Tải bản đầy đủ (.doc) (11 trang)

Đổi mới Kiểm Tra Môn Ngư Văn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (195.34 KB, 11 trang )

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO CÀ MAU
TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG THỚI BÌNH
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
VẤN ĐỀ ĐỔI MỚI KIỂM TRA,
ĐÁNH GIÁ MÔN NGỮ VĂN TRONG
TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG.
Đề tài thuộc chuyên môn: Ngữ văn
Người thực hiện: Trần Thị Thu Hương.
Chức vụ: giáo viên giảng dạy
Đơn vị: Trường THPT Thới Bình.
Thới Bình, tháng 3 năm 2009

VẤN ĐỀ ĐỔI MỚI KIỂM TRA, ĐÁNH GIÁ MÔN NGỮ VĂN
TRONG TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG

Tác giả: Trần Thị Thu Hương
1. Lý do chọn đề tài:
Trong quá trình giảng dạy, chúng tôi nhận thấy đa số học sinh
không chủ động bày tỏ quan điểm, chính kiến của mình dù phát biểu trước
lớp hay trình bày trong bài viết. Phần đa học sinh không mạnh dạn nêu
những cảm xúc thật của bản thân về tác phẩm, về một vấn đề nào đó trong
xã hội. Bài viết của các em chủ yếu ở dạng “trả bài” có nghĩa là viết lại
những gì giáo viên đã giảng, đã cho ghi. Nguyên nhân vì sao? Vì học sinh
sợ viết không đúng với những gì giáo viên nói sẽ bị ảnh hưởng đến điểm
kiểm tra nên dù có suy nghĩ khác cũng “cam tâm” sao chép lại để đạt yêu
cầu. Chính vì vậy học sinh không phát huy được khả năng tư duy độc lập,
sáng tạo trong cách nghĩ, cách cảm. Một nguyên nhân nữa là do cách ra đề
kiểm tra và cách đánh giá của giáo viên. Như chúng ta biết trước đây
chương trình học trong sách giáo khoa các nhà biên soạn thiên về nghị luận
văn học ít quan tâm đến những vấn đề thực tiễn nằm trong mảng nghị luận
xã hội. Chính vì thế, đa số giáo viên dạy theo sách giáo khoa buộc lòng


phải ra đề kiểm tra theo định hướng của tác giả biên soạn nên đề kiểm tra
thường rập khuôn, máy móc chưa phát huy được những suy nghĩ độc lập
sáng tạo của học sinh. Và điều đó lâu dần trở thành thói quen ăn sâu vào bộ
nhớ đến nỗi chương trình sách giáo khoa đã thay đổi, định hướng ra đề
kiểm tra dần dần cũng “mở” hơn nhưng cách ra đề của nhiều giáo viên
cũng chưa có gì mới mẻ. Phần nhiều giáo viên ra đề kiểu mệnh lệnh (hãy
phân tích, bình luận, giải thích hoặc chứng minh…về một tác phẩm văn học,
về một nhân vật trong tác phẩm nào đó đã học). Đó là dạng đề thường có
trong văn mẫu nên dẫn đến học sinh lật tài liệu, coppy là hiện tượng rất phổ
biến. Và giáo viên khi chấm bài lại thích học sinh viết đúng những nội
dung mình đã cho ghi hoặc những ý kiến trùng lặp trong văn mẫu chứ
không xem trọng những ý kiến mới lạ dù cách lí giải có cơ sở thuyết phục.
Sở dĩ, giáo viên thích ra dạng đề rập khuôn máy móc là vì như thế sẽ không
cần đầu tư suy nghĩ, không cần tìm hiểu và xây dựng đáp án do đáp án đã
có sẵn trong văn mẫu, trong sách vở…Từ đó khi đánh giá nhiều giáo viên
tìm ý cho điểm chưa chú trọng nhiều đến kĩ năng hành văn của các em.
Phần nhiều giáo viên chưa chú trọng khâu đánh giá nên đánh giá chưa
chuẩn xác với những kết quả học sinh làm được. Mặc dù đặc thù của môn
ngữ văn là không có đáp án chính xác và mỗi người chấm có thể lệch nhau
từ 1 – 2 điểm. Nhưng không vì thế mà giáo viên chấm bài một cách tùy
tiện, chấm theo ngẫu hứng, chấm theo tình cảm, chấm theo kiểu “đo gang
tính điểm” hay “nhìn mặt đặt tên”.

Vậy câu hỏi đặt ra ở đây là phải đổi mới kiểm tra, đánh giá
như thế nào để học sinh có thể phát huy khả năng sáng tạo và mạnh dạn
bày tỏ những quan điểm riêng của bản thân? Theo chúng tôi để có bài viết
sáng tạo thì trước tiên phải có yêu cầu sáng tạo, việc làm đó đòi hỏi rất
nhiều ở khả năng của giáo viên đứng lớp. Người giáo viên không chỉ trau
dồi về chuyên môn, đổi mới về phương pháp giảng dạy mà cần phải có ý
thức đổi mới kiểm tra, đánh giá để nâng cao chất lượng dạy và học.

Với tất cả những suy nghĩ trên đã thôi thúc tôi viết sáng kiến
kinh nghiệm với đề tài “Vấn đề đổi mới kiểm tra, đánh giá môn Ngữ văn
trong trường trung học phổ thông”.
2. Vai trò của việc đổi mới kiểm tra, đánh giá môn Ngữ văn.
Trong thực tế có nhiều học sinh không thích học môn Ngữ
văn. Có nhiều lí do khác nhau: học sinh lười đọc tác phẩm, năng lực cảm
thụ yếu, chương trình sách giáo khoa ít gắn liền với thực tiễn cuộc sống,
phương pháp giảng dạy của giáo viên còn đơn điệu và cách đánh giá không
chuẩn xác về năng lực của học sinh…Trước tình hình đó, Bộ Giáo dục đã
đang thực hiện đổi mới đồng bộ chương trình, sách giáo khoa và phương
pháp giảng dạy ở bộ môn Ngữ văn nói riêng và các bộ môn khác nói chung
ở tất cả các cấp học. Và nếu chương trình, sách giáo khoa và phương pháp
được đổi mới mà cách ra đề kiểm tra, đánh giá học sinh không đổi mới thì
tất cả sẽ trở nên vô nghĩa. Nói khác đi, đổi mới về kiểm tra, đánh giá là yêu
cầu cần thiết nhằm thúc đẩy đổi mới phương pháp giúp học sinh yêu thích
môn Ngữ văn hơn và nâng cao hơn nữa chất lượng học tập cho học sinh.
3. Một số biện pháp để đổi mới kiểm tra, đánh giá môn Ngữ văn.
Để tránh tình trạng học sinh học vẹt, học để lấy điểm rồi sao
chép, coppy chúng ta cần phải mạnh mẽ thay đổi cách kiểm tra, đánh giá
học sinh. Vậy phải giảm bằng cách nào? Việc làm đầu tiên phải bắt đầu từ
sự đổi mới của chương trình, sự quan tâm của Sở Giáo dục – nhà trường,
ngay sau đó phải bắt đầu từ ý thức đổi mới từ giáo viên. Học sinh có dám
trình bày những chính kiến của mình một cách tự do và sáng tạo hay không
còn phụ thuộc rất nhiều vào cách ra đề và thái độ đánh giá của giáo viên.
Dưới đây là một số đề xuất cụ thể để việc kiểm tra đánh giá học sinh học
môn Ngữ văn đạt hiệu quả cao hơn.
3.1. Về phía Sở Giáo dục và nhà trường:
- Nên có chuyên đề bồi dưỡng về phương pháp kĩ năng ra đề kiểm
tra và xây dựng đáp án cho giáo viên ở các cấp học. Việc làm đó có thể gắn
liền với chương trình bồi dưỡng giáo viên theo chu kì bồi dưỡng thường

xuyên.
- Tổ chức cuộc thi ra đề kiểm tra và xây dựng đáp án theo hướng đổi
mới nhằm góp phần nâng cao chất lượng dạy – học môn Ngữ văn ở mỗi
trường, tỉnh...

- Tổ chức hội thảo về đổi mới kiểm tra, đánh giá các môn thuộc ban
khoa học xã hội tại trường, tại tỉnh theo định kì (3 tháng một lần hoặc hai
lần trên một năm học).
- Chọn ra những đề kiểm tra hay, đạt hiệu quả trong thực tế và những
bài viết thể hiện được năng lực sáng tạo của học sinh để trao đổi trong hội
thảo hoặc đọc ở cuối giờ sinh hoạt dưới cờ. Nếu đọc vào cuối giờ sinh hoạt
dưới cờ thì có thể một lần trên tháng. Việc làm ấy ngoài giúp giáo viên –
học sinh học hỏi lẫn nhau còn giúp các em thoải mái, thanh lọc tâm hồn để
các em yêu văn và học văn tốt hơn.
3.2. Về phía giáo viên.
3.2.1. Đổi mới cách ra đề kiểm tra và xây dựng đáp án.
- Giáo viên nên ra dạng đề mở để học sinh có cơ hội, điều kiện bộc
lộ những suy nghĩ, những chính kiến của bản thân. Đề mở có nghĩa là
những dạng đề có liên quan trực tiếp đến cuộc sống thực tiễn (chủ yếu là
nghị luận xã hội hoặc kết hợp cả hai nghị luận xã hội và nghị luận văn học).
Đây là hình thức để rèn luyện khá tốt khả năng độc lập suy nghĩ của học
sinh trước một vấn đề của cuộc sống; một hình thức giáo dục tư tưởng, tình
cảm trực tiếp hữu hiệu; một hình thức chống văn mẫu, sao chép. Với dạng
đề mở, giáo viên có thể thấy được học sinh của mình có vốn ngôn ngữ như
thế nào, vốn sống ra sao và đặc biệt sẽ phát hiện ra những ý tưởng không
theo một khuôn mẫu nào.
- Dạng đề mở thì đáp án cũng phải mở. Có nghĩa là trong quá trình
viết nhiều học sinh có ý kiến không giống như đáp án nhưng cách lí giải có
cơ sở, thấu tình đạt lí, thuyết phục được người nghe thì vẫn chấp nhận. Đó
là những thông tin phản hồi của sự sáng tạo trong tư duy nghệ thuật nên

giáo viên trong quá trình chấm cần phải trân trọng và động viên khích lệ.
- Ngữ văn là môn học có đặc thù riêng với vai trò rèn luyện cho học
sinh kĩ năng ngôn ngữ và kĩ năng sống cho nên mục đích của việc kiểm tra
đánh giá là kiểm tra, đánh giá về kĩ năng. Nói như thế không phải hạ thấp
vai trò của kiến thức mà kiến thức đóng vai trò làm phong phú thêm sự
hiểu biết cho học sinh. Nó sẽ là cơ sở là trợ lí đắc lực giúp học sinh rèn
luyện kĩ năng tốt hơn. Nhưng cái đích cuối cùng của chúng ta là muốn học
sinh viết được những bài văn thật hay, thật sáng tạo dựa trên những kiến
thức đã học. Vì thế, khi giáo viên ra đề kiểm tra, đề thi cần đổi mới theo
hướng ít đòi hỏi về kiến thức trong chương trình mà nên yêu cầu học sinh
thể hiện trình độ nhận thức, cách nghĩ, cách vận dụng của cá nhân đối với
một vấn đề văn học hoặc xã hội gần gũi, tương tự nhưng không hẳn là cái
đã được học trong chương trình. Ví dụ trong quá trình dạy ở lớp 10, chúng
tôi đã cho những dạng đề sau:
+ Nghị luận xã hội:
~ Tình trạng học sinh học yếu – kém trong trường trung học
phổ thông Thới Bình hiện nay.
~ Em bị khuyết tật và gặp nhiều bất hạnh trong cuộc sống.

~ Các bậc làm cha (mẹ) khi nhìn thấy con cái thành đạt.
~ Đứa trẻ bán vé số kể về hoàn cảnh của mình…
~ Quan điểm của em về câu nói “Biết chấp nhận thi rớt còn
vinh dự hơn gian lận khi thi”của tổng thống Mĩ A.Lin-Côn
trích trong thư gửi thầy hiệu trưởng của con trai mình
+ Nghị luận văn học kết hợp nghị luận xã hội:
~ Cô Tấm tự kể về mình.
~ Mị Châu tự kể về cuộc đời mình.
~ Cá bống kể về tình bạn giữa mình với Tấm.
~ Những suy nghĩ thật của em về hành động trừng phạt của
Tấm đối với Cám.

~ Viết một kết thúc khác cho “Chuyện chức phán sự đền Tản
Viên” và lí giải vì sao em chọn kết thúc đó.
~ Suy nghĩ của em về lời bình của tác giả ở cuối “Chuyện
chức phán sự đền Tản Viên” trích Truyền kì mạn lục.
~ Từ bài “Thời gian” của Văn Cao em rút ra bài học gì về thời
gian cho bản thân .
.v.v.
Hai năm trước đây khi ra dạng đề này đa số học sinh ngỡ ngàng
không xác định được yêu cầu và không biết viết gì (giáo viên phải gợi ý
trong quá trình học sinh làm bài). Thậm chí ngay cả nhiều giáo viên cũng
không tránh khỏi những băn khoăn. Nhưng trong năm học này (2008 –
2009) đa số học sinh tỏ ra thích thú với dạng đề kiểm tra như vậy. Với thời
gian 90 phút các em viết chăm chỉ, say mê dường như quên hẳn thời gian,
quên hẳn việc có giáo viên đang gác kiểm tra bởi vì các em cảm thấy thú vị
khi được tự do thoải mái bộc lộ cách nghĩ, cách cảm của cá nhân một cách
tự nhiên không hệ lụy vào bất kì điều gì.
- Giáo viên nên kết hợp cả hai hình thức kiểm tra trắc nghiệm và tự
luận. Như vậy đòi hỏi người giáo viên phải đầu tư thời gian nhiều hơn
trong việc ra đề cũng như chấm bài nhưng sẽ kiểm tra được cả chiều rộng
lẫn chiều sâu kiến thức và kĩ năng làm bài của học sinh. Từ đó giúp giáo
viên đánh giá toàn diện hơn về năng lực của học sinh.
- Giáo viên cần có sự thống nhất về hình thức ra đề giữa các khối lớp
(10, 11, 12) để học sinh có thói quen, dễ dàng định hướng cách học phù
hợp giữa các khối lớp cùng cấp.
3.2.2. Đổi mới hình thức đánh giá.
- Đổi mới hình thức đánh giá không có nghĩa là phủ nhận hình thức
đánh giá từ trước đến giờ mà giáo viên cần linh hoạt hơn trong khâu đánh
giá. Đừng đánh giá quá cứng nhắc, đánh giá theo hướng một chiều mà cần
quan tâm nhiều hơn nữa thông tin phản hồi của học sinh để giáo viên điều
chỉnh, đổi mới cách ra đề và cách đánh giá học sinh.

- Nên đa dạng về hình thức đánh giá. Để đánh giá toàn diện và chính
xác về khả năng của học sinh đòi hỏi phải có thời gian và kết hợp nhiều

×