Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

SKKN nang cao hieu qua cua thi nghiem bieu dien trong day hoc hoa 8

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (706.64 KB, 20 trang )

Sáng kiến kinh nghiệm Hoá Học 8

Trường PT Hermann Việt Trì

I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Năm học 2011-2012 là năm học có nhiều sự kiện quan trọng. Toàn Đảng, toàn dân
quyết tâm thực hiện nghị quyết đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI, triển khai thực
hiện chương trình hành động đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục đào tạo nhằm
nâng cao chất lượng nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu của công cuộc công nghiệp
hóa , hiện đại hóa, hội nhập kinh tế quốc tế của đất nước. Quán triệt nguyên lý giáo
dục “Học đi đôi với hành, giáo dục kết hợp với lao động sản xuất, lý luận gắn liền
với thực tiến, giáo dục nhà trường kết hợp với giáo dục gia đình và xã hội”. Nâng
cao chất lượng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý, giáo dục theo tinh thần chỉ thị
40/CT – TW. Tiếp tục đẩy mạnh việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức và
phong cách Hồ Chí Minh. Đẩy mạnh cuộc vận động “Mỗi thầy giáo cô giáo là một
tấm gương đạo đức, tự học và sáng tạo” , và phong trào thi đua “Xây dựng trường
học thân thiện học sinh tích cực”. Thực hiện chủ đề năm học “Tiếp tục thực hiện
đổi mới quản lý và nâng cao chất lượng giáo dục”.
Nhằm bồi dưỡng và nâng cao cho học sinh năng lực sáng tạo, năng lực giải quyết
vấn đề lý luận dạy học hiện đại đã khẳng định : Cần phải đưa học sinh vào vị trí
chủ thể hoạt động nhận thức học trong hoạt động, học sinh bằng hoạt động tự lực
tích cực của mình mà chiếm lính kiến thức. Đồng thời bằng con đường trí dục, đó
là làm phát triển năng lực nhận thức một cách toàn diện từ cảm giác, tri giác đến
biểu tượng và tư duy. Thông qua thí nghiệm hoá học, giáo viên có điều kiện làm
phát triển nhận thức một cách toàn diện hơn hẳn các môn khoa học khác. Vì rằng
bản chất hoá học được ẩn dấu sau các hình thức biểu diễn bên ngoài. Từ hiện tượng
bên ngoài học sinh phải phân tích, tổng hợp để có biểu tượng và hình thành khái
niệm. Khi đó, tư duy có dịp được hoạt động.
Đối tượng của hoá học ứng với những khái niệm cơ bản về hoá học cần lĩnh hội
đều có kích thước vi mô (nhỏ và mắt thường không thấy được đó là nguyên tử,
phân tử, tính chất của chất . . .). Khi hình thành khái niệm hoá học cho học sinh


Người thực hiện : Cao Thị Cẩm Phương

1


Sáng kiến kinh nghiệm Hoá Học 8

Trường PT Hermann Việt Trì

chúng ta luôn phải sử dụng những mô hình cụ thể có kích thước vĩ mô (to và mắt
thường có thể nhìn được). Như vậy, từ dấu hiệu bên ngoài quan sát được như :
trạng thái, màu sắc, mùi vị mà suy ra những biến đổi bên trong sâu xa ở tầm cỡ vi
mô của bản chất hoá học. Để đảm bảo hình thành vững chắc mạng lưới khái niệm
nền tảng về hoá học làm cho việc nghiên cứu hoá học mang tính lập luận, chúng ta
cần đảm bảo ở mức độ cao tính thực nghiệm. Qui luật lĩnh hội kiến thức hoá học là
qui luật thuận nghịch sau đây : Dấu hiệu bên ngoài  Tính chất  Bản chất bên
trong.
Như vậy, thí nghiệm hoá học phải được coi trọng trong quá trình dạy học hoá
học ở các trường trung học cơ sở và là cơ sở cho phương pháp nghiên cứu có lập
luận của môn hoá học. Có rất nhiều loại thí nghiệm như : thí nghiệm biểu diễn, thí
nghiệm nghiên cứu bài mới, thí nghiệm thực hành, thí nghiệm luyện tập, thí nghiệm
ngoại khoá. Trong đó, thí nghiệm biểu diễn là phương tiện trực quan tối thiểu, quan
trọng nhất trong giảng dạy hoá học.
Qua thực tế tìm hiểu tôi nhận thấy học sinh tích cực hơn khi giờ dạy có sử dụng
đồ dùng dạy học trong đó có thí nghiệm biểu diễn. Các em rất thích, rất hứng thú,
tiếp thu kiến thức nhanh hơn so với một bài dạy không sử dụng thí nghiệm. Thông
qua thí nghiệm học sinh tự tìm tòi, phân tích, tổng hợp suy ra được kiến thức cần
lĩnh hội. Ở đây làm phát huy được tính tư duy sáng tạo của học sinh một cách tích
cực và rèn luyện được kĩ năng sống cho học sinh. Ngoài ra, các trường THCS trong
thành phố đều có phòng thí nghiệm hoá học, nhưng thực tế một bộ phận nhỏ giáo

viên ngán ngại khi chuẩn bị thí nghiệm để phục vụ cho một bài giảng trên lớp. Giáo
viên phải chuẩn bị trước và mất nhiều thời gian cho việc tìm kiếm dụng cụ, hoá
chất thí nghiệm. Vậy thí nghiệm biểu diễn có tác dụng như thế nào trong dạy học
hoá học 8? Những yêu cầu sư phạm về kĩ thuật biểu diễn thí nghiệm như thế nào?
Đó là những nhận xét và băn khoăn không chỉ của riêng tôi mà chắc cũng có nhiều
đồng nghiệp suy nghĩ như tôi. Vì thế, nên tôi chọn đề tài : “Nâng cao hiệu quả của
thí nghiệm biểu diễn trong dạy học hoá học 8 ”
Người thực hiện : Cao Thị Cẩm Phương

2


Sáng kiến kinh nghiệm Hoá Học 8

Trường PT Hermann Việt Trì

II.GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ (NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM)
1. Cở sở lí luận :
Trong luật giáo dục đã khẳng định giáo dục phổ thông là phải phát huy tính tích
cực, tự giác, chủ động sáng tạo của học sinh phù hợp với từng lớp học, môn học tác
động đến tình cảm đem lại niềm vui, hứng thú trong khi học tập bộ môn.
Phương pháp dạy học tích cực là phương pháp giáo dục – dạy học theo hướng
tích cực, chủ động sáng tạo của người học thông qua đồ dùng dạy học. Người ta
nói, thí nghiệm biểu diễn là phương tiện trực quan tối thiểu trong giảng dạy hoá học
bởi vì nó có những vai trò lớn sau :
Bồi dưỡng hứng thú học tập : Trong một bài học, có những nội dung có thể
làm thí nghiệm được thì chúng ta cần cố gắng sưu tầm hay tự làm dụng cụ để tiến
hành thí nghiệm, học sinh sẽ rất thích thú khi học tập có thí nghiệm kèm theo. Học
sinh không chỉ được nghe mà còn được thấy một cách cụ thể. Tính trực giác của thí
nghiệm đã bồi dưỡng hứng thú học tập cho học sinh.

Nâng cao lòng tin vào khoa học : Song song với niềm hứng thú trong học tập
khi có thí nghiệm biểu diễn của giáo viên, học sinh tin tưởng vào những điều thầy
nói vì có thí nghiệm chứng minh cho lời của thầy. Tin thầy có nghĩa là tin vào khoa
học. Không có gì tạo lập niềm tin cho người nghe bằng việc làm cụ thể phù hợp với
lời nói. Người ta thường nói trăm nghe không bằng một thấy. Thầy nói nhiều, nói
hay nhưng không có chứng minh bằng thực tế thì học sinh vẫn có những hoài nghi.
Phát triển tư duy của học sinh : Nếu giáo viên làm thí nghiệm, thì sự biểu diễn
của thí nghiệm kèm theo các dấu hiệu bên ngoài như sự thay đổi trạng thái, màu
sắc, mùi vị, tính tan, sự thoát khí, sự toả nhiệt, sự phát sáng . . . đập vào các giác
quan của học sinh, làm học sinh nảy sinh trong đầu những câu hỏi “Vì sao?”, “Tại
sao?”. Và như vậy là tư duy của học sinh được hoạt động. Và để trả lời được câu
hỏi đặt ra buộc học sinh nhớ lại, có khi phải phân tích, tổng hợp mới tìm được lời
giải đáp. Như vậy là năng lực nhận thức của học sinh được phát triển.

Người thực hiện : Cao Thị Cẩm Phương

3


Sáng kiến kinh nghiệm Hoá Học 8

Trường PT Hermann Việt Trì

Học sinh dễ tiếp thu kiến thức, nhớ lâu nội dung học tập : Trong giảng dạy có
sử dụng thí nghiệm biểu diễn, lời nói của giáo viên được thí nghiệm minh hoạ, nên
học sinh dễ tiếp thu hơn. Mặt khác khi dùng thí nghiệm để giảng dạy thì sự tiếp thu
kiến thức ở học sinh cùng một lúc được huy động nhiều giác quan tham gia, không
chỉ có tai nghe mà mắt thấy, tay có thể được sờ mó nên thông tin được tiếp thu sẽ
trở nên vững chắc hơn, chẳng những dễ nhớ mà còn nhớ lâu hơn.
Hình thành những kỹ năng thí nghiệm đầu tiên cho học sinh một cách chính

xác : Động tác thí nghiệm của thầy khi biểu diễn thí nghiệm tác động trực tiếp đến
giác quan của học sinh, làm cho học sinh hiểu, ghi nhớ và nhờ vậy mà hình thành
trong trí nhớ các em kỹ năng thí nghiệm chính xác.
Tiết kiệm được thời gian, hoá chất và dụng cụ : Thao tác thí nghiệm của giáo
viên đã trở thành kỷ xảo nên tốn ít thời gian. Hoá chất giáo viên sử dụng đúng theo
hướng dẫn kỹ thuật và với một bộ dụng cụ hoá chất, đem sử dụng, giúp học sinh cả
lớp hiểu được vấn đề nghiên cứu. Như vậy thí nghiệm biểu diễn của giáo viên còn
tiết kiệm được cả hoá chất và dụng cụ.
2.Thực trạng của vấn đề
Học sinh mới bắt đầu làm quen với thí nghiệm hoá học nên còn bỡ ngỡ, lúng
túng, các thao tác chưa chính xác, chưa biết quan sát hoặc sợ làm thí nghiệm, mất
nhiều thời gian hướng dẫn. Một số học sinh còn lơ là gây mất trật tự trong giờ học.
Mất nhiều thời gian tìm kiếm dụng cụ cho giờ dạy có thí nghiệm. . .
 Số liệu thống kê :
Điều tra ban đầu về kết quả học tập : tháng 9/2009
TS
HS
36

Giỏi
Khá
SL
TL % SL
TL %
0

0

5


13,9

Người thực hiện : Cao Thị Cẩm Phương

Trung bình
SL
TL %
14

4

38,9

Yếu
SL
TL %
15

41,7

Kém
SL
TL
2

%
5,5


Sáng kiến kinh nghiệm Hoá Học 8


Trường PT Hermann Việt Trì

Kết quả khảo sát ban đầu về việc ham thích học môn Hoá Học khi giờ dạy có sử
dụng thí nghiệm :

TS
Câu hỏi
Trả lời
36HS Em thấy thế nào khi Thích
Không thích
làm thí nghiệm hoá
Sợ
học ?

SL
10
14
12

TL %
27,8
38,9
33,3

Qua số liệu điều tra ban đầu về khả năng học tập bộ môn cho thấy học sinh còn
quá bở ngỡ với môn Hoá và thực tế học sinh rất sợ khi tiến hành thí nghiệm sẽ
nguy hiểm, dơ tay hay có ảnh hưởng đến sức khoẻ. Vì thế tôi xin trình bày sáng
kiến của tôi giới hạn trong thí nghiệm biểu diễn của giáo viên. Trước hết là tạo
niềm tin vào thầy tức là học sinh tin vào khoa học. Sau những lần giáo viên biểu

diễn thí nghiệm các em quan sát thấy an toàn và gây hứng thú học tập. Từ đây hình
thành cho các em kỉ năng thí nghiệm và mạnh dạn thực hiện thí nghiệm. Vậy nó có
những yêu cầu sư phạm như thế nào để đạt kết quả mà người giáo viên mong
muốn. Chúng ta nghiên cứu tiếp nội dung của vấn đề.
Người thực hiện : Cao Thị Cẩm Phương

5


Sáng kiến kinh nghiệm Hoá Học 8

Trường PT Hermann Việt Trì

3.Các biện pháp mới đã thực hiện để giải quyết vấn đề
Vấn đề đặt ra :
Trong khi tiến hành thí nghiệm biểu diễn giáo viên cần có những yêu cầu sư
phạm về kĩ thuật thí nghiệm biểu diễn như thế nào ? Đó là :
Bước 1: Thí nghiệm phải an toàn : An toàn là yêu cầu đầu tiên cơ bản của thí
nghiệm hoá học. Đảm bảo an toàn trong thí nghiệm không chỉ cho học sinh mà cả
cho giáo viên. Giáo viên phải chịu hoàn toàn trách nhiệm trước nhân dân và pháp
luật về mọi sự không may xảy ra có ảnh hưởng đến sức khoẻ và tính mạng của học
sinh và của chính mình. Để đảm bảo an toàn giáo viên cần phải :
 Nắm vững kĩ thuật thí nghiệm (trật tự, động tác, liều lượng hoá
chất...).
 Làm đúng hướng dẫn, nói khác đi là tuân thủ nghiêm ngặt chỉ dẫn của
thí nghiệm (phải hiểu được vì sao lại phải thế này mà không làm thế kia . . .).
 Phải trau dồi kĩ năng thí nghiệm : Sau khi đã nắm vững kĩ thuật làm
đúng hướng dẫn thì phải làm nhiều lần cho quen, cho thành thạo.
 Luôn luôn cẩn thận, bình tĩnh, đề cao tinh thần trách nhiệm.
 Hiểu kĩ nguyên nhân của những trường hợp xảy ra nguy hiểm.

Ví dụ : Trong thí nghiệm điều chế khí H 2 từ kim loại và dung dịch axit, giáo viên
phải hiểu vì sao chỉ dùng dung dịch axit loãng (HCl và H 2SO4) mà không dùng axit
đậm đặc. Vì sao không được cho hoá chất vào quá nữa ống nghiệm. Vì sao khi thu
khí H2 phải thử độ tinh khiết của nó rồi mới thu? . . .
Hoặc trong thí nghiệm Lưu huỳnh tác dụng với khí oxi, thực tế giáo viên làm
như sau : Lấy Lưu huỳnh và đốt trực tiếp trong không khí sau đó đưa vào bình
đựng khí Oxi. Có giáo viên muốn thí nghiệm cho học sinh quan sát được hiện
tượng rỏ nên đã lấy lượng Lưu huỳnh quá nhiều cho nên khi đốt khí SO 2 sinh ra
gây ho và khó thở cho học sinh. Chưa tính trường hợp xấu nhất nếu giáo viên
không bình tĩnh giải quyết vấn đề có thể làm học sinh nguy hiểm. Vì thế, tuỳ thuộc
vào cơ sở vật chất của phòng thí nghiệm người giáo viên phải chịu khó tạo lựa
Người thực hiện : Cao Thị Cẩm Phương

6


Sáng kiến kinh nghiệm Hoá Học 8

Trường PT Hermann Việt Trì

dụng cụ thí nghiệm để có thể tiến hành thí nghiệm được an toàn, chẳng hạn với các
thí nghiệm có tạo ra chất độc như : SO2, P2O5, NO2 . . . chúng ta có thể tiến hành thí
nghiệm trong hệ thống kín, sau khi học sinh nhận biết được có tạo ra : SO 2, P2O5,
NO2 . . . thì chúng ta huỷ chúng ngay trong hệ thống kín bằng dung dịch kiềm
( Ca(OH)2, NaOH …). Thực tế cho hay việc tiến hành các thí nghiệm có tạo ra các
chất độc nói trên nên tiến hành vào ống nghiệm hai nhánh, trong đó có một nhánh
dùng đựng dung dịch kiềm, nếu không có ống nghiệm hai nhánh thì ống nghiệm
thẳng cũng vẫn tiến hành được an toàn bằng cách đậy nút có ống dẫn tới cốc hay
ống nghiệm khác chứa dung dịch kiềm.
Bước 2: Thí nghiệm phải thành công : Vì sao thí nghiệm biểu diễn phải thành

công ? Thí nghiệm biểu diễn có thành công thì uy tín của giáo viên mới được đảm
bảo. Trái lại, thí nghiệm không thành công sẽ làm cho học sinh thiếu tin tưởng vào
thầy và tất nhiên như vậy học sinh thiếu tin tưởng vào khoa học, uy tín của giáo
viên bị xúc phạm. Để đảm bảo được kết quả và tính khoa học của thí nghiệm giáo
viên phải :
 Chuẩn bị tỉ mỉ và chu đáo (thử trước nhiều lần).
 Không nên chủ quan, khi thí nghiệm đơn giản hoặc đã làm quen nên
không cần thử trước.
 Kiểm tra cẩn thận số lượng, chất lượng hoá chất, dụng cụ cho từng thí
nghiệm, cần chuẩn bị sẵn dụng cụ dự trữ để thay thế nếu những dụng cụ ấy
dễ bị hư. Những sự sơ suất như đèn cồn hết cồn, bấc cháy kém, quên bật lửa,
quên giấy quỳ . . . đều để lại những ấn tượng không tốt trong đầu học sinh.
 Trong trường hợp thí nghiệm không thành công thì phải bình tĩnh giải
thích đúng thực tế thí nghiệm cho học sinh, chỉ ra nguyên nhân của sự thất
bại. Uy tín của giáo viên sẽ được tăng lên đáng kể nếu giáo viên bổ khuyết
cho thí nghiệm và làm lại thí nghiệm cho đạt kết quả tốt. Trái lại uy tín của
giáo viên sẽ bị giảm sút một cách nhanh chóng nếu chúng ta lừa dối cưỡng
Người thực hiện : Cao Thị Cẩm Phương

7


Sáng kiến kinh nghiệm Hoá Học 8

Trường PT Hermann Việt Trì

ép học sinh công nhận thí nghiệm đạt kết quả trong khi thí nghiệm không
thành công.
Bước 3: Thí nghiệm phải rõ ràng, học sinh quan sát đầy đủ : Khi biểu diễn
thí nghiệm biểu diễn tất cả học sinh trong lớp phải quan sát được dấu hiệu bên

ngoài của thí nghiệm. Muốn vậy, chúng ta phải tiến hành thí nghiệm vào trong các
dụng cụ có kích thước đủ lớn, hoá chất lấy vừa phải, bố cục thiết bị và động tác
biểu diễn làm sao cho cả lớp quan sát được tốt nhất. Khi cần thiết có thể dùng
phông, dùng thiết bị đặc biệt để làm nổi bật kết quả của thí nghiệm.
Bước 4: Thí nghiệm phải đơn giản, mỹ thuật, vừa sức học sinh : Các thí
nghiệm được chọn làm thí nghiệm phải đơn giản về thiết bị, thời gian tiêu tốn
không nhiều (thường không quá 5 phút). Khi lắp ráp dụng cụ thí nghiệm phải làm
sao có được bộ dụng cụ vừa đẹp mắt, vừa đơn giản mà thuận lợi cho việc quan sát
của học sinh, đảm bảo được an toàn trong khi tiến hành thí nghiệm. Nội dung thí
nghiệm vừa sức với học sinh. Muốn vậy giáo viên phải thường xuyên có ý thức cải
tiến dụng cụ thí nghiệm. Nội dung thí nghiệm sao cho đơn giản, mỹ thuật mà tiện
lợi. Chọn thí nghiệm vừa sức học sinh và có dấu hiệu dễ nhận biết. Những thí
nghiệm phức tạp tốn nhiều thời gian có thể biểu diễn ở buổi thực hành thí nghiệm
hoặc giờ ngoại khoá.
Bước 5: Số lượng thí nghiệm vừa phải : Trong một tiết học số lượng thí
nghiệm bao nhiêu thì vừa ? Chúng ta biết rằng trong một tiết học chỉ có 45 phút,
nếu trừ thời gian ổn định lớp, kiểm tra bài cũ thì chỉ còn hơn 30 phút, do vậy trong
một tiết học thường không nên biểu diễn quá 3 thí nghiệm. Có nghĩa là trong một
tiết học có thể biểu diễn 1 đến 3 thí nghiệm, tất nhiên có những tiết có thể có tới 4
thí nghiệm.
Vậy vấn đề đặt ra là chúng ta chọn thí nghiệm nào làm thí nghiệm biểu diễn :
 Chỉ nên chọn thí nghiệm phục vụ trọng tâm bài.
 Thể hiện tính chất đặc trưng của đối tượng nghiên cứu.

Người thực hiện : Cao Thị Cẩm Phương

8


Sáng kiến kinh nghiệm Hoá Học 8


Trường PT Hermann Việt Trì

 Nếu có thể có nhiều thí nghiệm cùng loại thì chọn thí nghiệm nào đặc
trưng, đại diện cho thể loại đó.
Ví dụ : Oxi tác dụng với kim loại SGK Hoá Học 8 dùng kim loại Fe mà không
dùng kim loại khác như : Al, Mg . Tại sao ? Vì rằng kim loại Al, Mg chỉ có một hoá
trị nên khi biểu diễn thí nghiệm đó ta khó rút ra kết luận tổng quát cho tính chất của
oxi. Nếu chọn Fe thì dễ dành rút ra kết luận oxi là chất hoạt động hoá học mạnh. Vì
Fe có nhiều hoá trị.
 Tuyệt đối tránh biểu diễn thí nghiệm tuỳ tiện, tuỳ hứng gây lạ mắt lừa

phỉnh học sinh, tránh biểu diễn thí nghiệm cùng loại bởi vì như vậy sẽ làm
loãng sự chú ý của học sinh, lãng phí thời gian.
Bước 6: Phải biết kết hợp chặt chẽ thí nghiệm biểu diễn với trình bày bài
giảng : Đây là yêu cầu khó, trong thực tế giảng dạy hoá học không ít giáo viên
chưa đáp ứng được yêu cầu này như đã trình bày ở trước, thí nghiệm biểu diễn là
cơ sở để xây dựng bài học trong các bài về chất cụ thể, vì vậy người ta dùng nó làm
nguồn kiến thức chính, minh hoạ cho lời nói của giáo viên. Vì vậy, kết hợp thí
nghiệm với trình bày bài giảng một cách hợp lí mới nâng cao được chất lượng của
giờ học. Để kết hợp tốt thí nghiệm biểu diễn với trình bày bài giảng thì : Trước khi
biểu diễn giáo viên phải nói rõ mục đích của thí nghiệm, tác dụng của từng dụng
cụ, chuẩn bị cho học sinh quan sát những gì. Trong khi biểu diễn phải luyện tập cho
học sinh quen quan sát các hiện tượng và đó là cơ sở để học sinh giải thích được
hiện tượng và rút ra những kết luận khoa học của vấn đề nghiên cứu.
Trong biểu diễn thí nghiệm thì thí nghiệm là nguồn thông tin đối với học sinh,
còn lời nói của giáo viên giữ vai trò hướng dẫn sự quan sát và chỉ đạo sự suy nghĩ
của học sinh để đi tới kết luận đúng đắn hợp lí, qua đó học sinh lĩnh hội được kiến
thức. Lý luận dạy học đã tổng kết được bốn hình thức kết hợp lời nói của thầy với
biểu diễn thí nghiệm :

Hình thức 1 (Biện pháp quan sát) : Theo hình thức này, giáo viên vừa biểu diễn
thí nghiệm vừa hướng dẫn học sinh quan sát. Học sinh trên cơ sở quan sát trực tiếp
Người thực hiện : Cao Thị Cẩm Phương

9


Sáng kiến kinh nghiệm Hoá Học 8

Trường PT Hermann Việt Trì

nhận thức được tính chất của đối tượng nghiên cứu mà không cần suy lý. Ở hình
thức này nếu học sinh thấy được hiện tượng thí nghiệm là họ sẽ giải thích được
hiện tượng đó, không cần sự giúp đỡ gì thêm của giáo viên (học sinh tự quan sát và
tự lực rút ra kết luận).
Hình thức này áp dụng cho các sự kiện và quá trình đơn giản, chẳng hạn thí
nghiệm khí SO2 tan vào nước tạo ra dung dịch làm cho quỳ tím hoá đỏ.
Hình thức 2 (Biện pháp qui nạp) : Theo hình thức này, giáo viên vừa biểu diễn
thí nghiệm, vừa hướng dẫn học sinh quan sát. Học sinh trên cơ sở quan sát, kết hợp
với vốn hiểu biết của học sinh trước đó, giáo viên dẫn dắt họ làm sáng tỏ và trình
bày ra được những mối liên hệ ẩn tàng giữa các hiện tượng của thí nghiệm mà học
sinh không thể nhận thức được trong quá trình tri giác (học sinh nhìn thấy, nhận
thấy hiện tượng nhưng chưa giải thích được học sinh cần có sự giúp đỡ của thầy,
gợi ý cho học sinh nhớ lại kiến thức cũ có liên quan tới hiện tượng của thí nghiệm,
nhờ đó học sinh hiểu được, giải thích được hiện tượng quan sát).
Trong hình thức này lời nói của thầy không chỉ có hướng dẫn quan sát như hình
thức 1 mà có tới 2 chức năng : hướng dẫn sự quan sát trực tiếp của trò để giúp học
sinh nắm vững dấu hiệu chính và những giai đoạn chính của thí nghiệm. Gợi ý cho
học sinh tái hiện lại kiến thức cũ cần thiết để giải thích hiện tượng (những hiện
tượng). Dựa vào 2 chức năng trên mà hướng dẫn trò giải thích hiện tượng và tự đi

tới kết luận (học sinh tự mình giải thích hiện tượng có sự giúp đỡ của giáo viên).
Ví dụ : CuO + H2 có đun nóng.
Hiện tượng thí nghiệm : Bột Đồng (II)oxit màu đen dần dần chuyển sang màu đỏ
gạch, có hơi nước sinh ra ở thành ống nghiệm.
Để học sinh nhận biết được các hiện tượng thì giáo viên phải dùng lời nói định
hướng và hướng dẫn quan sát cho học sinh : Giáo viên cho học sinh nhắc lại cách
điều chế H2 ? Hãy quan sát bột Đồng (II) oxit khi chưa cho khí H 2 đi qua có màu
gì? Khi cho khí H2 đi qua mà chưa đun nóng có hiện tượng gì xảy ra không ? Khi

Người thực hiện : Cao Thị Cẩm Phương 10


Sáng kiến kinh nghiệm Hoá Học 8

Trường PT Hermann Việt Trì

cho khí H2 đi qua và có đun nóng thì màu sắc Đồng (II)oxit thay đổi như thế nào và
chất gì đã sinh ra ?
Khi hướng dẫn học sinh quan sát được như vậy, thì cũng bằng lời nói giáo viên
gợi ý cho học sinh tái hiện lại kiến thức cũ cần thiết để giải thích hiện tượng quan
sát được : Cho H2 đi qua CuO chưa đun nóng không có hiện tượng gì xảy ra, vậy
CuO có tác dụng với H2 không? Khi đun nóng CuO màu đen có sự thay đổi màu
sắc và thành ống nghiệm bị mờ đi chứng tỏ có phản ứng hoá học xảy ra không ?
Bột CuO màu đen đã biến đổi thành gì ? H 2 đã biến thành chất gì ? Vậy chất gì
được tạo thành ?. H2 đã làm gì nguyên tố oxi của CuO ?
Với sự gợi ý như trên học sinh nhớ lại được hệ thống kiến thức cũ và giải thích
được các hiện tượng của thí nghiệm :
CuO tác dụng với khí H2 có đun nóng tạo thành Cu màu đỏ gạch và hơi nước
sinh ra theo phương trình phản ứng sau :
CuO +


t

o

H2 

Cu

+

H2O.

Học sinh rút ra nhận xét qua thí nghiệm này. H 2 đã chiếm Oxi của CuO, tạo
thành kim loại Cu và nước. Vậy H2 là chất khử.
Hình thức 3 : (Biện pháp minh hoạ) : Giáo viên dùng lời nói thông báo kết quả
thí nghiệm, sau đó biểu diễn thí nghiệm để minh hoạ cho thông báo của mình.
Hình thức này được áp dụng cho những sự kiện và quá trình đơn giản như trong
hình thức 1. Nhưng khác với hình thức 1, trong hình thức này lời nói của thầy là
nguồn thông tin chính, còn thí nghiệm là nguồn thông tin minh hoạ, hỗ trợ. Hình
thức này là nghịch đảo của hình thức 1. Tính chất nhận biết của học sinh trong hình
thức này mang tính thụ động.
Hình thức 4 (Biện pháp diễn dịch) : Trước hết giáo viên mô tả diễn biến của thí
nghiệm. Học sinh nghe thấy thầy mô tả nhưng chưa hiểu được vì sao lại có những
diễn biến như vậy. Để học sinh hiểu được diễn biến của thí nghiệm mà thầy mô tả,
giáo viên phải gợi ý để học sinh tái hiện lại kiến thức cũ có liên quan tới hiện tượng
Người thực hiện : Cao Thị Cẩm Phương 11


Sáng kiến kinh nghiệm Hoá Học 8


Trường PT Hermann Việt Trì

thí nghiệm mà thầy mô tả. Cuối cùng giáo viên biểu diễn thí nghiệm để minh hoạ
cho sự mô tả của mình.
Như vậy các sự kiện và quá trình được áp dụng trong hình thức này cũng phức
tạp, khó hiểu như trong hình thức 2. Nhưng tính chất nhận thức của học sinh trong
hình này ở một mức độ cũng mang tính thụ động. Trật tự thí nghiệm và lời nói
trong hình thức này là nghịch đảo của hình thức thứ 2.
Từ 4 hình thức kết hợp thí nghiệm biểu diễn với trình bày bài giảng chúng ta rút
ra được một số nhận xét sau :
Hình thức 1 và 2 ở một mức độ nào đó, học sinh tự lực đi tới kiến thức trên cơ sở
trực quan thí nghiệm. Vì vậy 2 hình thức này được xếp vào dạng phương pháp
nghiên cứu.
Hình thức 3 và 4, học sinh nhận thức được tính chất của đối tượng nghện cứu
chủ yếu từ lời nói của giáo viên, còn thí nghiệm là nguồn thông tin minh hoạ, hổ
trợ, vì vậy 2 hình thức này được xếp vào dạng phương pháp minh hoạ.
Hình thức 1 và 3 có đối tượng nghiên cứu như nhau (áp dụng cho việc nghiên
cứu các sự kiện và quá trình đơn giản). Còn hình thức 2 và 4 có đối tượng nghiên
cứu như nhau (áp dụng cho việc nghiên cứu các sự kiện và quá trình phức tạp).
Qua các thí dụ trên cho thấy, nhờ có thí nghiệm,bằng kĩ năng quan sát, so sánh,
phân tích... học sinh hiểu được, chất bị biến đổi như thế nào, so sánh được tính
chất của các chất trước và sau phản ứng, từ thí nghiệm học sinh mạnh dạn kết luận
được tính chất của chất như tính chất của Oxi, Hiđrô.., cũng như phát biểu được
định luật bảo toàn khối lượng, giải thích được định luật, viết được phương trình hoá
học... Nếu không có thí nghiệm chắc hẳn học sinh khó hình dung ra các chất chỉ bị
biến đổi khi nào, khó phát biểu được định luật, cũng như viết phương trình hoá học
sẽ gặp nhiều khó khăn, lúng túng, không phân biệt đâu là sản phẩm, đâu là chất
tham gia...
Học sinh quan sát giáo viên làm thí nghiệm và tự tay làm thí nghiệm, mô tả hiện

tượng, giải thích, và viết các phương trình hoá học. Từ đó, học sinh rút ra nhận xét
Người thực hiện : Cao Thị Cẩm Phương 12


Sáng kiến kinh nghiệm Hoá Học 8

Trường PT Hermann Việt Trì

về tính chất hoá học, qui tắc, định luật …nên học sinh dễ tiếp thu và nhớ lâu trong
học tập và khi đến tiết thực hành, các em lại được tự tay tiến hành thí nghiệm từ đó
các em cảm thấy hứng thú với bộ môn yêu thích học tập bộ môn hoá hơn. Vì vậy
mà chất lượng học tập của học sinh được nâng cao hơn .
Học sinh tin vào những điều thầy nói vì có thí nghiệm chứng minh vào lời nói
của thầy, vì tin thầy nên học sinh cũng tin vào khoa học
Dựa vào hiện tượng thí nghiệm, sự thay đổi những dấu hiệu bên ngoài (màu sắc,
trạng thái, …) đập vào các giác quan của học sinh nên trong đầu học sinh sẽ nảy ra
những câu hỏi vì sao ? … Để trả lời những câu hỏi đó buộc các em phải phân tích,
tổng hợp, tìm tòi và giải đáp, nhờ vậy mà năng lực nhận thức của học sinh được
nâng cao.
* Lưu ý
Để phát huy tốt tác dụng của thí nghiệm biểu diễn trong dạy học hoá học kết hợp
với trình bày bài giảng thì giáo viên và học sinh cần phải :
Đối với giáo viên :
Giáo viên phải giải thích thứ tự tiến hành các động tác và trình bày cách thực
hiện. Chẳng hạn thí nghiệm điều oxi bao gồm các động sau : chuẩn bị hoá chất
(giáo viên nói rỏ cách chuẩn bị). Chuẩn bị dụng cụ (dụng cụ điều chế, dụng cụ thu).
Thu oxi. Trong từng động tác giáo viên phải giải thích cho học sinh hiểu vì sao phải
làm như vậy và có thể làm cách khác được không. Khi giải thích cần thiết có thể vẽ
hình để làm nổi bật một vài khía cạnh của động tác.
Giáo viên báo trước sai lầm có thể xảy ra khi thực hiện động tác, chẳng hạn thu

khí H2 vào ống nghiệm, học sinh thường vấp phải sai lầm cơ bản là đặt ống dẫn khí
không sát đáy ống nghiệm (bằng cách đẩy không khí), quay ống nghiệm lại rồi mới
đậy nút cao su . . ..
Giáo viên phải kiểm tra xem học sinh hiểu đúng những điều mình giải thích chưa
hoặc làm mẫu chưa : chẳng hạn vì sao lắp dụng cụ thí nghiệm điều chế chất từ chất
rắn hay hỗn hợp rắn phải đặt ống nghiệm hơi thấp hơn đáy . . ..
Người thực hiện : Cao Thị Cẩm Phương 13


Sáng kiến kinh nghiệm Hoá Học 8

Trường PT Hermann Việt Trì

Đối với học sinh :
Học sinh phải hiểu được vì sao họ phải làm như vậy và chỉ có làm như vậy thì thí
nghiệm mới thành công. Nói khác đi là học học sinh phải tuân thủ nghiêm ngặt yêu
cầu kĩ thuật của thí nghiệm.
Đoán trước các hiện tượng của phản ứng hoá học trên cơ sở lý thuyết đã học.
Quan sát hiện tượng xảy ra.
Giải thích hiện tượng đã quan sát được trên cơ sở lý thuyết đã nghiên cứu.
Phân tích, tổng hợp và rút ra kiến thức mới.
4.Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm, so sánh kết quả 2 năm học
Học sinh yêu thích môn hoá học hơn, học sinh dễ nắm bắt kiến thức, hiểu bài
sâu, nhớ kỹ nội dung kiến thức và vận dụng vào thực tế đời sống .
Kết quả các bài kiểm tra đã có tiến bộ.
Tỉ lệ học sinh yếu giảm, tỉ lệ học sinh khá, giỏi tăng .
Kết quả khảo sát sau khi áp dụng sáng kiến của 2 năm học:
TS
Năm 2010 - 2011
Năm 2011 - 2012


HS
56
36

Giỏi
SL TL %
8
7

14,2
19,4

Khá
SL TL %

Trung bình
SL TL %

15
10

24
13

Người thực hiện : Cao Thị Cẩm Phương 14

26,7
27,8


24,9
36,1

Yếu
SL TL %
8
6

14,2
16,7

Kém
SL TL %
1

2


Sáng kiến kinh nghiệm Hoá Học 8

Trường PT Hermann Việt Trì

III.KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
I. Kết luận:
Chuẩn bị tỉ mỉ và chu đáo và thử trước nhiều lần. Không nên chủ quan, khi thí
nghiệm đơn giản hoặc đã làm quen nên không cần thử trước.
Kiểm tra cẩn thận số lượng, chất lượng hoá chất, dụng cụ cho từng thí nghiệm,
cần chuẩn bị sẵn dụng cụ dự trữ để thay thế nếu những dụng cụ ấy dễ bị hư. Những
sự sơ suất như đèn cồn hết cồn, bấc cháy kém, quên bật lửa, quên giấy quỳ . . . đều
để lại những ấn tượng không tốt trong đầu học sinh.

Trong trường hợp thí nghiệm không thành công thì phải bình tĩnh giải thích đúng
thực tế thí nghiệm cho học sinh, chỉ ra nguyên nhân của sự thất bại. Uy tín của giáo
viên sẽ được tăng lên đáng kể nếu giáo viên bổ khuyết cho thí nghiệm và làm lại thí
nghiệm cho đạt kết quả tốt. Trái lại uy tín của giáo viên sẽ bị giảm sút một cách
nhanh chóng nếu chúng ta lừa dối cưỡng ép học sinh công nhận thí nghiệm đạt kết
quả trong khi thí nghiệm không thành công.
Kết hợp logic giữa thí nghiệm với tranh ảnh, phiếu học tập, phương pháp dạy
học tích cực khác, công nghệ thông tin ... để tổ chức tốt hơn hoạt động nhận thức
cho học sinh, tăng hiệu quả và chất lượng bộ môn.
Vận dụng phương pháp thí nghiệm để phát huy tính tích cực là gợi mở cho học
sinh suy nghĩ, sáng tạo và phát huy tối đa tư duy trong tiết học, nhưng không lạm
dụng quá nhiều thí nghiệm trong một giờ, mà phải lựa chọn thí nghiệm phù hợp với
đặc trưng của bài. Đáp ứng được ý đồ mà giáo viên mong muốn. Mỗi bài học chỉ
nên tiến hành tối đa 3 thí nghiệm.
2. Kiến nghị :
Nếu đề tài tôi được chấp nhận. Tôi tiếp tục tiến hành áp dụng cho lớp 8 của
những năm học sau và các lớp còn lại của trường .:
Nếu có điều kiện tôi nghiên cứu tiếp đề tài áp dụng cho học sinh khối lớp 9.

Người thực hiện : Cao Thị Cẩm Phương 15


Sáng kiến kinh nghiệm Hoá Học 8

Trường PT Hermann Việt Trì

IV. NHẬN XÉT ĐÁNH GIÁ VÀ XẾP LOẠI :
I.Hội đồng khoa học Trường :
1. Nhận xét :


2. Xếp loại :

II.Hội đồng khoa học Phòng giáo dục :
Người thực hiện : Cao Thị Cẩm Phương 16


Sáng kiến kinh nghiệm Hoá Học 8

1. Nhận xét :

2. Xếp loại :

Người thực hiện : Cao Thị Cẩm Phương 17

Trường PT Hermann Việt Trì


Sáng kiến kinh nghiệm Hoá Học 8

Trường PT Hermann Việt Trì

V. TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tácgiả

Tên tài liệu

NXB

Năm xuất
bản


Vụ THCS - Ban giáo dục

Tài liệu bồi dưỡng thường xuyên cho GV

Giáo dục

2004 - 2007

Giáo dục

2005

Giáo Dục.

2003

ĐH Huế

2008

THCS chu kì III
Nguyễn Cương - Đỗ Tất Sách giáo khoa Hóa 8
Sách giáo viên Hóa 8
Hiển - Lê Xuân Trọng
Trần Quốc Đắc

Thí nghiệm hoá học ở trường phổ thông.
Sách thí nghiệm hoá học ở trường THCS


Nguyễn Thị Kim Cúc

Giáo trình: Lý luận dạy học đại cương

MỤC LỤC
Trang
Người thực hiện : Cao Thị Cẩm Phương 18


Sáng kiến kinh nghiệm Hoá Học 8

Trường PT Hermann Việt Trì

I. Đặt vấn đề.............................................................................................1
II.Giải quyết vấn đề.................................................................................3
1 - Cơ sở lý luận........................................................................................3
2- Thực trạng của vấn đề ……………………………………………..…4
3- Các biện pháp mới đã thực hiện để giải quyết vấn đề ..........................5
Bước 1……………………………………………………………………5
Bước 2……………………………………………………………………7
Bước 3……………………………………………………………………7
Bước 4……………………………………………………………………8
Bước 5……………………………………………………………………8
Bước 6……………………………………………………………………9
4 Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm………………………………….14
III Kết luận- Và kiến nghị.......................................................................15
IV.Nhận xét, đánh giá và xếp loại...........................................................16
V.Tài liệu tham khảo................................................................................17

Người thực hiện : Cao Thị Cẩm Phương 19



Sáng kiến kinh nghiệm Hoá Học 8

Người thực hiện : Cao Thị Cẩm Phương 20

Trường PT Hermann Việt Trì



×