Tải bản đầy đủ (.doc) (64 trang)

Giải pháp xóa đói, giảm nghèo trên địa bàn huyện Si Ma Cai – tỉnh Lào cai

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (263.29 KB, 64 trang )

LỜI CẢM ƠN

Em xin chân thành cảm ơn các thầy giáo, cô giáo của trường, khoa Công Tác
Xã Hội, trường Đại học Công Đoàn đã quan tâm dạy dỗ, truyền thụ cho em những
kiến thức khoa học trong suốt 4 năm học vừa qua.
Đặc biệt, em bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới Thạc Sĩ Vũ Văn Thái đã tận tình
hướng dẫn và giúp đỡ em trong suốt quá trình nghiên cứu và thực hiện đề tài:
“ Giải pháp xóa đói, giảm nghèo trên địa bàn huyện Si Ma Cai – tỉnh Lào cai ”
Đồng thời, em cũng xin chân thành cảm ơn toàn thể cá bác, cô, chú cán bộ
của Phòng Lao Động – Thương binh và Xã hội huyện Si Ma Cai đã thường
xuyên chỉ bảo em trong quá trình thực tập, em xin cảm ơn các cán bộ của UBND,
phòng Giáo dục huyện đã cung cấp đầy đủ số liệu và tận tình giúp đỡ em hoàn
thành chuyên đề thực tập tốt nghiệp này.
Mặc dù bản thân đã có sự cố gắng nỗ lực nhưng không tránh khỏi những
thiếu sót rất mong sự góp ý và cảm thông của thầy, cô giáo; các bác, cô, chú cán bộ
phòng Lao Động – thương binh và xã hội huyện Si Ma Cai. Kính chúc các thầy cô
giáo Trường Đại học Công đoàn, toàn thể các bác, cô, chú cán bộ phòng Lao Động
– thương binh và xã hội huyện Si Ma Cai sức khỏe dồi dào và luôn thành công
trong cuộc sống và trong công việc.
Em xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, ngày 09 tháng 05 năm 2013
Sinh viên

BẢNG LIỆT KÊ CÁC TỪ VIẾT TẮT


XĐGN

Xóa đói giảm nghèo

CNH, HĐH



Công nghiệp hoá, hiện đại hoá

KHCN

Khoa học công nghệ

QĐ- TTg

Quyết định của thủ tướng chính phủ

WB

Ngân hàng thế giới

GDP

Tổng sản phẩm quốc nội

USD

Đô la Mỹ

MTQG

Mục tiêu quốc gia

Bộ LĐTB&XH

Bộ Lao động, thương binh và xã hội


Ban MN&DD

Ban Miền núi và di dân

CSHT

Cơ sở hạ tầng

KHHGĐ

Kế hoạch hoá gia đình

MỞ ĐẦU
• Tính cấp thiết của đề tài.


Sau hơn 20 năm đổi mới, nền kinh tế nước ta từng bước khởi sắc và đạt được
nhiều thành tựu to lớn, đời sống nhân dân được cải thiện và nâng cao một bước ro
rệt. Tuy nhiên cùng với xu thế phát triển đi lên của xã hội, bên cạnh đó xã hội đang
phân hóa giàu nghèo một cách ro rệt, một bộ phận dân cư giàu lên vẫn còn một bộ
phận rơi vào cảnh nghèo đói, nghèo với khoảng cách ngày càng xa.
Hiện nay, số hộ nghèo ở việt nam còn rất cao, theo chuẩn nghèo của chính phủ
vừa mới ban hành cả nước có khoảng 3,9 triệu hộ nghèo, chiếm 22% số hộ toàn
quốc, trong số hộ nghèo nêu ở trên thì số hộ nghèo là người dân tộc thiểu số chiếm
phần lớn. Do điều kiện tự nhiên, kinh tế – xã hội ở vùng cộng đồng các dân tộc
thiểu số không thuận lợi cho phát triển kinh tế như: kết cấu hạ tầng thiếu và yếu, hệ
thống giao thông đi lại kém phát triển, đời sống vật chất của các đồng bào dân tộc
nói chung và đồng bào ở các vùng sâu vùng xa còn gặp nhiều khó khăn, trình độ
dân trí thấp, sản xuất chủ yếu là tự cung tự cấp.

Bên cạnh đó, hàng năm thiên tai, hạn hán, lốc xoáy, lũ lụt thường xuyên sảy ra
làm ảnh hưởng lớn đề đời sống của nhân dân trong huyện nói chung và các đồng
bào dân tộc nói riêng. Chính vì vậy Đảng và nhà nước đã đề ra một số chủ trương,
chính sách, xây dựng một số chương trình áp dụng nhằm giảm tỷ lệ đói nghèo cho
cộng đồng dân tộc thiểu số nói chung, trong đó có huyện Si Ma Cai. Nhưng do
những đặc điểm riêng có của đồng bào các dân tộc thiểu số, cùng với phong tục tập
quán lạc hậu, do đó việc thực hiện các chương trình chính sách xóa đói giảm nghèo
ở cộng đồng các dân tộc ở huyện còn nhiều hạn chế, nên tỷ lệ nghèo đói ở huyện
vẫn còn rất cao.
Huyện Si Ma Cai là huyện vùng cao, biên giới, gồm 13 xã và có xã thuộc diện
đặc biệt khó khăn, trong đó có 85% số hộ là đồng bào dân tộc thiểu số nghèo về cả
lương thực thực phẩm, về cơ sở vật chất, giáo dục, y tế, văn hóa, xã hội. Vì vậy là
một sinh viên thực tập tại phòng Lao động – Thương binh và xã hội của huyện Si


Ma Cai, tôi quyết định lựa chọn đề tài: “ Giải pháp xóa đói, giảm nghèo trên địa
bàn huyện Si Ma Cai – tỉnh Lào cai” để làm chuyên đề thực tập cuối khóa của
mình, qua chuyên đề này tôi hy vọng tìm ra giải pháp tối ưu hơn trong công tác xóa
đói giảm nghèo, góp phần sức vào công cuộc xóa đói giảm nghèo cho đồng bào dân
tộc thiểu số ở Huyện Si Ma Cai.
• Tổng quan về vấn đề đói nghèo.
Đói nghèo là tình trạng một bộ phận dân cư trong cộng đồng, xã hội, biểu hiện
cụ thể là những cá nhân, hộ gia đình không được đảm bảo, thoả mãn những nhu cầu
thiết yếu, cơ bản cho cuộc sống, trước hết là nhu cầu về đời sống vật chất của con
người được xác định theo tiêu chí đánh giá tại thời điểm nhất định và gặp khó khăn,
trở ngại trong việc tiếp cận điều kiện để vươn lên thoát cảnh đói nghèo.
Theo Tổ chức Nông Lương Liên Hợp quốc (FAO), Ngân hàng Thế giới (WB) và
Chương trình phát triển Liên Hợp quốc (UNDP) thì nghèo được phân thành hai cấp độ:
nghèo tương đối – nghèo và nghèo tuyệt đối – nghèo đói/nghèo khổ.
• Nghèo tương đối là tình trạng cá nhân, hộ gia đình chỉ thoả mãn một phần

nhu cầu tối thiểu của cuộc sống và có mức sống thấp hơn mức sống trung
bình của cộng đồng xét trên mọi phương diện (Tiêu chuẩn của Liên hợp quốc
đưa ra, hiện đang sử dụng là người có thu nhập bình quân dưới
2USD/1người/1ngày).


Nghèo tuyệt đối – nghèo khổ là tình trạng cá nhân, hộ gia đình có mức sống
dưới mức tối thiểu, không đảm bảo nhu cầu về vật chất để duy trì cuộc sống
tối thiểu, nói cách khác đó là một bộ phận dân cư hàng năm thường xuyên
thiếu ăn, đứt bữa, sống khổ cực thiếu thốn, phải lo chạy ăn từng bữa, vay nợ
và thiếu khả năng trả nợ (Tiêu chuẩn của LHQ đưa ra là người có thu nhập
bình quân dưới 1USD/1ngày).


Có thể với cộng đồng này thì nhóm người này (bộ phận dân cư này) là nghèo
nhưng cũng nhóm người ấy so sánh với cộng đồng dân cư hay bộ phận dân cư
nghèo của cộng đồng dân cư khác thì lại có mức sống, điều kiện sống cao hơn. Như
vậy, nghèo tuyệt đối là hệ quả trực tiếp của thu nhập thấp và các điều kiện sống
khác như môi trường, điều kiện sản xuất, kinh doanh, canh tác, y tế, giáo dục, kết
cấu hạ tầng cơ sở, mạng lưới thông tin thấp, còn nghèo tương đối là việc so sánh
mức thu nhập, mức sống, điều kiện sống giữa các nhóm dân cư trong một cộng
đồng dân cư xác định hoặc giữa các cộng đồng dân cư với nhau. Theo sự vận động,
phát triển – chuyển biến và cải tiến không ngừng của kinh tế – xã hội, đặc biệt là
của quá trình sản xuất, tính chất sở hữu và phương thức phân phối thu nhập thì tình
trạng nghèo tuyệt đối sẽ có xu hướng giảm dần, song tình trạng nghèo tương đối sẽ
có những khoảng cách và tồn tại lâu dài do tương quan giữa các nhóm dân cư, cộng
đồng xã hội khác nhau.
Việt Nam đi lên xây dựng CNXH từ một nước có nền kinh tế lạc hậu, kém phát
triển, bị chiến tranh kéo dài, tàn phá nặng nề và hậu quả để lại rất lớn, phải mất
nhiều thời gian mới khôi phục và hàn gắn được. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự nỗ

lực của toàn dân tộc, đặc biệt từ khi thực hiện công cuộc đổi mới toàn diện, cả đất
nước đã không ngừng phấn đấu, vượt qua muôn vàn khó khăn, thử thách và từng
bước vươn lên mạnh mẽ, thu được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử. Kinh
tế tăng trưởng khá cao liên tục (giai đoạn 1986 – 2005 đạt bình quân khoảng 7%,
năm 2006 đạt 8,04%, năm 2007 là 8,5%, năm 2008 khi kinh thế thế giới rơi vào
tình trạng suy thoái, khủng hoảng thì tăng trưởng kinh tế Việt Nam vẫn đạt 6,23%
và năm 2009 tăng 5,32%); Mặt bằng xã hội nói chung và đời sống nhân dân khồng
ngừng được cải thiện.
Tuy nhiên, cho đến nay, Việt Nam vẫn là một nước nằm trong nhóm những nước
nghèo và là nước đang phát triển trên thế giới. Hai trong những biểu hiện ro nét của
tình trạng nước nghèo là: (1)thu nhập bình quân đầu người ở nước ta còn rất thấp


trong khu vực và thế giới (năm 2009 khoảng 1100USD/1người/1năm, đứng thứ 7
ASEAN và thứ 141 thế giới); (2) mặc dù được thế giới đánh giá việc XĐGN là
“một kỳ tích, đáng kinh ngạc và trân trọng” (từ 70% dân số sống dưới mức nghèo
vào những năm 1980, xuống 50% những năm 1990, đến 1998 là 37,4%, năm 2002
là 28,9%, năm 2004 là 19,5%, năm 2006 là 16% và theo chuẩn nghèo năm 2005 thì
đến hết năm 2008, tỷ lệ nghèo ở Việt Nam còn 14,7% và đến hết năm 2010 giảm
xuống còn 9,45%), nhưng chưa thực sự bền vững, khả năng tái nghèo cao. [(1)(2)
nguồn từ số liệu của Tổng cục Thống kê, cập nhật ngày 30/12/2009 và Website:
www.baomoi.com - Áp dụng chuẩn nghèo mới giai đoạn 2011 – 2015, cập nhật
ngày 13/01/2011.
Theo chuẩn nghèo năm 2001 thì chuẩn nghèo ở nông thôn là những hộ có thu
nhập bình quân 80.000đồng/người/tháng, thành thị là những hộ có thu nhập bình
quân 100.000đ/người/tháng; theo chuẩn năm 2005 thì ở nông thôn là
200.000đồng/người/tháng, thành thị là 260.000đồng/người/tháng; Chuẩn nghèo
mới được áp dụng cho giai đoạn 2011 – 2015 theo Chỉ thị số 1752, ngày 21/9/2010
của Thủ tướng Chính phủ thì ở khu vực nông thôn, những hộ có thu nhập bình quân
từ


400.000đồng/người/tháng



hộ

nghèo,



khu

vực

thành

thị



500.000đồng/người/tháng.
Chỉ thị này cũng đề ra chuẩn xác định các hộ cận nghèo là những hộ có mức thu
nhập bình quân từ 401.000 đồng đến 520.000đồng/người/tháng (khu vực nông
thôn) và từ 501.000 đồng đến 650.000đồng/người/tháng (khu vực thành thị). Theo
chuẩn nghèo mới, tổng số hộ nghèo của cả snước khoảng 3,3 triệu hộ (chiếm
15,25%) và tổng số hộ cận nghèo là trên 1,8 triệu hộ (chiếm 8,5%).
Phần lớn người nghèo, hộ gia đình nghèo tập trung ở các vùng nông thôn nước
ta (chiếm 90% tổng hộ nghèo), đặc biệt là vùng sâu, vùng xa, miền núi và chiếm tỷ
lệ cao ở các vùng đồng bào dân tộc thiểu số.



• Ý nghĩa khoa học và ý nghĩa thực tiễn của đề tài.


Ý nghĩa khoa học của đề tài

Thông qua việc nghiên cứu, đề tài sẽ góp phần làm ro nét hơn các khái niệm, lý
thuyết, các kiến thức của ngành CTXH, thông qua việc vận dụng các kiến thức của
ngành vào thực tiễn. Từ đó, giúp rút ngắn khoảng cách giữa lý thuyết và thực tế.
Bên cạnh đó sẽ góp phần tìm hiểu ro được về thực trạng đói nghèo trên địa bàn,
đồng thời hoàn thiện các chính sách về XĐGN cũng như đưa ra một mô hình khoa
học hợp lý, phù hợp với hoàn cảnh thực tế tại huyện Si Ma Cai.


Ý nghĩa thực tiễn của đề tài.

Việc quan sát, mô tả ro ràng chân thực thực trạng đói nghèo, tại địa bàn huyện
Si Ma Cai sẽ giúp bản thân dễ dàng chỉ ra đc hiệu quả thực hiện các chương trình
XĐGN đã được triển khai trên địa bàn.
• Đối tượng, khách thể, mục đích và phạm vi nghiên cứu.


Đối tượng nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu của chuyên đề là: “Giải pháp xóa đói, giảm nghèo trên
địa bàn huyện Si Ma Cai – tỉnh Lào cai”.


Khách thể nghiên cứu.


Khách thể nghiên cứu của chuyên đề là các nông dân nghèo đang gặp khó khăn
trong đời sống, kinh tế - xã hội tại địa bàn huyện Si Ma Cai.


Mục đích nghiên cứu.

Với một người con được sinh ra và lớn lên trên mảnh đất này, tôi được đi ra, tôi
được học hành. Tôi rất băn khoăn và thực sự thấy buồn khi thấy được cái đói nghèo


cứ bám lấy người dân nơi đây, hằng ngày phải nhìn thấy những đứa trẻ nhỏ phải
làm lụng vất vả quá với sức của chúng, thấy người dân phải ngồng ghánh nỗi lo
cơm áo gạo tiền. Vì vậy tôi muốn tìm hiếu xem do đâu mà người dân quê tôi lại
nghèo đói đến vậy, phải làm sao đẩy lùi được tình trạng nghèo đói xuống. Nghiên
cứu này sẽ tập trung đi sâu vào thực trạng nghèo đói ở huyện Si Ma Cai, các
nguyên nhân nghèo đói, hậu quả nghèo đói của người dân nơi đây. Nghiên cứu này
còn giúp mọi người hiểu thêm mức độ, tầm ảnh hưởng của nghèo đói huyện Si Ma
Cai. Nó ảnh hưởng như thế nào, tác động ra sao đến chất lượng cuộc sống của
người dân. Cuối cùng, nghiên cứu sẽ đưa ra một số giải pháp mang tính định hướng
để giúp xoá đói giảm nghèo hiệu quả nhanh và bền vững hơn.


Phạm vi nghiên cứu.

• Không gian nghiên cứu: đề tài nghiên cứu tại địa bàn huyện Si Ma cai.
• Thời gian: tập trung nghiên cứu số liệu sơ cấp năm 2012 và số liệu thứ cấp
2008 – 2012.
• Phương pháp nghiên cứu.
• Phương pháp nghiên cứu thực tiễn: Trong quá trình nghiên cứu và thực tế

tác giả đã sử dụng một số phương pháp nghiên cứu thực tiễn như: Quan sát,
phỏng vấn, phân tích tài liệu lập bảng hỏi, vãng gia.
• Phương pháp quan sát: Quan sát là quá trình tri giác và việc ghi chép mọi
yếu tố có liên quan đến đối tượng nghiên cứu phù hợp với đề tài và mục đích
nghiên cứu. Tác giả vận dụng phương pháp này trong quá trình làm việc với
các hộ gia đình nghèo và quan sát những kết quả đã đạt được từ các chính
sách đã được triển khai trên địa bàn huyện. Quan sát mức sống, nhận thức
của bà con trong quá trình xây dựng nông thôn mới.




Phương pháp phỏng vấn: Phỏng vấn là cách thức để thu thập thông tin một
cách cụ thể và chính xác nhất. Tác giả sử dụng phương pháp này trong quá
trình tìm hiểu về đời sống người dân về hiệu quả trước và sau khi các chính
sách đã được triển khai, đồng thời lấy ý kiến của người dân về công tác
XĐGN trong từng giai đoạn từ đó tìm hiểu về thực trạng vấn đề còn tồn đọng
để đưa ra những giải pháp hữu hiệu nhất nhằm giúp bà con ổn định cuộc
sống

Phỏng vấn cán bộ Đảng bộ huyện, nhất là phòng Lao động Thương binh - Xã
hội, dựa trên những tiêu chí đánh giá nghèo và cận nghèo, số lượng, tỷ lệ nghèo
trên địa bàn huyện…từ đó có một cái nhìn tổng quát nhất, chính xác nhất về số liệu
và những thông tin cần nghiên cứu.
• Phương pháp phân tích tài liệu: Là cải biến mục đích của thông tin có sẵn
trong các tài liệu; hay nói cách khác là xem xét các thông tin có sẵn trong các
tài liệu để rút ra những thông tin cần thiết nhằm đáp ứng những mục tiêu
nghiên cứu của một đề tài nhất định. Trước khi sử dụng một tài liệu nào đó
cho phân tích cần phải trả lời hai vấn đề sơ bộ: thứ nhất, tài liệu có được đó
có cần thiết cho nghiên cứu không? thứ hai, phải chăng thông tin có trong

các tài liệu đó là tin tưởng được?
Nghiên cứu các giải pháp mà Đảng và nhà nước đã vạch ra nhằm áp dụng với
điều kiện của từng địa phương sao cho đạt hiệu quả cao nhất mà không ảnh hưởng,
hao hụt những nguồn tài nguyên, sức dân, kinh phí mang lại.
• Phương pháp vãng gia: Vãng gia là biện pháp khả quan nhất khi muốn tìm
hiểu ro thực trạng của từng hộ gia đình nghèo và cận nghèo, tuy nhiên do
điều kiện đi lại gặp nhiều khó khăn nên tác giả chỉ vãng gia được một vài hộ
gia đình ở các xã như Thào Chư Phìn, Cán Cấu, Cán Hồ, Sín Chéng…
CHƯƠNG I:


CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ CƠ SỞ THỰC TIỄN VỀ ĐÓI NGHÈO


Cơ sở lý luận


Các lý thuyết.

Lý thuyết là tập hợp những kiến thức khoa học và những kinh nghiệm từ
thực tiễn cuộc sống. Nó có vai trò là hệ thống lý luận cho một ngành khoa học nhất
định và có tính định hướng cho những hành động nghề nghiệp của ngành khoa học
đó. Vì vậy, việc vận dụng lý thuyết trong khi nghiên cứu là một việc hết sức cần
thiết, tránh được lối tư duy theo hướng trực quan, cảm tính và có một cái nhìn đúng
đắn, sâu sắc về đối tượng mà mình nghiên cứu.
Trong nội dung đề tài này, bản thân đã đặc biệt vận dụng các lý thuyết đó là
lý thuyết hệ thống, lý thuyết sinh thái, lý thuyết về phát triển cộng đồng và phát
triển xã hội, lý thuyết nhu cầu.



Lý thuyết hệ thống

Hệ thống là một sự kết hợp nhiều yếu tố cùng loại hoặc cùng chức năng.
Trong một hệ thống có chứa nhiều tiểu hệ thống tồn tại và tương tác lẫn nhau
nhưng đều hướng đến một sự cân bằng nhất định. Đó chính là cơ sở cho đảm bảo
cho hệ thống đó tồn tại .
Mỗi một cá nhân là một tiểu hệ thống trong một hệ thống lớn hơn là gia đình
và xã hội,và bản thân cá nhân cũng là một hệ thống chứa đựng những tiểu hệ thống
khác đó là các tế bào, các cơ quan, bộ phận của cơ thể. Vì vậy, có thể nói một hệ
thống gồm nhiều tiểu hệ thống đồng thời cũng là một bộ phận của một đại hệ thống
lớn hơn.


Trong một hệ thống các tiểu hệ thống tạo thành cấu trúc của hệ thống và các
yếu tố đó luôn tương tác lẫn nhau, chỉ cần một thay đổi nhỏ ở một tiểu hệ thống
sẽ làm cho toàn bộ hệ thống ấy thay đổi.
Vì vậy, khi nghiên cứu thuyết hệ thống, NVCTXH phải có sự chọn lựa, sàng
lọc trong hành động để có được sự thay đổi như mong muốn, tránh được những
hiệu ứng lan toả gây ảnh hưởng không tốt đến sự phát triển của thân chủ. Bên cạnh
đó, Nhân Viên Xã Hội cũng cần phải hiểu rằng, hệ thống chính thức trong cộng
đồng luôn là nguồn lực hỗ trợ tích cực cho con người, đặc biệt là những người yếu
thế. Tuy nhiên cũng có những hệ thống có những đặc điểm gây trở ngại cho sự phát
triển của thân chủ thì cần phải giải quyết vấn đề đang gây trở ngại cho sự phát triển
đó.
Lý thuyết hệ thống chỉ ra được mối quan hệ giữa cá nhân với nhóm và với
xã hội. Cá nhân tác động lên nhóm, xã hội nhưng ngược lại chính nhóm và xã hội
cũng tác động ngược lại lên mỗi cá nhân, và trong môi trường đó mỗi cá nhân cũng
bị cuốn vào mối tương tác với các hệ thống khác. Và thông qua sự tương tác đó
giúp cho nhân viên xã hội nhận diện ra thân chủ và vấn đề mà thân chủ gặp phải.
Đồng thời, từ việc nghiên cứu thuyết hệ thống đã giúp cho nhân viên xã hội hình

thành một cách tiếp cận mới hiệu quả đó là cách tiếp cận hệ thống. Tức là nhìn thân
chủ của mình trong hệ thống mà thân chủ đang tồn tại và trong mối tương quan với
các hệ thống khác, tìm hiểu các yếu tố thuộc về thân chủ và xung quanh thân chủ
để tìm hiểu xem mối quan hệ đó như thế nào? Gây ảnh hưởng như thế nào đến thân
chủ?...
Từ nhận thức về lý thuyết hệ thống đã giúp tác giả xác định được huyện Si
Ma Cai là một hệ thống trong đó có các tiểu hệ thống là các xã và những người
nghèo trong huyện. Huyện Si Ma Cai lại là một bộ phận của hệ thống xã hội. Khi
nghiên cứu bản thân đã đặt huyện Si Ma Cai trong bối cảnh kinh tế xã hội cụ thể và


thấy được những nguyên nhân dẫn tới tình trạng nghèo đói. Từ đó mới có cái nhìn
khách quan, trung thực về địa phương mình thực tập.


Lý thuyết sinh thái

Sinh thái là các yếu tố thuộc về vật sống và môi trường sống. Đây
là lý thuyết đi kèm với lý thuyết hệ thống trong việc tìm hiểu nghiên cứu đối tượng
trong mối tương quan với các yếu tố xung quanh.
Mỗi một cá nhân tồn tại không thể tách rời khỏi một môi trường hoàn cảnh
cụ thể. Cá nhân là một yếu tố của môi trường và chịu sự tác động của môi trường.
Trong mối quan hệ tương tác đó hình thành hai xu thế là cá nhân cải tạo môi trường
để phù hợp với bản thân hoặc cá nhân đó sống hoàn toàn phụ thuộc vào môi
trường. Và tất cả các cá nhân trong quá trình tồn tại của mình đều chịu ảnh hưởng
bởi bốn môi trường đó là tổ chức, văn hoá, thiết chế và cộng đồng.
Khi nghiên cứu lý thuyết này, nhân viên xã hội cần phải đặt thân chủ của
mình vào hệ thống sinh thái mà thân chủ đang sống. Khi nghiên cứu thực trạng các
hộ gia đình nghèo đói trên địa bàn huyện, tác giả phải đặt những hộ đó trong môi
trường hoàn cảnh của địa phương cũng như sự tác động của nó đến các hộ gia đình

và ngược lại.


Lý thuyết nhu cầu

Nhu cầu là những mong muốn của con người phù hợp với điều kiện khách
quan. Xã hội càng phát triển thì nhu cầu ngày càng cao. Vì vậy, có thể xem nhu
cầu là thước đo của sự phát triển.
Abraham Maslow (1908-1970) cho rằng nhu cầu của con người trong
hệ thống thứ bậc và phải được thoã mãn trong mối tương quan với môi trường để
con người có thể phát triển khả năng cao nhất của mình, và theo đó, ông chia nhu
cầu của con người ra 5 thứ bậc.


Vận dụng lý thuyết này với đối tượng là các hộ gia đình nghèo trong địa bàn
huyện, bản thân đã từng bước xác định nhu cầu của mỗi thân chủ của mình đang ở
mức độ nào, để từ đó có được phương hướng chung nhất phù hợp với yêu cầu của
từng hộ và yêu câu chung của cộng đồng. Cũng trên cơ sở đó xắp xếp thứ tự ưu tiên
các nhu cầu. Xem xét nhu cầu nào bức thiết nhất cần phải giải quyết và nhu cầu nào
giải quyết tiếp theo sau đó.
Trong khi xác định nhu cầu, NVCTXH cũng phải đặc biệt chú ý đến các điều
kiện khách quan của cộng đồng. Và phải tìm hiểu khai thác hết tiềm lực có trong
cộng đồng. Đó chính là môi trường cộng đồng, đây sẽ trở thành nguồn cung cấp tài
nguyên để đáp ứng các nhu cầu của cộng đồng. Nhưng đồng thời, nó cũng làm nảy
sinh các nhu cầu khác. Việc giải quyết các nhu cầu mới nảy sinh là cơ sở thúc đẩy
sự phát triển cho cộng đồng và đảm bảo việc tự quyết cho cộng đồng trong việc đáp
ứng các nhu cầu của mình.


Khái niệm về đói nghèo và thước đo về tiêu chuẩn đói nghèo.



Khái niệm nghèo.

Theo hội nghị chống nghèo khu vực Châu Á – Thái Bình Dương do ESCAP
tổ chức tại Băng Cốc – Thái Lan tháng 09/1993 định nghĩa: “Nghèo đói là tình
trạng một bộ phận dân cư không được hưởng và thỏa mãn các nhu cầu cơ bản của
con người và những nhu cầu này đã được xã hội thừa nhận tùy theo trình độ phát
triển kinh tế – xã hội và phong tục tập quán của từng địa phương”.
Tại hội nghị thượng đỉnh thế giới về phát triển xã hội tổ chức tại copenhaghen –
Đan Mạch năm 1995 đã đưa ra một định nghĩa cụ thể hơn về nghèo đói: “Người
nghèo là tất cả những ai có thu nhập thấp hơn 1đôla mỗi ngày trên một người, số
tiền được coi như đủ để mua sản phẩm thiết yếu để tồn tại”.


Theo quan điểm của ngân hàng thế giới WB( world bank): “Ngưỡng nghèo là
mốc mà cá nhân hay hộ gia đình có thu nhập nằm dưới mốc này thì bị coi là
nghèo. Ngưỡng nghèo là yếu tố chính yếu để quy định thành phần nghèo của một
quốc gia. Theo WB thì đói nghèo là những bộ phận mà không có khả năng chi trả
cho số hàng hóa lương thực của mình đủ để cung cấp 2.100 calori mỗi người mỗi
ngày”.


Khái niệm đói.

Đói là một khái niệm biểu đạt tình trang con người ăn không đủ no, không đủ
năng lượng tối thiểu cần thiết để duy trì sự sống hằng ngày do đó không đủ sức để
lao động và tái sản xuất lao động.



Khái niệm về xóa đói, giảm nghèo.

• Khái niệm về xóa đói:
xóa đói là một bộ phận dân cư nghèo sống dưới mức tối thiểu và thu nhập không
đủ để đảm bảo về nhu cầu và vật chất để duy trì mức sống, từng bước nâng cao
mức sống đến mức tối thiểu và có thu nhập đủ để đảm bảo nhu cầu về vật chất để
duy trì cuộc sống.
• Khái niệm về giảm nghèo:
Giảm nghèo là một bộ phân dân cư nghèo được nâng cao mức sống, từng bước
thoát khỏi tình trạng nghèo. Điều này được thể hiện ở tỷ lệ phần trăm và số lượng
người nghèo giảm xuống. Hay giảm nghèo là quá trình chuyển bộ phận dân cư
nghèo lên mức sống cao hơn.
Sự thống nhất giữa hai mục tiêu này: nếu giảm nghèo đạt được mục tiêu thì
đồng thời cũng xóa đói luôn. Do vậy thực chất giảm nghèo và xóa đói là đồng
nghĩa.




Cơ sở thực tiễn.


Các thước đo và chuẩn mực đánh giá đói nghèo.

• Chuẩn nghèo
Chuẩn nghèo đói (còn gọi là đường nghèo, ngưỡng nghèo) là công cụ để
phân biệt người nghèo và người không nghèo. Những người được coi là nghèo khi
mức sống của họ được đo qua thu nhập (hoặc chi tiêu) thấp hơn một mức tối thiểu
chấp nhận được, tức là thấp hơn chuẩn nghèo. Vạch ra giới hạn nghèo đói là bước
đầu tiên để tiến hành đánh giá về thực trạng nghèo đói. Chuẩn mực nghèo đói luôn

thay đổi và tuỳ thuộc vào trình độ phát triển của các quốc gia.
▪ Phương pháp của Ngân hàng Thế giới
Phương pháp mà WB đã sử dụng ở nhiều nước đang phát triển là dựa vào
ngưỡng chi tiêu tính bằng đôla mỗi ngày. Ngưỡng nghèo thường dùng hiện nay là 1
USD và 2 USD/ngày (theo sức mua tương đương - PPP). Đây là ngưỡng chi tiêu có
thể đảm bảo mức cung cấp năng lượng tối thiểu cần thiết cho con người, mức
chuẩn đó là 2.100 kcal/người/ngày. Ngưỡng nghèo này gọi là “ngưỡng nghèo lương
thực, thực phẩm” (nghèo đói ở mức thấp). Vì mức chi tiêu này chỉ đảm bảo mức
chuẩn về cung cấp năng lượng mà không đủ chi tiêu cho những hàng hoá phi lương
thực.
Theo phương pháp trên, WB đã tính toán và đưa ra khuyến nghị chuẩn nghèo
đói cho các quốc gia vào cuối những năm 1990 như sau:
Đối với các nước đang phát triển: Các cá nhân bị coi là nghèo đói khi có thu nhập
dưới 1 USD/ngày;
• Các nước thuộc Châu Mỹ La tinh và Caribe là 2 USD/ngày;
• Các nước Đông Âu là 4 USD/ngày;
• Các nước công nghiệp phát triển là 14,4 USD/ngày.
Tuy vậy, các quốc gia đều tự đưa ra chuẩn riêng của mình, thông thường thấp
hơn thang nghèo đói WB.


▪ Phương pháp của Việt Nam
Hiện nay có các phương pháp tiếp cận với ranh giới nghèo đói như sau:
• Phương pháp của Tổng cục Thống kê, dựa vào cả thu nhập và chi tiêu, xác
định 2 ngưỡng nghèo. Thứ nhất là “ngưỡng nghèo lương thực, thực phẩm”
dựa theo cách tiếp cận của WB. Ngưỡng nghèo thứ 2, thường gọi là “ngưỡng
nghèo chung”, bao gồm cả phần chi tiêu cho hàng hoá phi lương thực.
• Phương pháp của Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội, dựa trên thu nhập
của hộ gia đình, dùng để xác định chuẩn đói nghèo của chương trình XĐGN
quốc gia. Những người có mức thu nhập nằm dưới các giới hạn chuẩn (chuẩn

nghèo) đã quy định thì được coi là nghèo khổ.
Chuẩn nghèo đói của Việt Nam được xác định bắt đầu từ năm 1993, đến năm
2006 đã có 5 lần điều chỉnh, cụ thể như sau:
• Giai đoạn 1993 – 1995:
Hộ đói: Bình quân thu nhập đầu người quy gạo/tháng dưới 13 kg đối với
thành thị, dưới 8 kg đối với khu vực nông thôn.
Hộ nghèo: Bình quân thu nhập đầu người quy gạo/tháng dưới 20 kg đối với
thành thị và dưới 15 kg đối với khu vực nông thôn.
• Giai đoạn 1995 – 1997:
Hộ đói: là hộ có mức thu nhập bình quân đầu người quy gạo/tháng dưới 13 kg,
tính cho mọi vùng.
Hộ nghèo: là hộ có thu nhập như sau:
• Vùng nông thôn miền núi, hải đảo: dưới 15 kg/người/tháng.
• Vùng nông thôn đồng bằng, trung du: dưới 20 kg/người/tháng.
• Vùng thành thị: dưới 25 kg/người/tháng.
• Giai đoạn 1997 – 2000 (Công văn số 1751/LĐTBXH):


Hộ đói: là hộ có mức thu nhập bình quân một người trong hộ một tháng quy ra
gạo dưới 13 kg, tương đương 45.000 đồng (giá năm 1997, tính cho mọi vùng).
Hộ nghèo là hộ có thu nhập tùy theo từng vùng ở các mức tương ứng như sau:
• Vùng nông thôn miền núi, hải đảo: dưới 15 kg/người/tháng (tương đương
55.000 đồng).
• Vùng nông thôn đồng bằng, trung du: dưới 20 kg/người/tháng (tương
đương 70.000 đồng).
• Vùng thành thị: dưới 25 kg/người/tháng (tương đương 90.000 đồng)
• Giai đoạn 2001 – 2005 (Quyết định 1143/2000/QĐ-LĐTBXH):
• Vùng nông thôn miền núi, hải đảo: 80.000 đồng/người/tháng.
• Vùng nông thôn đồng bằng: 100.000 đồng/người/tháng.
• Vùng thành thị: 150.000 đồng/người/tháng.

• Giai đoạn 2006 – 2010 (Quyết định số 170/2005/QĐ-TTg):
• Vùng thành thị: 260.000 đồng/người/tháng.
• Vùng nông thôn (cho cả miền núi và đồng bằng): 200.000
đồng/người/tháng.
Đến tháng 7/2008, Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội phối hợp với Bộ
Tài chính và Bộ Kế hoạch và Đầu tư nghiên cứu đề xuất phương án nâng chuẩn
nghèo lên mức 300.000 đồng/người/tháng áp dụng cho khu vực nông thôn và
390.000 đồng/người/tháng đối với khu vực thành thị.
Tháng 7/2009, để điều chỉnh mức chuẩn nghèo theo chỉ số giá tiêu dùng, Bộ
Lao động – Thương binh và Xã hội đã công bố dự thảo quyết định ban hành chuẩn
nghèo mới, áp dụng cho giai đoạn 2011-2015. Theo đó, đối với khu vực nông thôn,
hộ nghèo là những hộ có mức thu nhập bình quân từ 350.000 đồng/người/tháng
(dưới 4.200.000 đồng/người/năm). Tại khu vực thành thị, hộ nghèo là những hộ có
mức thu nhập bình quân từ 450.000 đồng/người/tháng (dưới 5.400.000


đồng/người/năm). Như vậy, mức chuẩn nghèo mới do Bộ đề xuất cao gần gấp đôi
mức hiện hành và cao hơn mức đề xuất trước đây.
Thước đo nghèo đói.
Sau khi xác định ngưỡng nghèo, có thể tính toán được một số thước đo để
mô tả quy mô, độ sâu và độ nghiêm trọng của nghèo đói.
• Chỉ số đếm đầu (tỷ lệ đói nghèo) : là tỷ lệ những người sống ở dưới ngưỡng
nghèo, cho biết quy mô đói nghèo của quốc gia. Chỉ số này được sử dụng để
đánh giá tình trạng nghèo và những thành công trong mục tiêu giảm nghèo
của quốc gia và thế giới.
• Khoảng nghèo ): là mức chênh lệch trung bình giữa chi tiêu của những người
nghèo và mức chi tiêu tại ngưỡng nghèo. Thước đo này được sử dụng để mô
tả mức độ hay độ sâu của nghèo, cho biết chi phí tối thiểu để đưa tất cả người
nghèo lên mức sống ngang bằng với ngưỡng nghèo.
• Bình phương khoảng nghèo): thể hiện mức độ nghiêm trọng của đói nghèo vì

nó đã làm tăng thêm trọng số cho nhóm người có khoảng nghèo lớn hơn
trong số những người nghèo (tăng thêm trọng số cho nhóm nghèo nhất trong
dân số).


Nội dung xóa đói giảm nghèo.

• Xác định các nhân tố ảnh hưởng tới đói nghèo.
Có nhiều nguyên nhân khác nhau dẫn đến tình trạng đói nghèo của người dân.
Có những nguyên nhân mang tính khách quan như: do sự không thuận lợi của điều
kiện tự nhiên ở một số vùng, miền; do gặp phải những sự kiện bất thường của cuộc
sống như: ốm đau, bệnh tật, tai nạn; do mặt trái của nền kinh tế thị trường chưa có
sự can thiệp kịp thời của chính phủ… Có những nguyên nhân mang tính chủ quan
như: trình độ văn hóa thấp, gia đình đông con, phong tục tập quán lạc hậu… tuy
nhiên ở đây chia thành hai nhân tố ảnh hưởng như sau:


• Các nhân tố khách quan:
• Điều kiện tự nhiên: sự khắc nghiệt của khí hậu đã gây ra những khó khăn đối
với nền sản xuất nông nghiệp.
• Trình độ phát triển kinh tế – xã hội của địa phương: đường giao thông đi lại
khó khăn nên chi phí vận tải cao, hàng hóa đưa đến khó, các mặt hàng nông
sản tiêu thụ ở địa phương với giá rất thấp. Khó cung cấp hoặc tận dụng các
dịch vụ xã hội và việc tiếp cận các kiến thức khoa học thấp, dẫn đến họ
không biết cách làm ăn để thoát khỏi hoàn cảnh khó khăn, nghèo đói.
• Các chính sách trợ cấp nhiều lúc không đúng đối tượng làm ảnh hưởng xấu
đến thị trường nông thôn, thị trường ở những vùng xâu, vùng xa làm cho
công cuộc xóa đói giảm nghèo trở nên khó khăn hơn.
• Các nhân tố chủ quan:
• Thiếu nguồn vốn và nguồn nhân lực là trở ngại lớn nhất đối với người nghèo.

Người nghèo có khả năng tiếp tục nghèo vì họ không thể đầu tư vào nguồn
vốn nhân lực của họ để phát triển sản xuất.
• Đa số người nghèo là những người có trình độ học vấn rất thấp hoặc chưa
được đào tạo qua lớp học nào, cho nên ít có cơ hội tìm kiếm được việc làm
tốt và ổn định.
• Đông con là nguyên nhân và hệ quả của nghèo đói.
• Bệnh tật, sức khỏe làm ảnh hưởng trực tiếp và to lớn đến thu nhập và chi tiêu
của người nghèo, càng làm cho họ khó thoát khỏi tình trạng nghèo đói.
• Việc thực hiện các chính sách xóa đói, giảm ngèo:


Nội dung của chương trình xóa đói giảm nghèo xét trên góc độ các vấn đề can
thiệp bao gồm biện pháp được sử dụng như: hỗ trợ tín dụng, hỗ trợ đất đai sản xuất,
nhà ở, hỗ trợ y tế giáo dục…các biện pháp này có thể chia thành ba nhóm chính:
• Nhóm chính sách tạo điều kiện cho người nghèo phát triển sản xuất, tăng thu
nhập.
• Nhóm chính sách tạo cơ hội cho người nghèo tiếp cận các dịch vụ xã hội.
• Nhóm chính sách tuyên truyền, nâng cao nhận thức cho người nghèo.

CHƯƠNG II:
THỰC TRẠNG ĐÓI NGHÈO VÀ CÔNG TÁC XÓA ĐÓI
GIẢM NGHÈO Ở HUYỆN SI MA CAI


Đặc điểm,Điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội của huyện Si Ma Cai.


Đặc điểm chung:

• Vị trí địa lý.

Huyện Si Ma Cai nằm ở phía Đông Bắc của tỉnh Lào Cai, cách thành phố Lào
Cai 100 km, vị trí xa nhất so các huyện trong tỉnh. Si Ma Cai nằm trên tọa độ từ 22 o


35’ đến 22o 44’ vĩ độ Bắc, 104o 06’đến 104o 12’ kinh độ. Phía Bắc của Huyện giáp
huyện Mã Quan thuộc tỉnh Vân Nam- Trung Quốc và huyện Mường Khương. Phía
Đông giáp huyện Bắc Hà và huyện Xín Mần thuộc tỉnh Hà Giang. Phía Nam huyện
giáp huyện Bắc Hà. Phía Tây giáp huyện Mường Khương.
Huyện Si Ma Cai có 3 xã biên giới là Si Ma Cai, Nàn Sán, Sán Chải (6 thôn bản
giáp biên), với tổng chiều dài biên giới 9,2 km, có lối mở qua biên giới tại thôn Hóa
Chư Phùng; đồng thời vị trí là nơi tiếp nối giữa Mường Khương với Bắc Hà và
sang huyện Sín Mần của tỉnh Hà Giang, giữ chức năng trung chuyển và giao lưu
hàng hóa giữa các địa phương, tạo điều kiện cho các huyện khai thác các tiềm
năng, lợi thế, nhất là về nông nghiệp và lâm nghiệp; đồng thời vị trí này còn có vai
trò quan trọng trong xây dựng tuyến kinh tế quốc phòng.
• Địa hình.
Si Ma Cai thuộc vùng cao nguyên thượng nguồn (khối vòm nông) sông
Chảy, có độ cao từ 800m - 1.800m và độ cao trung bình của huyện là 1.200m so
với mực nước biển. Địa hình Si Ma Cai nằm trên vùng núi có độ tuổi cổ nhất trong
nền cấu tạo địa tầng Bắc Bộ. Vùng trung tâm huyện hiện nay là thung lũng lòng
chảo nằm giữa các dãy núi chạy theo hướng Đông Bắc - Tây Nam, thấp dần về
hướng Tây Bắc, có những đỉnh cao từ 1.600 đến 1.800m. Các dải núi thuộc địa bàn
huyện cơ bản được hình thành từ 2 mạch núi chính. Nhìn chung, Si Ma Cai là
huyện có địa hình nhiều núi cao chia cắt phức tạp, bị chia cắt mạnh, độ dốc lớn,
giao thông đi lại khó khăn.
• Thời tiết, khí hậu.
Si Ma Cai là huyện nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa, tuy nhiên do
ảnh hưởng của địa hình nên diễn biến của khí hậu khá phức tạp, hình thành các tiểu
khí hậu khác biệt: khí hậu cận nhiệt đới và vùng khí hậu nhiệt đới không điển hình.



Các yếu tố khí hậu đặc trưng như nhiệt độ, lượng mưa cho thấy sự thay đổi của địa
hình, độ cao là tác nhân chính hình thành những vùng tiểu khí hậu trên địa bàn
huyện.
• Nhiệt độ: Theo số liệu quan trắc nhiều năm cho thấy huyện Si Ma Cai thuộc
vùng khí hậu khá lạnh, nhiệt độ trung bình năm là 18,9 oC. Nhiệt độ có sự
thay đổi theo các đai cao khá ro nét, sự thay đổi này diễn ra ngay trên địa bàn
của một số xã.
• Lượng mưa: Si Ma Cai là huyện có lượng mưa trung bình so với các vùng trên
địa bàn tỉnh Lào Cai, lượng mưa thay đổi qua các năm từ 1.300 – 2.000mm,
lượng mưa chủ yếu tập trung vào các tháng 6, 7, 8 các tháng còn lại trong
năm mưa ít, cường độ không tập trung.
• Độ ẩm không khí: Huyện Si Ma Cai thuộc vùng có độ ẩm không khí tương đối
đều và cao qua các tháng, trung bình từ 83 - 87%. Về mùa mưa độ ẩm không
khí lớn hơn, thường từ 85 – 88%. Độ ẩm thay đổi theo từng vùng lãnh thổ
của huyện. Vùng núi cao trên 800tr, độ ẩm thấp và hanh khô.
Vùng ven sông Chảy: Bao gồm phần đất thấp, dải thung lũng liền kề của các
xã vùng ven sông Chảy như: Bản Mế, Nàn Sín, Sín Chéng, Thào Chư Phìn. Đây là
vùng khí hậu nhiệt đới không điển hình, nhiệt độ trung bình khoảng 21 oC; Mùa
nóng từ tháng 5 đến tháng 10, có nhiệt độ lên đến 35 oC kèm theo mưa nhiều,
cường độ mưa lớn, bức xạ năng lượng mặt trời cao, mùa lạnh kéo dài từ tháng 11
đến tháng 4 năm sau. Độ ẩm không khí trung bình 85%, ít sương mù và mưa đá.
Vùng tiểu khí hậu cận nhiệt đới trên núi cao và trung bình là phần lãnh thổ
còn lại chiếm đa số. Một năm có hai mùa không có ranh giới ro rệt, mùa Đông
thường lạnh và khô kéo dài, nhiệt độ trung bình từ 15 - 17oC; tháng lạnh, nhiệt độ


xuống dưới 10 oC. Mùa hè mát mẻ nhiệt độ cao không đến 32oC. Mùa mưa thường
từ tháng 5 đến tháng 10 hằng năm, thường có lốc, mưa đá và sương mù.
• Thủy văn, sông ngòi

Hệ thống thuỷ văn của huyện Si Ma Cai bao gồm:
Sông Chảy, bắt nguồn từ tỉnh Vân Nam – Trung Quốc chảy qua địa phận
huyện Si Ma Cai với tổng chiều dài 43km. Sông Chảy tạo thành ranh giới tự nhiên
giữa huyện Mã Quan – Trung Quốc và huyện Si Ma Cai, lòng sông hẹp, sâu, nhiều
thác ghềnh, ít có tác dụng trong giao thông vận tải, trong sản xuất và dân sinh do
lượng phù sa thấp, tốc độ dòng chảy lớn.
Hệ thống sông suối nhỏ, Do ảnh hưởng của địa hình chia cắt, độ dốc lớn, hình
thành trên địa bàn huyện Si Ma Cai khá nhiều suối nhỏ. Tất cả các con suối đều bắt
nguồn từ các dãy núi cao chảy xuống thung lũng. Đây là nguồn nước chính để phục
vụ dân sinh cũng như mở rộng đất canh tác sản xuất của cộng đồng các dân tộc
huyện Si Ma Cai. Tuy nhiên về mùa mưa, hệ thống khe thường xuyên có lũ quét,
gây trở ngại lớn cho sản xuất và giao thông.
• Tài nguyên đất đai.
Theo thống kê tình hình sử dụng đất của huyện thời điểm 01/01/2010, tổng
diện tích tự nhiên của Si Ma Cai là 23.493,83 ha (bằng 3,7% diện tích tự nhiên toàn
tỉnh). Trong đó: diện tích đất nông nghiệp là 13.528,85 ha, chiếm 57,58%; đất phi
nông nghiệp là 1.208,94 ha chiếm 5,15%; đất chưa sử dụng là 8.755,04 ha, chiếm
37,27% (trong đó đất đồi núi chưa sử dụng 6.641,57, chiếm 28,27% diện tích đất tự
nhiên và bằng 3,6% diện tích đất đồi núi chưa sử dụng toàn tỉnh).
• Tài nguyên nước.


Nguồn nước mặt: Nguồn nước phụ thuộc chủ yếu vào nguồn nước mưa được
lưu giữ. Nguồn nước mặt của huyện Si Ma Cai tuy phân bố đều, không bị ô nhiễm,
nhưng rất ít nguồn nước lớn để tạo ra hồ ao lớn, hạn chế trong phát triển thủy sản.
Nguồn nước ngầm: Ảnh hưởng của hiện tượng Castơ tạo ra các hố thoát
nước mặt và độ che phủ rừng thấp là nguyên nhân gây ra tình trạng mực nước
ngầm thấp, trữ lượng nước cạn kiệt như hiện nay.
• Tài nguyên khoáng sản.
Theo tài liệu khảo sát về tài nguyên khoáng sản huyện Si Ma Cai có 01 mỏ

qụăng Chì, Kẽm ở xã Bản Mế, 01 mỏ quặng Sắt ở xã Sán Chải, 01 mỏ sắt ở xã Cán
Cấu đã, đang triển khai khai thác. Nhìn chung về tài nguyên khoáng sản của huyện
rất hạn chế (ít khoáng sản nhất so tất cả các huyện, thành phố trong tỉnh); có một số
mỏ nhưng trữ lượng, chất lượng thấp, điểm khai thác không thuận lợi.
• Tài nguyên rừng.
Theo số liệu thống kê, đến 01/1/2010 diện tích rừng trên địa bàn huyện Si
Ma Cai là 6.266 ha chiếm 26,67 % diện tích tự nhiên toàn huyện. Trong đó rừng
sản xuất 1.905 ha, rừng phòng hộ 4.361 ha.
Thảm thực vật của huyện tương đối phong phú về chủng loại và đa dạng về
sinh học; do địa hình của huyện tạo ra những vùng tiểu khí hậu nên thảm thực vật
có cả loại cây ôn đới và cây nhiệt đới. Về khả năng đất đai phát triển rừng của
huyện trong giai đoạn tới còn khoảng trên 2.000 ha.
• Cảnh quan du lịch.
Si Ma Cai là huyện nằm trên vùng núi cổ, có địa hình hiểm trở, chia cắt
mạnh, độ dốc tương đối lớn, có vẻ đẹp hùng vĩ, khí hậu trong lành, mát mẻ; các đặc
sản như rượu ngô Si Ma Cai, vải thổ cẩm cùng với sự đa sắc tộc trong các phiên


chợ vùng cao là những yếu tố thu hút khách du lịch trong và ngoài nước, hàng năm
có từ 1.500- 2000 lượt khách nước ngoài đến Chợ văn hoá Cán Cấu- Si Ma Cai.
Trong thời gian tới CSHT được củng cố, cảnh quan môi trường được cải tạo, hệ
thống giao thông nối liền huyện Mường Khương- Si Ma Cai- Bắc Hà - Sín Mần
(Hà Giang); đặc biệt đầu tư xây dựng khu du lịch sinh thái Hồ Cán Cấu và cửa
khẩu phụ Hoá Chư Phùng là điều kiện thuận lợi để du lịch phát triển, góp phần phát
triển kinh tế- xã hội trên địa bàn huyện.


Đặc điểm kinh tế - xã hội của huyện Si Ma Cai.

• Đặc điểm về dân số, dân tộc, lao động.

Năm 2010, huyện Si Ma Cai có 6.213 hộ với 32.018 người, trung bình 5,49
người/hộ; mật độ dân số trung bình 136 người/ km 2. Tốc độ tăng dân số của huyện
bình quân 3%/ năm; trong đó tỷ lệ tăng dân số tự nhiên riêng năm 2010 là 2,1%.
Nhìn chung, Si Ma Cai có mật độ dân số tương đối cao so các huyện khác trong
tỉnh.
Si Ma Cai có 11 dân tộc anh em chung sống, trong đó chủ yếu là dân tộc
thiểu số, chiếm 96,3%, tổng dân số của huyện.
Tổng số lao động đang làm việc trên địa bàn huyện thời điểm cuối năm 2010
là 17.300, chiếm trên 54% dân số của huyện, bằng 5% số lao động toàn tỉnh. Hầu
hết số lao động có khả năng làm việc đều có việc làm. Về cơ cấu lao động trong các
ngành kinh tế, đến năm 2010: tỷ trọng lao động trong nông, lâm nghiệp chiếm quá
cao (83,2%), lao động công nghiệp, xây dựng chiếm 4,2% và trong dịch vụ có
12,6%. Sự chuyển dịch cơ cấu lao động từ 2005- 2010 diễn ra chậm, đến năm
2010 so sánh với năm 2005: lao động nông, lâm nghiệp giảm 2%, lao động dịch
vụ tăng 1,8 %, công nghiệp, xây dựng tăng 0,2%.


×