Tải bản đầy đủ (.pdf) (90 trang)

Kháng nghị phúc thẩm theo pháp luật tố tụng hình sự việt nam từ thực tiễn tỉnh quảng ngãi

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (951.94 KB, 90 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGÔ QUANG VŨ

KHÁNG NGHỊ PHÚC THẨM THEO PHÁP LUẬT
TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN
TỈNH QUẢNG NGÃI

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI, năm 2018


VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGÔ QUANG VŨ

KHÁNG NGHỊ PHÚC THẨM THEO PHÁP LUẬT
TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN
TỈNH QUẢNG NGÃI

Chuyên ngành
Mã số

: Luật Hình sự và Tố tụng Hình sự
:
838.01.04



LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. VÕ THỊ KIM OANH

HÀ NỘI, năm 2018


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn là công trình nghiên cứu khoa học, độc lập của
tác giả. Các số liệu và kết quả phân tích đánh giá nêu trong luận văn là hoàn toàn
trung thực và chưa được công bố ở bất kỳ một công trình nào khác. Các số liệu,
thông tin trích dẫn trên luận văn đều được ghi rõ nguồn gốc.

Tác giả luận văn

Ngô Quang Vũ


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1
CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ KHÁNG NGHỊ PHÚC
THẨM TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ ...................................................................7
1.1. Khái niệm, nội dung, đặc điểm, ý nghĩa của kháng nghị phúc thẩm ...................7
1.2. Cơ sở của việc quy định kháng nghị phúc thẩm ................................................14
CHƯƠNG 2. QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VỀ
KHÁNG NGHỊ PHÚC THẨM VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNGTẠI TỈNH
QUẢNG NGÃI ........................................................................................................16
2.1. Sơ lược lịch sử hình thành và phát triển các quy định về kháng nghị phúc

thẩm trong tố tụng hình sự Việt Nam........................................................................16
2.2. Quy định của Bộ luật tố tụng hình 2015 về kháng nghị phúc thẩm...................17
2.3. Căn cứ kháng nghị phúc thẩm ............................................................................25
2.4. Thực tiễn kháng nghị phúc thẩm tại tỉnh Quảng Ngãi .......................................25
2.5. Vướng mắc, hạn chế và nguyên nhân ................................................................38
CHƯƠNG 3. YÊU CẦU VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ
KHÁNG NGHỊ PHÚC THẨM TẠI TỈNH QUẢNG NGÃI ...............................60
3.1. Yêu cầu nâng cao hiệu quả kháng nghị..............................................................60
3.2. Các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả kháng nghị phúc thẩm ........................65
KẾT LUẬN ..............................................................................................................80
TÀI LIỆU THAM KHẢO


BẢNG VIẾT TẮT
CHỮ RÕ

STT

CHỮ VIẾT TẮT

1

Viện kiểm sát

VKS

2

Viện kiểm sát nhân dân


VKSND

3

Viện kiểm sát nhân dân cấp cao

VKSNDCC

4

Cơ quan điều tra

CQĐT

5

Tòa án nhân dân

TAND

6

Tòa án nhân dân huyện, quận, thị xã

TAND huyện

7

Tòa án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung TAND tỉnh
ương


8

Tòa án nhân dân cấp cao

TANDCC

9

Tòa án nhân dân tối cao

TANDTC

10

Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao

HĐTPTANDTC

11

Bộ luật hình sự

BLHS

12

Bộ luật hình sự năm 1999, sửa đổi bổ sung năm 2009

BLHS 1999


13

Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017

BLHS 2015

14

Bộ luật tố tụng hình sự năm 1988

BLTTHS 1988

15

Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003

BLTTHS 2003

16

Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015

BLTTHS 2015

17

Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015

BLTTDS 2015


18

Luật tố tụng hành chính năm 2015

LTTHC 2015

19

Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 2002

LTCTAND 2002

20

Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014

LTCTAND 2014

21

Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2002

LTCVKSND 2002

22

Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2014

LTCVKSND 2014


23

Điều tra viên

ĐTV

24

Kiểm sát viên

KSV


CHỮ RÕ

STT

CHỮ VIẾT TẮT

25

Thẩm phán

TP

26

Người bào chữa


NBC

27

Người bảo vệ quyền lợi hợp pháp của đương sự

NBVQLHPCĐS

28

Người tiến hành tố tụng

NTHTT

29

Cơ quan tiến hành tố tụng

CQTHTT

30

Người tham gia tố tụng

NTGTT

31

Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan


NCQL&NVLQ

32

Tòa án cấp phúc thẩm

TACPT

33

Hội đồng xét xử

HĐXX

34

Hội đồng xét xử phúc thẩm

HĐXXPT


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong quá trình giải quyết các vụ án hình sự thì thủ tục xét xử sơ thẩm là
trung tâm; điều đó đòi hỏi các cơ quan tiến hành tố tụng và những người tiến hành
tố tụng phải luôn cố gắng thực hiện tốt nghĩa vụ chứng minh mới lựa chọn, áp dụng
đúng, đầy đủ, kịp thời các quy định của pháp luật tố tụng, pháp luật nội dung, pháp
luật chuyên ngành…v..v…và các văn bản hướng dẫn để giải quyết đúng đắn vụ án.
Khi giải quyết, xét xử vụ án theo thủ tục sơ thẩm, vai trò của Thẩm phán
chủ tọa phiên tòa rất quan trọng vì phải chứng minh trong giai đoạn chuẩn bị xét xử

bằng việc kiểm tra, đánh giá chứng cứ vụ án để ra quyết định tố tụng đúng đắn, kịp
thời; vừa có trách nhiệm thu thập hoặc yêu cầu Viện kiểm sát thu thập chứng cứ;
nếu không ra quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung, quyết định đình chỉ hoặc
quyết định tạm đình chỉ vụ án, mà ra quyết định đưa vụ án ra xét xử, thì phải tiến
hành rất nhiều công việc để phục vụ hoạt động xét xử sơ thẩm; tại phiên tòa sơ
thẩm, chủ tọa phải chấp hành đúng và đầy đủ tất cả các trình tự, thủ tục tố tụng
trong quá trình xét xử theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự và các văn bản của
cơ quan có thẩm quyền hướng dẫn, cùng Hội đồng xét xử nghị án và nhân danh
Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, nhân danh công lý ra bản án, quyết
định giải quyết vụ án.
VKSND với chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động
tư pháp. Đối tượng của công tác kiểm sát hoạt động tư pháp là việc tuân thủ pháp
luật của chủ thể có thẩm quyền trong họat động tư pháp. Viện kiểm sát có nhiệm vụ
quyền hạn kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm những bản án, quyết định của Tòa án
cấp sơ thẩm giải quyết vụ án và các quyết định khác theo quy định của pháp luật
(bao gồm của Tòa án cùng cấp và của Tòa án cấp dưới trực tiếp chưa có hiệu lực
pháp luật ) khi cho rằng bản án hoặc quyết định đó có vi phạm pháp luật mà đủ các
căn cứ pháp lý kháng nghị; để Tòa án cấp phúc thẩm giải quyết vụ án, quyết định bị
kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm với hậu quả pháp lý theo quy định của pháp luật
tố tụng hình sự. Thực tiễn nhiều năm qua trên toàn quốc cũng như tỉnh Quảng Ngãi
1


cho thấy Viện kiểm sát đã kháng nghị phúc thẩm không ít những bản án, quyết định
sơ thẩm của Hội đồng xét xử, quyết định sơ thẩm của Thẩm phán được phân công
chủ tọa phiên tòa với nội dung và phạm vi kháng nghị rất đa dạng. Sau khi cấp phúc
thẩm giải quyết kháng nghị, tùy theo từng vụ án cụ thể mà không ít trường hợp khi
điều tra lại dẫn đến thay đổi tội danh khởi tố, khởi tố bổ sung tội, khởi tố thêm
người phạm tội, truy cứu chuyển khung tăng nặng, bổ sung các chứng cứ quan trọng
của vụ án; sửa án cơ thẩm không cho bị cáo hưởng án treo; hủy quyết định sơ thẩm

…điều đó góp phần nâng cao chất lượng tố tụng, trong đó có hoạt động xét xử theo
các thủ tục nói riêng. Tuy nhiên, có những trường hợp kháng nghị thiếu căn cứ hoặc
không cần thiết nên không được cấp phúc thẩm chấp nhận; ngược lại, có trường hợp
đủ căn cứ nhưng không được kháng nghị hoặc có kháng nghị nhưng không được
chấp nhận.
Góp phần thực hiện Nghị quyết số 49 của Bộ chính trị về chiến lược Cải
cách tư pháp, Bộ luật hình sự, Bộ luật tố tụng hình sự mới trong đó có yêu cầu nâng
cao chất lượng hoạt động tố tụng hình sự nên tác giả làm Luận văn với đề tài
“Kháng nghị phúc thẩm theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh
Quảng Ngãi”.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Liên quan đến đề tài đã có nhiều văn bản, công trình nghiên cứu và có nhiều
bài viết trên một số tạp chí, báo về công tác kháng nghị theo các thủ tục, trong đó có
thủ tục phúc thẩm, như: bài viết “Hoàn thiện pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam
trong giai đoạn xây dựng Nhà nước pháp quyền”, của PGS.TS Lê Văn Cảm (Tạp
chí Kiểm sát số 15 tháng 8/2010 và 17 tháng 9/2010); Luận văn Thạc sỹ luật học Học viện Khoa học xã hội Việt Nam, năm 2015 “Chứng minh trong tố tụng hình sự
Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Quảng Ngãi”, Khóa luận tốt nghiệp Đại học Luật thành
phố Hồ Chí Minh (2005) “Thực tiễn kiểm sát hoạt động điều tra trong tố tụng hình
sự”, và các bài viết: “Kháng nghị phúc thẩm để bảo vệ quyền lợi cho công dân”
(Báo Bảo vệ pháp luật số Chuyên đề tháng 9/2007), “Qua một vụ đáo tụng đình”
(Báo Bảo vệ pháp luật số Chuyên đề tháng 7/2010), “Dấu ấn sâu sắc từ một vụ án”
(Báo Bảo vệ pháp luật số Chuyên đề tháng 10/2012), “Hành vi của Phan H có
2


phạm tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có ” hay chỉ là “vi phạm
hành chính” (Tạp chí Kiểm sát số 09 tháng 5/2010), “Kết quả thẩm vấn và tranh
tụng tại phiên tòa phúc thẩm hình sự” (Tạp chí Nghề Luật, số 01/2011) của tác giả
Dương Ngọc An; Bài viết “Một số ý kiến về vấn đề công bằng trong phán quyết của
Tòa án đối với vụ án hình sự” của Thạc sỹ Trần Trí Dũng (Tạp chí Kiểm sát số 18

tháng 9/2010); Chỉ thị số 03/2008/CT-VKSTC-VPT1 ngày 19/6/2008 của Viện
trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao về tăng cường công tác kháng nghị phúc
thẩm hình sự và Báo cáo số 26/VKS-BC ngày 10/10/2011 của VKSND tỉnh Quảng
Ngãi về việc tổng kết 3 năm thực hiện Chỉ thị này….Hiện nay chúng tôi chưa được
biết có tác giả nào nghiên cứu đề tài này ở tầm luận văn hoặc luận án trong địa bàn
cấp tỉnh hay toàn quốc.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của đề tài nhằm đánh giá, tổng kết hiệu quả kháng
nghị phúc thẩm thông qua kết quả xét xử phúc thẩm xét kháng nghị, mà sau đó
không phát sinh thủ tục giám đốc thẩm; đồng thời có sự kết hợp với nghiên cứu các
yếu tố có liên quan đến hoạt động kháng nghị phúc thẩm theo quan điểm Triết học
Mác – xít, để có căn cứ nêu ra những ưu điểm, vướng mắc, hạn chế và nguyên nhân.
Từ đó, căn cứ quy định pháp luật thực định về kháng nghị và xét xử phúc thẩm, gắn
với chủ trương của Đảng về chiến lược cải cách tư pháp, tác giả đề xuất một số giải
pháp thực tế để góp phần nâng cao hiệu quả kháng nghị và xét xử phúc thẩm, nâng
cao chất lượng điều tra, truy tố, xét xử sơ thẩm nhằm thực hiện tốt LTCTAND và
LTCVKSND năm 2014, các bộ luật, đạo luật hiện hành nhất là BLHS và BLTTHS
mới, góp phần bổ sung lý luận.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Nhiệm vụ đặt ra phải nghiên cứu làm rõ những vấn đề lý luận về khái niệm,
đặc điểm, nội dung của kháng nghị phúc thẩm; Nghiên cứu có tính hệ thống các quy
định của BLTTHS và pháp luật liên quan về hoạt động kháng nghị phúc thẩm để
thấy những điểm bất cập không phù hợp với thực tiễn nhằm đề xuất sửa đổi hoàn
thiện; Khảo sát số liệu và thực tiễn áp dụng các quy định của BLTTHS về kháng
3


nghị phúc thẩm tại tỉnh Quảng Ngãi, nghiên cứu kết quả xét xử phúc thẩm, xét xử
giám đốc thẩm đối ới những vụ án phúc thẩm xét kháng nghị để thấy những kết quả,

hạn chế và tìm nguyên nhân hạn chế nhằm đề ra giải pháp nâng cao chất lượng
kháng nghị phúc thẩm tại tỉnh Quảng Ngãi.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Xuất phát từ phạm vi nghiên cứu, đối tượng nghiên cứu là các quy định của
pháp luật về hoạt động kháng nghị phúc thẩm gắn với thực tiễn áp dụng tại tỉnh
Quảng Ngãi.
Hoạt động kháng nghị phúc thẩm là vấn đề rộng, đòi hỏi phải nghiên cứu
nhiều lĩnh vực và các yếu tố ảnh hưởng đến tình hình, chất lượng giải quyết các loại
án hình sự theo các thủ tục của các cơ quan tiến hành tố tụng, nhất là Tòa án trong
nhiều địa bàn, nghiên cứu các nhân tố xã hội tác động đến hoạt động kháng nghị,
xét xử phúc thẩm xét kháng nghị, kể cả xét kháng cáo và xét xử giám đốc thẩm,
nhất là các trường hợp Tòa án kháng nghị, gắn với nghiên cứu hoạt động xây dựng,
áp dụng pháp luật hình sự và các ngành luật khác có liên quan theo các nguyên lý,
các quy luật, các phạm trù trong đó có nguyên lý về mối liên hệ phổ biến giữa các
sự vật hiện tượng của chủ nghĩa Mác – Lê nin, kết hợp với vận dụng tư tưởng Hồ
Chí Minh và việc thực hiện quan điểm của Đảng ta về chiến lược cải cách tư pháp,
để từ đó có cơ sở tin cậy trong việc xem xét, phân tích, đánh giá hiệu quả công tác
kháng nghị phúc thẩm và đưa ra các giải pháp đồng bộ .
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Với phạm vi luận văn Thạc sỹ chuyên ngành Luật Hình sự và Tố tụng Hình
sự, luận văn chủ yếu tập trung nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn áp
dụng đối với hoạt động kháng nghị phúc thẩm thông qua hoạt động xét xử theo thủ
tục phúc thẩm trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi trong thời gian qua (2007 – 2017).
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận
Đề tài nghiên cứu dựa trên cơ sở lý luận của Chủ nghĩa Mác – Lê nin và
quan điểm của Đảng ta, tư tưởng Hồ Chí Minh về vận dụng lý luận Mác - xít vào
4



quá trình thực tiễn cách mạng Việt Nam trong các lĩnh vực của đời sống xã hội như
về bản chất nhà nước và pháp luật, nhà nước pháp quyền Xã hội chủ nghĩa, đấu
tranh giai cấp, quyền con người, hoạt động áp dụng pháp luật, chủ trương của Đảng
và pháp luật của Nhà nước ta về cải cách tư pháp, về đấu tranh phòng chống tội
phạm...
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng phương pháp lịch sử - cụ thể, so sánh, quy nạp, phân tích,
tổng hợp, thống kê để nghiên cứu hồ sơ án sơ thẩm, phúc thẩm, các văn bản tố tụng,
biên bản phiên tòa, biên bản nghị án, bản án sơ thẩm, quyết định kháng nghị phúc
thẩm, bản án phúc thẩm, tham dự nhiều phiên tòa sơ thẩm của 2 cấp, phiên tòa phúc
thẩm xét kháng nghị, các báo cáo tổng kết công tác năm, các báo cáo chuyên đề của
TAND tỉnh Quảng Ngãi về tổng kết kinh nghiệm xét xử, các báo cáo tổng kết năm,
các kết luận kiểm tra, báo cáo tổng kết hoạt động kháng nghị phúc thẩm của
VKSND tỉnh Quảng Ngãi, tham khảo ý kiến chuyên gia, người tiến hành tố
tụng…v…v…
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
6.1. Ý nghĩa lý luận
Kết quả nghiên cứu và giải pháp trong luận văn góp phần cung cấp cơ sở lý
luận và thực tiễn về quá trình chứng minh trong tố tụng hình sự, hoạt động xét xử sơ
thẩm, phúc thẩm, hoạt động kháng nghị và xét xử phúc thẩm nhằm góp phần nâng
cao chất lượng trong quá trình tố tụng hình sự tại tỉnh Quảng Ngãi để bảo đảm điều
tra, truy tố, xét xử đúng người, đúng tội, đúng pháp luật và kịp thời, đảm bảo các
bản án, quyết định có đủ căn cứ kháng nghị phải được kháng nghị; không bỏ lọt
người phạm tội, không làm oan người vô tội, không làm sai, góp phần bảo đảm
pháp chế thống nhất để phục vụ tích cực các mục tiêu phát triển của địa phương.
Luận văn còn có thể cung cấp thông tin cho người quan tâm để ứng dụng
trong thực tiễn quá trình giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố,
trong điều tra, truy tố, xét xử theo các thủ tục sơ thẩm, phúc thẩm, giám đốc thẩm,
tái thẩm và hoạt động kháng nghị theo các thủ tục, góp phần nâng cao hiệu quả


5


trong đấu tranh phòng chống tội phạm trên địa bàn tỉnh Quảng Ngãi nói riêng, trên
phạm vi toàn quốc nói chung.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo xây dựng pháp luật
hình sự, pháp luật tố tụng hình sự về hoạt động chứng minh của các cơ quan tiến
hành tố tụng, trong đó có hoạt động kháng nghị và xét xử phúc thẩm, góp phần tích
lũy tri thức, kinh nghiệm trong hoạt động tố tụng, phục vụ hoạt động quản lý hành
chính – tư pháp, ngăn chặn vi phạm trong hoạt động tư pháp, phục vụ công tác
nghiên cứu, học tập.
7. Cơ cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, Luận văn
gồm ba chương; mỗi chương đều được kết luận và có kết luận chung; kết cấu như
sau:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về kháng nghị phúc thẩm trong tố tụng hình
sự
Chương 2: Quy định của pháp luật tố tụng hình sự về kháng nghị phúc thẩm
và thực tiễn áp dụng tại tỉnh Quảng Ngãi
Chương 3: Nhu cầu và giải pháp nâng cao hiệu quả kháng nghị phúc thẩm tại
tỉnh Quảng Ngãi

6


CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ KHÁNG NGHỊ PHÚC THẨM
TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ

1.1. Khái niệm, nội dung, đặc điểm, ý nghĩa của kháng nghị phúc thẩm
1.1.1. Khái niệm kháng nghị phúc thẩm
Theo Từ điển Tiếng Việt của tác giả Phan Canh (Nhà xuất bản Mũi Cà Mau,
1997, tr. 675), thì “Kháng nghị” là “bày tỏ ý kiến phản kháng một việc gì”. Theo
nghị, thì “Kháng nghị” được hiểu là: “Bày tỏ ý
kiến chống lại điều đã quyết nghị” (Tác giả Hồ Ngọc Đức, Dự án Từ điển Tiếng
Việt). Chúng tôi đồng tình cao đối với quan điểm của tác giả Hồ Ngọc Đức khi vận
dụng vào đề tài nghiên cứu cũng như quy định về các thủ tục xét xử trong tố tụng
hình sự, trong đó có thủ tục phúc thẩm theo pháp luật nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt nam từ trước đến nay.
Tuy nhiên, qua nghiên cứu các quy định của pháp luật chuyên ngành, pháp
luật tố tụng của Nhà nước ta trong lịch sử lập pháp, chúng tôi có thể đưa ra quan
điểm sau đây về cụm từ này: “Kháng nghị” - là sự phản ứng, phản kháng của chủ
thể nhân danh cơ quan có thẩm quyền, được thể hiện bằng văn bản với đầy đủ các
yêu cầu về trình tự, thủ tục, căn cứ, phạm vi kháng nghị, hướng kháng nghị, thời
hạn kháng nghị theo quy định của pháp luật trong từng trường hợp cụ thể đối với
sản phẩm áp dụng pháp luật (bao hàm cả sự tuân thủ pháp luật, sử dụng pháp luật,
thi hành pháp luật - gọi chung là áp dụng pháp luật) hoặc đối với hành vi pháp lý
(thuộc dạng hành động hoặc không hành động) của cơ quan, tập thể, người có thẩm
quyền đã ban hành sản phẩm hoặc có hành vi pháp lý đó, khi chủ thể ra kháng nghị
nêu ra các căn cứ pháp lý cụ thể để cho rằng có vi phạm pháp luật, và yêu cầu chủ
thể có sản phẩm hoặc hành vi pháp lý khắc phục hoặc yêu cầu chủ thể có thẩm
quyền xét kháng nghị khắc phục hoặc có biện pháp pháp lý yêu cầu cơ quan, cá
nhân khắc phục hậu quả sai lầm, vi phạm đó theo quy định của pháp luật [36].
Chúng tôi cũng chưa thấy có tài liệu chính thống hoặc sự giải thích chính
thức của cơ quan có thẩm quyền về thuật ngữ pháp lý“Phúc thẩm” trong đạo luật
7


gốc cũng như luật chuyên ngành và các luật tố tụng nói chung, luật tố tụng hình sự

nói riêng. Qua tìm hiểu các nguồn thông tin thấy, có một số ý kiến về vấn đề này
như sau:“Phúc thẩm, là một thủ tục tố tụng được áp dụng đối với bản án, quyết định
giải quyết vụ án của tòa án chưa có hiệu lực pháp luật nhưng bị phát hiện có những
vi phạm pháp luật nghiêm trọng trong việc giải quyết vụ án, thủ tục này là hình thức
đảm bảo pháp chế xã hội chủ nghĩa trong tố tụng” [23]; “Phúc thẩm, là một thủ tục
tố tụng nhằm xét lại bản án, quyết định của Tòa án chưa có hiệu lực pháp luật
nhưng bị kháng nghị vì phát hiện có vi phạm pháp luật nghiêm trọng trong việc giải
quyết vụ án”; “Phúc thẩm, được hiểu là Tòa án đã áp dụng sai luật nội dung vào
giải quyết vụ án. Tòa án đã sử dụng những căn cứ dựa vào đó để kết luận vụ việc
không đúng với bản chất sự việc đó”; “Phúc thẩm, là một thủ tục xét xử”. Các quan
điểm trên chúng tôi thấy đều có lý.
LTCVKSND và các luật tố tụng hiện hành tiếp tục có quy định về VKS có
thẩm quyền kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm đối với các bản án, quyết định sơ
thẩm của Tòa án giải quyết các loại vụ án, vụ việc chưa có hiệu lực pháp luật [21].
Trên cơ sở nghiên cứu các quy định của pháp luật, chúng tôi cho rằng, Kháng nghị
phúc thẩm nói chung - là một trong những nhiệm vụ, quyền hạn của VKS theo quy
định của pháp luật hiện hành, được thể hiện bằng một văn bản pháp lý trong đó có
nêu rõ ràng và cụ thể quan điểm của VKS khi cho rằng toàn bộ hoặc những phần
của bản án hoặc quyết định sơ thẩm giải quyết vụ án của Tòa án cùng cấp hoặc Tòa
án cấp dưới trực tiếp chưa có hiệu lực pháp luật có vi phạm khi áp dụng pháp luật;
đồng thời nêu ra căn cứ pháp lý để yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm giải quyết kháng
nghị nhằm khắc phục vi phạm đó của Tòa án cấp sơ thẩm đối với bản án, quyết định
bị kháng nghị. Kháng nghị phúc thẩm phải đảm bảo các yêu cầu của pháp luật tố
tụng về cả hình thức và nội dung thì mới có giá trị pháp lý đầy đủ.
Kháng nghị phúc thẩm trong tố tụng hình sự là một dạng cụ thể của kháng
nghị phúc thẩm trong tố tụng nói chung, đó là việc người có thẩm quyền của cơ
quan có chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử án hình sự áp dụng
các quy định của pháp luật ra qyết định kháng nghị đối với một phần hoặc toàn bộ
bản án hoặc quyết định sơ thẩm giải quyết vụ án của Tòa án chưa có hiệu lực pháp
8



luật, để yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm xét lại toàn bộ hoặc một phần bản án, quyết
định sơ thẩm đó bị kháng nghị. Từ đó, chúng tôi đưa ra khái niệm sau đây: Kháng
nghị phúc thẩm trong tố tụng hình sự Việt Nam, là một văn bản tố tụng do người có
thẩm quyền của Viện kiểm sát ban hành can thiệp trực tiếp vào một phần hoặc toàn
bộ bản án hoặc quyết định sơ thẩm giải quyết vụ án hoặc các quyết định khác của
Tòa án chưa có hiệu lực pháp luật khi cho rằng có vi phạm, sai lầm nghiêm trọng
đã gây ra hoặc sẽ gây ra hậu quả pháp lý, làm cho những phần của bản án, quyết
định bị can thiệp đó không được đưa ra thi hành. Kháng nghị phúc thẩm làm phát
sinh một quan hệ pháp luật tố tụng hình sự có thể dẫn đến sự thay đổi hoặc chấm
dứt hiệu lực pháp luật của một phần hay toàn bộ bản án, quyết định bị kháng nghị
thông qua thủ tục xét xử phúc thẩm, ra bản án hoặc quyết định phúc thẩm và thực
hiện phán quyết của Tòa án cấp phúc thẩm theo quy định của pháp luật.
1.1.2. Nội dung kháng nghị phúc thẩm
Nội dung kháng nghị phúc thẩm đối với bản án, quyết định sơ thẩm giải
quyết vụ án hình sự (gọi chung là bản án, quyết định sơ thẩm) chưa có hiệu lực
pháp luật, có thể nói, đó là tất cả các vấn đề liên quan đến kháng nghị khi kháng
nghị đối với toàn bộ hoặc một phần hoặc một số phần của bản án, quyết định sơ
thẩm, để cấp phúc thẩm áp dụng các quy định của pháp luật trực tiếp khắc phục vi
phạm của Tòa án cấp sơ thẩm hoặc cấp phúc thẩm yêu cầu cấp có thẩm quyền khắc
phục vi phạm của bản án, quyết định sơ thẩm bị kháng nghị được chấp nhận.
Xét về phạm trù “nội dung và hình thức” thì nội dung kháng nghị còn được
thể hiện cả về chủ thể kháng nghị, thời hạn kháng nghị, căn cứ kháng nghị, việc bổ
sung, thay đổi, rút kháng nghị, hậu quả pháp lý của kháng nghị theo các quy định
của pháp luật chuyên ngành, luật tố tụng và các văn bản hướng dẫn thi hành của cơ
quan có thẩm quyền, cụ thể nhất là pháp luật tố tụng hình sự .
1.1.3. Đặc điểm kháng nghị phúc thẩm
Kháng nghị phúc thẩm hình sự là một trong những quyền năng pháp lý quan
trọng, thông qua đó VKS đồng thời thực hiện hai chức năng là quyền công tố và

kiểm sát hoạt động tư pháp trong giai đoạn xét xử vụ án hình sự. Vì là một sản
phẩm trong hoạt động áp dụng pháp luật của chủ thể có nhiệm vụ, quyền hạn ban
9


hành kháng nghị và chịu trách nhiệm trước pháp luật về kháng nghị đó, kháng nghị
sẽ làm phát sinh quan hệ pháp luật nếu không rút kháng nghị (do hết thời hạn kháng
nghị hoặc pháp luật thay đổi hoặc sự kiện pháp lý làm chấm dứt hiệu lực pháp luật
của đối tượng bị kháng nghị hoặc hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc
kháng nghị không có hoặc không đảm bảo căn cứ pháp lý…), nên hoạt động kháng
nghị phúc thẩm có các đặc điểm cơ bản đó là:
- Mang tính nghĩa vụ, tính ý chí, tính quyền lực Nhà nước. Kháng nghị phúc
thẩm là quyền năng pháp lý đặc biệt mà Nhà nước chỉ giao cho người có nhiệm vụ
quyền hạn trong ngành Kiểm sát. Kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm là công cụ đặc
biệt và là một trong những biểu hiện rõ nhất về quyền năng của Viện kiểm sát trong
việc thực hiện chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động xét xử
của Tòa án nhân dân. Bởi thế, khi phát hiện bản án, quyết định sơ thẩm chưa có
hiệu lực pháp luật mà có vi phạm nghiêm trọng gây thiệt hại đến quyền và lợi ích
hợp pháp của một hay nhiều chủ thể trong quan hệ tố tụng hình sự mà có đủ các căn
cứ kháng nghị, thì đòi hỏi người có thẩm quyền kháng nghị phúc thẩm phải có
nghĩa vụ ra kháng nghị để yêu cầu cấp phúc thẩm khắc phục, khôi phục lại trật tự
pháp luật. Vì thế, việc kháng nghị không chỉ là nhiệm vụ, quyền hạn mà cần phải
được nhận thức đúng rằng chính đây chính là nghĩa vụ pháp lý của chủ thể phải ra
kháng nghị theo yêu cầu đòi hỏi của Nhà nước. Do vậy, việc ra kháng nghị thể hiện
tính ý chí, tính quyền lực của nhà nước; không phụ thuộc vào mong muốn hay
không mong muốn của chủ thể có nhiệm vụ quyền hạn ra kháng nghị [42].
- Được tuân theo trình tự, thủ tục, thẩm quyền chặt chẽ theo pháp luật.
Kháng nghị phúc thẩm là sản phẩm của hoạt động áp dụng pháp luật của chủ thể có
nghĩa vụ, có tính định hướng, can thiệp trực tiếp vào hoạt động xét xử ra bản án,
quyết định sơ thẩm giải quyết vụ án hình sự của Tòa án nhân danh Nước Cộng hòa

xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thể hiện trình độ văn minh pháp lý, cho nên pháp luật
có quy định chặt chẽ về trình tự, thủ tục, thẩm quyền giải quyết kháng nghị; do đó,
việc ra kháng nghị phải tuân theo trình tự, thủ tục, thẩm quyền theo đúng các quy
định của pháp luật thì mới có giá trị pháp lý; vì chủ thể có thẩm quyền giải quyết

10


kháng nghị sẽ phải xem xét tính hợp pháp của kháng nghị cả về thẩm quyền về hình
thức và thẩm quyền về nội dung.
- Mang tính khách quan. Hoạt động ban hành kháng nghị phúc thẩm hình
sự phải mang tính khách quan khi xem xét đánh giá đối với đối tượng bị kháng nghị
và phạm vi, hướng kháng nghị theo yêu cầu của pháp luật; không bị phụ thuộc vào
chủ quan mong muốn hay không của người có thẩm quyền ra kháng nghị và của
những người tham mưu. Có như vậy mới đáp ứng được yêu cầu đòi hỏi của hoạt
động kháng nghị; tránh việc ra kháng nghị không có căn cứ, không hợp pháp hoặc
không cần thiết khi xét ở góc độ pháp lý vì bất cứ lý do gì.
- Chỉ ra vi phạm, sai lầm của bản án, quyết định bị kháng nghị. Người ra
kháng nghị phải có nghĩa vụ chỉ ra cụ thể, chính xác về các căn cứ pháp lý đối với
các vi phạm, sai lầm của đối tượng bị kháng nghị là phần nào hoặc toàn bộ bản án,
quyết định xử lý vụ án đó dẫn đến bị kháng nghị, và chỉ ra cụ thể căn cứ pháp lý để
cấp phúc thẩm khắc phục. Đây là vấn đề quan trọng nhất của kháng nghị.Tuy nhiên
trong thực tế, người ra kháng nghị khi cho rằng bản án, quyết định sơ thẩm có vi
phạm, có thể nói đây mới chỉ là giả thiết từ phía họ mà thôi. Theo quan điểm toán
học thì chỉ có sự thật, chỉ có bản chất mới sinh ra giả thiết, chứ không phải ngược
lại. Việc xét kháng nghị phúc thẩm do HĐXXPT giải quyết theo quy định của pháp
luật. Cho nên, không phải mọi kháng nghị đều đúng nên đều được chấp nhận. Việc
chấp nhận kháng nghị hay không chấp nhận kháng nghị, chấp nhận một phần hay
toàn bộ kháng nghị đều phải tuân theo quy định có hiệu lực của pháp luật và đều
phải được giải quyết hậu quả pháp lý.

- Mang tính linh hoạt và sáng tạo của chủ thể. Tính linh hoạt và sáng tạo là
một thuộc tính của hoạt động áp dụng pháp luật nói riêng. Đây là nhân tố chủ quan
của người ra kháng nghị, có nền tảng từ tinh thần trách nhiệm đối với nghề nghiệp,
với công việc được giao, từ trình độ văn hóa, trình độ pháp luật, từ việc đề cao ý
thức pháp luật, niềm tin nội tâm, các kiến thức về khoa học, về xã hội, gắn với
nghiên cứu kỹ hồ sơ tài liệu, bản án, quyết định sơ thẩm và khả năng tư duy khái
quát hóa, trừu tượng hóa khoa học để ra kháng nghị được đúng đắn vì hoạt động áp
dụng pháp luật không phải là khuôn mẫu cứng nhắc. Tính linh hoạt và sáng tạo
11


hoàn toàn trái ngược với sự thờ ơ thiếu trách nhiệm, chủ quan duy ý chí hay tùy tiện
hoặc vì động cơ cá nhân nào khác, mà đó là thể hiện cao độ của sự tinh thông nghề
nghiệp, sự kết hợp giữa lý luận với năng lực thực tiễn và thể hiện cao độ trách
nhiệm và bản lĩnh của người ra kháng nghị.
- Làm phát sinh quan hệ pháp luật tố tụng hình sự xét kháng nghị. Sau khi
ban hành kháng nghị, nếu người ra kháng nghị hoặc người có thẩm quyền cấp trên
không rút toàn bộ kháng nghị (vì kháng nghị thiếu căn cứ, không đúng thẩm quyền,
không đúng đối tượng bị kháng nghị hoặc hết thời hạn kháng nghị,…), thì tất yếu sẽ
phát sinh một quan hệ pháp luật tố tụng là cơ quan, tập thể, cá nhân được phân công
thụ lý vụ án theo thủ tục phúc thẩm để xét kháng nghị phải thực hiện tất cả và đầy
đủ các hoạt động, quyết định, hành vi tố tụng theo các quy định của pháp luật để
giải quyết kháng nghị, giải quyết bổ sung kháng nghị hay rút một phần kháng nghị
để chấp nhận kháng nghị (toàn bộ hoặc một phần kháng nghị) và áp dụng pháp luật
giải quyết hậu quả pháp lý; hoặc không chấp nhận toàn bộ kháng nghị (vì thiếu căn
cứ hoặc kháng nghị vi phạm thẩm quyền về hình thức hoặc thẩm quyền về nội dung
hoặc hết thời hạn kháng nghị); hoặc xét lại vụ án kể cả ngoài phạm vi kháng nghị
theo đuy định của pháp luật (theo quy định của Điều 241 BLTTHS 2003 hoặc Điều
345 BLTTHS 2015 về phạm vi xét xử phúc thẩm); xét việc tại phiên tòa phúc thẩm
Kiểm sát viên rút toàn bộ kháng nghị [16].

1.1.4. Ý nghĩa của kháng nghị phúc thẩm
Để làm sáng tỏ ý nghĩa, chúng tôi xin xét đến các thuộc tính sau đây:
- Về ý nghĩa chính trị.Việc quy định kháng nghị phúc thẩm trong luật chuyên
ngành và luật tố tụng hình sự nói riêng có ý nghĩa quan trọng trong việc xây dựng
Nhà nước Xã hội chủ nghĩa tập quyền dân chủ nhưng có sự phân công phân nhiệm
và đáp ứng yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền Xã hội chủ nghĩa, nhằm góp
phần quan trọng vào thực thi pháp luật xã hội chủ nghĩa, đảm bảo tính thông nhất
của pháp luật, tính pháp chế Xã hội chủ nghĩa, không ngừng đảm bảo quyền và lợi
ích hợp pháp của công dân.
- Ý nghĩa pháp lý. Việc quy định và thực hiện quyền kháng nghị phúc thẩm là
căn cứ, cơ sở pháp lý quan trọng làm phát sinh thủ tục phúc thẩm, đồng thời cũng
12


xác định tính chất và phạm vi xét xử của Tòa án cấp phúc thẩm và xác định hiệu lực
của bản án, quyết định sơ thẩm hình sự không bị kháng nghị, không bị kháng cáo.
Luật tố tụng hình sự quy định về kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm tương đối cụ
thể và phù hợp với mục đích của xét xử phúc thẩm là kiểm tra lại tính có căn cứ của
bản án, quyết định sơ thẩm, đồng thời xử lại vụ án về mặt nội dung. Qua đó, một
mặt bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của Nhà nước, xã hội và của công dân, mặt
khác thông qua việc sửa chữa những sai lầm, vi phạm của Tòa án cấp sơ thẩm, Tòa
án cấp phúc thẩm hướng dẫn, giải thích để áp dụng thống nhất pháp luật [16].
Kháng nghị phúc thẩm đối với các bản án, quyết định sơ thẩm giải quyết các vụ án
hình sự theo quy định pháp luật còn có một ý nghĩa pháp lý quan trọng khác là cơ
sở để ghi nhận cũng như đảm bảo thực hiện một số nguyên tắc cơ bản của luật tố
tụng, chẳng hạn như trong BLTTHS 2003 thì là cơ sở để hình thành nguyên
tắc “Thực hiện chế độ hai cấp xét xử” hoặc theo BLTTHS 2015 thì để thực hiện
“Chế độ xét xử sơ thẩm, phúc thẩm được bảo đảm” được quy định tại Điều 27, để
vụ án hình sự có thể được xét xử lại một lần nữa ở cấp phúc thẩm; nhằm giải quyết
đúng đắn, kịp thời vụ án, bảo đảm lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp

của cơ quan, tổ chức và công dân. Kết quả xét xử phúc thẩm nếu không chấp nhận
kháng nghị mà không có căn cứ pháp luật, thì VKSND ra kháng nghị hoặc VKSND
có thẩm quyền còn có nhiệm vụ quyền hạn báo cáo lên VKSND có thẩm quyền xem
xét kháng nghị giám đốc thẩm đối với bản án phúc thẩm. Với các ý nghĩa nêu trên,
đã chống lại ý kiến cho rằng kháng nghị phúc thẩm cũng chỉ như là kháng cáo mà
thôi; đây là một sai lầm trong nhận thức và áp dụng pháp luật. Vì thế, thủ tục phúc
thẩm cũng còn tự nó nói nên rằng, không phải bản án, quyết định phúc thẩm nào khi
xét lại bản án hoặc quyết định sơ thẩm bị kháng nghị cũng không phải là đối tượng
có thể bị kháng nghị giám đốc thẩm. Kháng nghị phúc thẩm chống lại tư tưởng chủ
quan ỷ lại khi cho rằng việc xét xử ra bản án, quyết định sơ thẩm xử lý vụ án có
hiệu lực pháp luật đã là trung tâm của vấn đề hoặc cho rằng xét xử phúc thẩm đối
với bản án, quyết định sơ thẩm thì cấp phúc thẩm chỉ xét kháng cáo để ra bản án,
quyết định phúc thẩm mà không cần chú ý xét đến các phần của bản án, quyết định
sơ thẩm không bị kháng nghị (dù có thể vi phạm nghiêm trọng) đã là chân lý tuyệt
13


đối, đã có hiệu lực pháp luật, trong khi BLTTHS 2003 và BLTTHS 2015 có quy
định về tính chất của xét xử phúc thẩm và phạm vi xét xử phúc thẩm [16].
- Ý nghĩa xã hội. Kháng nghị phúc thẩm hình sự góp phần đảm bảo công
bằng xã hội, củng cố lòng tin của nhân dân vào hoạt động xét xử của Tòa án, nhằm
đảm bảo uy tín của cơ quan tiến hành tố tụng nói chung và cơ quan xét xử, thực
hiện quyền tư pháp là Tòa án nói riêng. Việc đảm bảo pháp luật được thực thi, giải
thích và áp dụng thống nhất là điều kiện quan trọng để hành vi của công dân được
điều chỉnh bởi một hệ thống pháp luật thống nhất, đảm bảo nguyên tắc mọi công
dân đều bình đẳng trước pháp luật. Thực hiện một xã hội công bằng, dân chủ văn
minh; đảm bảo được các quyền cơ bản của công dân, nhất là trong lĩnh vực hình sự
nói riêng, hạn chế oan sai hay bỏ lọt tội phạm.
1.2. Cơ sở của việc quy định kháng nghị phúc thẩm
Hoạt động áp dụng pháp luật khi ra bản án, quyết định giải quyết vụ án của

Tòa án các cấp theo các thủ tục, có thể nói quá trình đó chính đó là con đường đi
đến các cấp độ của chân lý; vì các CQTHTT và NTHTT, nhất là Thẩm phán giải
quyết vụ án không phải là người trong cuộc, cũng không phải là những người biết
hoặc chứng kiến toàn bộ vụ án, mà chỉ là những người áp dụng pháp luật mà thôi;
trong khi hoạt động áp dụng pháp luật là hoạt động thể hiện quá trình nhận thức về
sự vật hiện tượng pháp lý và áp dụng pháp luật để ra sản phẩm, nhưng lại là cái chủ
quan đối với cái khách quan. Từ đó có thể cho rằng, không có bản án, quyết định
nào của Tòa án khi giải quyết vụ án kể cả theo thủ tục đặc biệt cũng đã là chân lý
tuyệt đối. Do đó, cần phải có các biện pháp pháp lý mà cụ thể là quyền kháng cáo
theo thủ tục phúc thẩm, quyền kháng nghị và xét xử theo các thủ tục phúc thẩm,
giám đốc thẩm hoặc tái thẩm, quyền kiến nghị kháng nghị theo các thủ tục và giải
quyết kiến nghị, để tạo cơ sở pháp lý nhằm tôn trọng chân lý, hạn chế giải quyết, xét
xử oan, sai các loại án. Thủ tục xét xử phúc thẩm là sản phẩm nền văn minh pháp lý
của nhân loại từ mấy trăm năm nay nhất là ở các nước Tây Âu [39].
Theo LTCTAND và LTCVKSND năm 2014, thì Tòa án là hệ thống cơ
quan có nhiệm vụ chủ yếu là thực hiện quyền tư pháp, xét xử các loại án và thi hành
án hình sự; còn VKSND là cơ quan thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt
14


động tư pháp, trong đó có hoạt động kiểm sát xét xử các loại vụ án của Tòa án. Để
bảo đảm cho hoạt động kiểm sát tư pháp, thì pháp luật quy định quyền kháng nghị
phúc thẩm của Viện kiểm sát. Hơn nữa, để đáp ứng yêu cầu xây dựng nhà nước
pháp quyền, yêu cầu nâng cao chất lượng giải quyết các loại án, thì đòi hỏi phải coi
trọng các thủ tục xét xử, vì thế Hiến pháp năm 2013, LTCTAND 2014 và các Luật
tố tụng mới đã thay thế quy định thủ tục 2 cấp xét xử (sơ thẩm, phúc thẩm) bằng
việc bảo đảm chế độ xét xử sơ thẩm và phúc thẩm.
Có thể nói, xuất phát từ quan điểm Mác – xít về sự tôn trọng chân lý, tuân
theo nguyên lý về quá trình nhận thức,…, tôn trọng chứng cứ và chứng minh trong
tố tụng, kết hợp với nguyên tắc tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước ta, bản

chất nhà nước xã hội chủ nghĩa và các thiết chế về kiểm soát xã hội trong đó có hệ
thống các cơ quan nhà nước kể cả hệ thống các cơ quan tư pháp của nhà nước, yêu
cầu của bảo đảm pháp chế xã hội chủ nghĩa, yêu cầu xây dựng nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa, nguyên tắc công bằng, đề cao công lý lẽ phải, bảo đảm chế
độ 2 cấp xét xử sơ thẩm, phúc thẩm để xét kháng cáo, kháng nghị và thủ tục tố tụng
đặc biệt, đề cao ý thức pháp luật, hạn chế lạm quyền, tiêu cực,… là những cơ sở
chủ yếu quy định về kháng nghị phúc thẩm.
Kết luận Chương 1
Qua nghiên cứu hệ thống pháp luật, các văn bản hướng dẫn thi hành cùng
những nguồn thông tin, tài liệu phục vụ việc xây dựng luận văn, kết hợp với nhận
thức, chúng tôi xin trình bày Chương 1 với các nội dung đã thể hiện; điều đó làm cơ
sở tiên quyết nhằm đi sâu nghiên cứu các quy định của pháp luật và hoạt động
kháng nghị phúc thẩm của Viện kiểm sát nhân dân thuộc phạm vi nghiên cứu trong
thời gian lấy số liệu, từ đó mới có thể giải quyết được các yêu cầu đặt ra của
Chương tiếp theo.

15


CHƯƠNG 2
QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VỀ
KHÁNG NGHỊ PHÚC THẨM VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNGTẠI TỈNH
QUẢNG NGÃI
2.1. Sơ lược lịch sử hình thành và phát triển các quy định về kháng
nghị phúc thẩm trong tố tụng hình sự Việt Nam
2.1.1.Quy định của Hiến pháp và các luật chuyên ngành
Hiến pháp 1946 quy định về Tòa án nhân dân, Tòa án quân sự và bộ phận
Công tố nằm trong Tòa án; chưa quy định thủ tục 2 cấp xét xử, chưa quy định VKS
và quyền kháng nghị phúc thẩm. Hiến pháp các năm: 1959, 1980, 1992 và năm
2013 đều có quy định về thủ tục 2 cấp xét xử (xét xử sơ thẩm, xét xử phúc thẩm xét

kháng cáo, kháng nghị). LTCVKSND các năm: 1960, 1981, 1992, 2002 và 2014 có
quy định quyền kháng nghị phúc thẩm của VKS đối với bản án, quyết định sơ thẩm
giải quyết vụ án chưa có hiệu lực pháp luật của Tòa án các cấp. LTCTAND các
năm: 1960, 1981, 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 1993 và 1995), 2002 và 2014 đều quy
định về thủ tục xét xử phúc thẩm để xét kháng cáo, kháng nghị.
Từ 1959 đến trước khi có Hiến pháp 1992 các bản Hiến pháp và các
LTCTAND, các LTCVKSND trong giai đoạn này, kể cả BLTTHS 1988 đều không
quy định quyền kháng nghị phúc thẩm và xét xử phúc thẩm đối với các bản án,
quyết định sơ thẩm giải quyết vụ án hình sự của Tòa hình sự TANDTC vì bản án
này là sơ chung thẩm. Hiến pháp năm 1992 và LTCTAND 1992 trở đi đã không
quy định TANDTC xét xử vụ án hình sự theo thủ tục sơ thẩm đồng thời chung thẩm
nữa; đây là một chủ trương đúng đắn để bảo đảm quyền kháng cáo, kháng nghị
phúc thẩm, các thủ tục tố tụng đặc biệt.
2.1.2. Quy định của pháp luật tố tụng hình sự
BLTTHS 1988 tại Điều 204 quy định về tính chất của phúc thẩm là việc
Toà án cấp trên trực tiếp xét lại những bản án hoặc quyết định sơ thẩm chưa có hiệu
lực pháp luật bị kháng cáo hoặc kháng nghị; Điều 206 quy định về quyền kháng

16


nghị của VKS đối với những bản án hoặc quyết định sơ thẩm của Tòa án; Điều 208
quy định về thời hạn kháng cáo, kháng nghị; Điều 211 về hậu quả của việc kháng
cáo, kháng nghị; Điều 212 về bổ sung, thay đổi, rút kháng cáo, kháng nghị; Điều
214 về phạm vi xét xử phúc thẩm; Điều 216 về thành phần Hội đồng xét xử phúc
thẩm; Điều 220 về bản án phúc thẩm; Điều 225 quy định phúc thẩm những quyết
định của Tòa án sơ thẩm…Lần đầu tiên Nhà nước ta đã luật hóa trong tố tụng hình
sự về thủ tục xét xử phúc thẩm trong đó có xét kháng nghị. Tuy nhiên, một trong
những hạn chế đáng kể của Bộ luật này là không có quy định về chủ thể có quyền
kháng nghị phúc thẩm, mà chỉ có LTCVKSND 1981 quy định Viện trưởng, Phó

Viện trưởng VKS cùng cấp và VKS cấp trên trực tiếp mới có quyền kháng nghị
theo thủ tục này, nhưng thời hạn kháng nghị cũng chỉ trong mười lăm ngày, kể từ
ngày Tòa án ra bản án, quyết định sơ thẩm, trong khi Luật này là luật chuyên ngành.
2.2. Quy định của Bộ luật tố tụng hình 2015 về kháng nghị phúc thẩm
2.2.1. Chủ thể, phạm vi, thời hạn, hậu quả kháng nghị
- Chủ thể kháng nghị. Theo Điều 27 thì một trong những nguyên tắc cơ bản
của Bộ luật này là ghi nhận chế độ xét xử sơ thẩm, phúc thẩm được bảo đảm (thay
cho thủ tục 2 cấp xét xử của BLTTHS 2003), đó chính là tiếp tục hoàn thiện về kỹ
thuật lập pháp và ghi nhận quyền kháng nghị phúc thẩm của VKS. Kháng nghị là sự
kiện pháp lý làm phát sinh thủ tục xét xử phúc thẩm, nếu không xảy ra việc VKS
hoặc Kiểm sát viên rút kháng nghị tại phiên tòa, phiên họp phúc thẩm.
Cần nhận thức rằng, nếu bản án, quyết định sơ thẩm nào bị kháng nghị trong
thời hạn theo quy định của pháp luật, thì không phải toàn bộ bản án, quyết định sơ
thẩm đó đều chưa có hiệu lực pháp luật, mà chỉ có những phần của bản án, quyết
định sơ thẩm đó hoặc toàn bộ bản án, quyết định đó bị kháng nghị mới chưa có hiệu
lực pháp luật; nếu kháng nghị đều quá thời hạn theo Bộ luật này quy định, thì toàn
bộ bản án, quyết định hoặc một phần bản án, quyết định đó có hiệu lực pháp luật,
hay nói một cách khác là kháng nghị khong có giá trị pháp lý về hình thức nên
không phát sinh thù tục phúc thẩm.
Tuy nhiên, không phải ai cũng có quyền ban hành kháng nghị phúc thẩm, mà
chỉ có cơ quan và người tiến hành tố tụng có thẩm quyền theo pháp luật quy định.
17


Điều 34 Bộ luật này quy định về CQTHTT và NTHTT, trong đó có quy định
VKSND là cơ quan tiến hành tố tụng và Viện trưởng, Phó Viện trưởng VKS là
những người tiến hành tố tụng.
Trên cơ sở Hiến pháp 2013, LTCVKSND 2014 tiếp tục quy định hệ thống
VKS được tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc tập trung thống nhất, đó là Viện
trưởng VKSND cấp dưới chịu sự lãnh đạo của Viện trưởng VKSND cấp trên trực

tiếp và chịu sự lãnh đạo của Viện trưởng VKSNDTC. BLTTHS 2003 quy định
thẩm quyền xét xử của Tòa án các cấp, thẩm quyền theo lãnh thổ (các Điều 170,
171) và BLTTHS 2015 cũng tiếp tục quy định về thẩm quyền xét xử của Tòa án,
thẩm quyền theo lãnh thổ (các Điều 268, 269), làm cơ sở cho các cơ quan tiến hành
tố tụng và người tiến hành tố tụng các cấp thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình
khi tiến hành các hoạt động tố tụng.
Điểm o khoản 2 Điều 41 của BLTTHS 2015 quy định khi thực hành quyền
công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động tố tụng hình sự, Viện
trưởng VKS có nhiệm vụ, quyền hạn kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm bản án,
quyết định của Tòa án theo quy định của Bộ luật này. Khoản 3 Điều này quy định
Viện trưởng VKS có quyền phân công cho Phó Viện trưởng thực hiện nhiệm vụ,
quyền hạn thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật và kháng
nghị theo thủ tục phúc thẩm đối với bản án, quyết định của Tòa án. Khoản 4 Điều
này quy định Viện trưởng, Phó Viện trưởng VKS phải chịu trách nhiệm trước pháp
luật về hành vi, quyết định của mình. Với quy định trên, thì việc ban hành hoặc
không ban hành kháng nghị phúc thẩm chỉ thuộc về nhiệm vụ, quyền hạn của Viện
trưởng hoặc Phó Viện trưởng VKS có thẩm quyền theo quy định của pháp luật và
quyền năng pháp lý ra kháng nghị xuất phát từ cơ sở để cho VKS thực hiện tốt chức
năng của mình là thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp.
Lần đầu tiên BLTTHS 2015 quy định tại điểm o khoản 1 Điều 4 về vi phạm
nghiêm trọng thủ tục tố tụng - là việc cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố
tụng trong quá trình khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử không thực hiện hoặc thực hiện
không đúng, không đầy đủ các trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định và đã xâm
hại nghiêm trọng đến quyền, lợi ích hợp pháp của người tham gia tố tụng hoặc làm
18


ảnh hưởng đến việc xác định sự thật khách quan, toàn diện của vụ án, thấy rằng cần
phải được cấp có thẩm quyền hướng dẫn những dạng phổ biến để áp dụng thống
nhất và ràng buộc trách nhiệm của VKS vì VKS có thể là chủ thể trực tiếp hoặc

gián tiếp của vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng, thì xem ra không phải mọi
trường hợp vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng đều có thể được VKS cùng cấp
hoặc VKS cấp trên trực tiếp thừa nhận, phát hiện và kháng nghị để khắc phục.
- Phạm vi kháng nghị. Theo khoản 1 Điều 330 thì phạm vi kháng nghị phúc
thẩm có thể là một phần hoặc toàn bộ bản án hoặc quyết định sơ thẩm chưa có hiệu
lực pháp luật do bị kháng nghị (ở đây ta chỉ đề cập đến bản án, quyết định sơ thẩm
bị kháng nghị, không đề cập đến kháng cáo) và phạm vi kháng nghị đó thông
thường phải được BLTTHS quy định thuộc thẩm quyền giải quyết của cấp phúc
thẩm khi ra bản án hoặc quyết định phúc thẩm đối với bản án hoặc quyết định sơ
thẩm bị kháng nghị. Những gì mà bản án hoặc quyết định sơ thẩm không giải quyết,
thì không thể phát sinh thủ tục phúc thẩm, hay nói một cách khác không thể bị
kháng nghị. Bên cạnh đó, xét theo hình thức pháp luật thành văn thể hiện bằng quy
phạm pháp luật, nếu phạm vi kháng nghị phúc thẩm không được pháp luật quy định
thuộc thẩm quyền giải quyết của Hội đồng xét xử phúc thẩm, thì cấp phúc thẩm
không thể chấp nhận kháng nghị vì không có cơ sở pháp lý.
Về khoản 2 Điều này, không phải mọi quyết định sơ thẩm đều bị kháng nghị
phúc thẩm mà chỉ có thể kháng nghị phúc thẩm đối với quyết định tạm đình chỉ,
quyết định đình chỉ vụ án, quyết định tạm đình chỉ vụ án đối với bị can, bị cáo,
quyết định đình chỉ vụ án đối với bị can, bị cáo và quyết định khác của Tòa án cấp
sơ thẩm theo quy định của Bộ luật này. Theo quy định của BLTTHS, quyết định
tạm đình chỉ vụ án hoặc quyết định đình chỉ vụ án sẽ do Thẩm phán ban hành trong
giai đoạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm, hoặc do Hội đồng xét xử sơ thẩm ban hành tại
phiên tòa sơ thẩm; quyết định tạm đình chỉ vụ án đối với bị can sẽ do Thẩm phán
ban hành trong giai đoạn chuẩn bị xét xử (do bị can phạm tội đơn lẻ mà bỏ trốn cần
phải truy nã hoặc cần phải trưng cầu giám định tâm thần đối với bị can,….; do bị
can phạm tội có đồng phạm nhưng bị can đó bỏ trốn mà không thể xét xử vắng mặt
hoặc cần phải giám định tâm thần đối với bị can,…); quyết định tạm đình chỉ vụ án
19



×