. Tuy nhiên, nhìn chung Internet hữu ích
nhất khi tìm kiếm những thông tin trong các nhóm sau đây:
-

Các sự kiện đang diễn ra: tin tức ngày hôm nay, hay những xu hướng mới nhất


-

Thông tin kinh tế: thông cáo báo chí của một công ty, chỉ số chứng khoán,
thông tin về sản phẩm.

-

Thông tin của chính phủ: các chính sách hiện hành, luật pháp, các cuộc thảo
luận tại quốc hội, quyết định của tòa án, thông cáo báo chí .

-

Văn hóa đại chúng: phim, nhạc, truyền hình, thể thao chuyên nghiệp

-

Thông tin về máy tính và Internet: thông tin các khoá học.

-

Thông tin khoa học trong học tập: thông tin về máy tính, khoa học công
nghệ…

Nhiều trang web mới và cũ về tìm kiếm trên mạng đều đưa ra những dịch vụ
chuyên biệt sẽ giúp cho việc tìm kiếm thông tin được nhanh hơn. Nếu chỉ dựa vào duy
nhất một công cụ tìm kiếm thì đôi khi phải mất rất nhiều thời gian. Do đó, những
chuyên dụng để tìm thông tin cần thiết nhanh chóng và chính xác hơn đã ra đời.
Theo một chuyên gia của Search Engine Watch: “kỷ nguyên của những nguồn máy
tìm kiếm đang cố sức bao trùm tất cả mọi thứ, một phần cũng vì bây giờ chúng ta

muốn kết quả tìm kiếm cụ thể hơn, và rõ ràng công cụ tìm kiếm chuyên biệt đang là xu
hướng tất yếu’’. Sau đây là một số công cụ tìm kiếm tài liệu trên mạng:
2.4.2.1 Các bộ máy tìm kiếm thông dụng của Việt Nam
 PanVietnam (Netnam)
 Vinaseek (Tinh Vân)
 Hoatieu (Vương Quang Khải)
GVHD TS NGUYỄN THANH THỦY

14

SVTH VÕ THỊ THU HÀ


Khóa luận tốt nghiệp

Ngành SPKTNN

 Baamboo.com
 7sac.com
 Socbay
 Xalo.vn
2.4.2.2 Các bộ máy tìm kiếm thông dụng của nước ngoài
 Thư mục của Yahoo, Google
 Alltheweb
 AltaVista
 Lycos
 HotBot
2.5 Tiếng Anh và Internet với việc tìm kiếm tài liệu của sinh viên
Trên các phương tiện thông tin đại chúng hiện nay, vấn đề quan tâm nổi cộm là
việc tìm kiếm tài liệu trên Internet của sinh viên. Có nhiều quan điểm khác nhau về

vấn đề này. Nhưng chung quy đều cho rằng vấn đề tài liệu cho sinh viên trong quá
trình học tập rất quan trọng. Có nhiều phân tích, đánh giá, và vài giải pháp được đưa ra
nhằm nâng cao vấn đề này. Năng lực về ngoại ngữ và sử dụng Internet là những công
cụ hữu hiệu trên nhiều lĩnh vực trong thời đại ngày nay. Hai công cụ này cũng là công
cụ hỗ trợ tốt cho tìm kiếm tài liệu bằng tiếng Anh trên Internet của sinh viên.
Có nhiều nguồn tài liệu để sinh viên có thể tham khảo như là thư viện, nhà sách.
Trong đó, Internet là một công cụ không thể thiếu. Chỉ cần một cái máy tính kết nối
Internet ta có thể tìm kiếm được nhiều thông tin cần thiết, có thể trao đổi với nhiều
người trên thế giới về những lĩnh vực nghiên cứu, học tập. Tuy nhiên cần nhấn mạnh
rằng, nó chỉ là một công cụ, nó vẫn mang lợi ích của thư viện nhưng nâng lên tầm cao
mới.
Theo Thomas L.Friedman, “cung cấp thông tin” (tìm kiếm trên các web Google,
Yahoo và MSN…) là một trong 10 nhân tố làm phẳng thế giới ("Thế Giới Phẳng"-The
world is flat)
Trong thời đại ngày nay, nhu cầu tìm kiếm và trao đổi thông tin rất lớn. Hầu hết
các trường đại học đều có những diễn đàn riêng của mình, và trong đó có những mục
về trao đổi kiến thức. Bên cạnh đó, mỗi nhóm ngành thường có những diễn đàn trao

GVHD TS NGUYỄN THANH THỦY

15

SVTH VÕ THỊ THU HÀ


Khóa luận tốt nghiệp

Ngành SPKTNN

đổi về lĩnh vực ấy. Sinh viên có thể tham gia vào diễn đàn khi gặp các vấn đề rắc rối,

cần sự giúp đỡ trong học tập, nghiên cứu.
Khi tham gia tìm kiếm tài liệu, một nguồn tài nguyên không thể bỏ qua là các
bài báo có liên quan đến mảng tìm kiếm của sinh viên. Những bài báo này có thể là
miễn phí hoặc phải trả phí. Nếu trường hợp phải trả phí mà sinh viên lại không có khả
năng về tài chính thì có thể nhận sự giúp đỡ trên cộng đồng mạng, các diễn đàn của
sinh viên Việt Nam ở các nước trên thế giới (Mỹ, Anh, Pháp, Đức, Hàn Quốc, Nhật
Bản…). Nhiều thành viên trên các diễn đàn này cũng là người nghiên cứu, họ có
những tài khoản trên các Website thu phí, họ cũng sẵn lòng giúp sinh viên lấy những
bài báo mà sinh viên yêu cầu.
Tuy nhiên, quá trình tìm kiếm trên Internet ngày nay cũng có gặp những rắc rối.
Đó là thông tin rất mênh mông nhưng không phải tất cả đều chất lượng, không phải
mọi thông tin mà sinh viên cần đều đưa trên Internet, không phải thông tin nào cũng
được kiểm duyệt. Nhưng những lợi ích mà nó mang lại là rất lớn, nó phụ thuộc vào
người sử dụng.
Một trở ngại của sinh viên khi nghiên cứu là khả năng về ngoại ngữ. Tuy
nhiên,“trình độ tiếng Anh của sinh viên Việt Nam quá tệ so với các nước trong khu
vực. Hầu như rất ít cử nhân tương lai đủ năng lực để sử dụng tiếng Anh làm phương
tiện học tập, nghiên cứu, tham khảo tài liệu và giao tiếp hàng ngày.” Đây là kết luận
được đưa ra tại Hội thảo “Đào tạo tiếng Anh trong các trường ĐH không chuyên ngữ”
do Bộ GD-ĐT phối hợp với Viện Khảo thí Giáo dục Hoa Kỳ tổ chức sáng 5/12/2008.
Bộ đã tiến hành điều tra tại 59 trường Đại học và một kết quả đáng báo động đã được
đưa ra :
 49,3% sinh viên đáp ứng được yêu cầu về tiếng Anh
 18,9% sinh viên không đáp ứng được
 31,8% sinh viên cần đào tạo thêm.
Tiếng Anh là chìa khóa quan trọng cho hội nhập. Và đối với việc tìm kiếm tài liệu
bằng tiếng Anh trên Internet của sinh viên là một vấn đề cần quan tâm hàng đầu. GS
Tôn Thất Tùng gợi ý một số chuẩn bị cơ bản trong tìm kiếm tài liệu cho học tập để
thành công, trong đó có ngoại ngữ, đó là:
-


Chuẩn bị về tư tưởng

GVHD TS NGUYỄN THANH THỦY

16

SVTH VÕ THỊ THU HÀ


Khóa luận tốt nghiệp

Ngành SPKTNN

-

Phải biết ngoại ngữ

-

Phải biết quan sát

-

Phải có tưởng tượng

-

Phải có văn hóa rộng rãi


-

Phải nắm chắc phương pháp tìm kiếm

Trong quá trình tìm kiếm tài liệu phục vụ cho công việc học tập của sinh viên, nếu
chỉ quan tâm tới tài liệu Tiếng Việt không thôi là chúng ta tự bó hẹp nguồn tài nguyên
của mình. Hầu hết các tài liệu tham khảo, các bài báo quốc tế đều trình bày dưới ngôn
ngữ là tiếng Anh. Khi bắt tay vào nghiên cứu, có nhiều tài liệu liên quan rất khó kiếm
bằng Tiếng Việt và đôi khi là không có.
Vậy nếu sinh viên không thể tìm được tài liệu tiếng Việt phục vấn đề học tập thì
sinh viên có thể tìm kiếm bằng ngôn ngữ khác (mà thông dụng nhất là tiếng Anh). Rõ
ràng, ngoại ngữ không là nhân tố quyết định nhưng là một nhân tố rất quan trọng khi
tham gia tìm kiếm tài liệu cho học tập, nghiên cứu khoa học trong thời đại ngày nay.
Nhìn chung, tuy còn nhiều vấn đề rắc rối liên quan tới việc tìm kiếm thông tin trên
Internet (và người ta đang làm việc để hoàn thiện nó), Tiếng Anh và Internet sẽ giúp
cho quá trình tìm kiếm của sinh viên thuận lợi hơn rất nhiều, là hai công cụ không thể
thiếu phục vụ cho việc học tập của sinh viên chúng ta trong thời đại ngày nay.
2.6 Giới thiệu về nơi nghiên cứu
2.6.1 Quá trình phát triển
Trường Đại học Nông Lâm thành lập từ năm 1955 với tên gọi “Trường Quốc Gia
Nông Lâm Mục Bảo Lộc”, qua nhiều lần thay đổi tên trường và đơn vị trực thuộc, năm
2000 được gọi với tên “Trường Đại học Nông Lâm thành phố Hồ Chí Minh”, trực
thuộc bộ Giáo Dục và Đào Tạo. Địa chỉ tại khu phố 6, phường Linh Trung, quận Thủ
Đức, thành phố Hồ Chí Minh. Trải qua hơn 50 năm đào tạo, trường đã đạt nhiều thành
tích xuất sắc và được phong tặng nhiều huy chương về giáo dục và nghiên cứu khoa
học. Hiện nay, trường đào tạo đa ngành với 52 chuyên ngành, có đào tạo hệ Cao Đẳng
và đào tạo Thạc sĩ.
2.6.2 Nhiệm vụ chính.
-


Đào tạo cán bộ kỹ thuật có trình độ đại học và sau đại học trong lĩnh vực
nông nghiệp và các lĩnh vực liên quan. Từ năm 2000 trường mở rộng đào

GVHD TS NGUYỄN THANH THỦY

17

SVTH VÕ THỊ THU HÀ


Khóa luận tốt nghiệp

Ngành SPKTNN

tạo sang các lĩnh vực khác như công nghệ thông tin, công nghệ môi trường,
công nghệ sinh học, ngoại ngữ và sư phạm kỹ thuật nông nghiệp, công nghệ
ô tô, công nghệ nhiệt lạnh, cơ điện tử, điều chỉnh tự động.
-

Thực hiện các nghiên cứu khoa học và hợp tác nghiên cứu với các đơn vị
trong và ngoài nước.

-

Chuyển giao tiến bộ kỹ thuật đến người sản xuất.

Tuy nhiên, cũng như các trường Đại học khác trong toàn quốc, tình trạng sinh viên
không sử dụng tiếng Anh trong quá trình học tập, nghiên cứu với số lượng lớn. Trường
Đại học Nông Lâm hiện là trường đào tạo đa ngành nhưng chủ yếu vẫn là các ngành
thuộc khối Nông – Lâm – Ngư nghiệp, sinh viên theo học chủ yếu từ các vùng nông

thôn nên trình độ ngoại ngữ căn bản không cao.

GVHD TS NGUYỄN THANH THỦY

18

SVTH VÕ THỊ THU HÀ


Khóa luận tốt nghiệp

Ngành SPKTNN

Chương 3
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

Trong quá trình thực hiện đề tài nghiên cứu “Nghiên cứu thực trạng tìm kiếm tài
liệu bằng tiếng Anh trên Internet của sinh viên Đại học Nông Lâm Thành phố Hồ Chí
Minh” người nghiên cứu đã sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau:
3.1 Phương pháp nghiên cứu tài liệu
Theo Vũ Minh Hùng (năm 2002), phương pháp nghiên cứu tài liệu là phương pháp
khai thác những thông tin khoa học, lí luận qua sách và các tài liệu liên quan đến vấn
đề nghiên cứu.
Trong đề tài này người nghiên cứu đã thu thập tài liệu thông qua sách, báo, giáo
trình, luận văn, Internet… về những vấn đề liên quan đến Internet, phương pháp và kỹ
năng tìm kiếm tài liệu trên Internet, các công cụ tìm kiếm, khả năng khai thác tài liệu
tiếng Anh của sinh viên… Việc nghiên cứu tài liệu giúp người nghiên cứu bổ sung
thêm kiến thức, lý luận về vấn đề nghiên cứu. Người nghiên cứu thu thập, nghiên cứu,
phân tích và tổng hợp tài liệu thành những hiểu biết cơ bản về Internet, tính chất của
các tài liệu trên Internet, cách truy cập Internet và chọn lọc thông tin. Từ đó đưa ra

những phương pháp tìm kiếm và sử dụng tài liệu một cách có hiệu quả, chất lượng.
3.2 Phương pháp điều tra bảng hỏi
Phương pháp điều tra được áp dụng để khảo sát một nhóm đối tượng trên một diện
rộng nhằm tìm ra các quy luật phân bố, những đặc tính chung của nhóm đối tượng từ
đó đưa ra những giải pháp khoa học và thực tiễn. Phương pháp điều tra yêu cầu các
phiếu điều tra đi kèm. Nội dung câu hỏi phải phù hợp với chủ đề nghiên cứu, được
trình bày và diễn đạt rõ ràng. Cụ thể như sau:
- Về nội dung:
+ Xây dựng kế hoạch điều tra:
 Mục đích: tìm hiểu thực trạng tìm kiếm tài liệu bằng tiếng Anh trên
Internet.

GVHD TS NGUYỄN THANH THỦY

19

SVTH VÕ THỊ THU HÀ


Khóa luận tốt nghiệp

Ngành SPKTNN

 Đối tượng: sinh viên thuộc 3 khoa: Nông học, Công nghệ thông tin, Ngoại
ngữ - Sư phạm.
 Địa bàn điều tra: trường Đại học Nông Lâm Thành phố Hồ Chí Minh.
+ Xây dựng các câu hỏi của phiếu điều tra (gồm 16 câu) gồm những nội dung
chính sau:
 Tầm quan trọng của tài liệu bằng tiếng Anh trên Internet trong quá trình
học tập của sinh viên.

 Khả năng tìm kiếm tài liệu và chọn lọc thông tin của sinh viên.
 Những thuận lợi và khó khăn của sinh viên khi truy cập Internet và khi
chọn lọc tài liệu tiếng Anh.
- Về phương pháp:
+ Lấy ý kiến của 300 sinh viên 3 khoa thuộc 3 lĩnh vực đào tạo khác nhau của
trường là nông nghiệp, sư phạm và kỹ thuật: Nông học, Ngoại ngữ - Sư phạm, Công
nghệ thông tin qua các phiếu điều tra dưới dạng các câu trả lời ngắn hoặc các câu trắc
nghiệm khách quan.
+ Hình thức phát phiếu, thu phiếu
Người nghiên cứu trực tiếp phát và thu phiếu trên lớp học của sinh viên thuộc 3
khoa trên.
+ Số lượng phiếu phát và thu lại:
 Người nghiên cứu tiến hành phát 300 phiếu
 100 phiếu khoa Ngoại Ngữ - Sư phạm
-

Số phiếu thu lại: 100

-

Số phiếu hợp lệ: 98

 100 phiếu khoa Nông Học
-

Số phiếu thu lại: 98

-

Số phiếu hợp lệ: 95


 100 phiếu khoa Công Nghệ Thông Tin
-

Số phiếu thu lại: 100

-

Số phiếu hợp lệ: 100

 Tổng số phiếu thu lại: 298
 Tổng số phiếu hợp lệ: 293
GVHD TS NGUYỄN THANH THỦY

20

SVTH VÕ THỊ THU HÀ


Khóa luận tốt nghiệp

Ngành SPKTNN

3.3 Phương pháp phân tích và xử lí số liệu
3.3.1 Phương pháp phân tích định tính
Phương pháp phân tích định tính được sử dụng với câu hỏi dạng gợi mở, không có
sẵn đáp án cho đối tượng lấy ý kiến lựa chọn, đối tượng lấy ý kiến sẽ điền ý kiến của
bản thân, do vậy người nghiên cứu đọc và rút ra những câu trả lời khách quan, toàn
diện sau đó tiến hành phân tích và tổng hợp dữ liệu để đi đến kết luận nội dung câu
hỏi. Phương pháp phân tích định tính yêu cầu người nghiên cứu có cái nhìn tổng quát,

khách quan để xử lí kết quả điều tra.
3.3.2 Phân tích định lượng
Áp dụng cho các câu hỏi đóng của bảng hỏi. Số liệu thu thập sẽ được nhập, xử lí
bằng phần mềm Microsoft Ofice Excel và được trình bày dưới dạng biểu đồ.
Phương pháp phân tích định lượng giúp người nghiên cứu tóm tắt kết quả nghiên cứu
dưới dạng rõ ràng, dễ phân tích để có được kết quả tổng quát.

GVHD TS NGUYỄN THANH THỦY

21

SVTH VÕ THỊ THU HÀ


Khóa luận tốt nghiệp

Ngành SPKTNN

Chương 4
KẾT QUẢ

4.1 Nhận thức của sinh viên trong việc tìm kiếm tài liệu trên Internet cho quá
trình học tập, nghiên cứu
Bảng 4.1: Bảng thống kê ý kiến sinh viên về tầm quan trọng của việc tìm kiếm tài liệu
trên Internet
CNTT
Rất quan trọng
Quan trọng
Có nhưng kém
phần quan trọng

hơn các nguồn
khác
Không quan trọng

NNSP

NH

TC

f

%

f

%

f

%

f

%

80

80


52

53,06

51

53,68

183

62,46

16

16

40

40,82

31

32,63

87

29,69

3


3

5

5,1

7

7.37

15

5,12

1

1

1

1,02

6

6,32

8

2,73


80%
60%
CÔNG NGHỆ THÔNG TIN
NGOẠI NGỮ SƯ PHẠM

40%

NÔNG HỌC
20%
0%
A

B

C

D

Biểu đồ 4.1: Biểu đồ nhận thức của sinh viên với việc tìm kiếm tài liệu trên Internet
Trong đó

A: Rất quan trọng
B: Quan trọng
C: Có nhưng kém quan trọng hơn các nguồn khác
D: Không quan trọng

GVHD TS NGUYỄN THANH THỦY

22


SVTH VÕ THỊ THU HÀ


Khóa luận tốt nghiệp

Ngành SPKTNN

Nhìn vào bảng 4.1 và biểu đồ 4.1 người nghiên cứu nhận thấy đa phần các bạn sinh
viên đánh giá rất cao về tầm quan trọng của việc tìm kiếm tài liệu trên Internet trong
quá trình học tập: 62,46% sinh viên các khoa nhận thức được tầm quan trọng của việc
tìm kiếm tài liệu trên Internet, tỉ lệ sinh viên cho rằng việc tìm kiếm tài liệu là rất quan
trọng chiếm 80% ở khoa Công nghệ thông tin, 51,02% ở khoa Ngoại ngữ sư phạm và
53,68% ở khoa Nông học; quan trọng chiếm 16% ở khoa Công nghệ thông tin, 42,86%
ở khoa Ngoại ngữ sư phạm, 32,63% ở khoa Nông học. Điều này cho thấy sinh viên
Nông Lâm nhận thức tương đối cao việc tự tìm kiếm tài liệu trên Internet, tự tìm hiểu,
đào sâu, tích lũy cho bản thân nhằm làm giàu vốn hiểu biết cho mình. Nhận thức trên
hết sức quan trọng, đúng đắn và phù hợp với môi trường đại học là đề cao khả năng tự
học của sinh viên, tự tìm kiếm tài liệu phục vụ cho mục đích học tập và nghiên cứu và
lấy người học làm trung tâm khuyến khích sinh viên chủ động tích cực, tự khám phá
tìm kiếm tri thức mới.
Số sinh viên cho rằng việc tìm kiếm tài liệu trên Internet là có quan trọng nhưng
kém hơn các nguồn khác chỉ chiếm 5,12% và kém phần quan trọng 2,73%. Cụ thể là
kém hơn các nguồn khác chiếm 3% ở khoa Công nghệ thông tin, 5,1% ở khoa Ngoại
ngữ sư phạm, 7,37% ở khoa Nông học; không quan trọng chỉ chiếm 1% ở khoa Công
nghệ thông tin, 1,02% ở khoa Ngoại ngữ sư phạm, 6,02% ở khoa Nông học. Qua đó
cho thấy tồn tại một số sinh viên nhận thức còn hạn chế về vấn đề này, họ chưa nhận
thấy hết ý nghĩa cũng như mục đích của việc tìm kiếm tài liệu trên Internet.
Qua biểu đồ nhận thấy có sự khác biệt trong các khoa về việc đánh giá mức độ
quan trọng của việc tìm kiếm tài liệu trên Internet, sinh viên khoa Công nghệ thông tin
nhận thức về mức độ quan trọng của việc tìm kiếm tài liệu trên Internet cao hơn so với

khoa Ngoại ngữ sư phạm và tiếp theo đó là khoa Nông học, chứng tỏ có sự khác nhau
giữa các khoa về chương trình đào đạo và cách học của sinh viên.
Bên cạnh nhận thức của sinh viên về việc tìm kiếm tài liệu trên Internet, một trong
những phương tiện để sinh viên tìm kiếm tài liệu đó là khả năng sử dụng ngoại ngữ mà
cụ thể là Anh văn.

GVHD TS NGUYỄN THANH THỦY

23

SVTH VÕ THỊ THU HÀ


Khóa luận tốt nghiệp

Ngành SPKTNN

4.2 Nhận thức của sinh viên về ảnh hưởng của trình độ tiếng Anh đến việc tìm tài
liệu trên Internet
Bảng 4.2: Tìm hiểu nhận thức của sinh viên về ảnh hưởng của trình độ tiếng Anh đến
việc tìm tài liệu trên Internet
CNTT

NNSP

NH

TC

f


%

f

%

f

%

f

%

69

69

51

52,04

54

56,84

174

59,39


Ảnh hưởng

27

27

43

43,88

27

28,42

97

33,1

Ít ảnh hưởng

3

3

3

3,06

7


7,37

13

4,44

Không ảnh hưởng

1

1

1

1,02

7

7,37

9

3,07

Ảnh hưởng rất lớn

70%
60%
50%

CÔNG NGHỆ THÔNG TIN

40%

NGOẠI NGỮ SƯ PHẠM
30%

NÔNG HỌC

20%
10%
0%
A

B

C

D

Biểu đồ 4.2: Biểu đồ nhận thức của sinh viên về ảnh hưởng của khả năng sử dụng
tiếng Anh đến việc tìm tài liệu trong học tập
Trong đó

A: Ảnh hưởng rất lớn
B: Ảnh hưởng
C: Ít ảnh hưởng
D: Không ảnh hưởng

Qua bảng 4.2 và biểu đồ 4.2 nhận thấy đa số sinh viên đều có nhận thức khá cao về

ảnh hưởng của tiếng Anh trong quá trình tìm kiếm tài liệu, tỉ lệ sinh viên các khoa cho
GVHD TS NGUYỄN THANH THỦY

24

SVTH VÕ THỊ THU HÀ


×