Tải bản đầy đủ (.doc) (30 trang)

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM rèn kỹ NĂNG làm văn NGHỊ luận CHO học SINH lớp 8 QUA GIỜ GIẢNG văn NGHỊ LUẬN TRUNG đại

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.15 MB, 30 trang )

PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO VIỆT TRÌ
TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ SỞ GIA CẨM
******************

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM RÈN KỸ NĂNG LÀM VĂN NGHỊ
lUẬN CHO HỌC SINH LỚP 8 QUA GIỜ GIẢNG VĂN NGHỊ LUẬN TRUNG
ĐẠI.

Người thực hiện:

Đặng Thu Hiền

Chức vụ: Giáo viên
Chuyên môn: NGỮ VĂN


MỤC LỤC
STT

NỘI DUNG

1

Mục lục

2

Danh mục chữ cái viết tắt

Trang
02


03

Phần I. Đặt vấn đề
3

I. Mục đích, lý do chọn sáng kiến kinh
nghiệm

4

II. Phạm vi đối tượng nghiên cứu

5

Phần II. Giải quyết vấn đề
I. Cơ sở lý luận của vấn đề

04
05

06

6

II. Thực trạng của vấn đề

13

7


III. Các biện pháp đã tiến hành để giải
quyết vấn đề

15

8

IV. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm

27

9

Phần III. Kết luận

28

10

Tài liệu tham khảo

30

2


DANH MỤC CHỮ CÁI VIẾT TẮT

CHỮ CÁI VIẾT TẮT


NỘI DUNG

PPDH

Đổi mới phương pháp dạy học

SGK

Sách giáo khoa

THCS

Trung học cơ sở

GAĐT

Giáo án điện tử

3


PHẦN I. ĐẶT VẤN ĐỀ

I. MỤC ĐÍCH, LÝ DO CHỌN SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM:
Đổi mới PPDH theo định hướng tích cực hóa được đặt ra do yêu cầu đổi mới
giáo dục phổ thông nhằm đáp ứng nhu cầu phát triển nhân lực cho đất nước trong giai
đoạn những năm đầu thế kỷ XXI. Quan điểm chỉ đạo đổi mới giáo dục đã được thể hiện
rõ trong các văn bản pháp quy của Nhà nước như: Chỉ thị 30/1998/CT-TTg, Chỉ thị
14/2001/CT-TTg của Thủ tướng chính phủ, Nghị quyết 40/2000/QH10 của Quốc hội,
Chiến lược phát triển giáo dục và Luật giáo dục (sửa đổi năm 2005).

Việc thực hiện đổi mới chương trình giáo dục trong đó có giáo dục phổ thông đòi
hỏi phải đổi mới đồng bộ từ mục tiêu, nội dung, phương pháp, phương tiện dạy học đến
cách thức đánh giá kết quả dạy học, trong đó khâu đột phá là đổi mới phương pháp dạy
học. Những định hướng chung về đổi mới giáo dục và đặc biệt là PPDH đã được cụ thể
hóa trong định hướng xây dựng chương trình và biên soạn SGK cho các cấp giáo dục
phổ thông nói chung, giáo dục THCS nói riêng. Định hướng đó là: “phương pháp giáo
dục phổ thông phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của người học;
phù hợp với đặc điểm từng lớp học, môn học; bồi dưỡng phương pháp tự học, rèn luyện
kĩ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn, tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui,
hứng thú học tập cho người học”.
Đổi mới PPDH Ngữ văn không nằm ngoài những định hướng đổi mới nói trên.
Tuy nhiên, Ngữ văn không giống những bộ môn khác trong nhà trường Ngữ văn có
những đặc trưng riêng biệt, vừa là loại hình nghệ thuật vừa là loại hình khoa học. Chính
đặc trưng này mà cả việc dạy và học Ngữ văn trong nhà trường vừa dễ lại vừa khó.
Với tư cách là môn học mang mục đích kép: vừa thỏa mãn nhu cầu khám phá và
hưởng thụ thẩm mĩ văn chương, lại vừa đáp ứng yêu cầu nhận biết và rèn luyện kỹ năng
tạo lập các kiểu văn bản theo các phương thức biểu đạt, nên việc tìm hiểu văn bản ở mỗi
thể loại văn học sẽ có những cách khai thác không giống nhau bởi mỗi một thể loại văn
4


học lại có những đặc trưng riêng. Nếu người giáo viên không nắm vững đặc điểm thể
loại sẽ không khai thác hết vẻ đẹp của tác phẩm.
Chương trình Ngữ văn THCS được thiết kế với 6 kiểu văn bản trong đó văn bản
nghị luận chiếm thời lượng không nhiều với bốn mảng chính là nghị luận dân gian, nghị
luận trung đại, nghị luận hiện đại và nghị luận nước ngoài. Các văn bản nghị luận được
lựa chọn và đưa vào chương trình SGK Ngữ văn THCS ở cả 3 lớp 7, 8 và 9 với tổng số
tiết là 20, trong đó riêng lớp 8 được phân phối đến 9 tiết, chiếm tỉ lệ 45%.
Bản thân hoạt động Tập làm văn là một hoạt động tích hợp: tích hợp tri thức văn
bản đọc - hiểu và tiếng Việt vào việc tạo lập văn bản mới. Vì thế, trong SGK Ngữ văn 8,

tập II, phần văn bản Nghị luận được biên soạn súc tích, mẫu mực, với mục đích cung
cấp bổ sung các kiến thức về văn nghị luận cho các em học sinh, sau khi đã được học
những kiến thức sơ giản về văn nghị luận ở lớp 7. Các kiến thức đó, một mặt tạo điều
kiện cho học sinh có thể nắm được nhiều khả năng biến hóa của nghị luận trong việc
trình bày luận điểm, nghị luận có sử dụng các yếu tổ biểu cảm, tự sự và miêu tả; mặt
khác cũng tác động ngược trở lại, giúp học sinh học tốt phần đọc - hiểu các văn bản nghị
luận trong chương trình. Trong số các văn bản nghị luận ấy có 4 văn bản nghị luận
Trung đại tương đối khó, khó với cả người dạy và người học – khó bởi rào cản về ngôn
ngữ (chủ yếu viết bằng chữ Hán), về quan niệm thẩm mĩ thời Trung đại đã có nhiều
điểm khác ngày nay (cách nhìn ước lệ, tượng trưng ...). Ở sáng kiến này, tôi xin mạnh
dạn trao đổi với các đồng nghiệp kinh nghiệm của bản thân về:
“ Rèn kỹ năng làm văn nghị luận cho học sinh lớp 8 qua giờ giảng văn bản
nghị luận Trung đại ”
II. PHẠM VI, ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU:
1. Đối tượng:
Học sinh lớp 8A,8C trường THCS Gia Cẩm, năm học 2011 – 2012.
2. Phạm vi giới hạn của sáng kiến kinh nghiệm:
Trong phạm vi một sáng kiến kinh nghiệm, người viết chỉ xin trình bày về vấn đề
tích hợp rèn kỹ năng làm văn nghị luận cho học sinh qua giờ giảng văn bản nghị luận
Trung đại ở chương trình SGK Ngữ văn lớp 8 .
5


PHẦN II. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ

I. CƠ SỞ LÝ LUẬN:
Khi tiến hành sáng kiến kinh nghiệm này tôi đã căn cứ vào hai cơ sở lý luận: một
là giảng dạy theo tinh thần đổi mới PPDH của Bộ Giáo dục, hai là giảng dạy theo đặc
trưng thể loại văn bản nghị luận Trung đại.
1. Phương pháp giảng dạy Ngữ văn theo hướng đổi mới:

Dạy học Ngữ văn theo hướng đổi mới là dạy học sinh học tập theo đặc trưng bộ
môn, làm sao phát huy được tính tích cực, chủ động của học sinh, hướng dẫn học sinh
tự cảm thụ và bộc lộ khả năng sáng tạo. Có nghĩa là để học sinh dưới sự hướng dẫn của
thầy cảm nhận, tự khám phá, chiếm lĩnh tác phẩm. Từ đó, tạo ra sự phát triển toàn diện
về trí tuệ, tâm hồn, nhân cách và năng lực văn chương cho học sinh. Để đạt được điều
đó giáo viên cần vận dụng linh hoạt, sáng tạo các phương pháp dạy học. Đối với môn
văn, là các phương pháp dạy học có tính đặc thù như:
- Phương pháp dạy học nêu và giải quyết vấn đề (phát hiện và giải quyết vấn
đề).
- Phương pháp dạy học hợp tác ( phương pháp thảo luận nhóm, phương pháp
cùng tham gia)
- Phương pháp đọc sáng tạo
- Phương pháp dùng lời ( phương pháp diễn giảng, phương pháp giảng bình,
phương pháp thông báo, phương pháp truyền thụ)
- Phương pháp vấn đáp gợi tìm.
2. Đặc trưng thể loại văn nghị luận:
a. Văn nghị luận là văn bản viết ra nhằm xác lập cho người đọc người nghe một
tư tưởng, quan điểm nào đó. Là loại văn dùng lý lẽ và dẫn chứng để bàn bạc, bàn luận
một vấn đề, thể hiện một nhận thức, một quan điểm, một lập trường của mình trên cơ sở
lý luận. Vì vậy muốn hoàn thành một văn bản nghị luận, người ta phải có một ngôn ngữ
lí luận phong phú với nhiều khái niệm, có quan điểm, chủ kiến, biết vận dụng những
khái niệm, biết tư duy lô gíc, biết vận dụng các thao tác phân tích, tổng hợp, quy nạp,
6


diễn dịch, so sánh, suy lí...tức là phải biết tư duy trừu tượng và phải có khả năng lập luận
để giải quyết một vấn đề.
Văn nghị luận bao giờ cũng nhằm mục đích hướng tới giải quyết một vấn đề cụ
thể mà thực tế cuộc sống đặt ra, đồng thời cũng là xác lập cho người đọc, người nghe
một tư tưởng, tình cảm, quan điểm nào đó, chẳng hạn như lòng yêu nước; tình đoàn kết,

tương thân, tương ái; đức tính kiên trì, nhẫn nại; ý thức về lẽ sống, về đạo lí, về cách cư
xử trong cuộc sống...Vì hướng tới mục đích ấy, mỗi văn bản nghị luận bao giờ cũng
phải có luận điểm, luận cứ và lập luận.
Văn nghị luận là sản phẩm của tư duy lôgic. Vẻ đẹp của áng văn nghị luận không
chỉ thể hiện ở những tư tưởng đúng đắn, sâu sắc mà còn thể hiện ở hình thức lập luận
phong phú, lý lẽ đanh thép, giọng điệu thuyết phục cùng sự cuốn hút bởi tình cảm, thái
độ của TG. Vì thế làm thế nào để vừa giúp học sinh cảm nhận được những yếu tố nội
dung – nghệ thuật tinh tế của văn bản nghị luận Trung đại vừa rèn được kỹ năng làm
văn nghị luận cho các em!
b. Văn nghị luận xuất hiện từ xa xưa, trong những sách triết học, sách luận ngữ
của Mạnh Tử (Trung Quốc); sách luận văn triết học của Hêraclit, Aritlot (Hy Lạp) và
trong cả các tác phẩm văn chương. Trong chương trình SGK Ngữ văn THCS, chúng ta
thấy, các văn bản nghị luận được chọn biên soạn dưới dạng các tác phẩm văn chương,
từ các câu tục ngữ dân gian trong lời ăn tiếng nói hàng ngày của người dân lao động đến
các văn bản nghị luận mang tính tài hoa uyên bác, có ý nghĩa trọng đại trong lịch sử dân
tộc. Chỉ nói riêng về các văn bản nghị luận được lựa chọn đưa vào biên soạn song song
với nội dung rèn kỹ năng làm văn nghị luận ở phân môn Tập làm văn cho học sinh lớp 8
hiện nay đã khá phong phú về đề tài và đa dạng về thể loại: có cả nghị luận Trung đại,
nghị luận hiện đại Việt Nam và nghị luận nước ngoài; có văn bản đề cập đến những vấn
đề lớn lao của dân tộc, thời đại như tinh thần, ý chí của cha ông trong công cuộc chống
ngoại xâm, bảo vệ nền độc lập tự do của dân tộc(“Hịch tướng sĩ” – Trần Quốc Tuấn,
“Bình Ngô đại cáo” – đoạn trích “Nước Đại Việt ta” – Nguyễn Trãi, “Thuế máu” –
Nguyễn Ái Quốc); có văn bản lại phản ánh khát vọng của dân tộc về việc xây dựng một
quốc gia hùng cường, độc lập(“Chiếu dời đô” – Lĩ Công Uẩn); có văn bản lại bàn đến

7


các vấn đề gần gũi trong đời sống hàng ngày( “Bàn luận về phéo học” – La Sơn Phu Tử
Nguyễn Thiếp, “Đi bộ ngao du” – Ru xô)...

c. Đặc trưng của văn bản nghị luận:
Văn nghị luận là thể văn “Viết về những vấn đề nóng bỏng thuộc nhiều lĩnh vực
đời sống khác nhau: chính trị, kinh tế, triết học, văn hóa... Mục đích của văn nghị luận là
bàn bạc, thảo luận, phê phán hay truyền bá tức thời một tư tưởng, một quan điểm nào đó
nhằm phục vụ trực tiếp cho lợi ích của một tầng lớp, một giai cấp nhất định.... Đặc trưng
cơ bản của văn nghị luận là tính chất luận thuyết- khác văn học nghệ thuật, văn chương
nghị luận trình bày tư tưởng và thuyết phục người đọc chủ yếu bằng lập luận, lý lẽ...”
(Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi – Từ điển thuật ngữ Văn học – NXB Đại
học Quốc gia, 4/1999)
* Ở lớp 7, phân môn Tập làm văn, các em học sinh đã được trang bị những kiến
thức sơ giản về văn nghị luận như: khái niệm, các yếu tố then chốt, yêu cầu, bố cục và
hai phương pháp lập luận chứng minh, giải thích.
- Ba yếu tố then chốt trong bài văn nghị luận. Đó là:
+ Luận điểm là ý kiến thể hiện tư tưởng, quan điểm của bài nghị luận.
+ Luận cứ là lí lẽ, dẫn chứng đưa ra làm cơ sở cho luận điểm. Một luận điểm có
thể có một hoặc nhiều luận cứ: Lí lẽ phải đầy đủ, chặt chẽ, có tình, có lí; dẫn chứng phải
phong phú, tiêu biểu, chính xác hoặc lấy từ thực tế (Nếu vấn đề được nghị luận thuộc
vắn đề chính trị- xã hội), hoặc lấy từ các tác phẩm văn học(nếu vấn đề được nghị luận
thuộc lĩnh vực văn học).
+ Văn nghị luận không cần phải có ý mà cần phải có lí. Sự kết hợp chặt chẽ giữa
ý và lí là đặc trưng nổi bật của văn nghị luận nhằm tạo nên sức thuyết phục. Muốn đảm
bảo sự kết hợp giữa ý và lí thì cần thiết phải lập luận tốt. Lập luận là cách lựa chon, sắp
xếp, trình bày luận cứ sao cho luận cứ trở thành những căn cứ chắc chắn để làm rõ luận
điểm, hướng người nghe đến kết luận hay quan điểm mà người viết, người nói muốn
đạt tới. Lập luận càng chặt chẽ, hợp lí thì sức thuyết phục của văn bản càng cao.
Muốn lập luận, người viết phải thực hiện các bước sau: Xác định kết luận cho lập
luận - có thể là luận đề hoặc luận điểm; xây dựng luận cứ cho lập luận - tìm các lí lẽ và
đưa ra các dẫn chứng (dẫn chứng thực tế, các con số thống kê; lí lẽ gồm các nguyên lí,
8



chân lí, ý kiến được công nhận...); và để lập luận có sức thuyết phục, cần chú ý sử dụng
các phương tiện liên kết lập luận (Gồm các từ ngữ có ý nghĩa chuyển tiếp).
- Có một nhà văn Nga đã nói: “Nếu tìm được một bố cục thoả đáng thì công việc
sẽ trôi chảy như trượt trên băng”. Đối với văn nghị luận, việc xác định bố cục đóng một
vai trò quuan trọng. Vấn đề nghị luận càng phong phú, phức tạp thì càng cần phải có
một bố cục chi tiết, giúp cho người viết hình dung được trên những nét lớn các phần,
các đoạn, các ý lớn, ý nhỏ, trọng tâm của bài viết; đồng thời chủ động phân phối thời
gian, phân lượng kiến thức thoả đáng giữa các phần, các ý. Bố cục trong bài văn nghị
luận cũng giống như bố cục phổ biến của một văn bản nói chung, nghĩa là gồm có ba
phần lớn: Mở bài, thân bài và kết bài.
Mở bài: Có nhiệm vụ nêu luận điểm tổng quát của bài viết: Lời dẫn vào đề (nêu
xuất xứ của đề, xuất xứ một ý kiến, một nhận định hoặc dẫn nguyên văn đoạn trích tác
phẩm. Nêu vấn đề (Đây là phần trọng tâm, xác định rõ vấn đề nghị luận và yêu cầu cần
giải quyết); Giới hạn vấn đề (Xác định phương hướng, phạm vi, mức độ, giới hạn của
vấn đề cần giải quyết). Có nhiều cách mở bài: Mở bằng cách khẳng định, mở bằng cách
nêu câu hỏi, mở bằng cách phân tích....
Thân bài: Có nhiệm vụ triển khai hệ thống ý lớn, ý nhỏ để làm sáng tỏ luận
điểm. Cấu tạo thường gặp là:
Luận điểm 1: Luận cứ 1- Luận cứ 2.........
Luận điểm 2:Luận cứ 1, luận cứ 2....
Luận điểm 3: Luận cứ 1, luận cứ 2..
việc sắp xếp các luận điểm hoàn toàn tuỳ thuộc vào loại vấn đề được trình bày
vào loại văn bản, vào đối tượng mà văn bản hướng tới, hoặc có trường hợp lại phụ thuộc
vào thói quen và sở trường của người viết như: Trình bày theo trình tự thời gian( đơn
giản và thông dụng, nhất là đối với kiểu nghị luận chứng minh - sự kiện nào xảy ra
trước trình bày trước, sự kiện nào xảy ra sau trình bày sau như trong “Tinh thần yêu
nước của nhân dân ta”); Trình bày theo quan hệ chỉnh thể - bộ phận( thích hợp cho kiểu
nghị luận chứng minh, nghị luận phân tích...., người viết sắp xếp các ý theo tầng bậc, từ
chỉnh thể đến các yếu tố tạo nên chỉnh thể ấy, ví dụ như Nghị luận về văn học dân gian

Việt Nam, ta có thể xuất phát từ những đánh giá, nhận định chung trên cở sở lần lượt đi
9


vào các thể loại: Truyện kể dân gian- thơ ca dân gian- sân khấu dân gian...); Trình bày
theo quan hệ nhân quả (dùng cho kiểu nghị luận giải thích, có tác dụng tạo nên tính chặt
chẽ cho bố cục và tăng thêm sức thuyết phục cho bài viết); Ngoài ra có thể trình bày
theo quan hệ tương đồng hoặc tương phản; trình bày theo sự đánh giá chủ quan của
người viết.
Kết bài: Có nhiệm vụ tổng kết và nêu hướng mở rộng luận điểm, tức là vừa tóm
lược, vừa nhấn mạnh một số ý cơ bản của phần triển khai, đồng thời có thể nêu nên
những nhận định, bình luận nhằm gợi cho người đọc tiếp tục suy nghĩ về vấn đề được
bàn bạc trong bài.
* Trong chương trình Ngữ văn 8, học kỳ II, ở phân môn Tập làm văn theo chuẩn
kiến thức kỹ năng, các em sẽ được bổ sung tiếp kiến thức về: luận điểm trong bài văn
nghị luận, nhận biết vai trò của các yếu tố tự sự, miêu tả, biểu cảm trong văn nghị luận,
nắm được bố cục và cách thức xây dựng đoạn văn, viết lời văn nghị luận có xen các yếu
tố tự sự, miêu tả, biểu cảm.
+ Về hình thức, luận điểm thường nêu khái quát bằng một câu văn ở dạng khẳng
định ( hay phủ định). Về cách diễn đạt, luận điểm có cấu trúc chặt chẽ, ngắn gọn; được
diễn tả rõ ràng, dễ hiểu, nhất quán. Câu văn này có thể đặt ở đầu đoạn văn hoặc cuối
đoạn văn. Về nội dung, luận điểm nêu ra ý chính để bàn bạc. Về ý nghĩa, luận điểm là
linh hồn của bài văn, đóng vai trò liên kết, thống nhất các đoạn văn thành một khối.
Trong thực tế một luận điểm có thể được triển khai trong một đoạn văn hoặc nhiều đoạn
văn.
Bài văn nghị luận có sức thuyết phục là bài văn có luận điểm đảm bảo tính chân
thực, đúng đắn, đáp ứng nhu cầu thực tế; hệ thống luận điểm đầy đủ, phù hợp với yêu
cầu giải quyết vấn đề, được sắp xếp theo trật tự hợp lý mạch lạc, không trùng lặp thể
hiện sáng tỏ chủ đề văn bản; người đọc thông qua hệ thống luận điểm nắm bắt được ý
đồ của tác giả.

Ví dụ: Hệ thống luận điểm được vua Lí Công Uẩn lựa chọn và sắp xếp để làm
nổi bật quyết tâm dời đô từ Hoa Lư ra Đại La:
1. Dời đô là việc trọng đại, các vua đời xưa bên Trung Quốc đã nhiều lần dời
đô và đã có kết quả tốt đẹp – Luận điểm cơ sở, xuất phát.
10


2. Các nhà Đinh, Lê không chịu dời đô nên triều đại ngắn ngủi, trăm họ hao tổn.
3. Thành Đại La về mọi mặt đều xứng đáng là kinh đô của muôn đời.
4. Cần phải dời đô ra Đại La – Luận điểm chính
Nếu trong văn bản “Chiếu dời đô” của Lí Công Uẩn chỉ đưa ra luận điểm 1 “Dời
đô là việc trọng đại, các vua đời xưa bên Trung Quốc đã nhiều lần dời đô và đã có kết
quả tốt đẹp” thì không thể làm rõ mục đích của nhà vua khi ban chiếu, không đủ làm
sáng rõ vấn đề phải dời đô đến Đại La.
Trình bày luận điểm chính là lập luận, là cách trình bày lí lẽ, trình bày luận
chứng. Có nhiều cách trình bày luận điểm: Trình bày luận điểm theo phương pháp diễn
dịch, Trình bày luận điểm theo phương pháp quy nạp... Các luận điểm, luận cứ trong
một bài văn nghị luận phải được trình bày theo một trật tự, trình tự hợp lí; liên kết với
nhau, hô ứng nhau một cách chặt chẽ.
Để bày tỏ ý định dời đô từ Hoa Lư ra Đại La, vua Lí Công Uẩn đã lập luận một
cách chặt chẽ, thuyết phục người nghe về vấn đề sự cần thiết phải dời đô trong “Chiếu
dời đô” :
1.

Nhà vua đưa ra lí do cần phải dời đô (Kinh đô Hoa Lư không còn phù
hợp nữa): Viện dẫn sử sách các vua đời xưa bên Trung Quốc đã nhiều
lần dời đô dân an, nước thịnh; soi vào thực tế hai nhà Đinh- Tiền Lê
không chịu dời đô nên sớm suy vong triều đại ngắn ngủi, trăm họ hao
tổn.


2.

Đại La là nơi thắng địa hội đủ mọi điều kiện để xây dựng kinh đô
muôn đời, phát triển đất nước: Đại La là nơi lý tưởng về mọi mặt –
cần phải dời đô ra Đại La.

Cũng có cách lập luận chặt chẽ như Lí Công Uẩn, La Sơn Phu Tử Nguyễn Thiếp
đã lập luận rất thuyết phục trong bản Tấu “Bàn luận về phép học” gửi vua Quang Trung:
1. Mục đích chân chính của việc học: Học để làm người, để lập đức.
2. Phê phán những lệch lạc sai trái, khẳng định quan điểm phương pháp học
tập đúng đắn.
3. Tác dụng của việc học tập chân chính sẽ cho kết quả tốt đẹp gì và điều đó có
ý nghĩa gì với đất nước, với quốc gia.
11


Có thể thấy, trong các văn bản nghị luận Trung đại Việt Nam, các tác giả đã lập
luận rất chặt chẽ với một hệ thống các luận điểm được lựa chọn và sắp xếp theo một
trình tự hợp lí, lôgic, thể hiện rõ ý đồ của người viết. Khi tiếp cận, tìm hiểu các văn bản
nghị luận Trung đại, học sinh sẽ nhận thấy trình tự mà các tác giả đã lập luận là không
thể thay đổi hoặc hoán đổi vị trí; nhưng đối với văn bản nghị luận nước ngoài “Đi bộ
ngao du” thì lại khác. “Đi bộ ngao du” được nhà văn Ruxô lập luận bằng ba luận điểm
xác đáng, được sắp xếp theo một trật tự hợp lí theo dụng ý của tác giả. Khi học, tìm hiểu
văn bản nghị luận này, mỗi học sinh đều có thể có sự lựa chọn sắp xếp riêng theo cái lí
của mình bởi bài văn in đậm bóng dáng tinh thần của nhà văn.
+ Muốn bài văn nghị luận thêm sinh động, hấp dẫn cần phải biết kết hợp các yếu
tố biểu cảm, miêu tả, tự sự vào trong văn nghị luận.
- Văn nghị luận rất cần yếu tố biểu cảm. Yếu tố biểu cảm giúp cho văn nghị luận
có hiệu quả thuyết phụ cao hơn, vì nó tác động mạnh mẽ tới tình cảm của người đọc,
người nghe, nó góp phần tạo nên cái hay, cái hấp dẫn của văn bản. Yếu tố biểu cảm

trong văn nghị luận được biểu biện ở các dạng thức như: Tính khẳng định hay phủ định;
Biểu lộ các cảm xúc như yêu, ghét, căm giận, quý mến, chê, no âu, tin tưởng....; Giọng
văn.
Trên thực tế, các văn bản nghị luận được đưa vào chương trình đều rất giàu yếu
tố biểu cảm: Chiếu dời đô – Lí Công Uẩn, Hịch tướng sĩ – Trần Quốc Tuấn, Nước Đại
Việt ta – Nguyễn Trãi, Thuế máu – Nguyễn Ái Quốc... những áng văn đó không chỉ
thuyết phục bằng hệ thống luận điểm xác đáng, chặt chẽ (lí trí) mà còn sức lay động
lòng người mạnh mẽ (tình cảm) bởi các tác giả đã viết nên chúng bằng lòng yêu nước
nồng nàn với một tài năng nghệ thuật đích thực:
1. Lí Công Uẩn: Trẫm rất đau xót về việc đó, không thể không dời đổi.
2. Trần Quốc Tuấn: Ta thướng tới bữa quên ăn...ta cũng vui lòng. ... Ta viết bài
hịch này để các ngươi biết bụng ta.
3. Nguyễn Trãi: Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân; Quân điếu phạt trước lo trừ
bạo.
- Bài văn nghị luận thường vẫn cần có các yếu tố tự sự và miêu tả. Hai yếu tố
này giúp cho việc trình bày luận cứ được rõ ràng, cụ thể, sinh động hơn và có sức thuyết
12


phục mạnh hơn. Cần chú ý, các yếu tố tự sự, miêu tả không phải là thành phần chính
của bài văn nghị luận; lí lẽ và dẫn chứng mới là phần chính, phần cốt tuỷ, phần chủ yếu
của văn nghị luận. Vì thế khi đưa yếu tố tự sự, miêu tả vào văn nghị luận cần cân nhắc
sao cho hợp lí, đúng lúc, đúng chỗ, đúng liều lượng.
“Huống gì thành Đại La, kinh đô cũ của Cao Vương: Ở vào nơi trung tâm trời
đất; được cái thế rồng cuộn hổ ngồi. Đã đúng ngôi nam bắc đông tây; lại tiện hướng
nhìn sông dựa núi. Địa thế rộng mà bằng; đất đai cao mà thoáng. Dân cư khỏi chịu
cảnh khốn khổ ngập lụt; muôn vật cũng được rất mực phong phú tốt tươi. Xem khắp đất
Việt ta, chỉ nơi này là thắng địa. Thật là chốn hội tụ trọng yếu của bốn phương đất
nước; cũng là nơi kinh đô bậc nhất của đế vương muôn đời”...
( “Chiếu dời đô”- Lí Công Uẩn )

II. THỰC TRẠNG VẤN ĐỀ :
Văn bản nghị luận là một dạng văn phổ biến trong trường học và đời sống. Văn
nghị luận có vị trí, vai trò rất quan trọng và đồng thời lại rất khó đối với các em học sinh.
Số tiết đưa vào chương trình không nhiều, lại phân đoạn ra ở các học kỳ II của cả ba lớp
7,8,9. Có khi lại phân phối viết bài 2 tiết trước khi luyện tập viết đoạn văn nghị luận, có
lúc lại viết bài trước khi được luyện nói. Trong khi đi thi (thi học sinh giỏi, thi tốt nghiệp,
thi vào lớp 10 hoặc đại học) thì thể loại đề văn này lại thường hay được sử dụng mà tư
duy học sinh lớp 7,8,9 thì còn nhiều hạn chế....Chính vì thế mà ở nhiều bài viết, nhiều
em học sinh còn lúng túng trong cách diễn đạt, trình bày luận điểm, cách lập luận của
bài văn chưa chặt chẽ, thiếu lôgic.
Không chỉ nhằm mục đích rèn luyện kỹ năng làm văn cho học sinh trong những
giờ Tập làm văn mà theo tinh thần tích hợp và tích cực trong đổi mới PPDH, nội dung
trong SGK mới đã được biên soạn những văn bản nghị luận mẫu mực song song với
nội dung làm văn nghị luận ở phân môn Tập làm văn. Các văn bản nghị luận Trung đại
ở SGK. Ngữ văn 8, học kỳ II hiện nay được chọn gồm: Chiếu dời đô, Hịch tướng sĩ,
Nước Đại Việt ta (trích: Bình Ngô đại cáo), Bàn luận về phép học. Đây đều là các văn
bản nghị luận phản ánh những vấn đề lớn lao của dân tộc, của thời đại: tinh thần ý chí
của cha ông trong đấu tranh chống ngoại xâm, bảo vệ đất nước; là khát vọng về xây
dựng đất nước – quốc gia hùng cường độc lập; phản ánh quan niệm, nhận thức thẩm mĩ
13


của dân tộc về đạo học...đều là những bài văn nghị luận văn học súc tích, tài hoa, uyên
bác.
Mức độ tiếp nhận của học sinh lớp 8 đối với giá trị văn chương đích thực
của các văn bản này quả là một vấn đề, tạo ra khá nhiều thử thách đối với giáo viên
đứng lớp khi cần phải cho học sinh tiếp cận được giá trị của tác phẩm này trong một
thời lượng một đến hai tiết học. Vậy làm sao để học sinh vừa nắm được những đặc sắc
về nội dung và nghệ thuật của các văn bản nghị luân Trung đại, vừa hiểu được đặc điểm
của các thể văn cổ: chiếu, hịch, cáo, tấu lại vừa tích hợp được việc rèn kỹ năng làm văn

nghị luận. Quả là nhiều thách thức.
Qua thực tế giảng dạy và qua dự giờ của đồng nghiệp, qua những buổi sinh hoạt
tổ chuyên môn tôi nhận thấy khi giảng dạy phần văn bản nghị luận, giáo viên có rất
nhiều cố gắng trong việc đổi mới phương pháp với những ưu điểm như:
- Giáo viên đã chú ý đến tính tích cực của học sinh.
- Đổi mới trong phương pháp giảng dạy, đã chú ý đến việc giáo dục đạo đức –
giáo dục kỹ năng sống cho học sinh.
- Tổ chức hoạt động nhóm
- Khai thác văn bản có sự tích hợp với phần Tiếng Việt, phần Tập làm văn.
Tuy nhiên, trong thực tế giảng dạy cũng bộc lộ những hạn chế như: Trong giảng
dạy, một số giáo viên chỉ chú ý khai thác nội dung làm toát nên những quan điểm tư
tưởng các tác giả mà ít chú ý đến vẻ đẹp về hình thức nghệ thuật của các tác phẩm. Vì
thế việc dạy học các tác phẩm nghị luận thường khô, không hấp dẫn đối với học sinh
nên dẫn đến tình trạng học sinh chán học cũng là dễ hiểu.
Với mục đích khắc phục khó khăn, trở ngại do những rào cản đã nói ở trên, đồng
thời lại giúp học sinh rèn kỹ năng làm văn nghị luận cho học sinh, tôi xin đưa ra một
sáng kiến kinh nghiệm “ Rèn kỹ năng làm văn nghị luận cho học sinh lớp 8 qua giờ
giảng văn bản nghị luận Trung đại ”. Đây chỉ là ý tưởng mang tính chất cá nhân rất
mong sự góp ý của các đồng chí!
III. CÁC BIỆN PHÁP ĐÃ TIẾN HÀNH ĐỂ GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ:
1. Chuẩn bị:
14


Để giờ giảng văn nghị luận trung đại thành công, thì trước hết chúng ta cũng phải
coi trọng công tác chuẩn bị cho giờ giảng ở nhà như các giờ học khác.
a. Đối với giáo viên:
- Chúng ta phải đọc kỹ văn bản, nếu văn bản đó là đoạn trích thì phải tìm đọc cả
tác phẩm. Không nên đọc qua loa, mà nên đọc thật diễn cảm để nắm chắc tinh thần của
văn bản: hai văn bản thuộc thể Chiếu, Hịch trong SGK lớp 8 tập II thì hai văn bản trọn

vẹn; còn các văn bản thuộc cáo, tấu là hai văn bản trích.
- Tham khảo tư liệu, tìm hiểu kỹ văn bản nó trong mối quan hệ với hoàn cảnh ra
đời, với đặc điểm chung của văn học ở thời kỳ ấy: Các văn bản nghị luận trung đại ra
đời ở thời kỳ “Văn – Triết – Sử” bất phân song nó mang rõ tính chất, đặc điểm của văn
nghị luận – thuyết phục người đọc chủ yếu bằng lập luận, lý lẽ. Chúng đều là các văn
kiện phản ánh khát vọng của dân tộc về việc xây dựng quốc gia hùng cường, độc lập.
- Chuẩn bị một hệ thống những câu hỏi gợi mở, phát hiện, nêu vấn đề, tìm tòi
nghiên cứu…để hướng dẫn học sinh trên lớp khi tìm hiểu và cảm nhận văn bản.
- Soạn giáo án chu đáo, có thể sử dụng giáo án điện tử, tăng kênh hình, tranh ảnh
để làm giờ học sinh động, hấp dẫn, tăng hiệu quả giờ học.
- Soạn bài cần chú ý bám chuẩn kiến thức kỹ năng. Soạn nội dung giảng theo
hướng tích hợp lồng ghép kỹ năng làm văn nghị luận song không làm mất đi vẻ đẹp văn
chương thẩm mĩ của văn bản.
b. Đối với học sinh:
- Đọc kỹ văn bản, luyện đọc diễn cảm, nắm được tinh thần của văn bản.
- Nắm được luận đề, xác định luận điểm, luận cứ.... xác định các yếu tố biểu cảm,
tự sự và miêu tả trong văn bản; chỉ ra nghệ thuật đặc sắc, ý nghĩa của văn bản
- Soạn bài theo câu hỏi SGK và theo sự hướng dẫn của thầy cô giáo từ tiết trước.
2. Trong giờ lên lớp:
a. Phần đọc hiểu văn bản: Với văn bản được dẫn là trọn vẹn tác phẩm thì nên cho
học sinh đọc hết văn bản có trong SGK; với văn bản là đoạn trích thì giáo viên nên giới
thiệu cả tác phẩm một cách khái quát để học sinh nắm được. Phần này chú ý cho học
sinh tìm hiểu kỹ về thể loại của văn bản và từ khó trong văn bản ( từ Hán Việt nhiều).

15


Cần cho học sinh xác định được bố cục cảu văn bản để tìm hiểu về cấu trúc của bài văn,
tiếp cận gần hơn quá trình lập luận của tác giả.
b. Phần tìm hiểu văn bản:



Hướng dẫn tìm hiểu văn bản nghị luận: Khi hướng dẫn học sinh tìm hiểu

văn bản, giáo viên cần chú ý yêu cầu chung của một bài văn nghị luận: về nội dung
(phải nêu rõ được sự việc, hiện tượng có vấn đề; phân tích mặt đúng, mặt sai, mặt lợi,
mặt hại của nó; chỉ ra nguyên nhân và bày tỏ thái độ, ý kiến nhận định của người viết).
về hình thức (bố cục phải mạch lạc, có luận điểm rõ ràng, luận cứ xác thực, phép lập
luận phù hợp, lời văn chính xác, sinh động, thuyết phục).
Tuy nhiên, khi dạy học ta không thể chỉ dừng lại ở những điểm chung
này, bởi sức hấp dẫn của mỗi tác phẩm nghị luận nằm ở sự độc đáo trong cách chọn
luận điểm, cách triển khai luận điểm, cách lập luận, giọng điệu, ngôn từ… Hay nói cách
khác là ở phong cách nghị luận riêng của mỗi tác giả trong mỗi tác phẩm. Do vậy cần
triển khai phân tích trên những bình diện đó để thấy giá trị nội dung và sự hấp dẫn thẩm
mỹ riêng của từng tác phẩm; cần nắm đặc điểm của từng thể loại văn nghị luận về kết
cấu, văn phong, giọng điệu…nhất là với văn nghị luận trung đại còn chia ra các loại nhỏ
như: chiếu, hịch, cáo, tấu…
* Tìm hiểu văn bản nghị luận trung đại nói riêng, văn nghị luận nói chung cần
tập trung vào luận điểm. Cần phát hiện được những luận điểm mới mẻ, độc đáo ở mỗi
tác phẩm.
Luận điểm thường được thể hiện dưới hình thức tiêu đề bài văn hoặc những câu
văn có tính chất khẳng định hay phủ định. Thông thường trong một bài văn nghị luận
bao giờ cũng có một luận điểm trung tâm (luận điểm chính – luận điểm kết luận). Đồng
thời có một hệ thống các luận điểm bộ phận (luận điểm xuất phát, luận điểm mở rộng)
nhằm triển khai luận điểm trung tâm theo những cách lập luận cụ thể làm cho bài văn có
sức thuyết phục. Như vậy luận điểm là nội dung, còn lập luận là hình thức diễn đạt nội
dung ấy.
Ví dụ: Trích đoạn “Nước Đại Việt ta” (trích Bình Ngô đại cáo của Nguyễn Trái)
dạy ở lớp 8 là một Tuyên ngôn Độc lập, trong đó luận điểm trung tâm là khẳng định chủ


16


quyền độc lập dân tộc được phát triển thật sâu sắc, hệ thống và toàn diện qua một loạt
các luận điểm bộ phận:
- Có nền văn hiến từ lâu đời
- Có lãnh thổ riêng, cương vực rõ ràng
- Có phong tục tập quán (tức bản sắc văn hóa) riêng
- Có chủ quyền riêng: Bao triều đại nối tiếp nhau xây nền độc lập.
- Có truyền thống lịch sử anh hung “Hào kiệt đời nào cũng có”.
- Có biết bao chiến công oanh liệt chống ngoại xâm trong trường kỳ lịch sử dân
tộc.
So với bài “Sông núi nước Nam” vẫn được coi là Tuyên ngôn độc lập đầu tiên
của dân tộc ở đầu thời Lý thì nước Đại Việt đã đánh dấu một giai đoạn phát triển cao
hơn hẳn của ý thức về độc lập dân tộc. Như vậy rõ ràng luận điểm mới đòi hỏi phải có
cách nhìn mới, thông tin mới và tầm tư tưởng mới.
* Việc phát hiện ra các luận điểm trong bài văn nghị luận là quan trọng. Nhưng
quan trọng hơn là phân tích được cách trình bày, triển khai hợp lý các luận điểm đó. Có
thể sau khi hướng dẫn học sinh tìm hiểu văn bản, cần cho học sinh nhận ra được cái hay,
cái đẹp trong nghệ thuật lập luận của mỗi tác giả, tác phẩm.
Ví dụ trong văn bản “Chiếu dời đô” của Lí Công Uẩn, nhà vua đã đưa ra các
luận điểm và lập luận bằng cách qui nạp thuyết phục :
- Dời đô là việc trọng đại, các vua đời xưa bên Trung Quốc đã nhiều lần dời đô
và đã có kết quả tốt đẹp – luận điểm cơ sở, xuất phát: Viện dẫn sử sách nói về việc dời
đô: nhà Thương 5 lần dời đô, nhà Chu 3 lần dời đô -> Kết quả: đất nước vững bền,
phát triển thịnh vượng
- Các nhà Đinh, Lê không chịu dời đô nên triều đại ngắn, trăm họ hao tổn: Soi sử
sách vào tình hình thực tế: nhà Đinh và nhà Lê không chịu dời đô -> Không tuân theo
mệnh trời -> Hậu quả: triều đại ngắn ngủi, đất nước không phát triển thịnh vượng
được.=> Việc dời đô lúc này là hết sức cần thiết, là rất bình thường: tuân theo mệnh trời,

hợp với lòng dân.

17


- Thành Đại La về mọi mặt đều xứng đáng là kinh đô của muôn đời: Vốn là kinh
đô cũ, ví trí trung tâm trời đất, thế rồng cuộn hổ ngồi, dân cư đông đúc muôn vật tốt
tươi, thắng địa, là kinh đô muôn đời
- Cần phải dời đô ra Đại La- LĐ chính
Như vậy, cách lập luận của Lí Công Uẩn rất chặt chẽ, lô gíc; có đủ lí lẽ và dẫn
chứng; kết hợp giữa lý và tình.
Các thao tác lập luận trong văn nghị luận rất phong phú, linh hoạt. Tác giả có thể
lập luận bằng cách quy nạp hay diễn dịch, chứng minh hay giải thích, có khi lập luận
tương phản hay lập luận bằng cách nêu câu hỏi (Hịch tướng sĩ của Trần Quốc Tuấn),
thậm chí có thể dùng cả lối lập luận móc xích hoặc lập luận theo lối phản đề …
* Cũng cần lưu ý: Nếu trong văn chương hư cấu thường có sự kết hợp của nhiều
phương thức biểu đạt (kể, tả, biểu cảm và kịch tính) thì trong văn chương nghị luận
cũng thường có sự kết hợp nhiều thao tác lập luận trong cùng một tác phẩm. Lập luận
trong văn nghị luận cũng sử dụng nhiều thủ pháp nghệ thuật phong phú để thể hiện cảm
hứng của chủ thể sáng tạo và tạo nên tính hình tượng cùng sắc thái trữ tình của tác
phẩm.
Tính hình tượng là yếu tố được coi là đặc trưng của văn chương thẩm mĩ. Tính
hình tượng trong văn nghị luận không thể hiện ở cấp độ chỉnh thể mà chỉ ở cấp độ chi
tiết, bộ phận phục vụ cho lập luận chứ không lấn át hệ thống lập luận logic của tác
phẩm. Tính hình tượng của văn nghị luận thường thể hiện ở cấp độ ngôn từ, ở cách diễn
đạt tu từ, ở cách vận dụng thành ngữ, điển cố khéo léo…
Ví dụ: Trong “Hịch tướng sĩ” đoạn tự nêu gương, Trần Quốc Tuấn đã sử dụng
thành công nghệ thuật cường điệu, phóng đại để diễn tả lòng yêu nước và căm thù giặc
của mình. Hay nghệ thuật lặp cú pháp được sử dụng nhuần nhuyễn tạo ra những câu
biền văn hấp dẫn trong “Chiếu dời đô” của Lí Công Uẩn, trong “Hịch tướng sĩ” của

Trần Quốc Tuấn.
* Giọng văn nghị luận thường trang nghiêm, song cũng có trường hợp người viết
sử dụng giọng mỉa mai bóng gió. Ví dụ: khi Trần Quốc Tuấn nói về sứ giặc “Uốn lưỡi
cú diều mà si mắng triều đình. Đem thân dê chó mà bắt nạt tề phụ” trong Hịch tướng sĩ.
Đây thường là chỗ người viết trực tiếp bày tỏ cảm xúc, thái độ của mình là như sự yêu
18


ghét, khinh trọng, đồng tình hay phản đối… Hoặc trong Chiếu dời đô, rõ ràng là chiếu –
mệnh lệnh vua ban ra mang tính độc thoại song trong văn bản nhà vua đã hai lần bày tỏ
thái độ tình cảm rất chân thành: Trẫm rất đau xót về việc đó, không thể không dời đổi
(…) Trẫm muốn dựa vào sự thuận lợi của đất ấy để định chỗ ở. Các khanh nghĩ thế
nào?
Như vậy trong văn nghị luận lý lẽ, hình ảnh, cảm xúc và giọng điệu thường hòa
quyện vào nhau chặt chẽ đem lại sức thuyết phục cả về lí trí và tình cảm đối với người
đọc, người nghe.
* Mỗi thể loại văn học có phong cách ngôn ngữ riêng phù hợp. Để phục vụ cho
lập luận chặt chẽ, lô gic, văn nghị luận thường dùng câu khẳng định và phủ định với nội
dung thường là các phán đoán, nhận xét hay đánh giá: Ví như: Trẫm rất đau xót về việc
đó, không thể không dời đổi( Chiếu dời đô – Lí Công Uẩn). Câu có mệnh đề chính phụ
được sử dụng để tạo nên sự rõ ràng, mạch lạc, đanh thép, hùng hồn cho lời văn. Các yếu
tố này vừa tạo hiệu quả cao trong việc làm sang tỏ luận điểm, vừa thể hiện được tư
tưởng, cảm xúc của người viết và đem lại tính truyền cảm cho tác phẩm nghị luận.
Giáo án một giờ cụ thể:
Ngày soạn: 05 /02/2012

Tiết 90

Ngày giảng: 8A:


Chiếu dời đô

8C:

( Thiên đô chiếu)
- Lí Công Uẩn -

A . Mục tiêu cần đạt : Dạy chuyên đề bằng GAĐT
1. Kiến thức: Giúp HS hiểu được những KT về thể Chiếu; sự phát triển của quốc gia
Đại Việt đang trên đà lớn mạnh; Ý nghĩa trọng đại của sự kiện dời đô và sức thuyết
phục mạnh mẽ của lời tuyên bố quyết định dời đô.
2. Kĩ năng: Rèn luyện kỹ năng đọc – hiểu một văn bản viết theo thể chiếu. Nhận thấy
được đặc điểm của văn nghị luận trung đại .
3. Thái độ: GD ý thức xác định giá trị bản thân sống có trách nhiệm với đất nước, với
dân tộc.
B. Chuẩn bị :
- GV: Đọc thuộc lòng + soạn bài GAĐT– tranh ảnh
19


- HS : Đọc kỹ bài + sưu tầm 1 số tranh ảnh về đền thờ Lý Bát, Chùa Bút Tháp, tượng
đài Lý Công Uẩn.
C. Tiến trình lên lớp :
* Hoạt động 1: Khởi động:
1. Tổ chức: 8A:

8C:

2. Kiểm tra bài cũ:
- Khái niệm văn nghị luận? Ba yếu tố then chốt của bài văn NL?

- Luận điểm là gì?
* Hoạt động 2: Bài mới:
Lí Công Uẩn tức là Lí Thái Tổ là một vị vua thông minh, nhân ái, có chí lớn và
lập được nhiều chiến công. Năm Canh Tuất Niên Hiệu Thuận Thiên thứ nhất 1010,
Dân tộc Đại Việt đang trên đà lớn mạnh nên việc dựa vào địa thế núi rừng không còn
phù hợp nữa nên Lí Công Uẩn đã viết bài Chiếu bày tỏ ý định dời đô từ Hoa Lư ra
thành Đại La. Chúng ta cùng tìm hiểu bài chiếu này để nắm nội dung và cách lập luận
như thế nào mà có giá trị thuyết phục mạnh mẽ.
GV nêu y/c, đọc mẫu

I. Tiếp xúc văn bản:
1. Đọc: Mạch lạc; rõ ràng; chú ý câu hỏi, câu cảm

và các từ cổ.
Gọi 2 HS đọc bài
2. Tìm hiểu chú thích:
? Khái quát một số thông tin về a. Tác giả, tác phẩm:
TG?

*. Tác giả:
Lí Công Uẩn (974 – 1028) tức vua Lí Thái Tổ người khai sáng triều Lí. Là vị vua anh minh, có chí
lớn và lập nhiều chiến công.

? Đọc chú thích SGK - T50. *. Tác phẩm:
Giải thích Chiếu là gì?

- Chiếu: là VB do vua dùng để ban bố mệnh lệnh

? Hãy giải thích vì sao chúng ta cho thần dân. Chiếu được viết theo kiểu VBHC
có thể khẳng định, Chiếu dời đô hoặc VBNL.

là thể văn nghị luận?

- Chiếu dời đô: VB nghị luận trung đại, được viết

- Vì nó dùng lập luận để thuyết bằng văn xuôi chữ Hán có xen câu văn biền ngẫu
phục người nghe về vấn đề sự (những cặp câu hay những đoạn câu cân xứng với
20


cần thiết phải dời đô từ Hoa nhau, nhịp nhàng)
Lư về Đại La.

- Năm Canh Tuất Niên Hiệu Thuận Thiên thứ nhất

? “Chiếu dời đô” ra đời trong 1010, Dân tộc Đại Việt đang trên đà lớn mạnh nên
hoàn cảnh nào?

việc dựa vào địa thế núi rừng không còn phù hợp
nữa -> Lí Công Uẩn đã viết bài Chiếu bày tỏ ý
định dời đô từ Hoa Lư ra thành Đại La.
b. Từ khó: Sgk. 50,51
- mệnh trời: ý trời, lòng trời, ở đây nên hiểu như
quy luật khách quan.

- Chú thích 8. Sgk 50
3. Bố cục:
? VB có mấy đoạn văn? Đưa ra - LĐ1: Nêu sử sách làm tiền đề: các vua đời xưa
mấy VĐ? – Lí do cần phải dời bên TQ đã nhiều lần dời đô để dân an, nước thịnh.
đô – Lí do chọn Đại La


- LĐ2: Soi sáng tiền đề vào thực tế hai triều Đinh –

? VB đưa ra mấy luận điểm? Đó Lê: không chịu dời đô khiến triều đại không lâu
là những luận điểm nào? Trong bền, trăm họ hao tốn.
các LĐ đó, LĐ nào là LĐ - LĐ3: Đại La là nơi thắng địa - là nơi định đô lí
chính?

tưởng.
=> Cần phải dời đô – dời đô là tất yếu.

II. Tìm hiểu văn bản:
Ở phần MĐ, TG viện dẫn sử 1. Nêu sử sách làm tiền đề:
sách TQ nói về việc các vua đời - Viện dẫn sử sách nói về việc dời đô của các vua
xưa bên TQ từng có nhiều cuộc thời xưa bên TQ: Thời nhà Thương 5 lần dời đô,
dời đô. ? Theo suy luận của t/giả Thời nhà Chu 3 lần dời đô
thì việc dời đô của các vua nhà - Nhằm m/đích: mưu toan nghiệp lớn, tính kế muôn
Thương, nhà Chu nhằm m/đích đời cho con cháu – dân an, nước thịnh.
gì? K/quả của việc dời đô ấy ra - Việc dời đô vừa thuận theo mệnh trời, vừa thuận
sao?

theo ý dân

? LCU viện dẫn số liệu về các ( phù hợp qui luật khách quan & nguyện vọng của
cuộc dời đô của hai triều nhân dân).
Thương, Chu để nhằm mục đích - Kết quả: Làm cho đ/nước vững bền, phát triển
21


gì?


thịnh vượng.

? Nhận xét cách lập luận của ...đưa điển tích, điển cố, học tập tiền nhân là nét
TG?

tâm lí của người trung đại...thiên thời, địa lợi, nhân
hòa.
=> làm chỗ dựa cho lí lẽ: trong lịch sử đã từng có
chuyện dời đô và đã đem lại kết quả tốt đẹp
– Dẫn chứng cụ thể, lập luận chặt chẽ: Tạo tiền đề
lý luận vững chắc - việc dời đô của LCU không

phải là bất thường, trái qui luật.
? Lấy lí lẽ soi vào thực tế, hiện 2. Soi sử sách vào tình hình thực tế:
tại hai triều Đinh và Tiền Lê ra - Hai triều đại Đinh – Tiền Lê, không chịu dời đô
sao?

khỏi đất Hoa Lư : theo ý mình, khinh mệnh trời,

? Bằng những hiểu biết về lịch không theo người trước. (LCU không tán thành
sử triều Đinh, Lê em có suy nghĩ cách làm của hai nhà Đình và Tiền Lê)
gì về lời phê phán trên của Lí -> Kết quả: Triều đại không lâu bền, số vận ngắn
Công Uẩn? Chú thích 8.

ngủi, nhân dân hao tốn, đ/nước không phát triển,

mở mang…
? Câu văn: “Trầm rất đau xót - Câu văn: Trẫm rất đau xót…không thể không dời
về…dời đổi” nói lên điều gì? Có đổi.
t/d ntn trong bài văn nghị luận?


-> Bộc lộ cảm xúc trực tiếp của TG với đất nước,
với muôn dân đồng thời thể hiện quyết tâm dời đô.
Làm bài chiếu có sự kết hợp giữa lý và tình ->tác
động mạnh đến tình cảm người đọc: khẳng định

việc dời đô là cần thiết, là tất yếu.
? Nguồn gốc sâu xa của việc dời 3. Đại La là nơi định đô lí tưởng.
đô của LCU là gì?

- Về vị trí địa lý: kinh đô cũ, trung tâm trời đất,

- dân an, nước thịnh, vì dân vì được thế, đúng ngôi, tiện hướng.
nước & theo ý trời/.

- Địa hình: rộng bằng, cao thoáng, dân tránh được

? Theo t/g, thành Đại La có nạn lụt lội, muôn vật tốt tươi. -> thắng địa.( Thuyết
những lợi thế gì để chọn làm phong thủy)
kinh đô của đất nước?

- Về vị thế chính trị, văn hoá: Là đầu mối giao lưu
22


“chốn tụ hội 4 phương”, là những mảnh đất hưng
thịnh “kinh đô bậc nhất của đế vương muôn đời”
-> Thành Đại La có đủ mọi điều kiện để trở thành
kinh đô của đất nước.
? N/xét cách đặt câu, sắp xếp ý - NT:

và giá trị nghệ thuật đoạn văn?

+ MĐ đoạn “Huống gì” - liên kết đoạn văn lôgic,
liền mạch.
+ Câu văn biền ngẫu, mỗi câu hai vế, đối ý, đối lời,
đối thanh, đối nhịp, tạo sự cân xứng, nhịp nhàng.
+ Hình ảnh vừa thực vừa bay bổng
+ Lập luận chặt chẽ

=> địa thế tuyệt vời của Đại La.
? Xác định nhiệm vụ từng câu ở * Cách kết thúc bài chiếu:
đoạn kết VB?

- C1: Nếu rõ khát vọng, mục đích của nhà vua

? Vì sao kết thúc bài chiếu, nhà - C2: Hỏi ý kiến quần thần- bỏ ngỏ song kết quả đã
vua không ra lệnh mà lại hỏi ý có ngay trong đó.
kiến của quần thần? Cách kết -> Chiếu vốn là mệnh lệnh, chỉ có thể làm theo...
thúc ấy có tác dụng ntn?

Nó không còn là lời mệnh lệnh có tính chất cưỡng

=> Ý tưởng dời đô của LCU đạt chế mà là hỏi ý kiến để đặt ra sự lựa chọn. Như vậy
được cả 3 yếu tố .... vì thế còn lẽ LCU đã vượt lên những ràng buộc, quy định xã hội
gì mà không dời đô!

lúc bấy giờ để thể hiện một tinh thần dân chủ đáng
quý. Nó khiến cho bài chiếu không còn là những lí
lẽ khô khan mà đầy tâm huyết và dân chủ.
- Cách kết thúc: ngắn gọn, thấu tình đạt lí, tạo tính

chất đối thoại cởi mở- tạo ra sự đồng cảm sâu sắc
giữa vua và bề tôi: vừa thể hiện tính quyết đoán,
vừa thể hiện tinh thần dân chủ tuyệt vời => QĐ của
nhà vua được người đọc, người nghe tiếp nhận, suy

nghĩ và hành động một cách tự nguyện
? Quyết định dời đô cho em hiểu - LCU: Một con người có tầm nhìn chiến lược, có
gì về đức vua Lí Thái Tổ?

quyết định sáng suốt biết nhìn xa trông rộng, có ý
23


- LCU là người có khả năng chí hoài bão lớn lao, có ý thức trách nhiệm với đất
“Trông lại ngàn xưa, trông tới nước, dân tộc: ông vua yêu nước thương dân.
mai sau”

- Hình ảnh thành Thăng Long, chùa Một Cột thủ đô
HN phát triển rực rỡ là những minh chứng hùng

hồn cho quyết định sáng suốt của LCU.
? Đọc Chiếu dời đô em hiểu III. Tổng kết – ghi nhớ:
khát vọng nào của nhà vua & 1. Nội dung:
của dân tộc được phản ánh ? Vì - Bài Chiếu thể hiện tầm nhìn về sự phát triển quốc
sao?

gia Đại Việt: khát vọng độc lập, thống nhất, ý chí tự
cường của dân tộc trên đà lớn mạnh..
- Việc dời đô chứng tỏ triều đình nhà Lí đủ sức
chấm dứt nạn phong kiến cát cứ, thế và lực của dân

tộc đủ sức sánh ngang hàng phương Bắc. Định đô
ở Thăng Long là thực hiện nguyện vọng của nhân
dân thu giang sơn về một mối, xây dựng đất nước

? Bài Chiếu có ý nghĩa như thế

độc lập, tự cường.

nào trong lịch sử dân tộc ta?

- Bài Chiếu gắn liền với sự kiện trọng đại của dân
tộc và nhận thức về vị thế, sự phát triển đất nước

? Nêu đặc sắc về nghệ thuật của

của vua Lí Công Uẩn.

bài chiếu?

2. Nghệ thuật:

? Từ đó em học tập được những - Bài văn nghị luận trung đại ngắn gọn, lập luận
gì khi viết văn nghị luận?

chặt chẽ, luận điểm xác đáng.
- Sự kết hợp hài hòa giữa lí và tình. Những câu văn
biền ngẫu nhịp nhàng, cân đối.
=> Sức thuyết phục mạnh mẽ vì nói đúng được ý
nguyện của nhân dân.


* Hoạt động 3:

*. SGK – T151
IV: Luyện Tập
Câu hỏi SGK. 52

Chứng minh chiếu dời đô có kết - Nêu sử sách làm tiền đề, làm chỗ dựa cho lí lẽ
cấu chặt chẽ, lập luận giàu sức - Soi sáng tiền đề vào thực tế hai nhà Đinh, Lê để
24


thuyết phục?

chỉ ra thực tế ấy không còn phù hợp với sự pt của
đất nước. Và nhất thiết phải dời đô.
- Đi tới kết luận: Đại La là nơi tốt nhất...

* Hoạt động 4: Củng cố - Dặn dò:
- GV hệ thống, khái quát những vấn đề cơ bản cần nắm vững về giá trị ND – NT.
- Học thuộc ghi nhớ: Phân tích K/cấu b/văn
- Soạn: Hịch tướng sỹ.
3. Soạn giảng giáo án điện tử:
Để góp phần tạo sự hấp dẫn cho giờ dạy, tạo nên sự thành công cho giờ
dạy, giáo viên nên soạn giảng bằng giáo án điện tử. Việc dùng giáo án điện tử ở đây sẽ
tranh thủ được thời gian, khai thác sâu rộng các yếu tố, các nội dung đã nói ở trên, giúp
tiết học sinh động và hấp dẫn hơn, hiệu quả hơn.
Ví dụ khi tôi giảng tiết 90 – Chiếu dời đô(đã trình bày ở trên), tôi đã soạn
giảng bằng GAĐT như sau: (một vài slides trong giáo án)

25



×