A. Mở đầu
Thí nghiệm hoá học giúp học sinh làm quen với tính chất, mối liên
hệ và quan hệ có quy luật giữa các đối tợng nghiên cứu, làm cơ sở để
nắm vững các quy luật, các khái niệm khoa học và biết khai thác chúng.
Thí nghiệm còn giúp học sinh sáng tỏ mối liên hệ phát sinh giữa
các sự vật, giải thích đợc bản chất của các quá trình xảy ra trong tự nhiên,
trong sản xuất và đời sống.
Nhờ thí nghiệm mà con ngời có thể thiết lập đợc những quá trình
mà trong thực tế tự nhiên hoàn toàn không có đợc và kết quả đà tạo ra
những chất mới. Nó còn giúp học sinh khả năng vận dụng những quá
trình nghiên cứu trong nhà trờng, trong phòng thí nghiệm vào phạm vi
rộng rÃi trong các lĩnh vực hoạt động của con ngời.
Đối với bộ môn Hoá học, thí nghiệm giữ vai trò đặc biệt quan trọng
trong nhận thức, phát triển, giáo dục nh một bộ phận không thể tách rời
của quá trình dạy- học. Ngời ta coi thí nghiệm là cơ sở của việc học hoá
học và để rèn kĩ năng thực hành. Thông qua thí nghiệm, học sinh nắm
kiến thức một các hứng thú, vững chắc và sâu sắc hơn.
Thí nghiệm hoá học còn có tác dụng ph¸t triĨn t duy, gi¸o dơc thÕ
giíi quan duy vËt biên chứng và củng cố niềm tin khoa học cho học sinh,
giúp hình thành những đức tính tốt: Thận trọng, ngăn nắp, trật tự, gọn
gàng Đặc biệt với việc thay đổi nội dung ch ơng trình, sách giáo
khoa và phơng pháp dạy học mới theo hớng tích cực hoá hoạt động của
học sinh nh hiện nay thì thí nghiệm càng đợc coi trọng, nhất là các thí
nghiệm đợc tiến hành thực hiện bằng phơng pháp nghiên cứu.(học sinh
nghiên cứu thí nghiệm do giáo viên biểu diễn hoặc nhóm học sinh tự
nghiên cứu thí nghiệm để rút ra đợc kiến thức cần lĩnh hội)
Vì vậy, để làm tốt điều này thì ngời giáo viên cần có kinh nghiệm và biết
sử dụng thÝ nghiƯm sao cho phï hỵp víi néi dung kiÕn thức và mục tiêu
của bài học nhằm phát huy đợc tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học
sinh. Bên cạnh đó, khi giáo viên tiến hành thực hiện các thí nghiệm biểu
diễn thì phải đảm bảo các thí nghiệm đó thành công ở mức cao nhất.
Trong dạy - học hoá học, thí nghiệm hoá học đợc phân loại nh sau:
Thí nghiệm biểu diễn của giáo viên và thí nghiệm của học sinh.
Thí nghiệm biểu diễn làm cơ sở để cụ thể hoá những khái niệm về
chất và các phản øng ho¸ häc. NÕu trong thÝ nghiƯm biĨu diƠn gi¸o viên
là ngời thực hiện các thao tác, điều khiển các quá trình biến đổi của chất,
học sinh chỉ theo dõi, quan sát những quá trình đó, thì thí nghiệm của học
sinh, các em theo dõi, quan sát những thay đổi và các quá trình đó do
chính bản thân mình thực hiện lấy. Đó là sự khác nhau chủ yếu giữa hai
loại thí nghiệm.
Trong phạm vi của sáng kiến kinh nghiệm, tôi chỉ xin đợc đề cập
đến thí nghiệm biểu diễn của giáo viên nhằm tích cực hoá hoạt động học
tập của học sinh.
Xuất phát từ mục tiêu và vai trò quan trọng của thí nghiệm nh đà nêu
trên, đồng thời mong muốn ngày càng nâng cao chất lợng, sự thành công
trong thí nghiệm cùng với kinh nghiệm qua những năm giảng dạy môn
Hoá học, tôi lựa chọn, nghiên cứu và viÕt s¸ng kiÕn kinh nghiƯm:
“SSư dơng thÝ nghiƯm biĨu diƠn trong dạy học hoá học tích cực và kinh
nghiệm để thành công khi thực hiện một số thí nghiệm biểu diƠn vỊ
clo, oxi, lu hnh.” (Ho¸ häc 10 - Ban cơ bản) (Hoá học 10 - Ban cơ bản)
b. nội dung
I. Thí nghiệm biểu diễn trong dạy học hoá học tích cực.
1. Những yêu cầu chung khi tiến hành thực hiện các thí nghiệm
biểu diễn.
Trớc khi tiến hành thực hiện các thí nghiệm biểu diễn giáo viên cần
nắm đợc những vấn đề quan trọng sau đây:
a. Bảo đảm an toàn thí nghiệm:
An toàn thí nghiệm là yêu cầu trớc hết đối với mọi thí nghiệm. Để
đảm bảo an toàn giáo viên phải xác định ý thức trách nhiệm cao về sức
khoẻ tính mạng của học sinh. Mặt khác giáo viên cần nắm chắc kĩ thuật
và phơng pháp tiến hành thí nghiệm.
VD: Trớc khi đốt hiđro, metan, axetilen.. đều phải thử ®é tinh khiÕt
cđa chóng.
1
Khi làm việc với các chất độc hại nh : Clo, brom, lu huỳnh
đioxit. phải có biện pháp bảo hiểm.
Không dùng quá liều lợng hoá chất dễ cháy, dễ nổ đà ghi trong tài
liệu hớng dẫn.
Các thí nghiệm tạo thành chất độc bay hơi cần tiến hành trong tủ
hốt hoặc ở cuối chiều gió.
b. Đảm bảo kết quả thí nghiệm.
Thực hiện thí nghiệm thành công có tác động trực tiếp đến chất lợng dạy học và củng cố niềm tin của học sinh vào khoa học .Muốn đảm
bảo kết quả thí nghiệm trớc hết giáo viên phải nắm vững kĩ thuật tiến
hành thí nghiệm, phải thử nhiều lần trớc khi biểu diễn trên lớp. Các dụng
cụ và hoá chất phải đợc chuẩn bị chu đáo, đồng bộ.Nếu chẳng may thí
nghiệm không thành công, giáo viên cần bình tĩnh kiểm tra lại các bớc
tiến hành, tìm nguyên nhân và giải thích cho học sinh.
c. Đảm bảo tính trực quan.
Trực quan là một yêu cầu cơ bản của thí nghiệm biểu diễn .Để đảm
bảo tính trực quan, khi chuẩn bị giáo viên cần lựa chọn các dụng cụ và sử
dụng lợng hoá chất thích hợp. Các dụng cụ cần có kích thớc ®đ lín ®Ĩ
häc sinh ngåi ci líp cã thĨ quan sát đợc, có màu sắc hài hoà, bàn biểu
diễn thí nghiệm phải có độ cao cần thiết, các dụng cụ thÝ nghiƯm cÇn bè
trÝ sao cho häc sinh cã thĨ nhìn rõ.
Đối với các thí nghiệm có kèm theo sự thay đổi màu sắc, có các
khí sinh ra nh : Cl2, NO2. hoặc các chất kết tủa tạo thành thì dùng
phông đặt ở phía sau các dụng cụ thí nghiệm.
Ngoài những yêu cầu trên, về mặt phơng pháp để nâng cao chất lợng các thí nghiệm biểu diễn giáo viên cần chú ý thêm đến nội dung sau
đây:
- Số lợng thí nghiệm trong một bài nên lựa chọn vừa phải.
- Cần lựa chọn những thí nghiệm phục vụ trọng tâm bài học và phù
hợp với thời gian trên lớp.
- Trong thí nghiệm nên sử dụng các hoá chất học sinh đà quen biết.
Đơng nhiên thí nghiệm nghiên cứu bài mới thì chất đó phải là mới đối với
học sinh. Nhng khi sử dụng chất để rút ra những kết luận nào đó, thì nên
dùng các chất quen thuộc.
- Chọn các dụng cụ đơn giản, đảm bảo tính khoa học, s ph¹m, mü
thuËt.
2
- Chọn các phơng án thí nghiệm đơn giản, tiết kiệm hoá chất, dễ
thành công và đặc biệt là đảm bảo an toàn cho học sinh.
Để giúp học sinh tập trung cao vào các phản ứng hoá học diễn ra
trong các dụng cụ thí nghiệm, nếu có điều kiện trớc khi tiến hành thí
nghiệm giáo viên nên giúp học sinh tìm hiểu về cấu tạo, tác dụng và cách
sử dụng các dụng cụ đó.
- Trong quá trình tiến hành thí nghiệm cần có biện pháp tích cực
nhằm thu hút sự chú ý của học sinh vào việc quan sát, giải thích các hiện
tợng xảy ra bằng cách đặt câu hỏi ở các giai đoạn khác nhau của thí
nghiệm để học sinh chú ý quan sát, nhận xét và trả lời. Cần hớng sự chú ý
của học sinh vào sự quan sát những hiện tợng cơ bản nhất của thí nghiệm
có liên quan đến nội dung bài học.
2. Sử dụng thí nghiệm biểu diễn trong dạy học hoá học tích cực.
Sử dụng thí nghiệm biểu diễn trong giảng dạy là một yêu cầu hết
sức quan trọng vì môn Hoá học là bé m«n khoa häc thùc nghiƯm, kh«ng
cã thÝ nghiƯm sÏ ảnh hởng rõ rệt đến việc nắm bắt kiến thức của học sinh.
Vai trò của thí nghiệm trong giờ hoá häc cã thĨ kh¸c nhau. Chóng
cã thĨ minh häa c¸c kiến thức do giáo viên trình bày, có thể là ngn
kiÕn thøc mµ häc sinh tiÕp thu díi sù híng dẫn của giáo viên trong
quá trình quan sát thí nghiệm. Vì vậy, các thí nghiệm biểu diễn có thể
tiến hành thực hiện bằng hai phơng pháp chính:
- Phơng pháp minh họa.
- Phơng pháp nghiên cứu.
Tuỳ theo nội dung kiến thức và mục tiêu của bài học mà các thí
nghiệm biểu diễn đợc giáo viên tiến hành thực hiện theo phơng pháp
minh hoạ hay phơng pháp nghiên cứu hoặc có thể tiến hành biểu diễn
theo cả hai phơng pháp.
Tuy nhiên trong hai phơng pháp trên thì phơng pháp nghiên cứu có
giá trị lớn hơn, vì nó tạo điều kiện phát triển khả năng nhận thức của học
sinh nh :
- Học sinh nắm đợc mục đích của thí nghiệm.
- quan sát, mô tả hiện tợng.
- giải thích hiện tợng.
- rút ra kết ln vỊ tÝnh chÊt cđa chÊt.
3
Đặc biệt là có tác dụng kích thích học sinh làm việc tích cực hơn,
chủ động hơn. Phù hợp với việc đổi mới phơng pháp dạy học, nội dung
chơng trình và sách giáo khoa nh hiện nay.
Một số ví dụ.
*VD 1: Thí nghiệm về Cl2 tác dụng với kim loại Na (hoặc với Cu,
Fe)
Với thí nghiệm này, giáo viên có thể tiến hành thực hiện theo phơng pháp minh hoạ hay phơng pháp nghiên cứu:
- Phơng pháp minh hoạ:
Giáo viên thông báo cho học sinh biết:
Na nóng chảy cháy trong khí Cl2 với ngọn lửa sáng chói tạo thành
NaCl. Tiếp theo, giáo viên yêu cầu học sinh viết phơng trình phản ứng,
cân bằng, xác định số oxihoá, cuối cùng giáo viên tiến hành thực hiện thí
nghiệm biểu diễn theo phơng pháp minh hoạ cho những điều mà giáo
viên vừa thông báo.
Sau khi hoàn thành thí nghiệm, học sinh sẽ thấy những điều giáo
viên mô tả đợc khẳng định về mặt thực nghiệm. Hay nói cách khác, giáo
viên đà minh hoạ cho các kiến thức đà đa ra bằng thí nghiệm(thí nghiệm
minh hoạ)
- Phơng pháp nghiên cứu:
Giáo viên đặt vấn đề:
Cl2 có tác dụng đợc với kim loại nh Na( hoặc với Cu, Fe) hay
không?
Trớc khi tiến hành thực hiện thí nghiệm biểu diễn, giáo viên yêu
cầu học sinh tập trung quan sát hiện tợng xảy ra, sau đó giáo viên biểu
diễn thí nghiệm theo phơng pháp nghiên cứu.
Kết thúc thí nghiệm, giáo viên yêu cầu học sinh trả lời các câu hỏi sau:
+ Nêu mục đích của thí nghiệm?
+ Hiện tợng quan sát đợc?
+ Viết phơng trình phản ứng. Giải thÝch?
+ Rót ra kÕt ln vỊ tÝnh chÊt ho¸ häc của Cl 2 khi tác dụng với kim
loại Na( hoặc víi Cu, Fe)?
4
Qua ®ã ta thÊy r»ng, víi cïng mét néi dung thí nghiệm mà giáo
viên có thể tiến hành biểu diễn thí nghiệm theo hai phơng pháp khác
nhau. Nhng rõ ràng với phơng pháp nghiên cứu học sinh đợc tham gia
vào hoạt động học tập nhiều hơn ( trả lời nhiều câu hỏi và trên cơ sở đó
rút ra đợc kiến thức cần lĩnh hội) chủ động hơn và đặc biệt là phát huy đợc tính tích cực của học sinh.
Còn ®èi víi thÝ nghiƯm biĨu diƠn tiÕn hµnh thùc hiƯn bằng phơng
pháp minh hoạ thì học sinh ít đợc tham gia vào hoạt động học tập và các
hoạt động học tập đó mang tính thụ động, áp đặt, ít phát huy đựợc tính
tích cực, không tạo đợc yếu tố bất ngê vµ sù høng thó cho häc sinh mµ
trong häc tập tích cực thì những yếu tố này lại rất cần thiết. Vì trớc khi
đợc quan sát thí nghiệm do giáo viên làm, học sinh đà đợc thông báo hiện
tợng xảy ra cũng nh sản phẩm tạo thành sau phản ứng.Vì vậy, thí nghiệm
ở đây chỉ mang tính chất minh hoạ cho những kiến thức đà đợc thông
báo.
ở thí nghiệm Cl2 tác dụng với kim loại Na nh đà nêu trên, giáo viên
có thể biểu diễn thí nghiệm theo phơng pháp minh hoạ mặc dù phơng
pháp này còn nhiều hạn chế so với phơng pháp nghiên cứu. Tuy nhiên, để
phát huy đợc tính tích cực ở học sinh thì trong thực tế giảng dạy giáo viên
cần sử dụng phơng pháp nghiên cứu.
Có những thí nghiệm giáo viên phải biết lựa chọn, sử dụng phơng
pháp tiến hành thí nghiệm phù hợp mới đảm bảo đúng đợc mục tiêu về
kiến thức, về mặt khoa học thực nghiệm, khoa học bộ môn.
Nh khi nghiên cứu độ tan của khí hiđro clorua trong nớc, ta tiến
hành thực hiện thí nghiệm biểu diễn bằng cả hai phơng pháp minh hoạ
và phơng pháp nghiên cứu.Thông qua hai phơng pháp này, ta hÃy so sánh
để thấy rằng phải sử dụng phơng pháp nghiên cứu mới đảm bảo đợc
những mục tiêu nh đà nêu trên.
* VD 2: Thí nghiệm về tính tan của khí hiđro clorua.
- Phơng pháp minh hoạ:
Giáo viên thông báo : Tiến hành thực hiện thÝ nghiƯm vỊ khÝ hi®ro
clorua ta thÊy níc cã thĨ tự chảy ngợc vào bình đựng khí hiđro clorua do
khí hiđro clorua tan rất nhiều trong nớc .
Làm thí nghiệm chính xác, ngời ta đà xác định đợc ở 20 0C, một thể
tích nớc có thể hoà tan tới gần 500 thĨ tÝch khÝ hi®ro clorua.
5
Sau khi thông báo nh trên, giáo viên mới tiến hành làm thí nghiệm
biểu diễn theo phơng pháp minh hoạ đồng thời yêu cầu học sinh quan sát
thí nghiệm.
Kết thúc thí nghiệm, giáo viên yêu cầu học sinh trả lời các câu hỏi
sau:
+ Nêu hiện tợng xảy ra?
+ Vì sao nớc trong chậu phun vào bình?
+ Kết luận về độ tan của khí hiđro clorua?
Qua quan sát thí nghiệm và trả lời câu hỏi học sinh sẽ thấy những
điều giáo viên thông báo là đúng với thực nghiệm.
- Phơng pháp nghiên cứu:
Dùng phơng pháp nghiên cứu giáo viên chỉ cần đặt vấn đề ngắn
gọn nh dới đây để hớng sự tập trung cao nhất của học sinh vào quan sát
thí nghiệm:
Khí hiđro clorua có tan trong nớc không, mức độ tan của khí hiđro
clorua nh thế nào? Để trả lời câu hỏi này tôi và các em cùng nhau nghiên
cứu thÝ nghiƯm vỊ ®é tan cđa khÝ hi®ro clorua trong nớc.
Sau khi đặt vấn đề nh trên, giáo viên tiến hành biểu diễn thí nghiệm
theo phơng pháp nghiên cứu.
Kết thúc thí nghiệm, giáo viên yêu cầu học sinh trả lời những câu
hỏi nh ở phần phơng pháp minh hoạ.
Từ thí nghiệm về độ tan của khí hiđro clorua đợc biểu diễn bằng
hai phơng pháp khác nhau, ta dễ dàng thấy ở phơng pháp nghiên cứu sẽ
phát huy đợc tính tích cực, chủ động của học sinh hơn. Mặt khác, yếu
tố bất ngờ để gây nên sự hào hứng trong học tập là rất tốt, vì học sinh
phải tự mình nghiên cứu thí nghiệm do giáo viên biểu diễn trên cơ sở
các hoạt động học tập nh :
Quan sát, trả lời câu hỏi, từ đó rút ra đợc kiến thức cần lĩnh hội:
Khí hiđro là khí tan rất nhiều trong nớc.
Với phơng pháp minh hoạ thì tính tích cực, chủ động ở học sinh
bị mất đi rất nhiều đặc biệt là yếu tố bất ngờ không còn nữa, học sinh
có thể không quan sát thí nghiệm nhng vẫn có thể trả lời đợc câu hỏi do
giáo viên đặt ra. Vì phần lớn hiện tợng xảy ra trong thí nghiệm và nội
dung câu trả lời đà đợc giáo viên thông báo trớc khi tiÕn hµnh lµm thÝ
nghiƯm.
6
Qua ví dụ trên rõ ràng là để phù hợp với việc đổi mới phơng pháp
dạy học, nội dung chơng trình, sách giáo khoa nh hiện nay thì sử dụng
phơng pháp nghiên cứu trong thí nghiệm biểu diễn sẽ phát huy đợc
tính tích cực, chủ động và đạt hiệu quả cao hơn trong học tập ở học
sinh. Mặt khác, kiến thức lĩnh hội theo phơng pháp này bền vững, sâu
sắc hơn so với phơng pháp minh hoạ.
Với phơng pháp minh hoạ giáo viên thờng chỉ dùng khi dạy thí
nghiệm về ®iỊu chÕ hay nhËn biÕt c¸c chÊt.
II. Kinh nghiƯm ®Ĩ thành công khi thực hiện một số thí
nghiệm biểu diễn vỊ clo, oxi, lu hnh. (líp 10 - Ban c¬ bản)
Trong hoá học, để thực hiện thành công thí nghiệm nói chung và
thí nghiệm biểu diễn nói riêng thì ngoài việc nắm vững nguyên tắc và phơng pháp tiến hành thí nghiệm đòi hỏi ngời giáo viên phải có kinh
nghiệm thực tế trong khi làm thí nghiệm, đặc biệt là đối với các thí
nghiệm khó thành công.
Dới đây, tôi xin nêu lên kinh nghiệm để thành công khi tiến hành
thực hiƯn thÝ nghiƯm biĨu diƠn vỊ Cl2, O2, S víi một số kim loại. Đây là
những thí nghiệm biểu diễn trong chơng trình hoá học lớp 10 Ban cơ
bản.
1. Thí nghiệm về S tác dụng với Fe.
- Hiện tợng:
Những hiện tợng thờng gặp là S chảy ra, Fe không cháy, đốt 2-3
phút hoặc lâu hơn kết quả vẫn nh vậy.
- Nguyên nhân:
+ Bột Fe không mịn.
+ Tỉ lệ về khối lợng hoặc tỉ lệ về thể tích cha đúng.
- Kinh nghiệm để thí nghiệm thành công:
+ Bột Fe phải nhuyễn, mịn, tỉ lệ về khối lợng là 7g Fe và 4g S (hoặc
có thể ớc lợng bằng mắt 3 thĨ tÝch Fe víi 1 thĨ tÝch S)
ThÝ nghiƯm nµy thờng làm sau khi trộn lẫn giữa Fe và S mà u thế
hơn thuộc về bột Fe không mịn. Do đó, nếu đốt hỗn hợp bột Fe không
mịn, S nóng chảy trong toàn khối hỗn hợp và Fe không còn ®Ĩ ph¶n øng.
7
+ Vì phản ứng toả nhiệt nên chỉ cần đốt cha tới một phút một đốm
đỏ ở đáy ống xuất hiện (lu ý khi đó ở phần giữa hỗn hợp đen đi do S nóng
chảy nhng nửa bên trên vẫn còn nguyên màu vàng và xám của hỗn hợp)
lập tức rút đèn cồn ra vệt sáng đỏ tự cháy tan dần khắp hỗn hợp.
Kết quả thí nghiệm thành công. Hiện tợng phản ứng xảy ra rất đẹp
và hấp dẫn.
2. Thí nghiệm về O2 tác dụng với Fe.
- Hiện tợng:
Hiện tợng thờng gặp là que diêm hay mẩu than mồi bị rơi xuống
bình O2, Fe không cháy. Bình thủy tinh bị vỡ khi đang làm thí nghiệm.
- Nguyên nhân:
+ Do buộc không chặt que diêm hay mẩu than hoặc để than cháy
quá lâu nên thể tích than nhỏ lại và rơi xuống khi Fe cha kịp cháy.
+ Hoặc do miệng bình oxi nhỏ, dây sắt và que diêm mồi quá dài vì
thế dây sắt bị rung, thao tác chậm làm mất nhiệt hoặc que diêm quá dài
cháy lâu làm mất một lợng lớn oxi nên không đủ oxi cho Fe phản ứng.
+ Không cho nớc hoặc ít cát vào bình oxi.
+ Dây Fe bị gỉ hoặc bị bẩn.
+ Dây Fe quá to.
+ Mẩu than cha nung nóng đỏ(nếu mồi là than).
- Kinh nghiệm để thí nghiệm thành công:
+ Cho ít nớc trong bình oxi.(hoặc ít cát sạch)
+ Dùng giấy nhám chà sạch gỉ hoặc bẩn trên dây Fe (dây sắt không
nên to quá, tốt nhất là 1 dây phanh xe đạp) dài độ 30 cm cuộn thành lò so
và ở đầu buộc chặt 1/ 3 que diêm.
+ Đốt cho que diêm cháy(hoặc nung nóng đỏ mẩu than) và đa
nhanh vào bình oxi. Que diêm cháy mạnh làm cho sợi dây Fe nóng lên và
cháy khi hết oxi ở đầu dây Fe, Fe nóng chảy viên thành giọt tròn.
3. Thí nghiệm về Cl2 tác dụng với Fe.
- Hiện tợng:
Hiện tợng thờng gặp là dây Fe không cháy hoặc cháy quá nhanh.
8
- Nguyên nhân:
+ Do nung dây Fe cha đủ nóng hoặc thao tác đa dây Fe vào bình
Cl2 chậm làm mất nhiệt.
+ Dây Fe cha đợc làm sạch gỉ hay bẩn hoặc dây Fe nhỏ quá cháy
nhanh nên học sinh không kịp quan sát hiện tợng xảy ra.
+ Không đủ Cl2 để phản ứng với Fe do thu khí Cl 2 vào bình quá nhỏ
hoặc thu Cl2 vào bình nhng cha đủ.
- Kinh nghiệm để thí nghiệm thành công:
+ Dùng dây Fe to bằng 1 sợi dây phanh xe đạp hoặc to hơn một
chút (tốt nhất dùng luôn 1 sợi dây phanh xe đạp) cọ sạch, dài 30 cm, một
đầu quấn chặt vào đũa thuỷ tinh xuyên qua nút cao su, một đầu cuộn
thành hình lò xo.
+ Thu đầy khí Cl2 vào bình cầu đáy bằng hoặc bình tam giác 250 ml.
+Đốt nóng đỏ đầu dây Fe đà cuộn hình lò xo rồi đa nhanh vào bình
dựng Cl2.
9
C. Kết luận
Thí nghiệm hoá học giữ vai trò rất quan trọng trong quá trình nhận
thức, phát triển và giáo dục. Sử dụng thí nghiệm góp phần nâng cao chất
lợng dạy học môn Hoá học. Đặc biệt là khi sử dụng thí nghiệm biểu
diễn bằng phơng pháp nghiên cứu vì phơng pháp này phát huy đợc
tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh. Do đó, giáo viên cần
chú trọng sử dụng phơng pháp này trong quá trình giảng dạy bộ môn.
Nếu trong một thí nghiệm biểu diễn có thể sử dụng đợc cả hai phơng
pháp minh hoạ và phơng pháp nghiên cứu thì giáo viên thờng phải sử
dụng phơng pháp thứ hai. Tuy nhiên, tuỳ thuộc vào mục tiêu của bài
học mà giáo viên có thể lựa chọn phơng pháp minh hoạ hay phơng pháp
nghiên cứu cho phù hợp. Mặt khác, giáo viên cần vận dụng linh hoạt việc
đổi mới phơng pháp dạy học, sử dụng các phơng tiện dạy học hiện đại và
nhất là đảm bảo thí nghiệm thành công ở mức cao nhất, tạo đợc niềm tin
khoa học cho học sinh. Điều này chỉ có đợc khi giáo viên tìm tòi nghiên
cứu, làm nhiều thí nghiệm để rút ra đợc những bài học kinh nghiệm cho
bản thân.
Nội dung sáng kiến kinh nghiệm trên đà đợc kiểm nghiệm qua thực
tế giảng dạy tại trờng TCSP cho thấy nó phù hợp với việc đổi mới phơng
pháp dạy học hiện nay.
Mặc dù đà có nhiều cố gắng, song có thể còn những thiếu sót, rất
mong nhận đợc sự đóng góp của quý cấp trên và đồng nghiệp để sáng
kiến kinh nghiệm của tôi hoàn thiện hơn.
Xin trân trọng cảm ơn!
Nghĩa Lộ, ngày 30 tháng 12 năm 2007.
Ngời viết
Phạm Hoài Minh
10
mục lục
Trang
A. Mở đầu.
1
B.Nội dung.
2
I. Thí nghiệm biểu diễn để dạy học hoá học tích cực.
II. Kinh nghiệm thành công khi thùc hiƯn mét sè thÝ nghiƯm
2
8
biĨu diƠn vỊ clo, oxi, lu huúnh.
11
C. KÕt luËn.
11
Tài liệu tham khảo
1. Tài liệu bồi dõng giáo viên môn Hoá học 10.
(Nhà xuất bản Giáo dục Năm 2006)
Tác giả: Nguyễn Xuân Trờng
Lê Xuân Trọng
2.Tài liệu bồi dõng giáo viên môn Hoá học 11.
(Nhà xuất bản Giáo dục Năm 2007)
Tác giả:
Nguyễn Xuân Trờng
Lê Xuân Trọng
3.Thí nghiệm hoá học.
( Nhà xuất bản Giáo dục - Năm 2001)
Tác giả: Trần Quốc Đắc
3.Thí nghiệm thực hành lí luận dạy học hoá học.
( Nhà xuất bản Giáo dục - Năm 1980)
Tác giả: Nguyễn Cơng
Dơng Xuân Trinh
Trần Trọng Dơng
12