Tải bản đầy đủ (.pdf) (96 trang)

Kháng nghị giám đốc thẩm theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Quảng Ngãi

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (786.36 KB, 96 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

TRẦN MINH TÚ

KHÁNG NGHỊ GIÁM ĐỐC THẨM
THEO PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM
TỪ THỰC TIỄN TỈNH QUẢNG NGÃI

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI, năm 2018


VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

TRẦN MINH TÚ

KHÁNG NGHỊ GIÁM ĐỐC THẨM
THEO PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM
TỪ THỰC TIỄN TỈNH QUẢNG NGÃI

Chuyên ngành
Mã số

: Luật Hình sự và Tố tụng Hình sự
:
838.01.04



LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS. NGUYỄN VĂN HUYÊN

HÀ NỘI, năm 2018


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn là công trình nghiên cứu khoa học, độc lập của tôi;
các số liệu, kết quả nêu trong luận văn là trung thực và có nguồn gốc rõ ràng.

Tác giả luận văn

Trần Minh Tú


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .........................................................................................................................1
CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ KHÁNG NGHỊ GIÁM ĐỐC
THẨM TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ........................................................................5
1.1. Khái niệm, nội dung, đặc điểm, ý nghĩa kháng nghị giám đốc thẩm .......................5
1.2. Nội dung kháng nghị giám đốc thẩm .......................................................................9
1.3. Đặc điểm kháng nghị giám đốc thẩm .....................................................................17
1.4. Ý nghĩa của kháng nghị giám đốc thẩm .................................................................19
CHƯƠNG 2. QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VỀ
KHÁNG NGHỊ GIÁM ĐỐC THẨM VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG TẠI TỈNH
QUẢNG NGÃI (2007-2017) ........................................................................................ 21
2.1. Quy định của pháp luật về kháng nghị giám đốc thẩm ..........................................21

2.2. Thực tiễn áp dụng quy định của pháp luật về kháng nghị giám đốc thẩm tại tỉnh
Quảng Ngãi ....................................................................................................................27
2.3. Kết quả kháng nghị giám đốc thẩm (từ 31/5/2015 trở về trước) ........................... 30
2.4. Hoạt động báo cáo kháng nghị giám đốc thẩm và kết quả (từ 01/6/2015 đến
nay - theo Luật Tổ chức Tòa án nhân dân 2014) .......................................................... 44
2.5. Hạn chế của kháng nghị giám đốc thẩm và nguyên nhân ......................................48
CHƯƠNG 3. YÊU CẦU VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG HOẠT
ĐỘNG KHÁNG NGHỊ GIÁM ĐỐC THẨM............................................................ 62
3.1. Yêu cầu nâng cao chất lượng kháng nghị giám đốc thẩm ......................................62
3.2. Giải pháp nâng cao chất lượng kháng nghị giám đốc thẩm ...................................66
KẾT LUẬN ..................................................................................................................80
DANH SÁCH TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
BLHS

Bộ luật hình sự

BLHS 1999

Bộ luật hình sự năm 1999, sửa đổi bổ sung năm 2009

BLHS 2015

Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017

BLTTHS 2003


Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003

BLTTHS 2015

Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015

BLTTDS 2015

Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015

CQĐT

Cơ quan điều tra

ĐTV

Điều tra viên

HĐTPTANDTC

Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao

KSV

Kiểm sát viên

LTTHC 2015

Luật tố tụng hành chính năm 2015


LTCTAND 2002

Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 2002

LTCTAND 2014

Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014

LTCVKSND 2002 Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2002
LTCVKSND 2014 Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2014
NBC

Người bào chữa

NBVQLHPCĐS

Người bảo vệ quyền lợi hợp pháp của đương sự

NCQL&NVLQ

Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan

NTGTT

Người tham gia tố tụng

NTHTT

Người tiến hành tố tụng


TAND

Tòa án nhân dân

TAND huyện

Tòa án nhân dân huyện, quận, thị xã

TAND tỉnh

Tòa án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương

TANDCC

Tòa án nhân dân cấp cao

TANDTC

Tòa án nhân dân tối cao


TP

Thẩm phán

VKS

Viện kiểm sát

VKSND


Viện kiểm sát nhân dân

VKSNDCC

Viện kiểm sát nhân dân cấp cao


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Hoạt động tố tụng hình sự đòi hỏi các chủ thể phải áp dụng đúng và đầy đủ các
quy định của pháp luật để giải quyết đúng đắn từng vụ án. Quá trình thực hiện các hoạt
động này, vai trò của Tòa án vô cùng quan trọng vì vừa kiểm tra, đánh giá chứng cứ đã
có, vừa thu thập chứng cứ và chứng minh qua nghiên cứu hồ sơ vụ án, chuẩn bị xét xử,
xét xử, nghị án, phán quyết ra bản án đảm bảo có căn cứ, đúng pháp luật, nghiêm minh
và kịp thời.
Tuy nhiên, hoạt động áp dụng pháp luật trong tố tụng hình sự cũng còn nhiều
bất cập cả về lý luận và thi hành. Thực tiễn tỉnh Quảng Ngãi những năm qua cho thấy
không ít bản án đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án cấp huyện có vi phạm nghiêm
trọng nên bị kháng nghị giám đốc thẩm. Sau khi xét xử giám đốc thẩm, không ít vụ án
khi điều tra lại đã thay đổi tội danh khởi tố hoặc xét xử sơ thẩm lại không cho bị cáo
hưởng án treo hoặc cấp sơ thẩm giải quyết lại về phần dân sự, án phí dân sự hoặc cấp
giám đốc thẩm tuyên hủy và đình chỉ phần dân sự, án phí dân sự của bản án sơ thẩm...
Tuy nhiên, có trường hợp kháng nghị thiếu căn cứ hoặc không đúng thẩm quyền nên
không được chấp nhận. Ngược lại, cũng có nhiều bản án có sai lầm vi phạm nghiêm
trọng nhưng lại không được kháng nghị hoặc báo cáo đề nghị cấp có thẩm quyền
kháng nghị; tình trạng trên đã ảnh hưởng đến chất lượng giải quyết các vụ án hình sự,
ảnh hưởng đến quyền, lợi ích hợp pháp của những người tham gia tố tụng trong vụ
án.Tuy vậy, cho đến nay vẫn chưa có tác giả nào nghiên cứu đề tài về thực tiễn hoạt
động kháng nghị giám đốc thẩm trong tố tụng hình sự trên địa bàn tỉnh hoặc toàn quốc

ở tầm luận án hoặc luận văn nhằm tìm ra giải pháp để khắc phục.
Với mong muốn góp phần vào chiến lược Cải cách tư pháp và Khoản 1 Điều 102
Hiến pháp 2014 về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Tòa án và Khoản 3 Điều 2
LTCTAND năm 2014 về trách nhiệm, nghĩa vụ chứng minh của Tòa án, trong đó có xét
xử các vụ án hình sự, tác giả chọn đề tài “Kháng nghị giám đốc thẩm theo pháp luật tố
tụng hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Quảng Ngãi” làm luận văn thạc sỹ luật học.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Dù đã có nhiều bài viết, công trình nghiên cứu ở nhiều góc độ, khía cạnh, phạm
vi khác nhau, như: Tập bài giảng “Chứng cứ, những vấn đề lý luận và thực tiễn” của
1


TS. Đặng Quang Phương (2014); “Hoàn thiện một số quy định của Bộ luật Tố tụng
Hình sự về thủ tục phiên tòa sơ thẩm đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp” của Ts. Hoàng
Thị Minh Sơn (Tạp chí Luật học số 10/2009); “ Cần sửa đổi, bổ sung một số thủ tục tố
tụng hình sự theo tinh thần cải cách tư pháp” của Ths. Nguyễn Văn Trượng (Tạp chí
TAND số 6/2010); Luận án Tiến sĩ luật học “Xét xử sơ thẩm trong Tố tụng Hình sự Việt
Nam” của Võ Thị Kim Oanh; Luận án tiến sĩ luật học “ Quá trình chứng minh trong vụ
án hình sự ở nước ta” của Nguyễn Văn Du (Hà Nội, năm 2006); Luận văn Thạc sỹ luật
học - Học viện Khoa học xã hội Việt Nam năm 2015 “ Chứng minh trong tố tụng hình
sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Quảng Ngãi” của tác giả Dương Ngọc An; Luận văn Thạc
sỹ Luật học – Học viện Khoa học xã hội Việt Nam năm 2009, “Thủ tục xét xử sơ thẩm
theo Bộ luật Tố tụng Hình sự Việt Nam và hoàn thiện theo tinh thần cải cách tư pháp
của nước ta” của tác giả Nguyễn Thị Thủy; Luận văn Thạc sỹ Luật học – Học viện
Khoa học xã hội Việt Nam năm 2013, “Phiên tòa xét xử hình sự sơ thẩm trong tố tụng
hình sự Việt Nam từ thực tiễn thành phố Hồ Chí Minh” của tác giả Nguyễn Thị Mai
Thùy; …và một số bài viết đăng trên Báo Bảo vệ pháp luật, Tạp chí Kiểm sát, Tạp chí
nghề luật liên quan đến hoạt động kháng nghị giám đốc thẩm, như bài viết “Hoàn thiện
pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam trong giai đoạn xây dựng Nhà nước pháp quyền”
(PGS.TS Lê Văn Cảm. Tạp chí Kiểm sát số 15 tháng 8/2010 và 17 tháng 9/2010); bài

viết “Dấu ấn sâu sắc từ một vụ án” (Báo Bảo vệ pháp luật số Chuyên đề tháng 10/2012)
và “Kháng nghị để bảo vệ quyền lợi cho công dân” (Báo Bảo vệ pháp luật số Chuyên đề
tháng 9/2007) của KSV Dương Ngọc An; đề tài “Kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm
trong tố tụng hình sự Việt Nam” của tác giả Nguyễn Như Thắng (Luận văn Thạc sỹ, Đại
học quốc gia Hà Nội, 2014, Chuyên ngành Luật hình sự. Mã số: 60 38 40). Các công
trình trên chứa dựng rất nhiều thông tin, đem lại nhiều ý nghĩa cho việc nghiên cứu hoàn
thiện pháp luật tố tụng, công tác học tập, giảng dạy. Tuy nhiên, chúng tôi thấy các công
trình này chưa có nội dung đề cập chuyên sâu đến thủ tục kháng nghị giám đốc thẩm từ
thực tiễn tỉnh Quảng Ngãi. Do đó, đề tài nghiên cứu là không trùng lặp.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích của Luận văn là đánh giá, tổng kết hoạt động kháng nghị giám đốc
thẩm trong thời gian mười năm qua tại tỉnh Quảng Ngãi để chỉ ra cụ thể những ưu điểm,
2


những hạn chế và nguyên nhân của nó; từ đó đề xuất các giải pháp thiết thực để nâng
cao hiệu quả hoạt động kháng nghị giám đốc thẩm trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi. Luận
văn còn có thể góp phần bổ sung lý luận ngày càng hoàn thiện, nhằm nâng cao ý thức
trách nhiệm của người tiến hành tố tụng, ý thức pháp luật của nhân dân, góp phần đấu
tranh phòng chống tội phạm ngày càng hiệu quả và cung cấp thông tin cho người quan
tâm nhằm góp phần trong việc nghiên cứu, giảng dạy, ứng dụng trong thực tiễn không
chỉ trong hoạt động xét xử, mà còn có ý nghĩa cả trong quá trình tố tụng hình sự.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Từ mục đích đó, nhiệm vụ đặt ra là phải: Nghiên cứu làm rõ những vấn đề lý
luận về khái niệm, đặc điểm, nội dung của kháng nghị giám đốc thẩm; Nghiên cứu có
tính hệ thống các quy định của BLTTHS và pháp luật liên quan về hoạt động kháng
nghị giám đốc thẩm để thấy những điểm bất cập không phù hợp với thực tiễn nhằm đề
xuất sửa đổi hoàn thiện; Khảo sát số liệu làm rõ thực tiễn áp dụng các quy định của
BLTTHS về kháng nghị giám đốc thẩm tại tỉnh Quảng Ngãi để thấy kết quả, hạn chế

và tìm nguyên nhân hạn chế nhằm đề ra giải pháp nâng cao chất lượng hoạt động này
tại tỉnh Quảng Ngãi.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Về đối tượng nghiên cứu, do hoạt động kháng nghị giám đốc thẩm trong tố tụng
hình sự Việt Nam là vấn đề rất rộng, nên Luận văn chỉ nghiên cứu các quy định của
pháp luật và thực tiễn thực hiện các quy định đó về thủ tục này.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Về nội dung, Luận văn nghiên cứu những vấn đề liên quan đến kháng nghị
giám đốc thẩm. Về không gian, nghiên cứu thực tiễn áp dụng pháp luật về kháng nghị
giám đốc thẩm trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi. Về thời gian, nghiên cứu thực tiễn áp
dụng từ năm 2007 đến năm 2017.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận
Đề tài nghiên cứu dựa trên cơ sở lý luận của Chủ nghĩa Mác – Lê nin và quan
điểm của Đảng ta, tư tưởng Hồ Chí Minh về vận dụng lý luận Mác - xít vào quá trình
thực tiễn cách mạng Việt Nam trong các lĩnh vực của đời sống xã hội như về bản chất
3


nhà nước và pháp luật, đấu tranh giai cấp, quyền con người, hoạt động áp dụng pháp
luật,…và gắn với chủ trương cải cách tư pháp của Đảng.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Để giải quyết những nội dung của đề tài, Luận văn có sử dụng các phương pháp
nghiên cứu sau đây: phương pháp lịch sử - cụ thể, so sánh, quy nạp, phân tích và tổng
hợp, thống kê, tác giả còn trực tiếp nghiên cứu hồ sơ án sơ thẩm, phúc thẩm, giám đốc
thẩm, nghiên cứu, phân tích các văn bản tố tụng, biên bản phiên tòa, biên bản nghị án,
bản án sơ thẩm, trực tiếp tham dự nhiều phiên tòa sơ thẩm của 2 cấp, phiên tòa phúc
thẩm, tham khảo ý kiến chuyên gia, những người tiến hành tố tụng…v…v…
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn

6.1. Ý nghĩa lý luận
Luận văn góp phần cung cấp cơ sở lý luận và thực tiễn về quá trình chứng minh
trong tố tụng hình sự kể từ giai đoạn tiếp nhận, xử lý tin báo, tố giác tội phạm, kiến
nghị khởi tố, hoạt động điều tra, truy tố, xét xét xử sơ thẩm, phúc thẩm, hoạt động
kháng nghị và xét xử giám đốc thẩm và thi hành quyết định (bản án) của cấp giám đốc
thẩm nhằm nâng cao chất lượng hoạt động tố tụng tại tỉnh Quảng Ngãi nói riêng để
bảo đảm điều tra, truy tố, xét xử đúng người, đúng tội, đúng pháp luật; không bỏ lọt
người phạm tội, không làm oan người vô tội, góp phần bảo đảm pháp chế thống nhất
và phục vụ yêu cầu chính trị của địa phương trong quá trình thực hiện các mục tiêu
phát triển trên địa bàn tỉnh nhà nói riêng, toàn quốc nói chung.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo phục vụ hoạt động quản
lý chỉ đạo điều hành trong quản lý hành chính – tư pháp.
7. Cơ cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận luận văn gồm ba chương.
Chương 1: Những vấn đề lý luận về kháng nghị giám đốc thẩm trong tố tụng
hình sự
Chương 2: Quy định của pháp luật tố tụng hình sự về kháng nghị giám đốc
thẩm và thực tiễn áp dụng tại tỉnh Quảng Ngãi
Chương 3: Yêu cầu và giải pháp nâng cao chất lượng hoạt động kháng nghị
giám đốc thẩm tại tỉnh Quảng Ngãi.
4


CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ KHÁNG NGHỊ GIÁM ĐỐC THẨM
TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ
1.1. Khái niệm, nội dung, đặc điểm, ý nghĩa kháng nghị giám đốc thẩm
Về thuật ngữ “Kháng nghị”
Theo Từ điển Tiếng Việt của tác giả Phan Canh (Nxb Mũi Cà Mau, 1997, [19],

thì “Kháng nghị” là “bày tỏ ý kiến để phản kháng một việc gì”. Theo
this pageJul [48], 2010 ,
thì “Kháng nghị”

được định nghĩa như sau: Kháng là phản kháng, nghị là đề

nghị. Theo [23] thì “Kháng nghị” được hiểu như sau:
“Bày tỏ ý kiến chống lại điều đã quyết nghị” [23]. Chúng tôi đồng tình cao quan điểm
của tác giả Hồ Ngọc Đức; các quan điểm còn lại cũng có tính hợp lý nhưng chưa thực
sự thuyết phục nếu vận dụng vào đề tài nghiên cứu cũng như quy định về các thủ tục
xét xử trong tố tụng hình sự theo pháp luật nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Tác giả Hồ Ngọc Đức đưa ra quan điểm trên đã thể hiện bước tiếp cận đến các dạng
kháng nghị nói chung theo truyền thống của hệ thống pháp luật nước ta từ khi có Hiến
pháp năm 1959 đến nay. Các quan điểm còn lại quá sơ sài.
Tuy nhiên, từ các quy định của hệ thống pháp luật nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam hiện hành, có thể hiểu “Kháng nghị” - là sự chống đối về mặt nhà
nước, được thể hiện bằng một văn bản mang tính chất áp dụng pháp luật của cơ quan
Nhà nước có thẩm quyền, được người có thẩm quyền của cơ quan đó ban hành đối với
sản phẩm (văn bản, các loại tài liệu dưới dạng văn bản) áp dụng pháp luật, tuân thủ
pháp luật, sử dụng pháp luật, thi hành pháp luật (gọi chung là áp dụng pháp luật - vì
hoạt động này nó đã bao hàm tất cả các hoạt động còn lại), hoặc đối với hành vi pháp
lý (mang tính hợp pháp hoặc không hợp pháp) của cơ quan, tập thể, cá nhân bị kháng
nghị, khi chủ thể ra kháng nghị cho rằng (giả thiết; giả định; khả năng) có vi phạm sai
lầm nghiêm trọng và yêu cầu chủ thể ban hành văn bản hoặc thực hiện hành vi đó phải
chấm dứt vi phạm, yêu cầu trực tiếp khắc phục vi phạm hoặc yêu cầu tập thể, cơ quan
có thẩm quyền giải quyết kháng nghị thực hiện các biện pháp, trình tự, thủ tục theo
5


pháp luật quy định để khắc phục sai lầm, vi phạm. Việc kháng nghị và giải quyết

kháng nghị đều phải được tuân theo đúng các quy định của pháp luật.
Về thuật ngữ “Giám đốc thẩm”. Có nhiều quan điểm khác nhau về thuật ngữ
này, nhất là đối với những người tiến hành tố tụng. Chúng tôi xin nêu ra một số quan
điểm sau đây: Có nhiều quan điểm cho rằng, giám đốc thẩm là một thủ tục đặc biệt
được áp dụng khi bản án, quyết định của tòa án đã có hiệu lực pháp luật nhưng bị phát
hiện có những vi phạm pháp luật nghiêm trọng trong việc giải quyết vụ án. Thủ tục
này là hình thức đảm bảo pháp chế xã hội chủ nghĩa trong tố tụng. Cũng có nhiều quan
điểm cho rằng, giám đốc thẩm là thủ tục tố tụng đặc biệt nhằm xem xét lại bản án,
quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật nhưng bị kháng nghị vì phát hiện có vi
phạm pháp luật nghiêm trọng trong việc giải quyết vụ án. Các quan điểm trên đều có
tính hợp có lý. Nhưng cũng có quan điểm cho rằng, giám đốc thẩm được hiểu là việc
Tòa án đã áp dụng sai luật nội dung vào giải quyết vụ án. Tòa án đã sử dụng những
căn cứ dựa vào đó để kết luận vụ việc không đúng với bản chất sự việc đó. Chúng tôi
thấy quan điểm này chưa thể hiện đúng nội hàm của vấn đề vì chỉ đề cập đến vi phạm
về luật nội dung của bản án, quyết định là chưa đủ. Tuy nhiên, vì cho rằng các mệnh
đề trên chưa thể hiện được thuộc tính của thuật ngữ này, nên tác giả luận văn cho rằng:
Giám đốc thẩm, là một thủ tục đặc biệt được áp dụng để phát hiện và khắc phục bản
án, quyết định giải quyết vụ án của tòa án đã có hiệu lực pháp luật nhưng có sai lầm
nghiêm trọng trong áp dụng pháp luật trong quá trình giải quyết.
Về thuật ngữ “Thủ tục giám đốc thẩm”. Nghiên cứu các quy định của BLTTHS
1988, BLTTHS 2003 và BLTTHS 2015 về thủ tục, chế độ hai cấp xét xử và thủ tục
giám đốc thẩm, tái thẩm; riêng thủ tục giám đốc thẩm, thấy rằng, thủ tục giám đốc thẩm
là một thủ tục đặc biệt trong tố tụng chứ không phải là cấp xét xử.Thủ tục này chỉ được
áp dụng trong các trường hợp đặc biệt. Tính chất đặc biệt thể hiện ở đặc điểm sau:
Thủ tục giám đốc thẩm là thủ tục xét lại các bản án, quyết định giải quyết vụ án
của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật chứ không phải xét xử lại các bản án, quyết định
đó. Thủ tục giám đốc thẩm không mở công khai và bắt buộc phải có sự tham gia của
viện kiểm sát. Đối tượng của thủ tục giám đốc thẩm là những bản án, quyết định đã có
hiệu lực pháp luật. Căn cứ làm phát sinh thủ tục giám đốc thẩm là khi phát hiện bản
6



án, quyết định có vi phạm pháp luật nghiêm trọng trong giải quyết vụ án. Chủ thể làm
phát sinh thủ tục giám đốc thẩm chỉ có một số người có thẩm quyền theo quy định của
pháp luật.Thủ tục giám đốc thẩm khác với thủ tục tái thẩm vì thủ tục tái thẩm là do
xuất hiện tình tiết mới làm thay đổi bản chất vụ án nhưng người tiến hành tố tụng, cơ
quan tiến hành tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án đó vì lý do khách quan mà
không biết được dẫn đến áp dụng sai pháp luật.
Thủ tục giám đốc thẩm khác với thủ tục xét xử sơ thẩm hoặc xét xử phúc thẩm
ở chỗ: Thủ tục xét xử sơ thẩm trên cơ sở Cáo trạng truy tố của VKS. Thủ tục xét xử
phúc thẩm là xét xử lại vụ án khi có kháng cáo của người tham gia tố tụng hoặc kháng
nghị của VKS cùng cấp với Tòa án sơ thẩm hoặc của VKS cấp trên trực tiếp của Tòa
án cấp sơ thẩm hoặc xét cả kháng cáo, kháng nghị mà các kháng cáo, kháng nghị này
làm cho một phần hoặc toàn bộ bản án hoặc quyết định sơ thẩm giải quyết vụ án chưa
có hiệu lực pháp luật. Khi xét thấy cần thiết, Tòa án cấp phúc thẩm có thể xét xử ngoài
phạm vi kháng cáo, kháng nghị nếu có liên quan mật thiết đến việc giải quyết vụ án.
Thủ tục xét xử sơ thẩm và xét xử phúc thẩm thông thường được mở phiên tòa công
khai, trừ những trường hợp phải xét xử kín và các thủ tục này được các BLTTHS nước
ta quy định thể hiện sự kết hợp giữa xét hỏi với tranh tụng theo hướng ngày càng hoàn
thiện của mô hình tố tụng đan xen.
Thủ tục giám đốc thẩm là xét lại bản án hoặc quyết định giải quyết vụ án của
Tòa án đã có hiệu lực pháp luật đã được đưa ra thi hành, đang thi hành hoặc hoãn thi
hành án nhưng do phát hiện bản án hoặc quyết định đó có vi phạm sai lầm nghiêm
trọng trong hoạt động áp dụng các quy định của pháp luật để giải quyết vụ án; cho nên
thủ tục này chỉ có những cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng có thẩm
quyền theo quy định của pháp luật tố tụng, pháp luật chuyên ngành mới có quyền năng
pháp lý tham gia quan hệ pháp luật tố tụng giám đốc thẩm và thủ tục giám đốc thẩm
không có những trình tự thủ tục tố tụng của thủ tục xét xử sơ thẩm, xét xử phúc thẩm
như: thủ tục bắt đầu phiên tòa, thủ tục hỏi, thủ tục tranh tụng, trở lại việc xét hỏi, Kiểm
sát viên rút cáo trạng,...nghị án và tuyên án….Phiên họp (phiên tòa) giám đốc thẩm

không mở công khai và thường thì những người tham gia tố tụng liên quan đến kháng
nghị lại không được tham gia.
7


Về “Tính chất của giám đốc thẩm”: Nghiên cứu các quy định của BLTTHS
2003 và 2015 thấy, tính chất của thủ tục này là xét lại bản án hoặc quyết định đã có
hiệu lực pháp luật nhưng bị kháng nghị vì phát hiện có vi phạm pháp luật nghiêm
trọng trong việc xử lý vụ án. Về nguyên tắc, bất cứ bản án hoặc quyết định nào của
Tòa án các cấp xử lý vụ án có hiệu lực pháp luật mà có vi phạm pháp luật nghiêm
trọng và đủ căn cứ kháng nghị, thì phải được kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm
để giải quyết theo quy định của pháp luật nhằm khắc phục vi phạm đó của bản án,
quyết định đã có hiệu lực pháp luật [14], [15].
Cần nhận thức đúng về đối tượng có thể bị kháng nghị giám đốc thẩm; do vậy,
nếu quyết định của Tòa án có thẩm quyền có hiệu lực pháp luật nhưng không phải là
quyết định xử lý vụ án, mà là quyết định tố tụng khác (như: quyết định tạm đình chỉ vụ
án, quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung, quyết định trưng cầu giám định, quyết
định khởi tố vụ án hình sự của HĐXX…) thì đều không phải là đối tượng của kháng
nghị giám đốc thẩm.
Mặc dù quy định như trên nhưng về nhận thức và thực tiễn thì chúng ta cần
hiểu rằng, bản án có vi phạm pháp luật nghiêm trọng bị kháng nghị ở đây - là toàn bộ
hoặc một phần bản án đó, nhưng sự vi phạm đó đã hoặc tất yếu sẽ ảnh hưởng đến lợi
ích của nhà nước trong hoạt động áp dụng pháp luật hình sự, pháp luật tố tụng hình sự,
pháp luật dân sự, pháp luật chuyên ngành và các văn bản hướng dẫn thi hành hoặc xâm
phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của những người tham gia tố tụng, gồm: người bị
kết án, người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự,…
Cấp xét xử là hình thức tổ chức tố tụng.Cấp xét xử và thủ tục xét xử là hai khái
niệm khác nhau nhưng có quan hệ mật thiết với nhau.Theo nguyên tắc/chế độ hai cấp
xét xử, thì thủ tục giám đốc thẩm được thực hiện sau khi bản án, quyết định đã có hiệu
lực pháp luật chứ không phải là thủ tục nối tiếp của cấp sơ thẩm và cấp phúc

thẩm.Giám đốc thẩm không phải là cấp xét xử. Về nguyên tắc, sau khi vụ án đã xét xử
xong ở cấp phúc thẩm thì bản án có hiệu lực pháp luật.
Tuy nhiên, xuất phát từ trách nhiệm của Nhà nước, sự tôn trọng chân lý và công
lý, lẽ công bằng trong tố tụng hình sự, cũng như để những người tham gia tố tụng thực
hiện trọn vẹn các quyền của mình, cho nên pháp luật tố tụng quy định về trách nhiệm
8


phát hiện sai lầm của bản án, quyết định và trách nhiệm kháng nghị giám đốc thẩm,
quy định quyền của chủ thể khiếu nại hoặc kiến nghị Tòa án có thẩm quyền xem xét
lại theo thủ tục giám đốc thẩm đối với bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật
nhưng có sai lầm nghiêm trọng; điều đó khác với việc những người tham gia tố tụng
làm đơn kháng cáo hoặc Viện kiểm sát kháng nghị phúc thẩm đối với bản án hoặc
quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật và yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm xét xử
lại vụ án. Hai thuật ngữ "xét xử lại" và "xét lại" đã trả lời cho sự khác nhau của hai thủ
tục tố tụng là phúc thẩm và giám đốc thẩm.
Thuật ngữ “Kháng nghị giám đốc thẩm”.Trong thực tiễn, đa số quan điểm của
người tiến hành tố tụng cho rằng, kháng nghị giám đốc thẩm là hành vi tố tụng của chủ
thể có thẩm quyền theo quy định của pháp luật tố tụng yêu cầu Tòa án xem xét lại
những bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật khi có căn cứ theo quy định của
pháp luật khi phát hiện có vi phạm pháp luật nghiêm trọng trong giải quyết vụ án. Chủ
thể có thẩm quyền kháng nghị giám đốc thẩm được pháp luật giới hạn trong phạm vi
nhất định. Chúng tôi thấy quan điểm trên có lý là đã xem đây là hành vi tố tụng của
chủ thể có thẩm quyền can thiệp trực tiếp vào bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp
luật và yêu cầu Tòa án có thẩm quyền xét lại bản án, quyết định đó vì cho rằng có vi
phạm pháp luật nghiêm trọng.
Từ phân tích trên có thể rút ra khái niệm: Kháng nghị giám đốc thẩm trong tố
tụng hình sự là việc người có thẩm quyền ban hành một văn bản tố tụng can thiệp trực
tiếp vào một phần hoặc toàn bộ bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp
luật do có sai lầm nghiêm trọng trong quá trình xử lý vụ án. Kháng nghị giám đốc

thẩm làm phát sinh việc xét lại theo thủ tục giám đốc thẩm có thể dẫn đến sự thay đổi
hoặc chấm dứt hiệu lực pháp luật của một phần hay toàn bộ bản án, quyết định bị
kháng nghị.
1.2. Nội dung kháng nghị giám đốc thẩm
Nội dung của kháng nghị giám đốc thẩm có thể nói chính là phạm vi kháng
nghị và hướng kháng nghị, hay có thể được hiểu rằng đó là căn cứ để kháng nghị giám
đốc thẩm và thẩm quyền của cấp giám đốc thẩm. Phạm vi kháng nghị giám đốc thẩm
về hình sự bao gồm trực tiếp can thiệp vào một phần hoặc toàn bộ bản án, quyết định
9


xử lý vụ án có hiệu lực pháp luật nhưng có sai lầm nghiêm trọng trong hoạt động áp
dụng pháp luật (về hình sự, về dân sự trong hình sự, luật chuyên ngành….được Tòa án
áp dụng để giải quyết vụ án hình sự). Do vậy, nội dung về phạm vi của kháng nghị
giám đốc thẩm phải chỉ ra được từng căn cứ pháp lý cụ thể của bản án hoặc quyết định
đó có sai lầm mà đã gây ra hệ lụy xấu trong hoạt động áp dụng pháp luật và có thể
hoặc đã gây ra mâu thuẫn xã hội.
Nội dung về hướng kháng nghị giám đốc thẩm trong từng trường hợp cụ thể là,
người ban hành kháng nghị phải căn cứ vào các quy định cụ thể của pháp luật (hình
sự, pháp luật dân sự, pháp luật chuyên ngành…) có hiệu lực để yêu cầu Hội đồng giám
đốc thẩm xét xử và ra quyết định giám đốc thẩm để trực tiếp khắc phục sai lầm của
bản án, quyết định sơ thẩm có hiệu lực pháp luật hoặc yêu cầu cơ quan tiến hành tố
tụng, người tiến hành tố tụng có thẩm quyền áp dụng các quy định của pháp luật để
khắc phục vi phạm, sai lầm của bản án hoặc quyết định đó bằng các hoạt động tố tụng
theo pháp luật quy định. Có như vậy thì tập thể, cá nhân ra bản án, quyết định xử lý vụ
án bị kháng nghị cũng như hội đồng giám đốc thẩm khi giải quyết kháng nghị mới có
cơ sở pháp lý vững chắc để chấp nhận kháng nghị hoặc căn cứ quy định của pháp luật
mà xét đến cả những phần của bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật không bị kháng
nghị; nếu không, kháng nghị sẽ không được chấp nhận vì không có căn cứ pháp lý thể
hiện xác định vi phạm và căn cứ pháp lý khắc phục vi phạm. Nội dung kháng nghị

giám đốc thẩm còn có ý nghĩa hướng dẫn xét xử và nhằm phòng ngừa sai lầm trong
hoạt động áp dụng pháp luật của cơ quan, người tiến hành tố tụng, người tham gia tố
tụng trong quá trình tố tụng. Nghiên cứu về nội dung của kháng nghị giám đốc thẩm
bao gồm các yếu tố cơ bản sau đây:
1.2.1. Căn cứ kháng nghị giám đốc thẩm
Kháng nghị giám đốc thẩm là một quyền năng đặc biệt của Viện kiểm sát, của
Tòa án bởi vì đã can thiệp trực tiếp vào bản án hoặc quyết định giải quyết vụ án đã có
hiệu lực pháp luật, làm cho toàn bộ hoặc một phần bản án, quyết định đó không được
đưa ra thi hành, hoặc nếu đang thi hành thì có thể phải tạm đình chỉ thi hành hoặc nếu
đã thi hành xong thì có thể phải được xét lại tùy theo phạm vi và hướng kháng nghị và
kết quả xét xử giám đốc thẩm và phát sinh một quan hệ pháp luật tố tụng hình sự.
10


Tuy nhiên, việc kháng nghị trước hết có thể phát sinh thủ tục giám đốc thẩm xét
kháng nghị; còn kết quả xét kháng nghị phục thuộc vào hoạt động áp dụng pháp luật
của Hội đồng xét xử khi kết luận xác định kháng nghị có căn cứ vững chắc hay không,
dù người có thẩm quyền của VKS hoặc Tòa án có quyền báo cáo đề nghị lên cấp trên
có thẩm quyền kháng nghị giám đốc thẩm đối với bản án giám đốc thẩm khi cấp giám
đốc thẩm không chấp nhận kháng nghị. Kết quả xét xử giám đốc thẩm còn có ý nghĩa
tác động trở lại đến hiệu quả kháng nghị và quan điểm áp dụng pháp luật của chủ thể
ra kháng nghị nói riêng.
Trong tố tụng hình sự, VKS, Tòa án là những chủ thể áp dụng pháp luật bao
gồm Bộ luật hình sự, Bộ luật tố tụng hình sự, Bộ luật dân sự, luật chuyên ngành nhất
là khi pháp nhân là chủ thể tội phạm, pháp luật về án phí, lệ phí Tòa án…và các văn
bản hướng dẫn của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền liên quan phải được áp dụng đầy
đủ trong từng vụ án cụ thể. Do đó, khi cho rằng bản án hoặc quyết định giải quyết vụ
án của Tòa án cấp sơ thẩm có hiệu lực pháp luật, của Tòa án cấp phúc thẩm hoặc của
Tòa án cấp giám đốc thẩm, nhưng có sai lầm, vi phạm nghiệm trọng cần phải được
kháng nghị để yêu cầu Tòa án cấp giám đốc thẩm trực tiếp khắc phục hoặc để Tòa án

cấp giám đốc thẩm có hướng khắc phục theo quy định của pháp luật, thì Viện kiểm sát
hoặc Tòa án đã ra kháng nghị giám đốc thẩm phải có nghĩa vụ chỉ ra cụ thể căn cứ
pháp luật về sai lầm, vi phạm của bản án, quyết định đó, như: vi phạm trong việc áp
dụng pháp luật hình sự, dân sự, pháp luật về án phí hoặc pháp luật về chuyên ngành,
văn bản hướng dẫn thi hành pháp luật.
Căn cứ để kháng nghị giám đốc thẩm ngoài việc chỉ ra sai lầm, vi phạm nghiêm
trọng trong hoạt động áp dụng pháp luật của bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật,
còn phải xét đến cả việc kháng nghị yêu cầu Hội đồng xét xử giám đốc thẩm áp dụng
cụ thể quy định nào của pháp luật để giải quyết trên cơ sở tính chất của xét xử giám
đốc thẩm và thẩm quyền của cấp giám đốc thẩm theo quy định của BLTTHS và có liên
quan mật thiết đến các quy định cụ thể của BLHS, pháp luật chuyên ngành,… và văn
bản pháp lý hướng dẫn.
Tuy nhiên trong thực tiễn không phải chỉ có quy định của pháp luật tố tụng về
thẩm quyền của Hội đồng xét xử giám đốc thẩm mới là cơ sở để kháng nghị, mà việc
11


kháng nghị và chấp nhận kháng nghị còn nhằm đáp ứng yêu cầu hoàn thiện pháp luật,
tổng kết kinh nghiệm xét xử, tổng kết hoạt động kháng nghị. Chẳng hạn, khác với
BLTTHS 2015, BLTTHS 2003 không quy định VKS, Tòa án kháng nghị giám đốc
thẩm theo hướng hủy án sơ thẩm để xét xử sơ thẩm lại không áp dụng hình phạt tù
nhưng cho hưởng án treo đối với bị cáo, và cũng không quy định Hội đồng xét xử
giám đốc thẩm hủy án sơ thẩm về hình phạt tù nhưng cho hưởng án treo để xét xử sơ
thẩm lại theo hướng áp dụng hình phạt tù có thời hạn đối với người bị kết án, nhưng
thực tiễn để đáp ứng yêu cầu phòng chống tội phạm thì nhiều năm qua Tòa án cấp
giám đốc thẩm trong toàn quốc vẫn chấp nhận rất nhiều trường hợp kháng nghị theo
hướng này, kể cả Tòa án cấp phúc thẩm khi xét kháng nghị phúc thẩm cũng vậy.
1.2.2. Chủ thể kháng nghị giám đốc thẩm
Một trong những điểm mới của BLTTHS 2015 là tiếp tục hoàn thiện chế độ 2
cấp xét xử và các thủ tục tố tụng đặc biệt, trong đó có thủ tục giám đốc thẩm và quy

định về kháng nghị giám đốc thẩm của Viện Kiểm sát và Tòa án. Kháng nghị giám đốc
thẩm là sự kiện pháp lý làm phát sinh thủ tục xét xử giám đốc thẩm nếu không xảy ra
việc rút kháng nghị theo quy định của pháp luật. Xuất phát từ tính chất của thủ tục
giám đốc thẩm, cho nên không phải người nào của các cơ quan nêu trên cũng có quyền
ban hành kháng nghị giám đốc thẩm, mà chỉ có người tiến hành tố tụng có thẩm quyền
theo quy định của LTCTAND, LTCVKSND mà cụ thể là BLTTHS mới có quyền ra
kháng nghị giám đốc thẩm. Theo đó, chủ thể có quyền ban hành kháng nghị là Viện
trưởng VKS có thẩm quyền hoặc Phó Viện trưởng được Viện trưởng phân công nhiệm
vụ và Chánh án Tòa án có thẩm quyền hoặc Phó Chánh án được Chánh án phân công;
nếu Phó Viện trưởng VKS hoặc Phó Chánh án kháng nghị giám đốc thẩm nhưng
không được thủ trưởng của mình phân công (ủy quyền) kháng nghị, thì kháng nghị đó
không thể được coi là hợp pháp. Việc xác định chủ thể kháng nghị là đánh giá tính hợp
pháp về hình thức của kháng nghị.
1.2.3.Phạm vi kháng nghị, hướng kháng nghị giám đốc thẩm
- Phạm vi kháng nghị. Là một phần hoặc toàn bộ bản án, quyết định giải quyết
vụ án của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật (bản án, quyết định sơ thẩm, phúc thẩm,
giám đốc thẩm), và phạm vi kháng nghị đó thông thường phải được BLTTHS quy định
12


thuộc thẩm quyền giải quyết của cấp giám đốc thẩm khi ra bản án hoặc quyết định
giám đốc thẩm đối với bản án hoặc quyết định bị kháng nghị. Những gì mà bản án,
quyết định giải quyết vụ án của Tòa án có hiệu lực pháp luật không giải quyết thì
không thể phát sinh thủ tục giám đốc thẩm, hay nói một cách khác không thể bị kháng
nghị. Bên cạnh đó, xét theo hình thức pháp luật thành văn thể hiện bằng quy phạm
pháp luật, nếu phạm vi kháng nghị giám đốc thẩm không được pháp luật quy định
thuộc thẩm quyền giải quyết của Hội đồng xét xử giám đốc thẩm, thì cấp giám đốc
thẩm không thể chấp nhận kháng nghị vì không có cơ sở pháp lý.
Tuy nhiên, không phải mọi quyết định của Tòa án đều là phạm vi của kháng
nghị giám đốc thẩm, mà chỉ có thể kháng nghị giám đốc thẩm đối với quyết định tạm

đình chỉ vụ án, quyết định đình chỉ vụ án, quyết định tạm đình chỉ vụ án đối với bị can,
bị cáo, quyết định đình chỉ vụ án đối với bị can, bị cáo và quyết định khác của Tòa án
theo quy định của BLTTHS. Từ vấn đề này, chúng tôi cho rằng những quyết định sơ
thẩm, phúc thẩm sau đây có thể bị kháng nghị giám đốc thẩm: Quyết định tạm đình chỉ
vụ án hoặc quyết định đình chỉ vụ án do Thẩm phán ban hành trong giai đoạn chuẩn bị
xét xử sơ thẩm hoặc bản án, quyết định do Hội đồng xét xử sơ thẩm,bản án, quyết định
của Tòa án cấp phúc thẩm.
Về nguyên tắc chung thì phạm vi kháng nghị giám đốc thẩm không đồng nghĩa
với phạm vi xét xử giám đốc thẩm, với thẩm quyền của Hội đồng xét xử giám đốc
thẩm, mà phạm vi kháng nghị giám đốc thẩm trước hết được xem là căn cứ để phát
sinh thủ tục xét xử giám đốc (nếu không rút kháng nghị). Khác với BLTTHS 2003,
BLTTHS 2015 có rất nhiều quy định mới góp phần phù hợp đòi hỏi của thực tiễn xét
xử giám đốc thẩm cũng như kháng nghị giám đốc thẩm nói riêng. Quy định về phạm
vi xét xử giám đốc thẩm và thẩm quyền của cấp giám đốc thẩm nhằm nâng cao trách
nhiệm, chất lượng, hiệu quả kháng nghị và xét xử giám đốc thẩm, góp phần thực hiện
tốt các nguyên tắc cơ bản của pháp luật hình sự. Chúng tôi dùng cụm từ phạm vi kháng
nghị giám đốc thẩm mà không dùng cụm từ đối tượng của kháng nghị giám đốc thẩm
vì như thế nó đã bao hàm cả giới hạn về đối tượng và giới hạn về phạm vi của kháng
nghị giám đốc thẩm.

13


- Hướng kháng nghị. Qua nghiên cứu các quyết định kháng nghị giám đốc thẩm
và các bản án giám đốc thẩm trong mười năm qua tại tỉnh Quảng Ngãi, chúng tôi cho
rằng, hướng kháng nghị giám đốc thẩmchính là việc kháng nghị chỉ ra cụ thể vi phạm,
sai lầm của bản án, quyết định bị kháng nghị và yêu cầu của người ra kháng nghị đối
với Hội đồng xét xử giám đốc thẩm về áp dụng cụ thể các quy định của pháp luật để
khắc phục hoặc có biện pháp pháp lý để cơ quan tố tụng cấp dưới khắc phục vi phạm,
sai lầm đó trên cơ sở quy định của BLTTHS về bản án giám đốc thẩm và thẩm quyền

của cấp giám đốc thẩm.
1.2.4. Thời hạn kháng nghị giám đốc thẩm
Do chế độ 2 cấp xét xử, tính chất của thủ tục giám đốc thẩm, phạm vi kháng
nghị và phạm vi xét xử giám đốc thẩm chi phối, cho nên pháp luật tố tụng quy định rất
cụ thể về thời hạn kháng nghị giám đốc thẩm theo hướng bất lợi hoặc có lợi cho người
bị kết án hoặc người tham gia tố tụng khác trong vụ án mà có bản án, quyết định bị
kháng nghị.
Pháp luật tố tụng quy định về thời hạn kháng nghị giám đốc thẩm nhằm nâng
cao trách nhiệm của những cơ quan và người tiến hành tố tụng ở các cấp theo các thủ
tục, bảo đảm nghĩa vụ pháp lý trong việc phát hiện vi phạm của bản án, quyết định giải
quyết vụ án của Tòa án các cấp và quyền, nghĩa vụ kháng nghị giám đốc thẩm của các
chủ thể để bảo vệ lợi ích của các chủ thể tham gia tố tụng, lợi ích của xã hội, lợi ích
của Nhà nước cũng như để thi hành các phần của bản án, quyết định không bị kháng
nghị giám đốc thẩm.
Quy định của pháp luật tố tụng về thời hạn kháng nghị giám đốc thẩm giúp
chúng ta khẳng định rằng không được kháng nghị quá hạn theo hướng làm xấu đi tình
trạng của người bị kết án trong mọi trường hợp, nên cũng không có thủ tục xét kháng
nghị quá hạn và xét bổ sung, thay đổi kháng nghị quá hạn theo hướng làm xấu đi tình
trạng của người bị kết án; quy định về thời hạn kháng nghị để chủ thể có thẩm quyền
thực hiện đúng các quy định của BLTTHS về kháng nghị, về bổ sung, thay đổi, rút
kháng nghị trong từng trường hợp cụ thể và bảo đảm quyền, lợi ích chính đáng của các
chủ thể tham gia tố tụng trong vụ án có liên quan đến kháng nghị, xác định phạm vi
xét xử giám đốc thẩm không chỉ trong kháng nghị, xác định hiệu lực pháp luật của
14


những phần trong bản án, quyết định không bị kháng nghị, thẩm quyền của cấp giám
đốc thẩm trong việc can thiệp trực tiếp vào những phần của bản án, quyết định bị
kháng nghị hoặc không bị kháng nghị và đã có hiệu lực pháp luật.
1.2.5. Hậu quả của kháng nghị giám đốc thẩm

Hậu quả pháp lý của kháng nghị giám đốc thẩm là một phần hoặc toàn bộ bản
án có hiệu lực pháp luật nếu chưa thi hành thì không được đưa ra thi hành, nếu đã thi
hành thì đó là hệ quả của sự sai lầm nghiêm trọng của bản án hoặc quyết định đó đã có
hiệu lực và có thể phải được khắc phục hậu quả, nếu chưa thi hành thì không được đưa
ra thi hành và có thể được tạm đình chỉ thi hành. Hậu quả pháp lý của kháng nghị giám
đốc thẩm cũng còn phải xét đến cả kết quả xét kháng nghị: nếu bản án, quyết định bị
kháng nghị mà có đủ các căn cứ pháp lý của kháng nghị và được Hội đồng giám đốc
thẩm chấp nhận kháng nghị, hoặc tại phiên tòa người có thẩm quyền bổ sung kháng
nghị và được Hội đồng xét xử chấp nhận khi thuộc thẩm quyền của cấp giám đốc
thẩm, thì khi đó việc kháng nghị có thể nói mới có giá trị vì đem lại hậu quả tích cực;
ngược lại, nếu kháng nghị không được chấp nhận vì không có hoặc không đủ căn cứ
pháp lý, thì dù sao việc kháng nghị đã kéo dài việc xử lý vụ án sẽ gây thiệt hại về thời
gian, thiệt hại về vật chất, thiệt hại phi vật chất khi chúng ta xét theo nguyên lý về mối
liên hệ phổ biến giữa các sự vật hiện tượng và quan hệ nhân quả. Ở góc độ kết quả xét
kháng nghị giám đốc thẩm của Hội đồng giám đốc thẩm, thì hậu quả của kháng nghị
có thể như sau: Khả năng thứ nhất, nếu bản án, quyết định xử lý vụ án bị kháng nghị
mà có đủ các căn cứ kháng nghị và được cấp xét xử giám đốc thẩm chấp nhận kháng
nghị hoặc mở rộng kể cả ngoài phạm vi kháng nghị nếu có căn cứ và đúng pháp luật
về thẩm quyền của cấp giám đốc thẩm và thời hạn xét lại bản án hoặc quyết định đó,
thì khi đó việc kháng nghị có thể nói mới có giá trị. Ngược lại, nếu kháng nghị không
được chấp nhận (một phần hoặc toàn bộ), thì điều đó nói lên rằng kháng nghị không có
hoặc không có đầy đủ căn cứ pháp lý. Hậu quả kháng nghị chính là “Phạm vi giám đốc
thẩm” và “Thẩm quyền của Hội đồng giám đốc thẩm” theo quy định của BLTTHS.
Trong thực tiễn không phải kháng nghị giám đốc thẩm nào cũng đúng; hoặc có
trường hợp phải kháng nghị nhưng vì lý do nào đó không kháng nghị; hoặc kháng nghị
có cơ sở nhưng không được chấp nhận, có thể nói dù sao cũng ảnh hưởng đến trật tự
15


pháp luật; điều đó đòi hỏi nhận thức và cần luật hóa rằng kháng nghị và xét kháng nghị

là quyền và nghĩa vụ pháp lý của chủ thể có nhiệm vụ và quyền hạn, không nên cho
rằng đó chỉ là quyền của người có quyền ra kháng nghị, quyền của tập thể xét kháng
nghị mà tùy nghi kháng nghị hoặc không kháng nghị, chấp nhận hoặc không chấp
nhận kháng nghị.
1.2.6. Thay đổi, bổ sung, rút kháng nghị giám đốc thẩm
Việc thay đổi, bổ sung, rút kháng nghị đều xảy ra hậu quả pháp lý về tố tụng
hình sự. Nghiên cứu các quy định pháp luật về kháng nghị, thay đổi, bổ sung, rút
kháng nghị chúng tôi nhận thức đúng như sau: Nếu người ra kháng nghị mà thay đổi,
bổ sung kháng nghị trước khi mở phiên tòa hoặc tại phiên tòa giám đốc thẩm mà theo
hướng làm xấu đi tình trạng của người bị kết án , thì phải đảm bảo còn trong thời hạn
kháng nghị là một năm kể từ ngày bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật; khi đã hết
thời hạn kháng nghị, thì người kháng nghị chỉ có thể thay đổi, bổ sung kháng nghị theo
hướng có lợi cho họ và được tiến hành bất cứ lúc nào, kể cả khi họ đã chết mà cần phải
được minh oan cho họ. Nếu đã ban hành kháng nghị theo hướng bất lợi cho một hoặc
một số người bị kết án, thì trước khi mở phiên tòa hoặc tại phiên tòa, người đã ra
kháng nghị vẫn có quyền bổ sung, thay đổi kháng nghị theo hướng có lợi hoặc thay đổi
kháng nghị từ bất lợi sang hướng có lợi cho một hoặc một số người bị kết án đó mà
không bị giới hạn về thời hạn thay đổi, bổ sung kháng nghị. Nếu kháng nghị về phần
dân sự đối với các đương sự thì việc kháng nghị, thay đổi, bổ sung kháng nghị phải
trong thời hạn kháng nghị theo quy định của pháp luật Tố tụng dân sự. Trước khi hoặc
tại phiên tòa giám đốc thẩm, người đã ra kháng nghị, đã bổ sung, thay đổi kháng nghị
có thể rút một phần hoặc toàn bộ kháng nghị, kể cả phần đã thay đổi, bổ sung kháng
nghị. Việc rút kháng nghị, thay đổi, bổ sung kháng nghị trước khi xét xử giám đốc
thẩm chỉ có thể do người có thẩm quyền của Tòa án hoặc VKS đã ra kháng nghị thực
hiện. Còn việc rút kháng nghị, bổ sung, thay đổi kháng nghị tại phiên tòa xét xử giám
đốc thẩm, nếu là Tòa án kháng nghị thì có thể do người ra kháng nghị thực hiện; nếu
VKS kháng nghị, thì có thể sẽ do Kiểm sát viên thực hiện khi Kiểm sát viên được Viện
trưởng ủy quyền tham gia phiên tòa giám đốc thẩm (do diễn biến phiên tòa đặt ra hoặc
có sự chỉ đạo của Viện trưởng hoặc Phó Viện trưởng VKS được Viện trưởng ủy quyền).
16



1.3. Đặc điểm kháng nghị giám đốc thẩm
Với biểu hiện là một dạng đặc thù của hoạt động áp dụng pháp luật của chủ thể
ra kháng nghị và phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về kháng nghị đó, nên kháng
nghị sẽ làm phát sinh quan hệ pháp luật nếu không rút kháng nghị (do hết thời hiệu
kháng nghị hoặc pháp luật thay đổi hoặc sự kiện pháp lý làm chấm dứt hiệu lực pháp
luật của đối tượng bị kháng nghị hoặc hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình
sự…v…v…), cho nên hoạt động kháng nghị giám đốc thẩm có những đặc điểm sau:
1.3.1. Chỉ ra sai lầm nghiêm trọng của bản án, quyết định bị kháng nghị
Người ra kháng nghị giám đốc thẩm phải có nghĩa vụ chỉ ra cụ thể và chính xác
trong kháng nghị về các căn cứ pháp lý đối với các sai lầm nghiêm trọng của đối tượng
bị kháng nghị là phần nào trong bản án, quyết định xử lý vụ án cụ thể đó, dẫn đến bị
kháng nghị, và chỉ ra cụ thể căn cứ pháp lý để cấp giám đốc thẩm khắc phục. Đây là
vấn đề quan trọng nhất của kháng nghị
1.3.2. Ban hành kháng nghị giám đốc thẩm là quyền và nghĩa vụ pháp lý của
người có thẩm quyền
Người có thẩm quyền khi phát hiện hoặc thông qua các nguồn thông tin mà
phát hiện bản án, quyết định xử lý vụ án có sai lầm nghiêm trọng trong hoạt động áp
dụng pháp luật mà đã gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại đến quyền và lợi ích hợp
pháp của Nhà nước hay chủ thể khác, thì phải kịp thời ra kháng nghị nhằm khôi phục
lại trật tự pháp luật nếu có đủ các căn cứ pháp lý để kháng nghị; đây không chỉ là
quyền mà còn là nghĩa vụ pháp lý của chủ thể ra kháng nghị.
1.3.3. Kháng nghị phải tuân theo trình tự, thủ tục, thẩm quyền pháp luật quy
định
Vì kháng nghị giám đốc thẩm là một thủ tục đặc biệt của người có thẩm quyền
theo quy định của pháp luật khi trực tiếp can thiệp vào bản án hoặc quyết định xử lý vụ
án của Tòa án nhân danh Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã có hiệu lực
pháp luật nhưng do có sai lầm nghiêm trọng, cho nên hoạt động này bản thân nó chứa
đựng những ý nghĩa về chính trị - pháp lý – văn hóa – tư tưởng và những giá trị khác

khi chúng ta so sánh về lợi ích mà người có thẩm quyền cần phải kháng nghị. Chính vì
kháng nghị giám đốc thẩm là hoạt động có định hướng của chủ thể có thẩm quyền và
17


thể hiện sự văn minh của xã hội cũng như của pháp luật, cho nên việc ra kháng nghị
phải tuân theo trình tự, thủ tục, thẩm quyền chặt chẽ thì mới có giá trị pháp lý để chủ
thể có bản án, quyết định bị kháng nghị cũng như cấp giám đốc thẩm xem xét, giải
quyết tính hợp pháp hay không hợp pháp cả về hình thức và nội dung của kháng nghị.
1.3.4. Việc kháng nghị mang tính khách quan
Hoạt động kháng nghị phải mang tính khách quan của sự xem xét đối với đối
tượng bị kháng nghị và phạm vi, hướng kháng nghị; không phụ thuộc vào ý muốn chủ
quan của người ra kháng nghị. Có như vậy mới đáp ứng được yêu cầu đòi hỏi của
kháng nghị; tránh việc ra kháng nghị không có căn cứ, không hợp pháp hoặc không
cần thiết khi xét ở góc độ pháp lý vì bất cứ lý do gì.
1.3.5. Kháng nghị thể hiện tính cá biệt trong áp dụng pháp luật
Hoạt động xét xử ra bản án, quyết định giải quyết vụ án của Tòa án mà cụ thể là
Hội đồng xét xử, Thẩm phán được phân công thụ lý giải quyết vụ án và chủ tọa phiên
tòa cũng là hoạt động áp dụng pháp luật với những đặc điểm và các giai đoạn của quá
trình áp dụng pháp luật. Từ đó, căn cứ của kháng nghị là chỉ ra bản án, quyết định cụ
thể mà chủ thể ra kháng nghị cho rằng có vi phạm pháp luật nghiêm trọng và đủ căn
cứ kháng nghị để khắc phục hậu quả, mâu thuẫn xã hội từ sản phẩm đó nảy sinh, theo
quy định của pháp luật; do vậy, tuyệt đối không được kháng nghị đối với nhiều bản án,
quyết định trong một quyết định kháng nghị.
1.3.6. Việc xem xét kháng nghị phụ thuộc vào phán quyết của Hội đồng
Hoạt động áp dụng pháp luật ra văn bản cá biệt khi giải quyết từng vụ án có các
giai đoạn phổ biến là: phân tích đánh giá bản chất vụ việc, lựa chọn quy phạm pháp
luật để áp dụng và kiểm tra lại việc lựa chọn đó, ra văn bản áp dụng pháp luật, tổ chức
thi hành văn bản áp dụng pháp luật đó. Đặc điểm của hoạt động áp dụng pháp luật là
mang tính ý chí, tính quyền lực Nhà nước, tính cá biệt, tính bắt buộc thực hiện và tính

sáng tạo, linh hoạt của chủ thể. Chủ thể có quyền ra kháng nghị đối với đối tượng bị
kháng nghị khi cho rằng có sai lầm nghiêm trọng trong áp dụng pháp luật, nhưng việc
giải quyết kháng nghị lại phụ thuộc vào hội đồng giám đốc thẩm, trong đó người ra
kháng nghị là một thành viên hoặc chủ tọa phiên họp giám đốc thẩm, còn kết quả xét
kháng nghị về nghuyên tắc phải phụ thuộc vào đa số các thành viên của hội đồng giám
18


đốc thẩm trên quan điểm thượng tôn pháp luật. Kết luận về sự thật khách quan mới
sinh ra giả thiết, chứ giả thiết không thể sinh ra kết luận và hoạt động tố tụng theo các
thủ tục cũng nhằm hướng đến các cấp độ của chân lý, chứ không phải hướng đến chân
lý tuyệt đối. Cho nên không phải mọi kháng nghị đều đúng hoặc cần thiết nên đều phải
được cơ quan, tập thể, người có sản phẩm bị kháng nghị chấp nhận hoặc hội đồng xét
xử giám đốc thẩm chấp nhận. Mặt khác, người ra kháng nghị cũng phải tôn trọng pháp
luật, tôn trọng lắng nghe ý kiến của các thành viên hội đồng xét kháng nghị và các
thành viên của hội đồng giám đốc thẩm cũng không thể lệ thuộc vào quan hệ quản lý
hành chính – tư pháp, nể nang xuôi chiều hay thành kiến đối với người ra bản án,
quyết định bị kháng nghị hay đối với người ra kháng nghị, với người bị kết
án…v…v…mà phải thực hiện đúng quy định của pháp luật khi phát biểu ý kiến và
biểu quyết.
1.3.7. Kháng nghị làm phát sinh một quan hệ pháp luật tố tụng
Khi ra kháng nghị, tùy theo từng đối tượng bị kháng nghị và phạm vi, hướng
kháng nghị, nếu người ra kháng nghị không rút kháng nghị vì có một trong các lý do
theo pháp luật mà phải rút; hoặc pháp luật không cho phép được rút (vì gắn trách
nhiệm pháp lý của người ra kháng nghị,..) thì phải phát sinh một quan hệ pháp luật tố
tụng là xem xét, giải quyết kháng nghị để chấp nhận kháng nghị (toàn bộ hoặc một
phần kháng nghị) hoặc không chấp nhận toàn bộ kháng nghị (vì thiếu căn cứ hoặc sản
phẩm bị kháng nghị không có lỗi hoặc kháng nghị vi phạm thẩm quyền về hình thức
hoặc thẩm quyền về nội dung hoặc sản phẩm đó chưa đến mức bị kháng nghị hoặc
không được kháng nghị…).

1.4. Ý nghĩa của kháng nghị giám đốc thẩm
BLTTHS 2003 quy định thủ tục 02 cấp xét xử, đồng thời cũng quy định về
kháng nghị và xét xử theo thủ tục đặc biệt là giám đốc thẩm, tái thẩm; đây là sự tôn
trọng chân lý, thể hiện sự văn minh của hoạt động áp dụng pháp luật trong quá trình tố
tụng các vụ án hình sự, bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể tham gia
quan hệ pháp luật tố tụng hình sự và thi hành án. Đồng thời sẽ chống lại tư tưởng chủ
quan ỷ lại khi chỉ tôn trọng việc xét xử ra bản án, quyết định sơ thẩm xử lý vụ án có
hiệu lực pháp luật hoặc xét xử phúc thẩm đối với bản án, quyết định sơ thẩm bị kháng
19


×