Tải bản đầy đủ (.pdf) (72 trang)

ĐÁNH GIÁ KHẢ NĂNG CHỐNG CHỊU CỦA BỌ CÁNH CỤT Paederus fuscipes (STAPHYLINIDAECOLEOPTERA) ĐỐI VỚI NHÓM THUỐC THIAMETHOXAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.16 MB, 72 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

ZYZYYZYZ

 

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP

ĐÁNH GIÁ KHẢ NĂNG CHỐNG CHỊU CỦA BỌ CÁNH CỤT
Paederus fuscipes (STAPHYLINIDAE-COLEOPTERA)
ĐỐI VỚI NHÓM THUỐC THIAMETHOXAM

Chuyên ngành: BẢO VỆ THỰC VẬT
Khóa: 2007 – 2011
Họ và tên: Nguyễn Lê Ngọc Trâm

Tp. Hồ Chí Minh 08/2011


i

ĐÁNH GIÁ KHẢ NĂNG CHỐNG CHỊU CỦA BỌ CÁNH CỤT
Paederus fuscipes (STAPHYLINIDAE-COLEOPTERA)
ĐỐI VỚI NHÓM THUỐC THIAMETHOXAM

Tác giả
NGUYỄN LÊ NGỌC TRÂM

Khóa luận được đệ trình để đáp ứng yêu cầu
cấp bằng kỹ sư ngành


Bảo vệ Thực vật

Giáo viên hướng dẫn
TS. Trần Tấn Việt
KS. Nguyễn Hữu Trúc

Tp. Hồ Chí Minh 08/2011


ii

LỜI CẢM TẠ
Luận văn này được hoàn thành theo chương trình đào tạo kỹ sư chuyên ngành
Bảo Vệ Thực Vật, hệ chính quy tại Trường Đại Học Nông Lâm TP. Hồ Chí Minh.
Tôi xin chân thành cảm ơn:
• BGH, Trường Đại học Nông Lâm, phòng đào tạo, Khoa Nông học, cùng với
quý thầy cô trường Đại học Nông Lâm đã tận tình giảng dạy trong suốt thời
gian em học tập tại trường.
• Thầy Nguyễn Hữu Trúc và thầy Trần Tấn Việt giảng viên trường Đại học Nông
Lâm đã tận tình giảng dạy và hướng dẫn tôi trong suốt quá trình thực tập tốt
nghiệp.
• Anh Lê Trung Dũng, cùng gia đình, bạn bè tận tình giúp đỡ, cung cấp tài liệu
giúp đỡ tôi trong quá trình học tập và hoàn thành tốt luận văn tốt nghiệp này.


iii

TÓM TẮT
Nguyễn Lê Ngọc Trâm – sinh viên Khoa Nông Học - Trường Đại học Nông
Lâm TP HCM - tháng 8 năm 2011- đề tài: “Đánh giá khả năng chống chịu của bọ

cánh cụt Paederus fuscipes đối với nhóm thuốc Thiamethoxam”.
Giáo viên hướng dẫn: KS Nguyễn Hữu Trúc, TS Trần Tấn Việt - Bộ môn Bảo
vệ thực vât- Trường Đại Học Nông TP HCM.
Đề tài được thực hiện từ 2/2011 đến 6/2011 tại Phòng thí nghiệm – Bộ môn
Bảo vệ thực vật – Trường Đại Học Nông Lâm.
Rầy nâu là một trong các loài dịch hại đã và đang gây hại trên hầu hết các vùng
trồng lúa trong nước và trên thế giới. Bọ cánh cụt Paederus fuscipes (Staphylinidae –
Coleoptera) là một ví dụ điển hình cho thiên địch của rầy nâu, thức ăn chủ yếu của bọ
cánh cụt là các loài côn trùng thân mềm, bọ cánh cụt có vai trò hạn chế số lượng rầy
nâu trên ruộng lúa.
Tuy nhiên, hiện nay việc phòng trừ rầy nâu chủ yếu là sử dụng thuốc bảo vệ
thực vật. Biện pháp quản lý rầy nâu thì chưa có biện pháp nào là hữu hiệu về mặt sinh
học và đảm bảo an toàn đối với môi trường và con người. Do đó để đánh giá việc sử
dụng thuốc bảo vệ thực vật có ảnh hưởng như thế nào trên bọ cánh cụt nên đề tài trên
đã được thực hiện nhằm xác định ảnh hưởng của thuốc thiamethoxam đến bọ cánh cụt
Paederus fuscipes ở điều kiện phòng thí nghiệm.
Khi bọ cánh cụt ăn phải rầy nâu bị nhiễm thuốc thiamethoxam, tỷ lệ chết cao
nhất là ở 7 ngày sau phun với tỷ lệ 100% ở ấu trùng tuổi 1, 2 và thành trùng cái, và
95% ở thành trùng đực. Điều đó cho thấy thuốc thiamethoxam rất độc đối với bọ cánh
cụt. Tỷ lệ chết của bọ cánh cụt qua 7 ngày sau phun khá cao do ăn phải rầy nâu bị
nhiễm thuốc.
Khi bọ cánh cụt bị phun thuốc thiamethoxam trực tiếp lên nó thì tỷ lệ chết cao
nhất là ở 5 và 7 ngày sau phun với ấu trùng tuổi 1 tỷ lệ chết là 93% sau 5 ngày và
100% sau 7 ngày, với ấu trùng tuổi 2 tỷ lệ chết là 100% sau 5 ngày. Thành trùng đực
tỷ lệ chết là 95,5% sau 5 ngày và 98,9% sau 7 ngày, thành trùng cái tỷ lệ chết là 90% ở
5 và 7 ngày sau phun. Điều đó cho thấy thuốc thiamethoxam rất độc đối với bọ cánh
cụt, đặc biệt là đối với ấu trùng tuổi1, tuổi 2.


iv


Số lượng bọ cánh cụt chết do ăn phải rầy nâu bị nhiễm thuốc thiamethoxam cao
hơn so với phun thuốc thiamethoxam trực tiếp lên bọ cánh cụt. Điều này chứng tỏ
thuốc thiamethoxam rất độc đối với bọ cánh cụt bằng con đường vị độc cao hơn bằng
con đường tiếp xúc.


v

MỤC LỤC
Nội dung------------------------------------------------------------------------------------- Trang
TRANG TỰA -------------------------------------------------------------------------------------i
LỜI CẢM TẠ ----------------------------------------------------------------------------------- -ii
TÓM TẮT---------------------------------------------------------------------------------------- iii
MỤC LỤC -----------------------------------------------------------------------------------------v
DANH SÁCH CHỮ VIẾT TẮT ------------------------------------------------------------ viii
DANH SÁCH CÁC BẢNG ------------------------------------------------------------------- ix
DANH SÁCH CÁC HÌNH ----------------------------------------------------------------------x
Chương 1 MỞ ĐẦU

-------------------------------------------------------------- 1

1.1 Đặt vấn đề -------------------------------------------------------------------------------------1
1.2. Mục đích và yêu cầu ------------------------------------------------------------------------2
1.2.1. Mục đích ------------------------------------------------------------------------------------2
1.2.2. Yêu cầu -------------------------------------------------------------------------------------2
Chương 2 TỔNG QUAN TÀI LIỆU ----------------------------------------------- 3
2.1 Đặc điểm và dịch hại do rầy nâu gây ra thời gian gần đây -----------------------------3
2.1.1 Đặc điểm sinh học, sinh thái của rầy nâu -----------------------------------------------3
2.1.2 Dịch hại do rầy nâu gây ra thời gian gần đây ------------------------------------------3

2.2. Tầm quan trọng của thiên địch -------------------------------------------------------------5
2.3. Một số thiên địch của rầy nâu --------------------------------------------------------------5
2.3.1. Bọ rùa 8 chấm Harmonia octomaculata -----------------------------------------------5
2.3.2. Bọ rùa đỏ Micraspis crocea --------------------------------------------------------------5
2.3.3. Nhện Lycosa Pseudoannulata ----------------------------------------------------------6
2.3.4. Nhện lùn Atypena Formosana -----------------------------------------------------------6
2.3.5. Nhện chân dài Tetranatha maxillosa ---------------------------------------------------6
2.3.6. Bọ xít nước Microvelia douglasi atrolineata ------------------------------------------7
2.3.7. Bọ xít mù xanh Cyrtorhinus lividipennis-----------------------------------------------7
2.3.8. Ong ký sinh trứng rầy Gonatocerus spp------------------------------------------------7
2.4. Bọ cánh cụt Paederus fuscipes -------------------------------------------------------------7
2.4.1. Nghiên cứu trên thế giới ------------------------------------------------------------------7


vi

2.4.1.1. Đặc điểm phân loại và khả năng ăn mồi ---------------------------------------------7
2.4.1.2. Đặc điểm sinh học, sinh thái của bọ cánh cụt Paederus fuscipes -----------------9
2.4.1.3. Độc chất trong cơ thể bọ cánh cụt Paederus spp --------------------------------- 10
2.4.2. Nghiên cứu trong nước ----------------------------------------------------------------- 10
2.5. Tổng quan về hoạt chất trừ rầy Thiamethoxam---------------------------------------- 11
2.6. Đặc điểm sinh học của ngài gạo Corcyra cephalonica Stain ------------------------ 12
Chương 3 NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ---------------------- 15
3.1. Thời gian và địa điểm nghiên cứu ------------------------------------------------------- 15
3.1.1. Địa điểm nghiên cứu -------------------------------------------------------------------- 15
3.1.2. Thời gian nghiên cứu ------------------------------------------------------------------- 15
3.2. Vật liệu nghiên cứu ------------------------------------------------------------------------ 15
3.3. Phương pháp nghiên cứu ----------------------------------------------------------------- 15
3.3.1. Phương pháp nhân nuôi rầy nâu ------------------------------------------------------- 16
3.3.2. Phương pháp nuôi bọ cánh cụt--------------------------------------------------------- 16

3.3.3. Phương pháp thực hiện thí nghiệm 1 ------------------------------------------------- 20
3.3.4. Phương pháp thực hiện thí nghiệm 2 ------------------------------------------------- 21
3.3.5. So sánh số bọ cánh cụt còn sống ở hai phương pháp xử lý thuốc ---------------- 22
3.4. Phương pháp xử lý số liệu ---------------------------------------------------------------- 22
Chương 4 KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN

----------------------------------------- 26

4.1. Ảnh hưởng của thuốc thiamethoxam lên sức sống của bọ cánh cụt Paederus
fuscipes khi xử lý thuốc trực tiếp lên con mồi rầy nâu Nilaparvata lugens ------------- 26
4.2. Ảnh hưởng của thuốc thiamethoxam lên sức sống của bọ cánh cụt Paederus
fuscipes khi bị nhiễm thuốc trực tiếp --------------------------------------------------------- 29
4.3. So sánh ảnh hưởng của thuốc thiamethoxam lên sức sống của bọ cánh cụt
Paederus fuscipes khi xử lý thuốc trực tiếp lên thiên địch (bọ cánh cụt) Paederus
fuscipes, và khi xử lý thuốc trực tiếp lên con mồi rầy nâu Nilaparvata lugens -------- 33
4.4. So sánh số lương bọ cánh cụt Paederus fuscipes còn lại ở 2 thí nghiệm: xử lý
thuốc trực tiếp lên thiên địch (bọ cánh cụt) Paederus fuscipes, và xử lý thuốc trực tiếp
lên con mồi rầy nâu Nilaparvata lugens ----------------------------------------------------- 35
Chương 5: KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ -------------------------------------------- 38
5.1. Kết luận ------------------------------------------------------------------------------------- 38


vii

5.2. Đề nghị -------------------------------------------------------------------------------------- 38
TÀI LIÊỤ THAM KHẢO -------------------------------------------------------- 39
PHỤ LỤC ----------------------------------------------------------------------- 42

DANH SÁCH CÁC CHỮ VIẾT TẮT



viii

FAO: Food and Agriculture Organization (Tổ chức nông lương Quốc Tế)
Ha: Hecta
NT: nghiệm thức
TN: thí nghiệm
NSP: ngày sau phun
BCC: bọ cánh cụt
CTV: cộng tác viên


ix

DANH SÁCH BẢNG
Bảng 4.1. Số bọ cánh cụt còn sống khi ăn phải con mồi (rầy nâu) bị nhiễm thuốc
thiamethoxam------------------------------------------------------------------------------------ 26
Bảng 4.2. Tỷ lệ bọ cánh cụt chết khi ăn phải con mồi (rầy nâu) bị nhiễm thuốc
thiamethoxam------------------------------------------------------------------------------------ 28
Bảng 4.3. Số lượng rầy còn lại sau 7 ngày thí nghiệm ------------------------------------ 29
Bảng 4.4. Số bọ cánh cụt còn sống khi phun thuốc thiamethoxam trực tiếp lên bọ cánh
cụt ------------------------------------------------------------------------------------------------- 29
Bảng 4.5. Tỷ lệ bọ cánh cụt chết khi phun thuốc thiamethoxam trực tiếp lên bọ cánh
cụt ------------------------------------------------------------------------------------------------- 31
Bảng 4.6. Số lượng rầy còn lại sau 7 ngày thí nghiệm ------------------------------------ 32
Bảng 4.7. Hiệu lực thuốc thiamethoxam khi phun thuốc lên bọ cánh cụt -------------- 33
Bảng 4.8. Số lương bọ cánh cụt trong điều kiện không phun thuốc (đối chứng) theo
dõi qua 7 ngày ----------------------------------------------------------------------------------- 35
Bảng 4.9. So sánh số lượng bọ cánh cụt còn sống ở các ngày sau phun của 2 thí
nghiệm -------------------------------------------------------------------------------------------- 35

Bảng 4.10. So sánh số lượng bọ cánh cụt còn sống ở các nghiệm thức của 2 thí nghiệm
----------------------------------------------------------------------------------------------------- 46


x

DANH SÁCH CÁC HÌNH
Hình 3.1. Hộp thu bắt và nhân nuôi bọ cánh cụt ------------------------------------------- 17
Hình 3.2. Sâu gạo và rầy mềm dùng để làm thức ăn nhân nuôi bọ cánh cụt ----------- 17
Hình 3.3. Ấu trùng tuổi 1 bọ cánh cụt ------------------------------------------------------- 18
Hình 3.4. Nhộng của bọ cánh cut------------------------------------------------------------- 18
Hình 3.5. Bọ cánh cụt thành trùng đực ------------------------------------------------------ 19
Hình 3.6. Bọ cánh cụt thành trùng cái ------------------------------------------------------- 19
Hình 3.7. Lúa giống IR50404 7-10 ngày tuổi dùng cho thí nghiệm --------------------- 22
Hình 3.8. Đếm số lượng rầy dùng cho việc xử lý thuốc----------------------------------- 23
Hình 3.9. Xử lý thuốc trên con mồi (rầy nâu) ---------------------------------------------- 23
Hình 3.10. Rầy nâu đã xử lý thuốc thuốc Thiamethoxam -------------------------------- 24
Hình 3.11. Bọ cánh cụt đã xử lý thuốc Thiamethoxam ----------------------------------- 24
Hình 3.12. Bọ cánh cụt và rầy nâu đã qua xử lý thuốc ------------------------------------ 25
Hình 3.13. Bọ cánh cụt và rầy nâu trong hộp lấy chỉ tiêu--------------------------------- 25
Hình 4.1. Bọ cánh cụt trưởng thành ăn rầy nâu bị nhiễm thuốc-------------------------- 27
Hình 4.2. Bọ cánh cụt còn lại theo dõi ở 1 ngày sau phun -------------------------------- 30
Hình 4.3. Tổng số bọ cánh cụt chết theo dõi ở 7 ngày sau phun ------------------------- 34


1

Chương 1
MỞ ĐẦU
1.1 Đặt vấn đề

Nước Việt Nam đã có truyền thống với nền nông nghiệp lúa nước lâu đời, lúa là
cây trồng lâu đời nhất ở Việt Nam và nhiều dân tộc khác trên thế giới, khoảng 40%
dân số trên thế giới lấy lúa gạo làm nguồn lương thực chính đặc biệt là các dân tộc ở
Châu Á. Và ở nước ta với diện tích sản xuất lúa khoảng 7,33 triệu ha ( Fao, 2006). Sản
xuất cả 3 vụ/năm, liên tục trên đồng ruộng có cây trồng nên việc sâu bệnh xuất hiện
gây hại cây trồng là không tránh khỏi. Càng thâm canh cây trồng cao thì sâu bệnh phát
sinh càng nhiều, càng phun thuốc bảo vệ thực vật nhiều thì càng hủy diệt nhiều sinh
vật có ích đối với con người và càng gây tính kháng thuốc với sâu hại, làm mất cân
bằng sinh thái.
Trong mỗi hệ sinh thái nông nghiệp có những nhóm thiên địch nhất định giữ vai
trò quan trọng trong điều hòa số lượng sâu hại. Với mỗi loại cây trồng có cả một tập
đoàn sâu hại và vi sinh vật sống trên đó, đi kèm với nó là một tập đoàn thiên địch thích
nghi riêng với những côn trùng và vi sinh vật gây hại nó. Nhờ hoạt động tích cực của
các loài thiên địch mà mật độ quần thể sâu gây hại bị khống chế dưới ngưỡng gây hại
kinh tế. Trong tự nhiên luôn có sự đa dạng và cân bằng sinh học, sự cân bằng sinh học
giữa sâu hại lúa và thiên địch là một ví dụ điển hình.
Thiên địch của dịch hại nói chung và sâu hại nói riêng là những thành viên
không thể thiếu được trong các sinh quần tự nhiên cũng như sinh quần nông nghiệp.
Một trong những nhóm thiên địch quan trọng của sâu hại lúa là bộ cánh cứng bắt mồi
ăn thịt. Bọ cánh cụt Paederus fuscipes (Staphylinidae-Coleoptera) có khả năng thích
ứng cao với các điều kiện môi trường nên xuất hiện trên các vùng trồng lúa nhiệt đới.
Thức ăn chủ yếu của bọ cánh cụt là các loài côn trùng thân mềm (Shepard và ctv,
1999). Bọ cánh cụt có vai trò lớn hạn chế số lượng rầy nâu trên ruộng lúa (Nguyễn


2

Văn Huỳnh, 2009). Tuy nhiên, các đề tài nghiên cứu về bọ cánh cụt trên ruộng lúa
còn rất ít và thường được công bố chung với thiên địch của rầy nâu (Phạm Văn Lầm,
2007).

Tuy nhiên, việc phòng trừ các dịch hại trên ruộng lúa nói chung và việc phòng
trừ rầy nâu nói riêng hiện nay phần lớn còn sử dụng bảo vệ thực vật. Do đó để đánh
giá việc sử dụng thuốc bảo vệ thực vật có ảnh hưởng như thế nào trên bọ cánh cụt nên
đề tài: “Đánh giá khả năng chống chịu của bọ cánh cụt Paederus fuscipes đối với
nhóm thuốc Thiamethoxam” đã được thực hiện.
1.2. Mục đích và yêu cầu
1.2.1. Mục đích
Xác định ảnh hưởng của thuốc thiamethoxam đến bọ cánh cụt Paederus
fuscipes ở điều kiện phòng thí nghiệm.
1.2.2 Yêu cầu
- Xác định ảnh hưởng của thuốc thiamethoxam đến khả năng sống sót ở các tuổi
của bọ cánh cụt Paederus fuscipes khi xử lý thuốc trực tiếp lên bọ cánh cụt .
- Xác định ảnh hưởng của thuốc thiamethoxam đến khả năng sống sót ở các tuổi
của bọ cánh cụt Paederus fuscipes khi ăn phải con mồi là rầy nâu Nilaparvata lugens
bị nhiễm thuốc.


3

Chương 2
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
2.1. Đặc điểm và dịch hại do rầy nâu gây ra thời gian gần đây
2.1.1. Đặc điểm sinh học, sinh thái của rầy nâu
Rầy nâu có tên khoa học là Nilaparvata lugens là sâu hại quan trọng trên lúa.
Rầy trưởng thành màu nâu tối, con cái lớn hơn con đực, thành trùng có 2 dạng hình
thái:
- Cánh dài: Cánh che phủ cả thân, có thể phát tán theo gió đi tìm kí chủ hay nơi
cư trú. Khả năng đẻ trứng: 150 - 200 trứng/lứa.
- Cánh ngắn: Dạng cánh này chỉ sinh ra khi thức ăn đầy đủ, thời tiết thích hợp.
Vì vậy khả năng đẻ trứng của nó rất cao (khoảng 400 trứng/lứa).

Rầy có 5 tuổi, mới nở màu trắng sau chuyển màu vàng. Trứng nhỏ mới đẻ màu
trong suốt, sắp nở màu vàng, đẻ từng ổ dọc theo gân lá, tập trung nhiều trong bẹ lá.
Rầy non và rầy trưởng thành chủ yếu sống tập trung phía gốc lúa, khi gặp động
thì chuyển ngang qua phía đối diện của thân lúa. Trong điều kiện thích hợp, mật độ rầy
có thể rất cao, tới hàng trăm con trên 1 bụi. Trong quá trình sinh sống, rầy tiết ra chất
thải làm môi trường cho nấm bệnh phát triển, làm đen cả gốc lúa. Khi mật số rầy lên
cao hoặc trong thời kì thu hoạch lúa, rầy có thể tấn công các loài cỏ dại khác để sinh
sống. Vòng đời trung bình khoảng 20 – 25 ngày (nhiệt độ không khí 27 – 30oC), trong
thời gian đó trứng 5 – 7 ngày, rầy non 12 – 15 ngày, rầy trưởng thành 3 - 5 ngày đẻ
trứng và có thể sống 2 tuần lễ.
2.1.2. Dịch hại do rầy nâu gây ra thời gian gần đây
Việt Nam là một nước có truyền thống sản xuất lúa nước và việc xuất khẩu gạo
chiếm một vai trò quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế nông nghiệp với sản


4

lượng xuất khẩu hơn 4 triệu tấn/năm. Trong năm 2006, dịch rầy nâu bùng phát đã gây
ảnh hưởng rất lớn cho nhiều vùng sản xuất lúa, đồng thời xuất hiện dịch bệnh được
gọi là “vàng lùn và lùn xoắn lá” do rầy nâu làm môi giới truyền bệnh đã gây thiệt hại
đáng kể cho sản xuất lúa. Nguyên nhân gây bùng phát dịch rầy nâu:
Về bản thân rầy nâu: Đây là loài côn trùng hại lúa có vòng đời ngắn (18 – 30
ngày tùy điều kiện ôn ẩm độ), sức sinh sản khá cao (một con cái đẻ 150 – 400 trứng),
thích ứng nhanh với các giống lúa kháng rầy nâu dẫn đến thay đổi biotype (rầy nâu ở
đồng bằng sông Cửu Long là biotype 3), nhanh phát triển tính kháng thuốc (hầu hết
thuốc hóa học đặc hiệu trừ rầy nâu trước đến nay không còn hiệu quả hoặc có hiệu quả
thấp).
Cây thức ăn của rầy nâu: thức ăn chính của rầy nâu là cây lúa. Trong năm 20052006 nhiều giống lúa năng suất cao được gieo trồng tại đồng bằng sông Cửu Long là
giống ngắn ngày cho phép trồng được nhiều vụ trong năm, nhiều nơi trồng 3 vụ/năm.
Các giống lúa được gieo trồng rộng rãi lại không mang gen kháng rầy nâu hoặc có

mang gen kháng rầy nâu nhưng đã bị nhiễm rầy nâu với mật độ cao đến rất cao. Các
yếu tố trên cùng hội tụ đã tạo nên nguồn thức ăn tuyệt vời cho rầy nâu sinh trưởng phát
triển với những thông số sinh học tốt nhất.
Điều kiện thời tiết: Các yếu tố thời tiết ở đồng bằng sông Cửu Long nóng và độ
ẩm rất cao nên rất thuận lợi cho rầy nâu phát sinh phát triển quanh năm, nên rầy nâu
phát sinh gây hại hầu hết các cánh đồng có trồng lúa.
Tác động của con người: Nhiều biện pháp thâm canh được nông dân áp dụng
không hợp lý (bón nhiều phân đạm, sạ lượng giống quá cao, sử dụng thuốc hóa học trừ
sâu không đúng kỹ thuật...). Những tác động này tạo thuận lợi cho rầy nâu phát sinh
phát triển mạnh mà không thuận lợi cho các thiên địch tự nhiên phát triển. Do đó đã
tạo nên một sinh quần đồng lúa chứa đựng nhiều yếu tố không bền vững, gây mất cân
bằng sinh thái và rầy nâu bùng phát thành dịch (Phạm Văn Lầm, 2006).


5

2.2. Tầm quan trọng của thiên địch
Các loài ăn thịt có mặt hầu hết trong các cộng đồng sinh vật của hệ sinh thái.
Chúng đóng vai trò là tác nhân điều chỉnh mật số con mồi của chúng ở mức
quân bình không cho bộc phát thành dịch. Do đó, vai trò của biện pháp sinh học rất
quan trọng trong phòng trừ sâu hại bảo vệ thực vật.
Thiên địch cũng đóng vai trò quan trọng trong việc duy trì khả năng thích ứng
để tự tồn của con mồi. Các cá thể hoặc loài nào yếu, chậm không thể tự bảo vệ được sẽ
bị thiên địch loại đi theo qui luật đào thải trong tự nhiên (Nguyễn Văn Huỳnh, 2002).
Thiên địch còn đóng vai trò là tác nhân thúc đẩy sự tiến hóa của sâu hại. Để bảo
tồn nòi giống đối với sự tấn công của thiên địch, sâu hại phải phát triển những khả
năng tự vệ mới và từ đó qua thời gian hình thành các dòng hoặc sâu hại mới có khả
năng thích ứng cao hơn. Điều này cũng giúp tạo ra sự cân bằng sinh học giữa các loài
(Nguyễn Văn Huỳnh, 2002).
2.3. Một số thiên địch của rầy nâu

2.3.1. Bọ rùa 8 chấm Harmonia octomaculata
Là những bọ rùa có lốm đốm trên lưng và bắt những con mồi di chuyển chậm.
Khi bị đụng đến các con trưởng thành sẽ nhanh chóng rụng khỏi cây hoặc bay đi. Một
con bọ rùa phải mất 1 - 2 tuần để phát triển từ trứng đến trưởng thành và có thể đẻ từ
150 – 200 trứng trong 6 – 10 tuần. Ấu trùng có dạng dài, cả ấu trùng và thành trùng
đều tấn công bọ rầy, bướm, sâu non, trứng… và mỗi ngày ăn từ 5 – 10 con mồi (B.M.
Shepard., và ctv, 1989).
2.3.2. Bọ rùa đỏ Micraspis crocea
Là một loài bọ rùa điển hình, hình ovan, thành trùng thường có màu đỏ chói
đậm hoặc nhạt, ấu trùng thường có màu tối. Chúng sống trên ngọn cây lúa, cả ấu trùng
và thành trùng đều ăn trứng, sâu non, thành trùng của rầy và sâu và mỗi ngày ăn từ 5 –
10 con mồi (B.M. Shepard., và ctv, 1989).


6

2.3.3. Nhện Lycosa Pseudoannulata
Nhện Lycosa có vạch hình nĩa trên lưng và bụng có những điểm trắng. Loại
nhện này rất nhanh và đến định cư nhanh chóng trên ruộng lúa nước hoặc lúa cạn vừa
mới chuẩn bị xong. Chúng tụ tập sớm trên ruộng lúa và bắt mồi sâu hại trước khi gây
hại nặng cho cây trồng . con cái sống 3 – 4 tháng và đẻ 200 – 400 trứng. Có thể nở ra
60 – 80 con đực và chúng nhảy trên lưng con cái. Chúng là loại nhện phổ biến trên cây
trồng và khi bị động chúng bò rất nhanh trên mặt nước. Chúng không kéo màng tấn
công con mồi trực tiếp. Nhện trưởng thành ăn rất nhiều loài côn trùng có hại, kể cả
bướm sâu đục thân. Nhện đực cũng tấn công bọ rầy non, mỗi ngày chúng ăn 5 – 15
con mồi (B.M. Shepard., và ctv, 1989).
2.3.4. Nhện lùn Atypena Formosana
Nhện lùn thường bị nhằm là ấu trùng của các loài nhện khác, vì chúng bé và có
thể tìm thấy 30 – 40 con ở gốc bụi lúa. Nhện lùn trưởng thành có ba đôi chấm vạch ở
lưng. Trứng hình tròn, đẻ thành đám trêm bẹ lá lúa khô có phủ một màng mỏng và

không được chăm sóc của con cái. Một con cái có thể đẻ 80 – 100 con non. Nhện lùn
thích ở ruộng nước hơn và kéo màng ở gốc cây lúa phía trên mực nước. Chúng di
chuyển rất chậm và bắt mồi chủ yếu khi con mồi mắc vào màng. Nhện lùn sống 1,5 –
2 tháng và ăn rầy non của rầy nâu lẫn rầy xanh. Một con nhện có thể ăn 4 – 5 con rầy
mỗi ngày (B.M. Shepard., và ctv, 1989).
2.3.5. Nhện chân dài Tetranatha maxillosa
Nhện chân dài có thân và chân dài, thường nằm dài trên lá lúa. Con đực có hàm
to. Nhện chân dài sống 1 – 3 tháng và đẻ 100 – 200 trứng. Trứng được đẻ thành đám ở
nửa phía trên cây lúa và được phủ một màng mỏng giống như bông. Nhện thích sống
vùng ẩm, chúng ẩn náu ở thân lúa lúc giữa trưa và rình mồi ở lưới vào buổi sáng.
Chúng giăng lưới loại hình tròn, nhưng rất yếu. Khi con mồi bọ rầy, ruồi hoặc bướm
đụng vào lưới, lập tức nhện cuốn ngay con mồi. Mỗi ngày một con nhện ăn 2 – 3 con
mồi (B.M. Shepard., và ctv, 1989).


7

2.3.6. Bọ xít nước Microvelia douglasi atrolineata
Đó là một loài bọ xít nhỏ, có vạch trên lưng, có nhiều trên ruộng lúa nước. Con
trưởng thành vai rộng có thể có cánh hoặc không. Loại không có cánh không có vạch
đen và vạch trắng ở cổ và cánh trước. Bọ xít nước ăn thịt có thân hình nhỏ và bàn chân
trước chỉ có một đốt, do đó có thể phân biệt được với các loài bọ xít khác. Mỗi con cái
đẻ 20-30 trứng vào thân cây lúa phía trên mặt nước.
2.3.7. Bọ xít mù xanh Cyrtorhinus lividipennis
Bọ xít mù xanh cơ thể nhỏ cỡ bằng con rầy nâu, cánh màu xanh, chúng tìm
kiếm trứng rầy ở bẹ lá và thân cây lúa, rồi chúng dùng vòi hút khô trứng, mỗi con một
ngày có thể ăn từ 7 – 10 trứng, hoặc 1 – 5 con rầy (B. M. Shepard., và ctv, 1989).
2.3.8. Ong ký sinh trứng rầy Gonatocerus spp
Ong ký sinh trên cả trứng rầy nâu và rầy xanh. Ong trưởng thành có màu vàng
đậm đến màu nâu, eo ngắn. Râu con đực có 13 đốt, râu con cái có 11 đốt. Con cái có

thể sinh sản mà không cần có con đực giao phối. Chúng dùng râu tìm trứng ký chủ.
Khi đã tìm thấy trứng ký chủ con cái nâng người lên chích vòi dẫn trứng vào trứng kỷ
chủ và đẻ vào mỗi trứng ký chủ một trứng ong. Trứng bị ký sinh chuyển thành nâu
vàng và vàng đỏ, trong khi đó trứng bình thường có màu trắng. Từ trứng đến trưởng
thành mất 11 – 17 ngày. Ong sống 6 – 7 ngày và ký sinh trung bình mỗi ngày 8 trứng
(B.M. Shepard., và ctv, 1989).
2.4. Bọ cánh cụt Paederus fuscipes
2.4.1. Nghiên cứu trên thế giới
2.4.1.1. Đặc điểm phân loại và khả năng ăn mồi
Trong họ Staphylinidae có tối thiểu là 25 loài Paederus trong đó Paederus
fusca xuất hiện nhiều ở đồng lúa Nam Á, Paederus crebinpunctatis, Paederus sabaeus
và Paederus eximius được phát hiện ở Trung Phi, Paederus cruenticollis là loài quan
trọng ở Australia. Ngoài ra, Paederus spp. còn được phát hiện ở nhiều nơi khác trên
thế giới như: Paederus brevipennis (Lacordaire, 1835); Paederus caligatus (Erichson,
1840); Paedederus riparius (Linnaeus, 1758); Paederus dioncopaederus litoralis;


8

Paederus harpopaederus schoenherri; Paederus compotens LeC; Paedederus fuscipes
(Curtis, 1826); Paederus littorarius (Grav, 1802); Paederus nevadensis Aust;
Paederus schoenberri Ozwal; Paederus procerus (Gravenhosst, 1806); Paederus
pulchellus (Heer, 1839); Paederus gracilis (Paykull, 1789); paederus lyonessius (Joy,
1908).
Bọ cánh cụt Paederus fuscipes phân bố rộng trên toàn đất nước Nhật Bản và
sống nhiều ở vùng có nhiệt độ ấm.
Bọ cánh cụt trưởng thành tìm thức ăn trên mặt đất, đồng cỏ, đầm lầy và trên
ruộng lúa. Tại vùng Narimasu – Tokyo, loài này bay vào đèn khi mật số cao và hoạt
động về đêm vào thời điểm trước nửa đêm (Kazuyosho Kurosa, 1958).
Bọ cánh cụt Paederus fuscipes phân bố rộng trên toàn thế giới và được tìm thấy

sống trên lúa ở miền Tây Malaysia. Nó là một loài ăn thịt, tấn công rầy nâu gây hại
trên lúa trên lúa, xuất hiện từ giai đoạn lúa non và di chuyển rất nhanh. Nghiên cứu
trong phòng thí nghiệm cho thấy Paederus fuscipes có khả năng ăn côn trùng thân
mềm rất nhiều (Manley, 1997).
Bọ cánh cụt Paederus fuscipes xuất hiện phổ biến trên tất cả các hệ sinh thái
đồng ruộng ở các vùng nhiệt đới. Chúng ăn trứng sâu và các loài côn trùng thân mềm
khác và di chuyển nhanh giữa các tán cây, khi bị quấy rầy thì tự thả mình rơi khỏi cây
(Shepard và ctv, 1999).
Tại Florida, Paederus fuscipes trưởng thành dài 15-20 mm, cánh cứng có màu
xanh ánh kim hoặc màu xanh lá cây, kiểu miệng nhai mang đôi càng dài, cong, sắc,
râu đầu 11 đốt có cấu tạo đơn giản.
Theo nghiên cứu của Trường Đại Học Nông Nghiệp Florida thì đôi cánh màng
của bọ cánh cụt xếp gọn trên lưng và giấu kín dưới đôi cánh cứng. Suốt ngày chúng bò
quanh nhanh nhẹn và đôi cánh giấu kín trông rất giống loài kiến vàng bình thường.
Khi thấy có nguy hiểm nó nâng phần bụng lên cử chỉ tự vệ như loài bò cạp và có thể
cất cánh bay ngay. Nó còn có thể chạy nhanh qua vũng nước cạn không ngập cơ thể
chúng.


9

Theo Scheller (1984), Sopp và Wratten (1986) và Chiverton (1988) hầu hết côn
trùng thuộc bộ cánh cứng đều ăn rầy, rệp thân mềm. Thí nghiệm ăn ít rầy, rệp thân
mềm trên đồng ruộng hơn trong phòng thí nghiệm vì do chúng phải tốn nhiều thời gian
để tìm kiếm thức ăn trên ruộng hơn là không gian giới hạn trong hộp thí nghiệm.
Theo Steve (2004) bộ cánh cứng là một bộ lớn có khoảng 3100 loài ở Bắc Mỹ
trong đó loài Peaderus chiếm khoảng 600 loài (15 loài ở Mỹ và Canada). Con trưởng
thành dài 7–10 mm, rộng 0, –1 mm có đầu màu đen ngực có 3 đốt, đốt đầu tiên có màu
nâu đỏ, đốt ngực giữa mang đôi cánh ngắn màu xanh ánh kim. Peaderus thích sống
trong môi trường ẩm, hoạt động mạnh vào ban ngày. Trứng được đẻ rải rác trên vật

liệu xốp ẩm, trứng nở từ 3-19 ngày sau khi đẻ. Ấu trùng có 2 tuổi, thành trùng đều là
côn trùng ăn mồi có ích cho nông nghiệp.
Một cặp bọ cánh cụt Paeerus fuscipes có khả năng ăn 8,7 con rầy nâu
(Nilaparvata lugens), 8,4 rầy xanh đuôi đen (Nephotettix virescens), 8,3 rầy lưng trắng
(Sogatlla furcifera) mỗi ngày (Rajendran và Gopalan, 1989).
Khi bón phân hữu cho ruộng lúa có chứa Azolla thì mật số bọ cánh cụt
Paederus fuscipes tăng cao nhất so với ruộng bón phân không có chứa Azolla nên việc
kiểm soát sâu hại trên ruộng lúa tốt hơn (Ragini, Thagaraju and David, 2000).
2.4.1.2. Đặc điểm sinh học, sinh thái của bọ cánh cụt Paederus fuscipes
Trưởng thành dài khoảng 7 – 10 mm, khả năng đẻ từ 18 – 100 trứng, trung bình
52,3 trứng (tỷ lệ trứng nở 96,2 %), thường đẻ rải rác trên đất ẩm. Trứng hình cầu dài
khoảng 0,6 mm. Trứng mới đẻ có màu trắng đục đến khi sắp nở màu hơi nâu, thời gian
giai đoạn trứng từ 3 – 5 ngày (Kazuyos Kurosa, 1958).
Ấu trùng có 2 tuổi. Tuổi 1 dài 2,2 – 3,4 mm và có thời gian từ 4 – 22 ngày. Tuổi
2 dài khoảng 4 – 6 mm và có thời gian từ 7 – 26. Nhộng trần dài khoảng 4,5 mm, hóa
nhộng dưới đất và giai đoạn nhộng từ 3 – 12 ngày (Kazuyos Kurosa, 1958).


10

Trưởng thành ăn tạp, nhưng thức ăn chính là côn trùng thân mềm và đôi khi ăn
cả thực vật mục nát. Thời gian sống từ trứng đến trưởng thành 17 – 55 ngày, trung
bình 32,5 ngày (Kazuyos Kurosa, 1958).
2.4.1.3. Độc chất trong cơ thể bọ cánh cụt Paederus spp
Chất Haemolymph chứa trong toàn bộ cơ thể bọ cánh cụt (ngoại trừ đôi cánh)
là chất độc pederin (C24H43O9N). Nó là một hỗn hợp những phân tử phi Protein, độc
gấp 12 – 15 lần nọc độc rắn hổ, pederin co trong máu con vật. Khi con vật đã chết khô
và để trong 8 năm thì độc tính vẫn tồn tại. Trên bọ cánh cụt pederin không được tạo ra
từ bản thân mà do vi khuẩn nội cộng sinh trong chúng là Pseudomonas aeruginosa tạo
ra (Trần Mạnh Hà, 2009).

Năm 1966, Paederus fuscipes gây nên khoảng 2.000 trường hợp viêm da
ở Okinawa (Armstrong, 1969).
Năm 1961, sự tấn công của bọ cánh cụt Paederus sabaeus với mật số cao
ở Mbarana – Uganda đã gây viêm da nặng cho hàng ngàn nguời dân.
Năm 1993, Paederus sabaeus gây ra những trường hợp viêm da ở Châu Phi.
Chất độc pederin có trong cơ thể bọ cánh cụt gây tổn thương trên da người
và chỉ được tổng hợp từ con cái. Do đó, con đực có thể chỉ chứa một lượng
nhỏ khoảng 0,1 – 0,5 pg, con cái thì hàm lượng cao gấp mười lần con đực.
Năm 2009, bọ cánh cụt gây bỏng da cho sinh viên Đại học Cần Thơ (Nguyễn
Thanh Tường, 2009).
2.4.2. Nghiên cứu trong nước
Bọ cánh cụt Paederus fuscipes là loài thiên địch quan trọng trong công tác
phòng trừ sâu đục thân trên ruộng mía (Cao Anh Đương, 2003).
Họ cánh cụt Staphylinidae có cơ thể dài, mảnh, cánh rất ngắn không che phủ đa
số các đốt của bụng. Cơ thể có từ 6 – 7 đốt, không được cánh che phủ. Cánh sau trái
lại rất phát triển, ở trạng thái nghỉ cánh xếp lại phía dưới cánh trước. Họ cánh cụt rất


11

hoạt động, thường chạy và bay nhanh. Bàn chân có công thức 5- 5- 5 hoặc 4 – 5 – 5
hoặc 3 – 5 – 5 (Trần Thị Thiên An, 2003).
Bọ cánh cụt Paederus fuscipes, thuộc họ Staphylinidae bộ Coleoptera, con
trưởng thành có thân mình dài khoảng 7 – 10 mm, màu đỏ với 3 khoang đen ở đầu,
cánh và cuối bụng, râu dài hình sợi chỉ, chân chạy nhanh, cánh ngắn chỉ đến nửa thân
mình, cuối bụng nhọn có hai đuôi nhỏ. Chúng thường sống trong đất ẩm của bờ ruộng
hay kênh rạch. Con cái đẻ trứng vào trong đất; trứng rất nhỏ hình tròn, màu nâu lợt, sẽ
nở trong vòng 3 – 5 ngày. Con non cũng giống con trưởng thành nhưng nhỏ hơn, màu
nâu lợt, lột xác ba lần trong thời gian 7 – 8 ngày, di chuyển nhanh nhẹn và đã biết bắt
mồi. Khi đủ lớn chúng hóa nhộng trong đất, khoảng 4 – 5 ngày sau thì trưởng thành.

Con trưởng thành bay khỏe và có thể sống đến 2 – 3 tháng trong ruộng lúa hay rẫy rau
màu (Nguyễn Văn Huỳnh, 2009).
2.5. Tổng quan về hoạt chất trừ rầy Thiamethoxam
Tên thương mại: Actara 25WG
Tên hóa học: 3-(2-chloro-1,3-thiazol-5-ylmethyl)-1,3,5- oxadiazinan-4-ylidene
(nitro) amine.
Công thức hóa học:

Nhóm hóa học: Thianicotinyl
Tính chất: thuốc kỹ thuật dạng rắn, màu nâu sang, trọng lượng riêng 0,47
g/cm3 (200C), mùi hôi nhẹ. Điểm nóng chảy 1390C, tan trong nước (4,1 g/l ở 250C),
tan nhiều trong dung môi hữu cơ như methanol (10 g/l), acetone (42 g/l), acetronitrile
(78 g/l).


12

Thiamethoxam thuộc nhóm độc II, LD50 qua miệng 1563 mg/kg, LD50 qua da >
2000 mg/kg. Ít độc với cá (LC50 > 10 ppm) và ong. Thời gian cách ly 7-14 ngày.
Tác động vị độc và tiếp xúc, khả năng nội hấp mạnh. Phổ tác dụng rộng, phòng
trừ được nhiều loại sâu ăn lá và loại chích hút cho nhiều loại cây trồng.
Sử dụng: Actara 25WG dùng phòng trừ rầy nâu hại lúa, rầy xanh, bọ trĩ, bọ xít
muỗi hại chè, rệp bọ phấn hại rau, cà chua, dưa, rệp sáp hại cà phê, rầy chổng cánh hại
cây có múi, bọ cánh cứng hại dừa. Pha nước với nồng độ 0,015%. Phun ướt đều lên
cây. Trừ rầy nâu hại lúa với liều lượng 30-50g/ha, pha 1g thuốc/bình 8l.
2.6. Đặc điểm sinh học của ngài gạo Corcyra cephalonica Stain
Họ - Bộ: Pyralidae – Lepidoptera
Phân bố và ký chủ
Loài này xuất hiện ở khắp các nước trên thế giới, ở nước ta ngài gạo xuất hiện ở
khắp nơi nhất là trong các kho lương thực như kho gạo, thóc, sắn lát… Ký chủ chính

của ngài gạo là gạo, ngoài ra còn ăn hại cả thóc, khoai, sắn khô, cám, bột mì và các
loại quả khô.
Tác hại
Ngài gạo gây hại ở giai đoạn sâu non. Sâu non thường nhả tơ kết hạt gạo, tạp
chất, phân, làm thành bao túi và nằm trong đó ăn phá. Sâu non ưa sống thành đàn do
đó những bao túi thường dính nhau thành tường mảng làm ảnh hưởng đến chất lượng
của sản phẩm.
Nhìn chung thiệt hại mà loài sâu hại này gây ra trước đây là rất lớn. Năm 1995,
ước tính hàng năm về hao hụt nông sản nước ta đối với lúa là 2,3 triệu tấn, tương
đương với 350 – 360 triệu USD. Đó là chưa tính đến những hao hụt đối với ngô, các
loại đậu đỗ và nông sản khác.
Đặc điểm hình thái
Thành trùng: con cái thân dài 7 – 11 mm, hai cánh căng ra dài 14 – 24 mm,
trung bình cánh dài 19 mm. Con đực thân dài 6 – 9 mm, hai cánh căng ra dài 14 – 18


13

mm, trung bình cánh dài 17 mm. Thân màu xám hay màu vàng nâu, ở bụng pha màu
đen. Cánh trước màu xám đen và hẹp hơn cánh sau, màu sắc từ giữa cánh trở về gốc
cánh tương đối thẫm hơn. Biên ngoài đầu cánh có những điểm nhỏ. Cánh sau tương
đối rộng màu xám trắng. Cánh trước của con đực màu đen hơn của con cái.
Con cái râu môi dưới rất dài. Râu đầu màu nâu xám trắng, đốt gốc có nhiều
phiến vảy màu nâu xám tối. Đầu, ngực màu nâu xám nhạt, đôi khi là màu xám trắng
hay xám tối. Có thể phân biệt được mạch cánh nhờ các bộ phận màu nâu xám tối, chỉ
có mặt lưng giữ được nền màu nhạt vả lại có xu hướng lan khắp cả cánh. Một số cá thể
các vệt hoa màu tối đã tiêu biến, có đôi khi hình thành 2 đường vân ngang màu đen
không trật tự, 1 đường ở đoạn cuối buồng cánh, 1 đường ở khu giữa của trục dài trên
cánh, gần đoạn ngọn có một sô màu tối đậm ở viền mép và đoạn ngọn ở mỗi đường
mạch cách có chấm đen không rõ ràng lắm. Lông màu nâu xám nhạt có xen kẽ phiến

vảy màu tối. Phần gốc lông tơ có vân màu hơi nhạt. Bụng và chân có màu nâu xám
nhạt.
Trứng: Dài 0,5 – 0,75 mm hình bầu dục màu vàng.
Ấu trùng: Khi đẫy sức dài 15 mm, màu sắc của sâu non thường hay biến đổi,
hoặc màu trắng, hoặc màu xám. Có 8 đôi chân. Đầu màu vàng nâu, mảnh cứng ở đốt
ngực 1 và đốt bụng cuối cùng màu nâu nhạt.
Sâu non ngài gạo có những đặc điểm sau để phân biệt với các loài khác:
- Phần chưa hóa xương ở ngực và bụng da màu trắng hoặc màu vàng hay màu
xám trắng.
- Lông cứng ở bộ phận lưng của 7 đốt trước bộ phận bụng và 2 cánh thường
không có phiến lông, nhưng xen kẽ có phiến lông không rõ ràng.
- Chỗ dính liền bên cạnh phiến trán với ngấn chóp đầu cách chiều dài của trán
bằng 2 lần chiều dài khu tam giác.
- Mép sau của lỗ thở ở bụng bằng 2 lần mép trước.


14

Nhộng: Dài 7 – 11 mm, màu vàng nâu, mắt kép màu đen nâu. Đốt bụng cuối
cùng không có lông móc câu.
Đặc điểm sinh học
Sau khi vũ hóa, ngài giao phối ngay, có khi tới mấy giờ sau mới giao phối, giao
phối xong đẻ trứng ngay trong đêm đó. Thời gian đẻ trứng 5 ngày, thường đẻ trứng
ban đêm và đẻ từng quả một. Một con cái trong đời đẻ được 89 – 191 trứng, trung bình
156 trứng, ở điều kiện độ nhiệt và độ ẩm tự nhiên thời gian trứng nở 4 – 6 ngày, trung
bình 5 ngày. Thời gian sâu non 46 – 56 ngày, dài nhất 111 ngày. Thời gian nhộng 10 –
14 ngày, trung bình 12 ngày. Con đực sống 4,9 ngày, con cái sống 7,2 ngày. Sâu non
lột xác 5 – 7 lần, con đực lột xác nhiều hơn con cái 1 lần. Mỗi năm sinh 2 – 3 lứa, ở 20
– 210C hoàn thành vòng đời mất 42 ngày. Ấu trùng mới nở có kích thước nhỏ nên dễ
dàng xâm nhập vào hàng hóa nông sản. Ấu trùng trải qua 5 tuổi và không ghi nhận có

dạng tiềm sinh.
Nhiệt độ thích hợp cho sự phát triển ngài gạo là 300C – 32,50C, ẩm độ 70%. Sự
sinh trưởng của ngài gạo sẽ ngừng lại khi nhiệt độ thấp hơn 180C.

 


×